Cảm nhận Hầu trời tổng hợp 5 bài văn mẫu siêu hay kèm theo gợi ý cách viết chi tiết nhất. Với 5 mẫu cảm nhận bài thơ Hầu trời mà Download.vn giới thiệu sẽ giúp các bạn lớp 11 tự tin không phải lo nghĩ quá nhiều về việc làm sao để viết được bài văn hay, ấn tượng nhất.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 11: Cảm nhận bài thơ Hầu trời (Dàn ý & 5 mẫu)
Bài thơ Hầu trời không chỉ là một câu chuyện hóm hỉnh, vui tươi mà còn gửi gắm những triết lý về cái tôi thơ ca đến cho những nhà văn Việt Nam. Với tác phẩm này, Tản Đà đã thực sự mang đến một làn gió mới cho thơ ca, xứng đáng với danh hiệu người đặt nền móng cho phong trào Thơ mới. Để hiểu rõ hơn về bài thơ, mời các bạn cùng theo dõi TOP 5 mẫu cảm nhận Hầu trời trong bài viết dưới đây.
Cảm nhận bài thơ Hầu trời hay nhất
Dàn ý cảm nhận bài thơ Hầu trời
1. Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Tản Đà và bài thơ Hầu trời
– Dẫn dắt vào vấn đề
2. Thân bài
– Khái quát chung
- Xuất xứ: Trích từ tập “còn chơi”
- Bố cục: 4 phần
- Chủ đề: thể hiện cái tôi ngông của tác giả sau khi về lại trần gian.
– Phân tích
- Thi nhân đọc thơ cho trời và chư tiên nghe
- Thái độ của thi nhân khi đọc thơ và việc thi nhân nói về tác phẩm của mình:
- Thi nhân đọc rất cao hứng, sảng khoái và có phần tự đắc: “ Đọc hết văn vần sang văn xuôi/Hết văn thuyết lý lại văn chơi”
- Thi nhân kể tường tận, chi tiết về các tác phẩm của mình: “Hai quyển khối tình văn lý thuyết/ Hai khối tình còn là văn chơi/ Thần tiên, giấc mộng văn tiểu thuyết….”
- Giọng đọc: đa dạng, hóm hỉnh, ngông nghênh có phần tự đắc.
=> Đoạn thơ cho thấy thi nhân rất ý thức về tài năng văn thơ của mình và cũng là người táo bạo, dám đường hoàng bộc lộ “cái tôi” cá thể. Ông cũng rất “ngông” khi tìm đến trời để khẳng định tài năng. Đây là niềm khát khao chân thành trong tâm hồn thi sĩ.
– Thái độ của người nghe: Rất ngưỡng mộ tài năng thơ văn của tác giả.
- Thái độ của trời: khen rất nhiệt thành: văn thật tuyệt, văn trần được thế chắc có ít, văn chuốt như sao băng…
- Thái độ của chư tiên: xúc động, hâm mộ và tán thưởng…Tâm nở dạ, cơ lè lưỡi…
=> Cả đoạn thơ mang đậm chất lãng mạn và thể hiện tư tưởng thoát li trước cuộc đời.
– Thi nhân trò chuyện với trời:
- Thi nhân kể về hoàn cảnh của mình =>Trong văn chương việc thể hiện họ tên trong tác phẩm chính là một cách để khẳng định cái tôi cá nhân của mình.
- Thi nhân kể về cuộc sống: Đó là một cuộc sống nghèo khó, túng thiếu, thân phận nhà văn bị rẻ rúng, coi thường. Ở trần gian ông không tìm được tri âm, nên phải lên tận cõi trời để thỏa nguyện nỗi lòng.
=> Đó cũng chính là hiện thực cuộc sống của người nghệ sĩ trong xã hội lúc bấy giờ, một cuộc sống cơ cực không tấc đất cắm dùi, thân phận bĩ rẻ rúng, làm chẳng đủ ăn.
=> Qua đoạn thơ tác giả đã cho người đọc thấy một bức tranh chân thực và cảm động về chính cuộc đời mình và cuộc đời nhiều nhà văn nhà thơ khác.
=> Cảm hứng hiện thực bao trùm cả đoạn thơ này.
– Trách nhiệm và khát vọng của thi nhân:
- Nhiệm vụ trời giáo: Truyền bá thiên lương. =>Nhiệm vụ trên chứng tỏ Tản Đà lãng mạn chứ không hoàn toàn thoát li cuộc sống. Ông vẫn ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm đối với đời để đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn.
- Thi nhân khát khao được gánh vác việc đời => đó cũng là một cách tự khẳng định mình trước thời cuộc.
=> Như vậy có thể nói trong thơ Tản đà cảm hứng lãng mạn và cảm hứng hiện thực đan xen khăng khít.
3. Kết bài
– Nêu cảm nhận chung
Cảm nhận Hầu trời – Mẫu 1
Tản Đà là đại diện tiêu biểu của kiểu nhà nho tài tử buổi giao thời, là người đầu tiên Mang văn chương ra bán phố phường. Sáng tác của Tản Đà thể hiện một cá tính nghệ sĩ tài hoa, tài tử. Tản Đà viết cả văn và làm thơ nhưng ông nổi tiếng với tư cách nhà thơ hơn. Thơ Tản Đà mang màu sắc cổ điển về hình thức và mới mẻ về nội dung, ông được gọi là cầu nối giữa hai thời đại văn học trung đại và hiện đại. Là thi sĩ tài hoa và đa tình, ông viết nhiều về tình yêu. Đồng thời thơ Tản Đà còn thể hiện tính dân tộc rõ nét từ hình thức đến nội dung. Trong thơ ông, lòng yêu nước, yêu quê hương được biểu hiện rất phong phú và đa dạng, khi thì trực tiếp, khi thì gián tiếp.
Hầu Trời được xếp trong tập Còn chơi (1921) là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Tản Đà. Bài thơ được viết dưới dạng tự sự, kể một tình huống tưởng tượng cảnh nhà thơ lên gặp trời để ngâm thơ cho trời nghe. Qua đó thể hiện ý thức cá nhân và thái độ của nhà thơ về nghề văn, về cuộc đời.
Tản Đà được coi là người nằm vắt mình qua hai thế kỉ, là gạch nối giữa thơ mới và thơ cũ, là người đặt nền móng cho thơ mới. Những đánh giá ấy đã xác nhận vị trí quan trọng của Tản Đà đối với văn học Việt Nam giai đoạn giao thời. Ông là đại diện tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn này, giai đoạn văn học dân tộc có những bước chuyển mình, bắt đầu cho giai đoạn hiện đại hóa mau lẹ. Hầu Trời là một bài thơ có rất nhiều điểm mới. Bài thơ thể hiện đậm nét cá tính sáng tác của Tản Đà. Mạch thơ được triển khai theo logic một câu chuyện với các chi tiết cụ thể, rành mạch, khiến cho bài thơ hấp dẫn và có sức thuyết phục: nằm một mình, buồn nên dậy đun nước uống rồi ngâm văn, động đến trời, tiên xuống hỏi rồi đưa lên gặp trời, trời cùng chư tiên đón tiếp long trọng, mời đọc thơ, giới thiệu về mình rồi đọc thơ và giãi bày cảnh ngộ cùng trời, trời giải thích, khen ngợi rồi cho đưa về trần giới. Nhà thơ đã chọn một cách rất độc đáo để thể hiện tâm sự của mình.
Chuyện hầu Trời bằng tưởng tượng đã giúp nhà thơ khẳng định tài năng của bản thân và bộc lộ quan niệm mới mẻ của ông về nghề văn, đồng thời thể hiện ý thức của cái Tôi cá nhân đầy cá tính của mình. Nhà thơ đã mở đầu câu chuyện của mình bằng một giọng điệu rất hấp dẫn, bịa mà rất tự nhiên, hóm hỉnh:
Đêm qua chẳng biết có hay không.
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiên – sướng lạ lùng.
Lí do được Trời mời lên hầu cũng thật đời thường và dễ tin: Nằm buồn dậy đun nước uống, rồi ngâm thơ, chơi trăng. Và Tiếng ngân vang cả sông Ngân Hà đã làm trời mất ngủ. Thế là được lên Trời.
Cuộc hội kiến với Trời và chư tiên được kể lại chi tiết, hồn nhiên, nghe tự nhiên như thật. Tác giả đã chọn lối kể chuyện nôm na của dân gian để tái hiện câu chuyện hầu Trời.
Nhà thơ tưởng tượng tình huống gặp Trời để giới thiệu về mình. Giới thiệu rõ, chính xác tên tuổi, quê hương, đất nước, nghề nghiệp, kể tên các tác phẩm của mình. Nhà thơ đã chọn tình huống độc đáo: gặp trời, ngâm thơ cho trời cùng chư tiên nghe, qua đó khẳng định tài năng của mình.
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơn.
Văn dài, hơi tốt ran cung mây!…
Tự khen tài của mình nhưng lại chọn hình thức để trời cùng chư tiên khen ngợi. Đây là một kiểu ngông đáng yêu.
Sau khi giới thiệu các tác phẩm, có phân chia rõ ràng thành từng loại theo quan điểm của bản thân (văn thuyết lí, văn chơi, văn tiểu thuyết, văn vị đời và lối văn dịch) thì đưa ra nhận xét, cùng với những nhận xét của trời Văn đã giàu thay, lại lắm lối (đa dạng về thể loại, giọng điệu). Nhà thơ lại còn mượn lời của trời để khẳng định tài năng của bản thân:
Trời lại phê cho: Văn thật tuyệt
Văn trần được thế chắc có ít!..
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!
Nhà thơ đã hiên ngang khẳng định cái Tôi của mình, gắn liền với tên tuổi thật của mình. Đó là thái độ ngông của người có tài và biết trân trọng, khẳng định tài năng của mình. Trong thời đại của Tản Đà, đất nước đang mất chủ quyền, tự giới thiệu như còn là biểu hiện của sự tự hào, tự tôn dân tộc. Hóm hỉnh hơn, nhà thơ còn khẳng định cả phong cách ngông của mình:
Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đày xuống hạ giới vì tội ngông.
Qua cuộc đối thoại tưởng tượng với trời, nhà thơ còn khẳng định nghĩa vụ và trách nhiệm cao cả của mình nói riêng và của người nghệ sĩ nói chung là lo việc thiên lương của nhân loại:
Trời rằng: Không phải là Trời đày,
Trời định sai con một việc này
Là việc thiên lương của nhân loại,
Cho con xuống thuật cùng đời hay.
Tạo tình huống tưởng tượng này để an ủi mình, đồng thời cũng là để nói lên ý nghĩa cao quý của văn chương, của nhà văn.
Cũng nhân đây, nhà thơ giãi bày tâm sự của mình về nghề văn. Tản Đà được coi là người đặt nền móng cho Thơ mới, không chỉ bởi thơ ông mang hơi thở hiện đại của thời đại với cái Tôi cá nhân sừng sững giữa trang văn mà còn vì ông là nhà thơ đầu tiên mang văn chương ra bán phố phường, coi nghề văn là nghề kiếm sống. Khi giãi bày cảnh ngộ với Trời, nhà thơ đã kể lể rất chi tiết về nghề làm văn kiếm sống này. Tản Đà cũng đã dùng lời Trời để tự an ủi mình.
Với Hầu Trời, Tản Đà đã mang đến cho văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX một câu chuyện tưởng tượng vui và đầy không khí mới. Dưới hình thức một bài thơ hào hứng, nhà thơ đã khẳng định cái Tôi cá nhân của người nghệ sĩ. Nhà thơ vừa tự tin khẳng định tài năng của mình vừa nói lên quan điểm làm văn chương, đó là viết văn để phục vụ thiên lương. Viết văn hay làm cho đời đẹp hơn là .nhiệm vụ trời đã trao cho người nghệ sĩ.
Sáng tạo độc đáo về mặt nghệ thuật của Tản Đà là đã đưa ngôn ngữ đời thường nôm na, dễ hiểu, dung dị mà vẫn rất gợi cảm vào thơ ca. Ngôn ngữ thơ ở Hầu Trời đã có sự xâm nhập của giọng điệu văn xuôi và ngôn ngữ bình dân. Không quá câu nệ vào vần luật nên mạch cảm xúc được phát triển rất tự nhiên và cái Tôi cá nhân đã thỏa sức bộc lộ và thể hiện mình. Điểm độc đáo và thành công của bài thơ còn thể hiện ở chỗ tạo ra cái cớ là tình huống hầu Trời để tự khẳng định tài năng và quan niệm của mình. Đó là một kiểu ngông rất nghệ sĩ, vui vẻ và đáng yêu. Bài thơ cũng đã phác họa một chân dung thi sĩ Tản Đà với phong cách ngông độc đáo, đó là cái ngông của một nhà nho tài tử ở thời kì mà ý thức cá nhân bắt đầu được trân trọng và khẳng định.
Cảm nhận bài Hầu trời – Mẫu 2
Những năm 20 của thế kỉ XX, xã hội thực dân nửa phong kiến tù hãm, u uất, đầy rẫy những cảnh ngang trái xót đau. Người tri thức có lương tri không chấp nhận nhập cuộc, nhưng để chống lại nó thì đó không phải là điều đơn giản, ai cũng có thể làm được. Làm thơ giải sầu, đó là một cách khá phổ biến được nhiều người lựa chọn. Nhà thơ Tản Đà cũng thế. Nhưng khác với mọi người, Tản Đà là “người đầu tiên, là người thứ nhất có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng, bạo dạn, dám giữa một bản ngã, dám có một cái tôi” (Xuân Diệu).
Tản Đà sáng tác nhiều thơ. Hầu Trời là một bài trong số ít những bài trường thiên đứng lại được với thời gian, ngạo nghễ cùng cùng năm tháng. Cái hay, cái hấp dẫn nhất của bài thơ đối với người đọc là thể hiện được cái tôi phóng túng, ngông nghênh và khát khao khẳng định chính mình giữa cuộc đời của Tản Đà. Tản Đà đã từng nhận mình là “hủ nho lo việc đời”, là người thuộc lớp người “tài cao phận thấp”. Đau đớn, chán đời, ông đã tìm cách để thoát đời. Và để thoát đời, cách của ông là tìm đến cõi thượng giới do mình tưởng tượng ra. Ở đó, ông tha hồ, mặc sức để cho trí tưởng tượng mình tự do, bay bổng. Song, ông lại muốn để cho người đọc họ tin, tin vào sự thật mình được lên trời để Hầu Trời. Cho nên, cách vào bài thơ đầu tiên là ông khẳng định:
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ màng
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiến…
Mọi người có nghi ngờ nữa không khi nhà thơ cứ một mực khăng khăng hồn mình, thân thể mình đã được lên tiến, đó không phải là chuyện mơ màng và mọi người cũng đừng nên hoảng hốt làm gì. Khẳng định cao độ như thế, dù người ta không tin thì trí tò mò cũng bị kích thích mạnh mẽ, họ sẽ dõi theo câu chuyện mà ông Tản Đà kia sẽ kể là chuyện gì. Cách vào bài thơ của nhà thơ quả thật vừa hóm hỉnh lại vừa có duyên lạ lùng.
Tản Đà là nhà thơ, đã từng vì mưu sinh mà đem thơ ca bán phố phường, nhưng lúc này cũng là lúc văn chương hạ giới rẻ như bèo. Biết được thực tế cuộc sống khó khăn, chật vật là thế, nhà thơ nghèo vẫn ngông nghênh lên Hầu Trời bởi một lẽ do thơ ông hay quá. Nói về cái ngông chính Tản Đà đã từng viết:
Bởi ông quá hay ông không đỗ
Không đỗ ông càng tốt bộ ngông.
(Tự trào)
Ngông là ý thức tự khẳng định cái tôi chủ quan của mình, làm những việc trái với thói thường của đám đông, của cộng đồng. Nhưng không phải những việc làm ngược lại với thói thường ấy đều là ngông. Người ta muốn ngông cũng phải có cơ sở mà nên tảng vững chắc là phải có tài và nhân cách con người. Ở đây Tản Đà đã ý thức được mình. Vì ý thức được mình nên mới có cái ngông nghênh đáng yêu rất Tản Đà. Nhà thơ được mời lên thiên đình để đọc thơ cho Trời và Chư tiên nghe. Đó là phần chính của bài thơ. Cảnh đọc thơ cho Trời nghe, được nhà thơ dựng lại khá chi tiết. Được mời lên Trời đọc thơ, đó là vinh dự của nhà thơ. Bởi vậy, nên cũng rất dễ hiểu khi thi sĩ cao hứng có phần tự đắc. Đương cơ đắc ý thụy sĩ cất cao giọng đọc những vần thơ ran cung mây, đồng thời còn kể cho Trời và Chư tiên nghe những tác phẩm mình đã viết: Hai quyển Khối tình hai cuốn Khối tình con, Thần tiên, Giấc mộng… Đặc biệt là cách thi sĩ tự khoe:
Văn đã giàu thay lại lắm lối .
Sẽ là chuyện huênh hoang, kênh kiệu khi một con người bình thường tự đề cao ca ngợi mình. Nhưng Tản Đà không phải là người bình thường, ông là một người có tài thực sự. Và đây không phải lần đầu tiên nhà thơ tự khen mình. Trong Tự trào, ông đã viết:
Vùng đất Sơn Tây nảy một ông
Tuổi chưa bao nhiêu văn rất hùng
Sông Đà núi Tản ai hun đúc
Bút thánh câu thần sớm vãi vung.
Trước thái độ ấy của Tản Đà, Trời nghe Trời cũng bật cười, còn các Chư tiên nghe thơ Tản Đà thì rất xúc động, tán thưởng và hâm mộ:
Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:
Anh gánh lên đây bản chợ Trời
Là nhà thơ nổi tiếng đa tình, lần lên Trời này, không thiếu bóng các nàng Tâm Cơ, Hằng Nga, Song Thành… Họ tán dương ngưỡng mộ Tản Đà – vị khách từ cõi trần tục lên. Rồi họ cũng vỗ tay tán thưởng. Đặc biệt là Trời đánh giá cao thơ của Tản Đà:
Trời lại phê cho: Văn thật tuyệt
Văn trần được thế chắc có ít.
Và không tiếc lời khen ngợi: Lời văn đẹp như sao băng, khí văn mạnh như mây chuyển, khi thì nhẹ như sương, khi thì êm như gió, khi thì đậm đà như mưa sa, khi lại lạnh như tuyết.
Có thể nói, Tản Đà rất có ý thức về tài năng của mình và cũng là một con người táo bạo, dám đường hoàng bộc lộ bản ngã cái tôi đó. Cách nhà thơ xưng danh tên họ ngay trước mặt Ngọc Hoàng và Chư tiên cũng đã thể hiện điều đó:
Con tên Khắc Hiếu họ Nguyễn
Quê ở Á Châu và Đại Cầu
Sông Đà núi Tản nước Việt Nam.
Ông cũng rất ngông khi tìm đến tận Trời đã khẳng định tài năng của mình trước Ngọc Hoàng Thượng Đế và Chư Tiên. Nếu bài thơ Muốn làm thằng Cuội. Tản Đà đã muốn thoát tục lên cõi tiên để lẩn trốn cuộc sống hiện tại:
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng Tám
Tựa nhau trông xuống thế gian cười.
Thì ở Hầu Trời, nhà thơ cũng một lần nữa thoát tục. Nhưng ngòi bút ông, tâm hồn ông lại được tự do phóng túng trong thể thơ trường thiên không gò ép về niêm luật, vần điệu. Niềm khát khao chân thành trong tâm hồn thi sĩ là được khẳng định cái tài của mình, muốn cái tia của mình được nhìn nhận đánh giá một cách đích đáng. Giữa lúc xã hội đang rối ren, thật giả trắng đen nhiều khi không phân định được ranh giới, văn chương trở nên rẻ mạt còn nhà văn, thi sĩ khi bị rẻ rúng, khinh bỉ, việc tìm được người đọc tri âm tri kỉ, hiểu được thơ, cảm được cái hay của thơ Tản Đà quả thật là khó. Và ông phải lên tận cõi tiên mới có thể được thỏa nguyện.
Tác giả xuất hiện trong bài thơ với tư cách là người kể chuyện, đồng thời cũng là nhân vật chính. Cảm xúc tác giả trong bài thơ là cảm xúc phóng túng, tự do không gò ép. Có khi cao hứng, có khi tự đắc, có khi lại trầm ngâm… Tất cả tạo nên giọng thơ tự sự rất hóm hỉnh, có duyên và lôi cuốn người đọc. Theo lời tác giả, người đọc được chứng kiến cảnh nhà thơ đọc cho Trời nghe, cảnh Trời và các Chư tiên đánh giá thơ của tác giả… Người đọc không chỉ cảm nhận được cải ngông nghênh, phóng túng của nhà thơ, mà còn cảm nhận được khát khao, được khẳng định chính mình giữa cuộc đời của tác giả. Cuộc sống nhà thơ hàng ngày đang phải đương đầu với những khó khăn, vất vả, những bộn bề lo toan cũng như nhiều nhà văn khác cùng chung cảnh ngộ bấy giờ, Tản Đà là một thi sĩ nổi tiếng một thời, được cả một thế hệ độc giả hâm mộ, vậy mà suốt đời vẫn sống trong cảnh nghèo đói, cùng quẫn:
Bẩm trời cảnh con thực nghèo khổ
Trần gian thước đất cũng không có.
Vốn liếng nhà thơ mang theo là một bụng văn. Nó không ăn được, đói không mặc được. Nhà thơ chỉ còn cách đem văn đi bán phố phương nhưng ngặt nỗi:
Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực rất khó.
Cho nên:
Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu.
Nghèo cuối cùng vẫn hoàn nghèo.
Một vài câu thơ ngắn ngủi vậy thôi nhưng bức tranh hiện thực sống lại hiện lên rất chân thực và đầy nỗi xót xa. Có thể nói đó là một trong những lí do vì sao nhà thơ chán cuộc sống hạ giới:
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi.
Trần thế em nay chán nửa rồi.
(Muốn làm thằng Cuội)
Và lời Trời dặn nhà thơ, nhiệm vụ mà Trại giao phó cho nhà thơ sao để giữ được thiên lương giữa cuộc sống bon chen, cạm bẫy là một sứ mệnh thiêng liêng mà nhà thơ phải cố gắng thực hiện, dù:
Trời lại sai con việc năng quả
Biết làm có được mà dám theo.
Giữ gìn cho được cải thiện lương ấy cũng là điều mà Tản Đà mong muốn làm được, khát khao làm được sự tự nguyện gánh vác nhiệm vụ Trời giao phó cho thấy cái tâm huyết, cái nhân cách cao đẹp và trong sạch của nhà thơ nghèo Tản Đà.
Khi phong trào Thơ mới nổi lên, Thế Lữ như một “vầng sao đột hiện, ánh sáng chói khắp cả trời thơ Việt Nam” (Tế Hanh) thì phía bên kia, vầng sao Tản Đà mờ dần rồi lặn. Người ta đã đưa Tản Đà lên mặt báo để chế giễu, cho ông là đại biểu chính thức của thơ cũ. Nhưng cho tới khi nhà thơ mất (71/1939) ở đầu giường bệnh vẫn cãi chồng sách cũ nát trên cái ghế mọt thay làm án thư và bên cái chồng sách bừa bãi, đâu đó mấy trang bản thảo… thì những người đã từng chế giễu ông mới thấy thương tiếc và hối hận.
Lao động nghệ thuật thật sự, trăn trở thực sự, nhà thơ mang tên dòng sông, ngọn núi quê hương đã tận tụy với con đường văn, với nghiệp văn của đời mình. Có thơ phóng túng, ngông nghênh nhưng không buông thả, không dễ dãi, gửi gắm vào những trang thơ dí dỏm, hóm hỉnh là nỗi niềm khát khao được khẳng định chính mình. Và thật không uổng công khi bạn đọc hôm nay và mai sau nữa vẫn luôn nhớ tới ông, thơ ông xứng đáng là cái gạch nối giữa hai thời đại văn học của dân tộc: Trung đại và hiện đại. Ông đã tìm được hướng đi đúng đắn để khẳng định mình giữa lúc thơ phú nhà nho đang dần tới dấu chấm hết.
Cảm nhận bài thơ Hầu trời – Mẫu 3
Bài thơ “Hầu Trời” của Tản Đà có sự khác biệt về số câu ở hai văn bản. Bản do Nguyễn Nghiệp sưu tầm, tuyển chọn – Nhà xuất bản Văn học, 1982 có 120 câu. Bản do Nguyễn Khắc Xướng sưu tập, chú thích – Nhà xuất bản Văn học, 1986 chỉ có 114 câu. Chúng tôi theo bản thứ nhất.
“Hầu Trời” là một bài thơ rất đặc sắc và độc đáo; độc đáo ở thi đề, độc đáo cảm hứng, độc đáo ở nội dung bài thơ. “Hầu Trời” được viết theo thể thơ thất ngôn trường thiên, bên cạnh những khổ thơ bốn câu, tác giả đan xen vào những đoạn thơ sáu câu, mười câu, mười hai câu… mang dáng dấp một bài hành nhỏ. Cấu trúc đa dạng ấy đã mở ra một không gian nghệ thuật để Tản Đà bộc lộ cái tôi của mình, và cho nó “tung hoành” nơi Thiên môn đế khuyết.
Phần đầu bài thơ kể chuyện lúc canh ba, thi sĩ ngâm thơ nơi hạ giới, tiếng ngân vang cả sông Ngân Hà”, đã “làm Trời mất ngủ…”. Trời bực mình bèn sai hai cô tiên bay xuống triệu chàng thi sĩ lên Thiên môn. Bốn câu thơ mở đầu, Tản Đà dùng bốn chữ “thật” để khẳng định đó là một chuyện thật đã xảy ra “sướng lạ lùng!”. Trong bài “Tìm hiểu Tản Đà”, thi sĩ Xuân Diệu viết:
“Bài “Hầu Trời”, tôi phục nhất đoạn mở:
Đêm qua chẳng biết có hay không
Chằng phải hoảng hốt không mơ mộng
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiên – sướng lạ lùng!
Vào đột ngột cứu đầu cũng ra vẻ đặt vấn đề cho nó khách quan, nghi ngờ theo khoa học, để ba câu sau toàn là khẳng định, ăn hiếp người ta”.
Phái viên của Trời là hai nàng tiên “miệng cười mủm mỉm”,… Thi sĩ như được chắp cánh cùng bay lên Trời: “Theo hai cô tiên lên đường mây – Vù vù không cánh mà như bay”. Nhìn thấy Thiên môn tráng lệ, chàng thi sĩ vô cùng ngạc nhiên tự hỏi:
Cửa sơn đồ chói oai rực rỡ!
Thiên môn đế khuyết như là đây ?
Vị khách làm thơ nơi hạ giới được Trời và chư tiên trọng thị. Sau khi thi lễ “sụp xuống lạy”, Trời ân cần sai tiên nữ “dắt tôi dậy”, rồi mời thi sĩ “ngồi chơi” trên “Ghế bành như tuyết, văn như mây”. Tiên đồng pha nước uống. Chư tiên kéo đến ngày một thêm đông. Đến để xem mặt người trần? Đến để đón tiếp với lòng hiếu khách? Hay đến để dự cuộc bình thơ, bình văn?
Tiên đồng pha nước uống vừa xong,
Bỗng thấy chư tiên đến thật đông,
Chung quanh bày ghế ngồi la liệt,
Tiên bà, tiên cô, cùng tiên ông.
Cuộc đọc văn và bình văn nơi Thiên môn đế khuyết được Tản Đà kể lại thật sinh động và hấp dẫn. Thính giả gồm có Trời và đông đảo chư tiên. Sau khi nghe lời truyền bảo của Trời, văn sĩ cung kính thưa: “Dạ, bẩm lạy Trời, con xin đọc”, thì cuộc đọc văn, hình văn bắt đầu. Văn sĩ “Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lí lại văn chơi”, càng đọc càng “đắc ý”, càng “tốt hơi “, nhất là khi được nhấp giọng bằng “chè Trời”. Thính giả và văn sĩ trở thành bạn tri âm trong cuộc đọc văn, bình văn. Trời và chư tiên đều say mê thưởng thức nghệ thuật. Văn sĩ cao hứng đọc “ran cung mây”. Chẳng có rượu và hoa… nhưng biết bao thú vị. Trời nghe văn nghe thơ “cũng lấy làm hay”. Chư tiên mỗi người có một cách biểu cảm riêng. Có nàng tiên thì “nở dạ” hoặc “lè lưỡi”. Có người đẹp nơi Thiên môn thì xúc động quá mà “chau đôi mày”. Có nhiều nàng tiên bị thơ văn lôi cuốn “lắng tai đứng”. Ai cũng nhiệt thành “cũng vỗ tay” tán thưởng. Hỏi đã có văn sĩ nào xưa nay được hưởng hạnh phúc, được đọc văn, đọc thơ trước một thính giả nơi Thiên môn đế khuyết như vậy?
Văn sĩ tự hào “báo cáo” với Trời về những tác phẩm của mình đã được in: …
Hai quyển Khối tình văn thuyết lí
Hai Khối tình con là văn chơi
Thần tiền, Giấc mộng văn tiểu thuyết
Đài gương, Lên sáu văn vị đời
Quyển Đàn bà Tàu lối văn dịch
Đến quyển Lên tám nay là mười”
Trời “bật buồn cười” khen ngợi: “Văn đã giàu thay lại lắm lối” vì phong phú về thể cách, đa dạng về thể loại. Hạnh phúc biết bao khi văn sĩ được các tiên nữ gọi bằng “anh”:
“Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:
Anh gánh lên đây bún chợ Trời!”.
Cách kể chuyện mộc mạc tự nhiên, cách sử dụng ngôn từ, giọng điệu hóm hỉnh, tác giả đã làm nổi bật phong cách “bình dân” của ông Trời và các chư tiên, cùng với cái điệu bộ khúm núm và “thật thà” của văn sĩ. Qua cảnh đọc văn hầu Trời, Tản Đà đã phản ánh thực trạng xã hội lúc bấy giờ thật đáng buồn, nhất là tầng lớp văn sĩ như ông:
Bán văn buôn chữ kiếm tiền tiêu.
Quanh năm luống những lo văn ế,
Thân thế xem thua chú hát chèo!
(Lo văn ế)
Đồng thời ông chỉ rõ, trong xã hội thực dân nửa phong kiến ấy đã có mấy tri âm hiểu và biết trân trọng những tác phẩm văn chương của ông, vì thế ông phải lên hầu Trời, đọc văn cho Trời và chư tiên thưởng thức. Nguyễn Khắc Hiếu đã tự hào bộc lộ cái bản ngã, cái tài năng đích thực của mình trước con mắt đồng loại! Trời với con mắt xanh, với sự thẩm văn tinh tế đã dành cho văn sĩ lần đầu mới gặp những lời ngợi khen vô giá:
Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt!
Văn trần được thế chắc có ít!
Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển
Êm như gió thoảng, tinh như sương!
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!…,
Sao băng, mây, gió, sương, mưa, tuyết được Trời đem ra so sánh để ngợi ca nhời văn, khí văn của chàng văn sĩ. Cách kể, cách tả của tác giả thật tài hoa và có duyên. Cái “tôi” bản ngã được khẳng định. Sau cuộc đọc văn, bình văn là cuộc hầu chuyện với Trời của văn sĩ:
Dạ, bẩm lạy Trời con xin thưa
Con tên Khắc Hiếu, họ là Nguyễn…
Trời “ngợ”, rồi sai Thiên Tào lấy sổ xét: “Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đày xuống hạ giới vì tội ngông. Nhưng rồi Trời bao dung và ân cần an ủi, khích lệ. Trời không “đày” mà giao phó cho văn sĩ một trọng trách là đem việc thiên lương” thuật lại cho “đời hay”, cho mọi người cùng biết. Văn sĩ phải gánh trọng trách đem “thiên lương”- giáo hoá người đời, để trần gian tươi đẹp hơn, yên vui hơn. Bài thơ “Hầu Trời” không chỉ mang cảm hứng lãng mạn, mà còn hàm chứa yếu tố hiện thực, đó là đoạn thơ 16 câu văn sĩ thưa với Trời về thân phận mình bấy lâu nay nơi hạ giới: rất nghèo khó, không có một thước đất cắm dùi, chỉ “còn một bụng văn”‘, kế sinh nhai ngày một thêm chật vật:
…Giấy người, mực người, thuê người in .
Mướn cửa hàng người bán phường phố
Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực là khó
Kiếm được thời ít, tiêu thời nhiều
Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu…
Khi nghe văn sĩ lo lắng thưa: “Trời lại sai con việc nặng quá – Biết có làm nổi mà dám theo?”, thì Trời đã động viên và hứa:
Rằng: “Con không nói, Trời đã biết,
Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết.
Cho con cứ về mà làm ăn,
Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết,
Cố xong công việc của Trời sai,
Trời sẽ cho con về đế khuyết…
Đoạn cuối bài thơ kể chuyện Trời sai Khiên Ngưu đóng xe đưa Trích tiên trở lại trần gian. Cuộc tiễn đưa của chư tiên vừa lưu luyến, vừa trang trọng: “Hai hàng lụy biệt giọt sương rơi”. Khi trăng tà non Đoài, tiếng gà gáy xao xác, nhà thơ đã về tới sân nhà, cảm thấy cô đơn và ngậm ngùi. Vừa tiếc rẻ, vừa mong ước:
Giữa sân còn đứng riêng ngậm ngùi.
Một năm ba trăm sáu mươi đêm,
Sao được đêm đêm lên hầu Trời!
Bài “Hầu Trời” như một truyện cổ tích được viết bằng thơ. Nhân vật Trời và các chư tiên rất giản dị, bình dân, thân mật và dễ mến. Bài thơ cho ta thấy Tản Đà có một trí tưởng tượng phong phú, một vốn từ ngữ giàu có, nhất là khi ông nói về Trời, về các chư tiên và cách sống của họ. Đoạn thơ nói về cuộc đọc văn và bình văn, về ngôn ngữ đối thoại giữa văn sĩ với Trời và các chư tiên được kể lại rất sinh động và lí thú. Có lúc chúng ta cảm thấy cuộc bình văn hình như đang diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật nơi cõi đời mà mình từng được tham dự.
“Hầu Trời” là một bài thơ độc đáo và đặc sắc, tuy khá dài nhưng bố cục chặt chẽ, giọng thơ liền mạch, nhất khí, cảnh và tình rất tự nhiên, diễn biến theo câu chuyện, lôi cuốn người đọc từ đầu đến cuối. Bài thơ trường thiên “Hầu Trời” giúp ta cảm nhận thêm chất lài tử, tài hoa và cái ngông của Tản Đà thi sĩ.
Cảm nghĩ bài thơ Hầu trời – Mẫu 4
Được coi là một dấu gạch nối giữa hai nền văn học truyền thống và văn học hiện đại, Tản Đà có lẽ là nhà thơ đặc biệt nhất trong nền thi ca của Việt Nam. Ông là nhà thơ, “là hiện tượng phức tạp vào bậc nhất nhất trong lịch sử văn học Việt Nam”. Ở thơ của ông, chủ đạo không chỉ là sự lãng mạn, bay bổng mà còn là một cái “tôi” ngông ngạo, bất chấp. Đọc bất cứ bài thơ nào của Tản Đà,ta cũng có thể cảm nhận được ở trong đó cái chất thơ ngông cuồng của ông. Và “Hầu trời” là một trong những tác phẩm khiến cho ta cảm nhận được rõ cái chất thơ đặc sắc ấy!
Bài thơ “Hầu trời” được sáng tác năm 1921, đã thể hiện cái tôi, cái bản sắc nhất của Tản Đà. Cả bài thơ là lối thơ với phong cách ngông ngạo vốn có cùng với chất thơ lãng mạn và lối tư duy sáng tạo mới mẻ mà ít nhà thơ nào thể hiện được. Đọc “Hầu trời”, người đọc được thấy được một cái tôi đầy sảng khoái, tự đắc của tác giả. Ngoài ra, tác phẩm còn thể hiện ý thức về trách nhiệm của người thi nhân đối với nền văn học nước nhà và khát vọng được cống hiến của ông cho thơ văn. Cả bài thơ là một câu chuyện kể được sáng tạo bằng trí tưởng tượng và được dẫn dắt bởi lối thơ hóm hỉnh, kể về một cuộc dạo chơi lên trời của Tản Đà, ông được đọc thơ văn cho trời nghe. Ở đó, nhà thơ được nhà trời đón tiếp vô cùng long trọng, được nhà trời khen ngợi và say mê, yêu thích văn chương của mình. Cuối cùng là trách nhiệm mà nhà trời trao cho nhà thơ “làm việc thiên lương của nhân loại”.
Bước vào bài thơ, nhà thơ đã giới thiệu ngay câu chuyện của mình:
” Đêm qua chẳng biết có hay không
….
Thiên môn đế khuyết như là đây!”
Mở đầu bài thơ bằng một câu nghi vấn, đầy sự thắc mắc:
“Đêm qua chẳng biết có hay không
….
Thật được lên tiên sướng lạ lùng”
Tác giả đã khéo léo kéo người đọc vào một câu chuyện kể tự bịa của mình nhưng lại hào hứng y như một câu chuyện thật sự.Câu chuyện của Tản Đà kể ra nhưng chính Tản Đà cũng nghi ngờ “chẳng biết có hay không”. Thế nhưng ngay sau câu hỏi vào đầu câu chuyện, nhà thơ đã khẳng định ngay tính chân thật của câu chuyện mình đang định kể rằng:
“Chẳng phải hoảng hốt, chẳng mơ mòng
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiên, sướng lạ lùng”
Thật là một lời mở màn khiến người đọc phải bối rối.Mở đầu bằng một câu hỏi, nhưng ba câu thơ tiếp, nhà thơ lại khẳng định một cách chắc chắn rằng chuyện của mình chuyện thật, chính mình đã trải qua, không phải là “mơ mòng”.Điệp từ “thật” ba lần được lặp lại chính là để khẳng định cho người đọc cũng chính là khẳng định cho tác giả rằng ông được “lên tiên, sướng lạ lùng”.
Câu chuyện lại được Tản Đà tiếp diễn bằng những câu thơ mang đầy văn phong kể chuyện của dân gian ta. Lối thơ hóm hỉnh, nhẹ nhàng, dân dã dẫn người đọc chúng ta đi qua câu chuyện kể của ông một cách thật hài hòa.Ông kể rằng trong một đêm nằm thao thức một mình “dưới bóng ngọn đèn xanh”, rồi “nằm chán, ngồi dậy đun ấm nước” và ngâm văn chơi cùng trăng. Trong bầu không khí đang cô quạnh, buồn chán, chợt thấy hai cô tiên từ trên trời bay xuống, tủm tỉm cười nói với ông rằng:
“Trời nghe hạ giới ai ngâm nga
….
Có hay lên đọc, trời nghe qua”.
Chỉ vì nằm ngâm thơ một mình vậy thôi mà nhà thơ được mời lên trời để đọc văn cho nhà trời thưởng thức. Một câu chuyện lên tiên đầy bất ngờ, đầy yếu tố hư hư thực thực.Bằng những câu thơ vừa mang tính chất tự sự lại vừa mang yếu tố lãng mạn, nhà thơ đã mở đầu câu chuyện của mình chỉ bằng hai mươi tư câu thơ ngắn ngủi.Những câu thơ ấy đã kết hợp nhuần nhuyễn cả cái trữ tĩnh lẫn cái tự sự cũng với lối kể chuyện hóm hỉnh đầy dân dã của mình, Tản Đà đã khiến người đọc như được chìm trong một câu chuyện cổ tích thực sự.Qua những câu thơ này, chúng ta cũng cảm nhận được một cái tôi đầy lãng mạn, bay bổng của Tản Đà.Và không thể thiếu trong đó là cái tôi vô cùng đắc ý của mình, tự hào nhận thức được chính mình.
Tiếp theo trong câu chuyện kể về việc lên trời, lên tiên, nhà thơ đã dẫn người đọc chứng kiến cuộc hội ngộ với Trời và chư tiên của mình:
“Chư tiên ngồi quanh đã tĩnh túc
….
Anh gánh lên đây bán cho Trời”
Đây là phần thơ mà nhà thơ dùng để miêu tả cảnh mà mình đọc thơ cho Trời cùng chư tiên ngồi nghe. Cuộc đọc văn, chơi văn ở chốn thiên đình được Tản Đà kể lại một cách vô cùng sinh động. Khi nhà thơ lên tới trời, chư tiên đã có mặt cùng nhà Trời đông đủ để chuẩn bị nghe ông đọc thơ, bình thơ. Không chỉ vậy, nhà thơ còn được nhà Trời “pha nước để nhấp giọng” cùng với chư tiên “tĩnh túc”, im lặng, chăm chú ngồi quanh để chuẩn bị được nghe đọc thơ. Khi cuộc đọc văn bắt đầu, nhà thơ đã dùng hết tài năng của mình để:
“Đọc hết văn vần lại văn xuôi
Hết lý thuyết lại văn chơi”
Tất cả những gì nhà thơ sáng tác đều mang ra đọc cho Trời nghe, càng đọc lại càng “đắc ý”, càng “văn dài hơi tốt ra cùng mây”. Nhà Trời và chư tiên quanh đó cũng vô cùng chăm chú lắng nghe, cũng phải “lấy làm hay” với văn chương của tác giả. Ở đây, ta như thấy được một cái tôi đang trong cơn đắc ý của Tản Đà khi ông miêu tả:
“Tân như nở dạ, Cơ lè lưỡi
…
Đọc xong mỗi bài cũng vỗ tay”
Nếu như ở dưới hạ giới, nhà thơ còn “lo văn ế” thì ở đây, văn chương của ông lại được hoan nghênh, đón đợi, chào mời. Đó chẳng phải là một cái tôi ngông ngạo, kiêu hãnh, tự hào với chính văn thơ và tài năng của mình hay sao? Văn thơ của ông tuy không được đón chào nơi hạ giới nhưng lại được chư tiên trên trời “chăm chú lắng nghe”, thưởng thức và khen hay. Mỗi chư tiên đều có cách biểu cảm của riêng mình, có người “nở dạ”, người “le lưỡi, người lại “chau đôi mày”, … nhưng đều tán thưởng mỗi bài thơ mà Tản Đà đọc. Một loạt biểu cảm của các tiên trên trời được Tản Đà liệt kể ra như để chứng minh sức hấp dẫn của thơ văn của mình đối với nhà trời vậy.
Không chỉ vậy, sau khi đọc xong các bài “văn vần lại văn xuôi”, nhà thơ lại kể tên một loạt những tác phẩm nổi tiếng của mình như để chứng minh tài năng:
“Những áng văn con in cả rồi
…
Chửa biết con in ra mấy mươi?”
Kể ra đây, nhà văn như đang khẳng định sự nghiệp văn chương giàu có của mình khiến cho nhà trời cũng phải tấm tắc khen rằng:
“Văn đã giàu thay lại lắm lối
…
Anh gánh lên đây bán cho trời”
Đọc đến đây, người đọc lại một lần nữa được cảm nhận cái tôi đặc sắc trong thơ của Tản Đà.Đó là một cái tôi đầy cao hứng và tự đắc, một cái tôi tràn đầy niềm kiêu hãnh, tự hào về tài năng của bản thân. Với những tác phẩm của mình, nhà thơ tự hào khi được nhà trời khen ngợi, được các chư tiên “ao ước tranh nhau dặn”. Đối với một nhà thơ, được người đọc khen ngợi và hưởng ứng tác phẩm của mình đó chẳng phải là một điều đáng tự hào hay sao?
Và với cách kể chuyện duyên dáng, hóm hỉnh, nhà thơ lại tiếp tục câu chuyện kể của mình:
” Trời lại phê cho “Văn thật tuyệt!””
…
Sao được mỗi đêm lên hầu trời.”
Sau khi đọc văn cho trời nghe và được Trời khen về tài làm văn của mình, nếu với tài năng ấy, ắt hẳn sẽ không bao giờ “lo văn ế”, ấy vậy mà không, nhà thơ đã phản ánh ngay cái thực trạng đáng buồn của lớp văn sĩ thời bấy giờ khi văn chương không được chú ý, được đánh giá đúng tầm giá trị của nó:
“Bán văn buôn chữ kiếm tiền tiêu
Quanh năm luống những lo văn ế
Thân thế xem thua chú hát chèo”
Thế nên khi được Trời khen bằng những lời khen ngợi vô giá, tác giả đã vô cùng sung sướng. Trời khen rằng văn thơ :”thật tuyệt”, “văn trần được thế chắc có ít”, rồi:
“Nhời văn chuốt đẹp như sao băng
…
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!”
Đây là những lời khen ngợi vô giá dành cho Tản Đà khi văn thơ của ông được đem ra so sánh với những gì đẹp nhất trên trời như sao băng, mây chuyển, gió thoảng, tinh như sương,…Ở đoạn thơ này, tác giả đã thật tài tình khi không chỉ bộc lộ được cái tài hoa trong lối viết thơ của mình mà còn lồng trong đó, ý thức về cái tôi vô cùng mạnh mẽ. Nếu như chúng ta thường đánh giá cái tôi của Nguyễn Tuân là độc đáo, là đặc sắc, ta cũng không thể quên cái tôi ngông của Tản Đà khi ông tự nhận rằng:”Đày xuống hạ giới vì tội ngông”. Cái ngông của ông ở đây chỉ là ý thức về giá trị của bản thân mình, ý thức được những thành tựu to lớn và giá trị của các tác phẩm trong sự nghiệp thơ văn của mình. Đó là những điều mà ở xã hội thời bấy giờ chưa được đánh giá đúng tầm với Tản Đà.
Mặc dù kể một câu chuyện hư ảo, nhưng nhà thơ vẫn phỏng trong đó cái hiện thực thời của chính mình.
” Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó
…
Biết làm có được mà dám theo?”
Đọc đoạn thơ này, người đọc được thấy đoạn đối thoại của Trời đối với Tản Đà, đó là sự giao phó trách nhiệm đối với nhà thơ:
“Trời định sai còn làm việc này
Là việc thiên lương của nhân loại”
Đây là sự ý thức về trách nhiệm đồng thời là lời tự an ủi mình của nhà thơ về ý nghĩa cao quý của thi nhân đối với con người và cuộc sống. Thế nhưng có một sự thật rằng cái nghèo khó luôn là bạn song hành của những thi nhân chân chính thời bấy giờ đã được Tản Đà phơi bày ra cho nhà Trời. Nỗi khổ có tài nhưng không được trân trọng “văn chương rẻ như bèo” rồi cái đói khi “lo ăn lo mặc hết ngày tháng”. Những hiện thực về thân phận của mình được Tản Đà kể lại một cách đầy sinh động và rõ ràng. Những mối lo lắng, bận tâm cơm áo gạo tiền của người thi nhân sẽ khiến cho họ khó có thể thực hiện được cái “thiên lương” mà Trời đã ban cho.
Đoạn thơ kết kể lại phần cuối khi nhà thơ được nhà trời sai đưa về.Cuộc tiễn đưa thi nhân đầy trang trọng và lưu luyến. Và khi “trăng đã tà”, “tiếng gà xao xác”, … tới tận khi đứng giữa sân nhà mình, nhà thơ không khỏi ngậm ngùi, luyến tiếc cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với Trời và than rằng:
“Một năm ba trăm sáu mươi đêm
Sao được mỗi đêm lên hầu trời.”
Bài thơ khép lại nhưng lại để lại trong lòng người đọc những dư âm khó quên. Một câu chuyện biết rằng chỉ là tưởng tượng nhưng lại khiến cho người đọc cảm nhận được sự gần gũi, sống động tới lạ kì. Có được điều đó phải kể tới giọng thơ vô cùng hóm hỉnh, dân dã, mà giản dị của Tản Đà cùng với lối thơ tự sự, lãng mạn đầy linh hoạt.Thể thơ được nhà thơ sử dụng là thể thất ngôn trường thiên nhưng được biến đổi với cách gieo vần linh hoạt.Ở bài thơ này, chúng ta có thể thấy rõ phong cách thơ vô cùng đặc sắc và ấn tượng của Tản Đà với ý thức về một cái tôi ngông cuồng mạnh mẽ. Một cái ngông thể hiện ở một con người có bản lĩnh, tài năng với ý thức trách nhiệm của người thi nhân.
Bài thơ “Hầu trời” đã mang đến cho văn học Việt Nam một tác phẩm với một câu chuyện không chỉ hóm hỉnh vui tươi mà còn mang đầy tính triết lý về cái tôi của người nghệ sĩ. Có thể nói, với tác phẩm này, Tản Đà đã thổi một làn gió mới vào văn học Việt lúc bây giờ nên có thể hiểu tại sao ông được coi là “dấu gạch nối giữa hai nền văn học”. Và cũng ở tác phẩm này, với lối thơ của mình, ông đã thể hiện cái tôi vô cùng sâu sắc với cái ngông hiếm thấy trong nền thi ca Việt.Có thể nói, với văn học Việt, Tản Đà quả là một cái tên sáng, một thi nhân chân chính và tài năng nhất.
Cảm nhận về bài Hầu trời – Mẫu 5
Khi chốn nước non này còn lặng lẽ vào những năm đầu thế kỉ XX, người ta bỗng thấy một nhà thơ đã làm xao động cả giới văn đàn. Ông được gọi là người “nằm vắt mình qua hai thế kỉ”, “gạch nối giữa hai thế kỉ”, người đặt nền móng đầu tiên cho thơ mới. Ông chính là Tản Đà. Điều ông mang tới là một hồn thơ lãng mạn, bay bổng mà vẫn đầy cảm thương, phong cách tài hoa, độc đáo mà vẫn giữ được cốt cách thơ ca dân tộc. Một trong những bài thơ tiêu biểu nhất cho cái tôi trong thơ ấy là Hầu Trời. Thi phẩm được in trong tập Còn chơi xuất bản vào năm 1921 đã tạo nên ấn tượng đặc biệt và khẳng định tài năng của nhà thơ.
Được viết theo thể thơ thất ngôn trường thiên khá phóng khoáng, tự do, lại thêm cách thể hiện đậm chất tự sự với các yếu tố cốt truyện, tình huống, nhân vật, lời kể… đã tạo nên một cấu tứ rất đặc biệt của tác phẩm này. Đó là một câu chuyện “hầu Trời” của nhân vật chính là tác giả – một thi sĩ, hoàn toàn hư cấu, tưởng tượng, nhưng lại được kể với một giọng điệu say mê, tự nhiên và rất bình dị. Kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và hiện thực, câu chuyện ấy có thể tóm tắt lại qua ba sự việc theo trật tự thời gian: trình bày lí do được lên Trời đọc thơ, cảnh đọc thơ hào hứng của tác giả và thái độ ngợi ca, tán thưởng của Trời và các chư tiên, và cuộc chia tay đầy lưu luyến, xúc động.
Chắc hẳn nhiều người vẫn còn quá ấn tượng với cách mở đầu câu chuyện này của thi sĩ Tản Đà:
Đêm qua chẳng biết có hay không,
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiên – sướng lạ lùng,
Đây chỉ là một lời thông báo về sự việc “được lên tiên – sướng lạ lùng” vào đêm qua mà nhiều người chúng ta nghĩ là chuyện bịa. Nhưng cách dẫn dắt của thi nhân khiến người ta tin đó là thật, mà thật một cách đầy tự nhiên, chứ không hề gượng gạo. Ông cũng đặt ra nghi vấn chẳng biết có hay không theo kiểu khoa học nhưng vẫn khẳng định rằng: không hoảng hốt, không mơ mòng và có đến bốn cái thật khiến người ta tin. Cách mở đầu câu chuyện vì thế mà đầy khéo léo và duyên dáng, đến nỗi nhà thơ Xuân Diệu cũng trầm trồ, thán phục. Tình huống độc đáo, hấp dẫn của câu chuyện được mở ra.
Ngay sau đó, thi sĩ trình bày lý do được lên tiên cũng đầy lạ lùng. Trong đêm khuya trăng sáng, lúc canh ba, nằm buồn một mình, tác giả ngồi dậy đun nước uống rồi ngâm nga văn thơ. Bỗng thấy hai cô tiên xuống, vì tiếng ngân vang cả sông Ngân Hà khiến Trời không ngủ được nên Trời mời lên đọc để nghe qua. Đúng là có vẻ khó tin nhưng cách giải thích đầy hóm hỉnh và tự nhiên như thế khiến người đọc thấy được sự thú vị, đời thường và cũng đáng tin. Câu chuyện vì thế càng gợi thêm sự tò mò, hấp dẫn. Vậy đối diện với Trời, thi sĩ sẽ thể hiện mình như thế nào?
Được đón tiếp nồng nhiệt, trang trọng, ngồi ghế bành như tuyết vân như mây, uống chè trời nhấp giọng, thi nhân bước vào một cuộc thể hiện tài năng, mà khán giả không ai khác là Trời và các chư tiên. Chỉ nghĩ đến đây thôi đã thấy quả là một câu chuyện hư cấu đầy thú vị, độc đáo chưa từng có. Việc lên tiên, lên trời không phải là một đề tài xa lạ, ngay cả với bản thân thi sĩ Tản Đà, nhưng việc lên đó để ngâm văn, đọc thơ thì chắc chắn là chỉ có ông mà thôi. Bởi vậy với bút pháp lãng mạn, nhà thơ đã tái hiện lại cảnh đọc thơ cho Trời và các chư tiên nghe đầy hứng khởi, tự hào:
– Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lí lại văn chơi
– “Bẩm con không dám man cửa Trời
…Chửa biết con in ra mấy mươi?”
Đáng chú ý nhất ở đoạn này không phải là “gia tài văn chương” nhiều, đa dạng mà thi nhân nhắc tới, càng không có ý phô diễn tài năng giày thay, lắm lối hay cố ý khoe cái hay, cái đẹp do mình tạo ra, mà đó là niềm say mê, tự hào, niềm phấn chấn, hào hứng đối với những sáng tác của mình. Sở dĩ có được điều đó là bởi vì dường như thi sĩ đã tìm thấy một đối tượng tri âm nghệ thuật quá đỗi đặc biệt như thế. Nghe thơ văn của người đời mà Trời, các chư tiên nào là nở dạ, lè lưỡi, chau đôi mày, lắng tay đứng, cùng vỗ tay, lại còn hưởng ứng trên mức yêu thích:
Chư tiên ao ước tranh nhau dặn
– “Anh gánh lên đây bán chợ Trời!”
Những lời tán thưởng của Trời càng khẳng định điều đó:
Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!
Êm như gió thoảng, tinh như sương!
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!
Có thể nói khung cảnh tuy trên trời nhưng cũng không hề xa lạ, cung cách rất đời thường và ngay cái cách chư tiên gọi thi sĩ là “anh” cũng rất dễ thương. Có lẽ bởi vậy mà việc được hầu Trời đọc thơ văn là một cách để nhà thơ Tản Đà bộc lộ hết thảy sự sảng khoái của bản thân, cũng là cách tự đề cao, tự khẳng định mình trước xã hội rất tinh tế. Đồng thời cũng có cả nỗi niềm khao khát được tri âm, đồng cảm của cuộc đời. Qua đây thấy được một cái tôi đầy phóng khoáng, táo bạo, cái tôi ngông đầy tài hoa.
Vậy là việc lên trời của thi nhân không đơn thuần là “trần thế em nay chán nửa rồi”, là để tự khẳng định tài năng, cá tính độc đáo của nhà thơ, mà đó còn là cái cớ để giãi bày tâm sự về chuyện nghề, chuyện đời. Trời nghe văn thơ xong, khen nức nở liền hỏi danh tính. Tản Đà thật đến độ cũng chẳng giấu giếm gì, tên tuổi, nghề nghiệp đều nói ra. Trời sai suy xét thì phát hiện có tên Nguyễn Khắc Hiếu, đày xuống hạ giới vì tội ngông, thực chất là sai xuống làm việc “thiên lương” của nhân loại. Vẫn biết bài thơ thể hiện rất rõ đặc trưng của hồn thơ Tản Đà, nhưng chắc hẳn đến đây nhiều người đọc nghĩ, có thể đến mức này thì quả là một cá tính quá ngông và táo bạo. Câu chuyện hầu Trời, đọc thơ đã vượt xa mức bộc lộ tài năng là vì thế. Mà ở đó, Tản Đà chia sẻ cái cá tính ngông hay cái khát vọng làm việc thiên lương cho đời. Có một thời ông đã từng ôm mộng cải cách xã hội bằng văn chương, nhưng không thành. Và có lẽ đây là lý do nhà thơ nhắc tới sứ mệnh này trong bài thơ. Và có nhiều lý do để cho thấy Tản Đà thực sự quá sức với mệnh trời ban. Bởi: – “Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó”. Vào thời đại của mình, Tản Đà được biết đến là người đầu tiên đem “văn chương ra bán phố phường”. Nhưng sự đời ngặt nghèo không dễ dàng như người ta tưởng, gia tài là bụng văn nhưng tấc đất không có, nào giấy, nào mực, nào cửa hàng đều của người, giá lại rẻ, lãi ít mà tiêu nhiều, học hành thêm thì tuổi đã cao. Đừng nói việc thiên lương mà ngay cả cuộc sống rất bình thường với ông vô cùng chật vật. Hơn thế, đó là tình cảnh chung của giới văn nghệ sĩ những thập kỉ đầu thế kỉ XX. Lên được đến trời là cơ hội để ông giãi bày sự tình ấy. Với bút pháp hiện thực, nhà thơ đã trải lòng mình như mong mỏi một niềm cảm thông, khát khao tìm kiếm được sự tri âm, sự khẳng định bản thân giữa cuộc đời.
Bài thơ kết thúc bằng một niềm tiếc nuối, ngậm ngùi khi phải trở về với trần thế. Tiếng gà, tiếng người đã đánh thức nhà thơ. Không phải chỉ một năm mà có lẽ cả một đời thi sĩ luôn thèm khát được lên trời như thế. Nhưng ấn tượng của người đọc về những giây phút lên tiên hay chính là giây phút thăng hoa trong nghệ thuật của nhà thơ Tản Đà. Từ đó người đọc được chứng kiến một cái tôi cá nhân, cái tôi ngông phóng túng, tự ý thức về tài năng, giá trị đích thực của mình và khao khát được khẳng định giữa cuộc đời. Bởi vậy, dù là một câu chuyện chẳng có thật nhưng người ta luôn nhớ về Hầu Trời qua những nét rất đỗi gần gũi, giản dị, tự nhiên và đầy hóm hỉnh như thế.