Văn mẫu lớp 10: Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một bài thơ (Dàn ý + 4 Mẫu)

Văn mẫu lớp 10: Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một bài thơ (Dàn ý + 4 Mẫu)

Văn mẫu lớp 10: Hãy viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá về chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một bài thơ (thơ lục bát, thơ thất ngôn bát cú hoặc tứ tuyệt) mang đến gợi ý cách viết chi tiết và 4 bài văn mẫu cực hay.

Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 10: Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một bài thơ (Dàn ý + 4 Mẫu)

Văn mẫu lớp 10: Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một bài thơ (Dàn ý + 4 Mẫu)

Phân tích, đánh giá một bài thơ: chủ đề và những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật là kiểu bài nghị luận văn học dùng lí lẽ và bằng chứng để làm rõ giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ ấy. Vì thế các em cần diễn đạt mạch lạc, sử dụng được các câu chuyển tiếp, các từ ngữ liên kết giúp người đọc nhận ra mạch lập luận. Vậy dưới đây là 4 bài văn mẫu Phân tích, đánh giá về chủ đề nét đặc sắc về nội dung nghệ thuật của một bài thơ mời các bạn cùng theo dõi.

Phân tích, đánh giá về chủ đề nét đặc sắc về nội dung nghệ thuật của một bài thơ

    Đề bài: Hãy viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá về chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một bài thơ (thơ lục bát, thơ thất ngôn bát cú hoặc tứ tuyệt).

    Dàn ý phân tích đánh giá nét đặc sắc về nghệ thuật của một bài thơ

    1. Mở bài

    Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm và nội dung chính của bài viết: Thiên nhiên và con người trong Cảnh khuya (Hồ Chí Minh).

    2. Thân bài

    Giới thiệu và trích dẫn lần lượt các câu thơ để phân tích, đánh giá.

    – Hai câu thơ đầu tiên: miêu tả bức tranh thiên nhiên tươi đẹp.

    + Hình ảnh “tiếng suối”.

    + Biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa

    => Hình ảnh ánh trăng làm bừng sáng thiên nhiên nơi chiến khi Việt Bắc.

    – Câu thơ thứ 3: Khắc họa hình ảnh nhân vật trữ tình.

    + Biện pháp tu từ so sánh à làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật trữ tình.

    – Câu thơ thứ 4: Bài thơ kết thúc bằng một lời giải thích ngắn gọn, thẳng thắn nhưng lại rất đáng quý và trân trọng.

    3. Kết bài

    Khẳng định lại giá trị của chủ đề.

    Phân tích đánh giá nét đặc sắc nội dung nghệ thuật của bài Thơ duyên

    Nhà phê bình Hoài Thanh từng nhận định “Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Bằng hồn thơ trong trẻo, tâm hồn tràn đầy tình yêu cùng khát khao giao cảm với đời mãnh liệt, Xuân Diệu đã để lại vô vàn tác phẩm giá trị. Trong số đó phải kể đến bài thơ “Thơ duyên”. “Thơ duyên” đã mang đến cho người đọc khung cảnh tuyệt sắc của thiên nhiên mùa thu và sự giao duyên, kết nối giữa “anh” và “em”.

    Có thể nói, “Thơ duyên” đã khơi gợi sự hòa hợp, gắn bó đầy chất thơ giữa vạn vật trong thiên nhiên. Trước hết, điều này được thể hiện rõ nét thông qua nhan đề. “Duyên” mà thi sĩ muốn nhắc tới ở đây là sự gặp gỡ, giao hòa giữa thiên nhiên với thiên nhiên, thiên nhiên với con người và con người với con người. Từ đó, Xuân Diệu không chỉ miêu tả vẻ đẹp trời thu mà còn khắc họa những mối duyên tình hài hòa.

    Ở khổ thơ đầu, khung cảnh chiều thu được tái hiện thật êm ả, nên thơ:

    “Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,
    Cây me ríu rít cặp chim chuyền.
    Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
    Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền.”

    Sự kết hợp giữa đường nét “nhánh duyên”, âm thanh “ríu rít”, màu sắc “xanh ngọc”, hình ảnh “cặp chim chuyền” đã cho thấy đôi mắt tinh tế cùng nét bút tài tình của Xuân Diệu. Bằng tất cả các giác quan, “ông hoàng thơ tình” vẽ nên bức tranh mùa thu tươi mát, dịu êm. Từng chi tiết, từng sự vật hoạt động tách rời nhưng lại có sự hài hòa, gắn kết với nhau. Tất cả cùng tạo nên một buổi chiều mộng ảo, đồng thời báo hiệu khoảnh khắc thu tới “nơi nơi động tiếng huyền.”. Âm thanh mùa thu như tiếng đàn tiếng ca, vang vọng khắp nơi, làm lòng người thêm chộn rộn, bâng khuâng hơn bao giờ hết.

    Cảnh thu tiếp tục được gợi tả qua:

    “Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu
    Lả lả cành hoang nắng trở chiều;
    Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
    Lần đầu rung động nỗi thương yêu.”

    Hàng loạt các từ láy “nhỏ nhỏ”, “xiêu xiêu”, “lả lả” vừa phác họa đường nét mềm mại của cảnh vật, vừa gợi nỗi xao xuyến của lòng người. Dường như mọi thứ đều song hành, song đôi cùng nhau. Cảnh thu, tình thu đã khéo léo đưa chủ thể trữ tình ngược về “buổi ấy lòng ta nghe ý bạn”. Đi giữa trời thu, lắng nghe âm hưởng xa xưa vọng lại, lòng người bồi hồi nhớ đến “Lần đầu rung động nỗi thương yêu”. Khoảnh khắc trái tim đập rộn ràng, chủ thể trữ tình đã biết đây chính là cảm giác rung động trong tình yêu:

    “Em bước điềm nhiên không vướng chân,
    Anh đi lững đững chẳng theo gần
    Vô tâm – nhưng giữa bài thơ dịu
    Anh với em như một cặp vần.”

    Giây phút “anh” và “em” đi trên con đường nhỏ trông thật xa cách. Nếu như “em” điềm nhiên bước đi chẳng chút vướng bận thì “anh” lại lững đững, thong dong theo sau. Nhìn bên ngoài, hai ta có vẻ cách xa nhưng bên trong đã có sự kết nối như “một cặp vần”. Đôi ta tưởng xa hóa lại gần, gắn bó, giao hòa mật thiết, không thể tách rời. Khung cảnh trở nên đẹp đẽ nhờ sự giao duyên của con người. Bức tranh mùa thu huyền diệu càng thêm tươi tắn, nhẹ nhàng tình thu, tình người. Bức tranh ấy đã ẩn chứa một trái tim rung động cùng tình yêu rạo rực ở “anh”.

    Ta còn cảm nhận được nỗi ám ảnh về sự chảy trôi của thời gian trong thơ Xuân Diệu được thể hiện ở “Thơ duyên”:

    “Mây biếc về đâu bay gấp gấp
    Con cò trên ruộng cánh phân vân
    Chim nghe trời rộng giang thêm cánh
    Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần.”

    Phía cao xa, từng đám mây màu biếc đã bắt đầu “gấp gấp” bay đi. Dưới ruộng đồng, mấy con cò cũng chuyển sang trạng thái “phân vân”, không biết nên đi hay ở. Trên khoảng trời rộng lớn, đàn chim nghe lời nhắc nhở mà giang rộng đôi cánh tìm về nơi trú. Chiều thu buông xuống, cảm giác lạnh lẽo như vấn vương đâu đây “hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần”. Sự hối hả, giục giã của cảnh vật như lan tỏa tới lòng người. Và rồi, nỗi niềm bâng khuâng, xao xuyến càng làm “anh” khao khát được giao cảm, hòa hợp.

    Chẳng thể níu giữ bước đi của thời gian nhưng “anh” đã:

    “Ai hay tuy lặng bước thu êm
    Tuy chẳng băng nhân gạ tỏ niềm
    Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy,
    Lòng anh thôi đã cưới lòng em.”

    Chiều thu đến thật êm ả, bình yên nhưng ra đi lại sôi nổi, hối hả. Nhưng nhờ đó, duyên “anh” và duyên “em” mới có thể tìm đến nhau. Đôi ta từ người xa lạ mà trở nên đồng điệu về tâm hồn, biết rung động, thổn thức trước tình yêu. Sự kết nối của “anh” và “em” thật diệu kì làm sao. Trước mối giao hòa của thiên nhiên đất trời, hai ta cũng xích lại gần nhau mà chẳng cần “băng nhân gạ tỏ niềm”. Từ đây, chủ thể trữ tình bày tỏ tấm chân tình “Lòng anh thôi đã cưới lòng em”. “Anh” coi “em” như mảnh ghép còn thiếu của đời mình. Như vậy, duyên tình đôi ta thêm bền chặt nhờ “cưới”. Khổ thơ đã cho ta thấy khát khao giao hòa tuyệt đối trong tâm hồn con người.

    Bằng giọng thơ nhẹ nhàng, sâu lắng, thi sĩ Xuân Diệu đã mang đến cho người đọc những hồn thơ trong trẻo, căng tràn nhựa sống. Các biện pháp tu từ như đảo ngữ “Cành me ríu rít cặp chim chuyền”, so sánh “Anh với em như một cặp vần” kết hợp với rất nhiều hình ảnh độc đáo “Lả lả cành hoang nắng trở chiều”, “Hoa lạnh chiều thưa” không chỉ làm nổi bật vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên mùa thu mà còn gợi sự giao hòa, gặp gỡ và gắn kết của vạn vật.

    “Thơ duyên” đã thể hiện sâu sắc khát khao giao cảm với cuộc đời ở Xuân Diệu. Qua bài thơ, ta lại càng khâm phục khả năng cảm nhận tinh tế cùng ngòi bút tài hoa của thi sĩ. Mong rằng, bài thơ sẽ mãi in lại dấu ấn trong lòng bạn đọc.

    Phân tích đánh giá nét đặc sắc nội dung nghệ thuật bài Lời má năm xưa

    Văn chương là một thứ tuyệt diệu mang lại cho con người nhiều cảm xúc. Nó hướng tới nhiều chủ đề khác nhau, phong phú và đặc sắc tùy theo từng phong cách viết của những tác giả. Đặc biệt, nó còn phản ánh nội tâm của người nghệ sĩ, thể hiện được cả những điều giấu kín và thậm chí người viết cũng không biết. Lời má năm xưa được tác giả Trần Bảo Định viết lên và là một tác phẩm tiêu biểu về nội tâm. Bài đọc là những cảm xúc vấn vương, làm lòng người đọc rung động.

    Lời má năm xưa là nhan đề, cũng là một hoàn cảnh của câu chuyện. Đó chính là những lời dạy bất chợt của người mẹ trong quá khứ, sau này người con luôn nhớ tới và học theo nó. Cốt truyện của tác phẩm rất đơn giản nhưng lại đủ phản ánh chủ đề. Nó chỉ là những khung cảnh bình thường, nhưng lại tạo nên sự day dứt cho tác giả qua hàng chục năm. Qua sự việc bắn bị thương một chú chim, nhân vật “tôi” trong tác phẩm lại cảm thấy tội lỗi trong hàng chục năm sau đó. Tưởng chừng như đây là một tình huống đơn giản, nhưng nếu phân tích kỹ ta mới thấy nó có ý nghĩa chừng nào.

    Ngay trong đoạn đầu, tác giả đã cho người đọc một thông tin: Ở quê tôi, trai gái đều thuộc lòng câu hò :

    Chim thằng chài có ngày mắc bẫy
    Em cho anh hay anh hãy tránh xa
    Mẹ cha không thể chịu hòa
    Em đâu dám cãi để mà theo anh

    Đây được xem như một đặc sắc của vùng miền, cũng là một câu mở đầu độc đáo. Câu hò trên của quê hương mang trong mình đầy tình yêu thương giữa đôi tình nhân, nhưng đôi bên cha mẹ lại chẳng đồng ý. Người con gái không cãi lời cha mẹ, vậy nên mới lảng tránh người con trai lại gần mình.

    Đoạn sau, tác giả lại miêu tả về những chú chim bói cá về một số đặc điểm và cách sống của chúng. Những chú chim con không được bảo vệ dưới đôi cánh mẹ mà phải tự lập, tự kiếm ăn để sống sót. Chúng cũng có lòng thương người, thương vật, một thứ tình cảm mà chúng ta chẳng hề nghĩ tới. Chúng bảo vệ lẫn nhau, chúng nhường cá tôm đầy đặn cho kẻ chài già yếu trong đàn.

    Trong truyện, nhân vật chính đại diện cho tác giả thường đi chơi với lũ bạn. Những lúc đó, bọn trẻ nghịch ngợm thường lấy ná thun bắn vào những con chim bói cá. Những chú chim ấy cũng thường được gọi là thằng chài. Những con chim tội nghiệp đó con bị thương, con thì chết, những đứa trẻ ngây ngô cứ lấy đó làm trò tiêu khiển. Chẳng ai trong số chúng nghĩ rằng, những chú chim đó sẽ đau khổ như thế nào, sinh mạng của chúng sẽ mất đi vì những trò đùa của bọn nhỏ. Có lẽ lúc đó, chúng chưa hiểu được, cũng không muốn hiểu vì đang độ tuổi ham chơi, nghịch ngợm. Vậy là, chúng vô tình làm tổn thương những loại động vật nhỏ bé, hiền lành.

    Câu nói của nhân vật người mẹ đã thức tỉnh nhân vật tôi là “Sao con cướp đi sự sống của nó? Rồi, ai cướp sự sống của con?”. Chỉ một câu hỏi đơn giản, nhưng người mẹ đã làm cho con bỗng hiểu được hành động của mình là sai trái. Mẹ bắt ông đi ra sông, vớt thằng chài vừa bị bắn lên bờ, chăm sóc nó, nhưng chú chim nhỏ lại như giận dỗi mà không thèm ăn những miếng mồi nhân vật tôi đút. Đây cũng là một hành động thể hiện cho sự “quay đầu” của một đứa nhóc nghịch ngợm. Hình ảnh người mẹ trong chi tiết này thật nổi bật. Mẹ là người đỡ đầu, dạy con những điều đúng sai, nên và không ở đời. Chính nhờ sự dạy dỗ của người mẹ, một sinh mệnh nhỏ được cứu, và sau này cũng có thể là nhiều sinh mệnh khác.

    Trở về thực tại, sau rất nhiều năm, khi nhắc về câu chuyện đó vẫn khiến cho tác giả, lúc này đã trưởng thành hối hận và day dứt rất nhiều năm. Đặc biệt, câu nói của má “Sao con cướp đi sự sống của nó? Rồi, ai cướp sự sống của con?” xuất hiện lặp đi lặp lại và xuyên suốt cả câu chuyện như một lời dạy, lời nhắc nhở thấm đẫm tình người làm ta không thể nào quên. Lời nói đó làm nổi bật lên chủ đề và nhan đề của tác phẩm, cũng khiến người đọc cảm động về tình mẫu tử thiêng liêng.

    Tác giả sử dụng phép điệp lặp lại câu hỏi tu từ nhiều lần làm nổi bật lên nội dung truyện. Bên cạnh đó, ông cũng sử dụng một loạt các biện pháp tu từ khác như liệt kê, nhân hoá đã khiến cho những hình ảnh trong truyện trở nên chân thực. Bằng việc xây dựng cốt truyện cảm động và dòng thời gian hợp lý, những cảm xúc của nhân vật được thể hiện rất rõ.

    Thứ mà tác giả muốn truyền tải đến người đọc qua bài viết này cũng là bài học mà người mẹ đã dạy con mình: phải biết yêu thương các loài vật, coi chúng như con người. Tác phẩm Lời má năm xưa để lại nhiều loại cảm xúc trong lòng người đọc, qua đó cũng làm bật lên nội dung và chủ đề của truyện.

    Phân tích đánh giá nét đặc sắc nội dung nghệ thuật của bài Cảnh khuya

    Hồ Chí Minh một vị lãnh tụ tài hoa của dân tộc Việt Nam, bên cạnh đó với tài năng của mình người đã sáng tác nên những áng thơ văn vô cùng nổi bật. Trong đó bài thơ “Cảnh Khuya” là một tác phẩm thơ văn được viết trong thời kì kháng chiến tiêu biểu. Bài thơ là sự miêu tả bức tranh thiên nhiên vào đêm trăng đẹp, qua đó cho ta thấy tâm tư, tình cảm của một chiến sĩ cộng sản luôn hết mình vì nhân dân, vì đất nước.

    Mở đầu bài thơ miêu tả bức tranh thiên nhiên thật đẹp:

    “Tiếng suối trong như tiếng hát xa
    Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”

    Với giọng thơ bình dị, vẻ đẹp của cảnh vật hiện lên trong thơ Hồ Chí Minh vừa có ánh sáng vừa có âm thanh. Thiên nhiên, cảnh núi rừng Việt Bắc vắng vẻ nhưng vô cùng huyền ảo và thơ mộng. Với việc sử dụng nghệ thuật nhân hóa, nhà thơ đã miêu tả vẻ đẹp của “tiếng suối trong”. Vào ban đêm, chỉ với ánh trăng mà nhà thơ cũng có thể thấy được sự trong veo của nước suối. Ánh trăng đêm quả thật rất đẹp, rất sáng. Ánh trăng còn nổi bật hơn ở hình ảnh “trăng lồng cổ thụ” ánh trăng sáng bao quát cả một cây đại thụ lớn kết hợp với tiếng tiếng suối thanh trong như điệu nhạc êm, hát mãi không ngừng.

    Chỉ với hai câu thơ mở đầu mà bức tranh phong cảnh hiện lên vô cùng sinh động, với thật nhiều màu sắc.

    Sau hai câu thơ tả cảnh, tiếp đến câu thơ thứ ba là sự khắc họa hình ảnh nhân vật trữ tình vô cùng tự nhiên.

    “Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ,”

    Cảnh đêm trăng tuyệt đẹp như bức họa thế kia thì làm sao mà ngủ được. Phải chăng Người đang thao thức về một đêm trăng sáng với âm thanh vang vọng trong trẻo của núi rừng.

    “Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”

    Câu thơ cuối càng làm nổi rõ hơn nguyên nhân không ngủ được của Bác đó là “lo nỗi nước nhà”. Câu thơ cuối nêu lên cái thực tế của nhân vật trữ tình và mở sâu và hiện thực tâm trạng của nhà thơ. Sự độc đáo của thơ Hồ Chí Minh là bài thơ kết thúc với một lời giải thích, vô cùng thẳng thắn và ngắn gọn nhưng cũng rất đáng quý trọng. Nghệ thuật ấy vô cùng chân thực, giản dị, đi thẳng vào lòng người nên cũng là nghệ thuật cao quí, tinh vi nhất.

    Bài thơ khép lại một cách bất ngờ nhưng hết sức tự nhiên, trọn vẹn. Bài thơ Cảnh Khuya của Hồ Chí Minh miêu tả bức tranh đêm khuya thật đẹp, thật thơ mộng. Nhưng sâu hơn nữa là thể hiện tâm tư, tình cảm của một người chiến sĩ cách mạng luôn hết lòng vì nhân dân, lo cho dân, cho nước.

    Phân tích đánh giá nét đặc sắc về nội dung nghệ thuật của bài Mộ

    Hồ Chí Minh sáng tác bài thơ “Mộ” năm 1942, trong hoàn cảnh vô cùng đặc biệt đó là khi nhà thơ bị giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến Thiên Bảo. Trong suốt thời gian bị đày ải bởi chính quyền Tưởng Giới Thạch người lính khổ sai Nguyễn Tất Thành thường xuyên bị áp giải từ nhà lao này đến nhà lao khác. Trong hoàn cảnh đặc biệt đó người bình thường chắc chỉ thấy tiếng kêu rên ai oán số phận, còn với Bác người lính cách mạng có tinh thần thép thì đó chỉ là cái cớ để tâm hồn thi sĩ vút cao lên thành những áng văn thơ trữ tình dạt dào cảm xúc. Chẳng thế mà toàn bài thơ chúng ta không thấy bất kỳ hình ảnh đau khổ của người tù mà chỉ thấy khung cảnh thiên nhiên, con người nơi miền sơn cước vô cùng bình dị, quen thuộc với cuộc sống lao động thường nhật.

    Mở đầu bài thơ miêu tả bức tranh thiên nhiên đặc trưng của buổi chiều tối:

    “Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
    Cô vân mạn mạn độ thiên không”

    Ánh mặt trời dần tắt hẳn, màn đêm chuẩn bị bao trùm lấy cảnh vật, đây là thời khắc con người, vạn vật sinh linh trên trái đất đều mệt mỏi và muốn tìm về với chốn bình yên để nghỉ ngơi. Đầu tiên là hình ảnh của chú chim đang mỏi cánh trên bầu trời, cánh chim ấy đã vất vả sau một ngày dài kiếm ăn khắp chốn, giờ là lúc nó tìm về với bóng cây, chốn yên bình để ngủ. Câu thơ thứ hai vẫn là nét chấm phá cảnh vật của thiên nhiên với hình ảnh của “cô vân”. Cô vân là chòm mây cô đơn, kết hợp với từ láy “mạn mạn” tức là trôi nhẹ, lơ lửng, vô định trên bầu trời. Chòm mây cô đơn lạc trôi trên bầu trời khá tương đồng với hoàn cảnh của người tù khổ sai, cô đơn, lạc lõng nơi đất khách quê người. Trong lòng vẫn luôn đau đáu một ngày được trở về với đồng bào, quê hương.

    Hai câu thơ sử dụng thủ pháp đối khá quen thuộc trong thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, đối giữa “cô vân” và “quyện điểu” để tạo nên một bức tranh thiên nhiên cân xứng, hài hòa. Một vài nét chấm phá đơn giản nhưng đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên thật hữu tình, nên thơ.

    Hai câu thơ sau là hình ảnh của con người, con người của cuộc sống lao động hiện ra thông qua những nét vẽ thật khỏe khoắn, rắn rỏi:

    “Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
    Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”

    Hình ảnh cô gái xóm núi đang xay ngô chuẩn bị cho bữa cơm tối xuất hiện trong bài thơ là một nét vẽ bất ngờ nhưng rất hợp lý. Nó được cảm nhận thông qua cái nhìn của người tù khổ sai, nó mang một sức sống thật mạnh mẽ, tiềm tàng. Động tác xay ngô của cô gái nhịp nhàng, khỏe khoắn, từng vòng quay của chiếc cối đều, dứt khoát, “ma bao túc” rồi lại” bao túc ma hoàn”; phép lặp từ trong hai câu thơ nhấn mạnh sự cần mẫn, chăm chỉ của người lao động trong cuộc sống thường nhật, qua đó thể hiện cái nhìn trân trọng của thi sĩ dành cho con người nơi đây. Đặc biệt là hình ảnh “lô dĩ hồng” xuất hiện ở cuối bài thơ, đó là một nhãn tự có sức nặng cân cả bài thơ. Chữ hồng xuất hiện đã xua tan không khí lạnh giá nơi xóm núi hoang sơ, nó như tiếp thêm sức sống và sức mạnh cho người tù khổ sai trên con đường đi tìm lối thoát cho dân tộc. Chữ “hồng” cũng thể hiện chất thép vốn rất đặc trưng trong tập “Nhật ký trong tù”. Nó cũng khẳng định vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại trong thơ của Hồ Chủ Tịch.

    Bài thơ khép lại một cách bất ngờ nhưng hết sức tự nhiên, trọn vẹn. Thông qua bài thơ “Mộ” chúng ta cảm nhận vẻ đẹp của nghị lực phi thường, tinh thần mạnh mẽ không lên gân, không khoa trương mà giản dị, khiêm nhường trong thơ của Hồ Chí Minh.

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *