Cảm nhận bài thơ Bài ca ngắn đi trên bãi cát để thấy được nỗi chán ghét sâu sắc với hiện thực đời sống tầm thường, với chế độ phong kiến nhà Nguyễn thối nát. Đồng thời còn thể hiện tư tưởng, nhân cách cao đẹp của ông trước “bả công danh” tầm thường.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 11: Cảm nhận bài thơ Bài ca ngắn đi trên bãi cát (Dàn ý + 2 mẫu)
Cảm nhận Bài ca ngắn đi trên bãi cát gồm dàn ý chi tiết kèm theo 2 bài văn mẫu, giúp các bạn lớp 11 có thêm nhiều gợi ý để viết văn. Ngoài ra các bạn tham khảo thêm phân tích bài thơ Bài ca ngắn đi trên bãi cát.
Cảm nhận Bài ca ngắn đi trên bãi cát hay nhất
Dàn ý cảm nhận Bài ca ngắn đi trên bãi cát
a) Mở bài: Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm
– Cao Bá Quát (1809 – 1855) là nhà thơ tài năng và bản lĩnh. Thơ văn ông phê phán mạnh mẽ chế độ phong kiến nhà Nguyễn bảo thủ, lạc hậu.
– Bài thơ Bài ca ngắn đi trên bãi cát ra đời trong khoảng thời gian sau những lần Cao Bá Quát vào Huế thi hội.
b) Thân bài
* Cảm nhận về hình tượng bãi cát
– Mang ý nghĩa tả thực:
+ “Bãi cát dài lại bãi cát dài”
“Phía Bắc núi Bắc núi muôn trùng
Phía Nam núi Nam sóng dào dạt”
- Tả thực: khung cảnh gợi cảm giác ngột ngạt, bó buộc
- Biểu tượng cho ý niệm: cuộc đời bế tắc, ngột ngạt
– Nghĩa ẩn dụ, tượng trưng: Hình ảnh bãi cát dài mênh mông, nối tiếp nhau tượng trưng cho môi trường xã hội, con đường sự nghiệp đầy chông gai, gian khổ, nhọc nhằn, mù mịt mà kẻ sĩ như Cao Bá Quát phải dấn thân để mưu cầu công danh.
* Cảm nhận về hình tượng lữ khách
– Hoàn cảnh của người lữ khách:
- “Đi một bước như lùi một bước”: cảnh tượng một người đi trong không gian mù mịt, mênh mông, khó xác định được phương hướng.
- “Lữ khách trên đường nước mắt rơi”: Lúc mặt trời đã lặn, con người đều tìm chốn nghỉ ngơi, người lữ khách vẫn mải miết trên con đường vất vả đến nỗi phải tuôn rơi nước mắt.
=> Tình cảnh của người đi đường khó khăn, bất lợi
=> Nhà thơ nhìn thấy con đường danh lợi đáng buồn, đầy chông gai.
– Người lữ khách ý thức sâu sắc về mâu thuẫn giữa khát vọng, hoài bão của mình với thực tế cuộc đời trớ trêu, ngang trái
- “Không học… lội suối, giận khôn vơi!”: tự cảm thấy giận mình vì không có khả năng như người xưa, mà phải tự mình hành hạ thân xác mình, chán nản, mệt mỏi vì công danh – danh lợi.
- “Xưa nay… đường đời” : sự cám dỗ của cái bả công danh đối với người đời, danh lợi khiến con người “tất tả”
=> Sự chán ghét, khinh bỉ của Cao Bá Quát đối với danh lợi, ông không muốn sa vào con đường ấy, nhưng vẫn chưa tìm ra hướng đi khác cho mình.
- “Đầu gió… tỉnh bao người”: chuyện mưu cầu danh lợi cũng hấp dẫn như thưởng thức rượu ngon, làm say người, ít ai có thể tránh được sự cám dỗ. => Ông nhận ra sự cám dỗ của danh lợi đối với con người.
- “Bãi cát dài… nhiều, đâu ít?”: Nhận ra sự cám dỗ công danh, nhà thơ như trách móc, giận dữ nhưng cũng chính là đang tự hỏi bản thân. Ông nhận ra tính chất vô nghĩa của lối khoa cử đương thời nhưng cũng vẫn đang bước trên con đường ấy => Tâm trạng băn khoăn, day dứt, bế tắc, bước trên con đường công danh thì mù mịt mà “đường ghê sợ” thì nhiều không ít.
- “Khúc đường cùng”: khúc ca tuyệt vọng đầy bi phẫn của tác giả. Con đường đi với bãi cát mênh mông, mịt mùng, cũng chính là con đường công danh nhọc nhằn, bế tắc => Đây không phải chỉ của tác giả mà còn của biết bao trí thức đương thời.
– Hình tượng người lữ khách với lời than bi phẫn, tuyệt vọng
+ “Anh còn đứng làm chi trên bãi cát”: thể hiện khối mâu thuẫn lớn trong lòng nhà thơ, đồng thời là tiếng kêu bi phẫn, bế tắc, tuyệt vọng.
=> Tư thế dừng lại nhìn bốn phía mà hỏi vọng lên trời cao, lại hỏi chính lòng mình thể hiện khối mâu thuẫn lớn đang đè nặng trong tâm trí nhà thơ.
* Đặc sắc nghệ thuật:
– Thể thơ cổ thể
– Hình tượng thơ độc đáo, sáng tạo
– Hình ảnh thơ vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa biểu trưng sâu sắc
– Phương pháp đối lập
– Sáng tạo trong việc dùng điển cố điển tích
c) Kết bài
– Cảm nhận của em về bài thơ: Đây là một khúc bi ca mang đậm tính nhân văn của một con người cô đơn, tuyệt vọng trên con đường đời.
Cảm nhận bài thơ Bài ca ngắn đi trên bãi cát – Mẫu 1
Thơ văn Cao Bá Quát đã thể hiện tráng chí của một kẻ sĩ hăm hở vào đời, đồng thời nói lên bi kịch của một đấng tài trai không gặp thời, gặp vận. Thời trẻ ông từng hát: Ngã dục đăng cao sầm – Hạo ca kí vân thủy (Ta muôn trèo lên đỉnh cao ngất – Hát vang lên để gửi tấm lòng vào mây nước). Nhưng trong bài Sa hành đoản ca, ông lại viết:
Trường sa, trường sa, nại cừ hà!
Thản lộ mang mang úy lộ đa.
(Bãi cát, bãi cát, ngao ngán lòng
Đường phẳng mờ mịt, đường hiền vô cùng!)
Sa hành đoản ca (Bài ca ngắn đi trên bãi cát) chỉ có thể có được Cao Bá Quát viết ra khi ông đã nếm trải nhiều cay đắng trên con đường công danh, hoạn lộ? Có thể trên đường từ Huế ra Bắc đi nhận chức Giáo thụ huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, ông mới viết bài thơ này (?).
“Ca” là một thể loại của thơ cổ: câu thơ dài, ngắn tùy thuộc vào cảm hứng và âm điệu, vần điệu. Bài thơ của Cao Bá Quát gồm có 16 câu thơ ngũ ngôn và thất ngôn đan xen vào nhau.
Sa hành đoản ca nói về ‘một người đang lặn lội trên bãi cát dài, khi tóc đã ngả màu sương, suy ngẫm về đường đời và cái bá công danh.
Bôn câu thơ đầu gợi tả bãi cát. Hình ảnh ‘trường sa ‘ điệp lại trong câu thơ ‘Trường sa phục trường sa ‘ gợi lên bãi cát dài và rộng bao la, mênh mông, kéo dài đến vô tận. Đó là những bãi cát nằm dọc con đường thiên lý thuộc hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị dằng dặc nơi khúc ruột miền Trung. Khách lữ hành đi một bước lại như lùi một bước. Nước mắt lã chã tuôn rơi. Mặt trời đã lặn nhưng người lữ khách vẫn còn đi. Câu thơ ngũ ngôn với điệp ngữ và tương phản đã làm nổi bật sự cực nhọc, mệt mỏi của người đang lầm lũi đi trên bãi cát dài:
Trường sa phục trường sa
Nhất bộ nhất hồi khước
Nhập nhập hành vị dĩ
Khách tử lệ giao lạc.
(Bãi cát dài, bãi cát dài!
Mỗi bước lại như lùi
Mặt trời đã lặn đi chưa nghỉ
Khách bộ hành nước mất tuôn rơi)
Tám câu thơ tiếp theo nói lên cái giá phải trả đối với hạng người hám danh lợi. Không học được ‘phép ngủ kĩ ‘ của Tiên ông Hạ Hầu An ngày xưa mà vẫn ‘cứ trèo non, lội nước mãi’ cho khổ! Tự hỏi mình rồi lại tự trách mình: Vì hám danh lợi nên phải ‘tất tả’ ngược xuôi:
Cổ lai danh lợi nhân
Bôn tẩu lộ đồ trung.
(Xưa nay phường danh lợi
Bôn tẩu trên đường đời.)
Trên đời, kẻ hám danh lợi khác nào người say rượu. Người say rượu cũng như kẻ hám công danh thì nhiều vô số, còn kẻ tỉnh thì ít. Đó là nguyên nhân mọi bi kịch của người đời:
Phong tiền bửu hữu mĩ tửu
Tính giả thường thiểu, túy giả đồng.
Nghệ thuật so sánh giữa ‘tỉnh giả thiểu’ với ‘túy giả đồng” đã làm nổi bật chất triết lý về sự hám danh lợi của người đời.
Nếu Lý Bạch hơn nghìn năm về trước từng cảm nhận:
Hành lộ nan, hành lộ nan!
Đa kì lộ, kim an tại?’
(Đường đi khó, đường đi khó!
Nhiều ngã rẽ giờ đang ở nơi nào?)
thì trong Sa hành đoản ca, Cao Bá Quát cũng viết:
Bãi cát dài, bãi cát dài, biết tính sao đây?
Bước đường bằng phẳng thì mờ mịt, bước đường ghê sợ thì nhiều.
Khách lữ hành không chỉ cảm thấy đường đi khó mà còn cảm thấy đường đời lắm ngả, biết đi về đâu, biết chọn hướng nào, nẻo đường nào? Giữa bãi cát dài bao la mênh mông, người lữ khách như bị lạc lối, băn khoăn tự hỏi: ‘Biết tính sao đây?’. Hơn bao giờ hết, lữ khách mới thâm thia con đường đời, con đường danh lợi ‘bằng phẳng thì mờ mịt ‘, mà ‘bước đường ghê sợ thì nhiều’.
Cao Bá Quát coi đó là sự trải nghiệm, chiêm nghiệm. Nổi tiếng thần đồng nhưng chỉ đỗ cử nhân: mấy lần thi Hội đều hỏng. Dưới chế độ phong kiến, không phải cứ có tài, có chí là công thành danh toại. Có lúc Cao Bá Quát cất lời than: ‘Trượng phu ba mươi tuổi, chẳng nên danh gì’. Mãi đến năm 32 tuổi, ông mới được vua nhà Nguyễn triệu vào kinh bô làm hành tẩu bộ Lễ – một chức thư lại quèn! Sau đó là những năm tù đày, đi “dương trình hiệu lực’ sang đến tận In-đô-nê-xi-a… Câu thơ “Dường phẳng mờ mịt, dường hiểm vô cùng” đã được Cao Bá Quát viết bằng nước mắt, tiếng thở dài và máu.
Khép lại bài thơ là khúc ca ‘đường cùng’. Phía Bắc và phía Nam, trước mặt và sau lưng, núi nhấp nhô ‘muôn trùng ‘, núi lượn sóng ‘muôn đợt ‘. Cặp câu song hành sử dụng hình ảnh biểu tượng đã tô đậm cái khó của con đường đời. Lữ khách tự hỏi và khẽ trách mình. Kết thúc bài thơ là một câu hỏi đầy ám ảnh:
Nghe ta ca ‘cùng đồ’ một khúc
Phía Bắc núi Bắc, núi muôn lớp!
Phía Nam núi Nam, sóng muôn đợt!
Sao mình anh còn trơ trên bãi cát?
Người lữ hành đã và đang sống trong tâm trạng buồn cô đơn và mệt mỏi. Biết đi đâu về đâu khi mặt trời đã lặn, lặn từ lâu rồi! Biết tìm hướng nào khi tóc đã ngả màu sương.
Sa hành đoản ca là lời than của người lữ khách về sự gian truân trên đường đời, về sự mờ mịt ghê sợ của con đường danh lợi. Bài thơ là một bài học, một triết lý về con đường danh lợi và cái giá của khách danh lợi trên mọi nẻo đường gần xa.
Hình tượng bãi cát dài và người đi trên bãi cát lúc mặt trời đã lặn, nước mắt chảy ra cứ ám ảnh mãi hồn người.
Cảm nhận Bài ca ngắn đi trên bãi cát – Mẫu 2
Cao Bá Quát đã từng viết: “Thập tải luân giao cầu cổ kiếm/ Nhất sinh đê thủ bái mai hoa” – suốt cả đời ông chỉ cúi đầu trước vẻ đẹp thanh nhã, cao sang của hoa mai, chứ nhất quyết không cúi đầu trước cường quyền. Sinh thời vào buổi loạn lạc, nhiễu nhương dù mang trong mình cái hùng tâm cống hiến cho đời nhưng ông phải chịu nhiều bất công. Nỗi oán ghét thực tại, phường danh lợi đã được ông thể hiện biết bao xúc động trong bài thơ “Bài ca ngắn đi trên bãi cát”.
Tác phẩm ra đời khi tác giả nhiều lần đi vào kinh đô Huế dự thi, phải băng qua những bãi cát dài, mênh mông không biết đích đến. Chính trong hoàn cảnh đó ông đã sáng tác “Sa hành đoản ca” thể hiện thái độ trước hiện thực đời sống và phương danh lợi tầm thường.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh bãi cát dài nối tiếp nhau đến tận chân trời và trên nền không gian rộng lớn ấy người lữ khách đang từng chút cố gắng vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt:
Bãi cát dài lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước.
Câu thơ không chỉ mang ý nghĩa tả thực về những bãi cát nối tiếp nhau và những bước chân nặng nề của người lữ khách trên con đường đó. Bãi cát còn chính là hình ảnh biểu tượng về “danh lợi” – nó như một miếng mồi béo bở, níu kéo, hấp dẫn người lữ khách. Nên đi hay nên quay đầu lại? Câu hỏi ấy cứ vang vọng trong tâm tưởng người lữ khách. Trong không gian ấy, người lữ khách không còn làm chủ, mà bị nuốt trọn, lọt thỏm giữa không gian mênh mông, vô tận. Họ bé nhỏ trong cái rộng lớn của vũ trụ, những bước đi ngày một kiệt quệ, mệt mỏi nhưng vẫn phải tiếp tục gắng gượng: “Mặt trời đã lặn, chưa dừng được/ Lữ khách trên đường nước mắt rơi”. Những giọt nước mắt nhọc nhằn, cay đắng, không thể dừng lại, bởi vậy khi mặt trời đã xuống núi kẻ tìm công danh vẫn phải mải miết bước tiếp. Giọt nước mắt ấy còn thể hiện nỗi đau, sự bất lực, chán nản, bế tắc của người lữ khách. Liệu có con đường nào khác cho ông và những chí sĩ như ông không? Rồi chính người lữ khách lại tự trả lời: “Không học được tiên ông phép ngủ/ Trèo non, lội suối, giận khôn vơi”. Phường danh lợi vẫn là một lực hút quá lớn với người lữ khách, làm sao để thoát khỏi chúng, làm sao để có một tâm hồn thư thái, thanh thản như ông tiên để lánh xa danh lợi tầm thường. Vì sao mãi phải nhọc nhằn trèo đèo, lội suối khi biết rõ chúng là tầm thường, giả dối, bởi vậy lữ khách tự giận với chính mình.
Xưa nay phường danh lợi
Tất tả trên đường đời
Đầu gió men thơm quán rượu,
Người say vô số tỉnh bao người.
Danh lợi cũng như một thứ hơi men, tuy nhẹ mà ngấm sâu, khiến người ta khó lòng có thể tỉnh táo để nhận định phải trái, đúng sai. Bởi vậy, ai đã lỡ vướng vào phường danh lợi thường khó có thể dứt ra, người say thì vô số, người tỉnh còn được mấy ai. Không chỉ vậy, gắn với lợi danh con người ta sẽ mất đi sự thanh tĩnh trong tâm hồn, phải đua chen vất vả, phải tranh giành, hãm hại lẫn nhau để đảm bảo lợi ích cho bản thân.
Bảy dòng thơ cuối cùng là kết tinh tư tưởng, là ý chí quyết tâm từ bỏ lợi danh của tác giả: “Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!/ Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt/ Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít”. Con đường đời lắm ngả, người lữ khách không biết phải chọn hướng nào, không biết phải đi về đâu, giữa bãi cát dài mênh mông người lữ khách mông lung, tự đặt câu hỏi cho chính mình “tính sao đây” khi đường bằng mờ mịt, không lối thoát, đường ghê sợ chập trùng bủa vây trước mắt. Đọc câu thơ của ông ta chợt nhớ về đúc kết của Lí Bạch: “Hành lộ nan, hành lộ nan/ Đa kì lộ, ki, an tại?”. Đây đều là những băn khoăn của bậc đại trí thức về con đường công danh mờ mịt, nhiều gian truân trong xã hối rối ren, bất ổn.
Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng
Phía nam núi Nam, sóng dào dạt
Bốn phía đều là hiểm nguy bủa vây, đó là một không gian tù hãm, không lối thoát. Đó cũng chính là số phận của biết bao tri thức Nho học cuối mùa khi họ không tìm thấy đường đi cho mình, rẽ lối nào cũng là tăm tối, đường cùng. Còn với Cao Bá Quát ông dứt khoát hơn, mạnh mẽ hơn, thoát ra khỏi con đường tăm tối, tìm cho mình lối đi riêng: “Anh đứng làm chi trên bãi cát?”. Câu hỏi tu từ cuối bài vừa là lời khẳng định của tác giả về việc từ bỏ con đường danh lợi tầm thường, vừa như một lời cổ vũ, thúc giục với những người khác hãy vững tâm, tự tin bước ra khỏi con đường đấy, tìm cho bản thân một con đường khác. Cũng chính bởi tư tưởng đó đã dẫn đến cuộc khởi nghĩa của Cao Bá Quát vào năm 1854, mặc dù thất bại, mặc dù bị đàn áp nhưng đã thể hiện được tầm vóc tư tưởng lớn lao của một con người vĩ đại.
Với hình tượng nghệ thuật giàu ý nghĩa, tác phẩm đã để lại cho mỗi người đọc những bài học ý nghĩa trong cuộc sống. Không chỉ vậy, với tác phẩm này Cao Bá Quát đã thể hiện nỗi chán ghét sâu sắc với hiện thực đời sống tầm thường, với chế độ phong kiến nhà Nguyễn thối nát. Đồng thời còn thể hiện tư tưởng, nhân cách cao đẹp của ông trước “bả công danh” tầm thường.