Văn mẫu lớp 11: Cảm nhận khổ 1 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử (3 Dàn ý + 19 Mẫu)

Văn mẫu lớp 11: Cảm nhận khổ 1 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử (3 Dàn ý + 19 Mẫu)

Cảm nhận khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử tuyển chọn 19 bài văn mẫu siêu hay kèm theo 3 gợi ý cách viết chi tiết hay nhất. Qua đó giúp các em có thêm nhiều nguồn tư liệu học tập, trau dồi kỹ năng lập luận để biết cách viết bài văn phân tích thơ hay.

Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 11: Cảm nhận khổ 1 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử (3 Dàn ý + 19 Mẫu)

Văn mẫu lớp 11: Cảm nhận khổ 1 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử (3 Dàn ý + 19 Mẫu)

Khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ giúp chúng ta cảm nhận được xứ Huế mộng mơ nhưng căng tràn sức sống. Tất cả sẽ mãi khắc sâu vào trong lòng bạn đọc với tất cả sự yêu thương và trân trọng tình đời và tình người trong Đây thôn Vĩ Dạ. Vậy dưới đây là TOP 19 bài văn cảm nhận Đây thôn Vĩ Dạ khổ 1, mời các bạn cùng theo dõi tại đây. Bên cạnh đó các bạn xem thêm bài văn phân tích 2 khổ đầu Đây thôn Vĩ Dạ.

Cảm nhận khổ 1 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất

    Dàn ý cảm nhận khổ 1 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

    I. Mở bài:

    – Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm:

    Ví dụ:

    Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tài hoa nhưng không được may mắn trong cuộc sống. Khi ra đi ông để lại một kho tàng văn thơ vô cùng to lớn. Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Hàn Mặc Tử đó là bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ. Bài thơ nói về cảnh nơi thôn Vĩ, nơi có người ông thương.

    – Giới thiệu khái quát nội dung khổ thơ đầu: Cảnh đẹp nơi thôn Vĩ được thể hiện rõ nhất qua khổ 1 của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.

    b) Thân bài: Cảm nhận khổ đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

    * Khái quát về bài thơ:

    – Hoàn cảnh ra đời bài thơ:

    • Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được sáng tác vào khoảng năm 1938, in lần đầu tiên trong tập Thơ điên (về sau đổi tên thành Đau thương).
    • Bài thơ được viết khi Hàn Mặc Tử nhận được một tấm bưu thiếp từ người con gái mà nhà thơ thầm thương, Hoàng Thị Kim Cúc.

    – Địa danh “thôn Vĩ Dạ” : Vĩ Dạ là một phường thuộc thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.

    * Luận điểm 1: Bức tranh thiên nhiên xứ Huế bình yên, thơ mộng.

    “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

    – Lời trách móc nhẹ nhàng, duyên dáng, thân tình, cũng có thể là lời nhà thơ tự vấn lòng mình

    – Sự độc đáo trong dùng từ, 7 chữ nhưng 6 chữ là thanh bằng -> Cho thấy nỗi buồn tha thiết, tiếc nuối của tác giả

    => Câu hỏi gợi lên sự trách móc thầm của nhân vật trữ tình, tự nhủ lòng mình sao dễ lãng quên một nơi mà mình từng gắn bó, một phong cảnh thiên nhiên nên thơ của Huế được điển hình qua thôn Vĩ.

    “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.”

    – Nhờ ánh nắng, cảnh vật như bừng sáng hơn

    • Những hàng cau thẳng tắp và nắng ban mai tràn ngập không gian
    • Nắng lan tỏa đến khắp nơi, mang một sắc màu đẹp đẽ

    – “nắng mới lên” : cái nắng sớm ban mai, nhẹ nhàng, tinh khiết

    -> Câu thơ làm bật lên vẻ đẹp của thôn Vĩ Dạ

    “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

    – “mướt”: một trạng thái gợi lên sự sống mơn mởn, mướt mát của cảnh vật

    – sắc xanh “như ngọc” mang ý nghĩa tượng trưng cho một làng quê yên bình, trù phú.

    => Vườn tược nơi đây xanh màu ngọc, càng lung linh hơn dưới nắng mai khi lá cành còn đọng sương đêm trước.

    * Luận điểm 2: Hình ảnh con người xứ Huế đôn hậu, dịu dàng.

    “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

    – “lá trúc che ngang mặt chữ điền”: hình ảnh con người hiện lên với nét đôn hậu, dịu dàng.

    -> Hình ảnh con người bất ngờ xuất hiện trên cái nền thiên nhiên tươi sáng thơ mộng khiến bức tranh cuộc sống thêm nồng ấm qua giọng thơ êm dịu gợi trong lòng người đọc một cảm giác bình yên khi đứng trước bức tranh thơ độc đáo ấy.

    => Nét đẹp hài hòa giữa cảnh và người đã làm cho xứ Huế trở nên thơ mộng và thi vị hơn.

    * Đặc sắc nghệ thuật

    – Ngôn ngữ điêu luyện

    – Bút pháp vừa lãng mạn vừa tượng trưng

    – Câu hỏi tu từ, điệp từ, so sánh, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác…

    c) Kết bài:

    – Nêu cảm nhận của em về khổ 1 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

    Sơ đồ tư duy cảm nhận khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ

    Văn mẫu lớp 11: Cảm nhận khổ 1 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử (3 Dàn ý + 19 Mẫu)

    Cảm nhận khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ học sinh giỏi – Mẫu 1

    Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ sáng tạo nhất trong phong trào Thơ mới. Mặc dù có một cuộc sống bi thảm, nhưng thông qua một tâm hồn giàu có, sáng tạo và bí ẩn, người đọc vẫn cảm thấy một tình yêu đau đớn đối với cuộc sống trần thế của mình.

    “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Hàn Mặc Tử đã để lại nhiều dấu ấn không thể xóa nhòa trong lòng độc giả. Do đó, qua nhiều thế hệ, mọi người có ba ý kiến về bài thơ: Đó là một bài thơ về giọng nói khắc khoải của một tình yêu bí mật; là một lời yêu thương đối với một quốc gia; là mong muốn được sống trong sự chia sẻ, cảm thông để trở lại với cuộc sống. Câu đầu tiên của bài thơ đã thể hiện một biểu hiện đầy đam mê và cảm động về tình cảm đó.

    Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
    Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

    “Đây thôn Vĩ Dạ” được Hàn Mặc Tử viết khi anh bị bệnh nan y – bệnh phong, một căn bệnh khiến nhiều người xa lánh và từ chối anh, vì vậy anh luôn có mong muốn được chia sẻ, cảm thông và muốn trở lại với cuộc sống.

    Nằm trong bệnh viện và nhận được một tấm bưu thiếp từ cô con gái mà anh thầm thương, Hàn Mặc Tử lấy đó làm nguồn cảm hứng cho bài thơ ra đời. Qua đó, ông vẽ phong cảnh và cả tâm tư, bày tỏ sự cô đơn của mình về một tình yêu đơn phương xa cách vô vọng. Không chỉ vậy, bài thơ còn là tình yêu tha thiết của nhà thơ đối với thiên nhiên, cuộc sống và con người Huế.

    Mở đầu bài thơ, tác giả đã sử dụng một câu hỏi hùng biện: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” vừa như một lời chào thân mật vừa như một lời khiển trách nhẹ nhàng của cô gái thôn Vĩ. Không thô lỗ, nhưng rất chi thực và tinh tế.

    Tuy nhiên, có thể hiểu rằng đây là sự tự nói chuyện và tự trách bản thân của tác giả. Ông tự hỏi tại sao ông đã không trở lại thăm vùng đất đó, vùng nông thôn đó trong một thời gian dài. Ông khao muốn được về thăm quê hương, nỗi nhớ về mảnh đất đó cứ đau đớn. Thật bất ngờ, lúc đó Hàn Mặc Tử bị ốm, làm sao anh có thể trở về nhưng không thể trở về mãi mãi…

    Qua ba câu thơ sau đây, phong cảnh thiên nhiên và con người xuất hiện trong nỗi nhớ, trí tưởng tượng của Hàn Mạc Tử rất đơn giản và quen thuộc:

    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
    Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

    Ánh nắng hàng cau, nắng mới lên là khung cảnh ngập tràn ánh mặt trời sáng sớm. Ánh sáng nguyên sơ, rực rỡ đó chiếu sáng không gian rộng lớn và rộng rãi của Huế. Thông điệp từ “nắng hàng cau” không chỉ thể hiện sự rực rỡ của ánh sáng và sức sống, mà còn bộc lộ tâm hồn luôn hướng về ánh sáng, hướng tới cuộc sống của Hàn Mặc Tử.

    Câu thơ đó đã vẽ ra một hàng cau mạnh mẽ đang vươn lên để bắt những tia sáng đầu tiên của buổi sáng. Nhớ đến Vĩ Dạ, nhà thơ nhớ đến hàng cau đầu tiên. Bởi vì hình ảnh cau và nắng đã quá quen thuộc với người dân thôn Vĩ. Nhịp điệu của thơ ca 4/3 giống như bước chân của bất kỳ vị khách nào, ngắm nhìn mặt trời mới trên những hàng cau màu xanh lá cây rạng rỡ.

    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

    Nếu các nhà thơ khác trong phong trào Thơ mới thường mô tả cảnh có vẻ đẹp buồn:

    Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
    Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

    (Tràng giang, Huy Cận)

    Hay:

    Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
    Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng

    (Đây mùa thu tới, Xuân Diệu)

    Hàn Mặc Tử, mặc dù trong nhiều bài thơ khác thể hiện nỗi đau đớn thân xác, đau đớn trong lòng và ngã xuống, nhưng với thôn Vĩ, ông vẫn để cây bút chảy trong ánh sáng rực rỡ, tràn đầy cảm hứng và sức sống. Đại từ phiếm chỉ biểu thị “ai” làm cho câu thơ trở nên thú vị hơn, mang âm thanh của điệu nhảy trên sông Hương.

    “Vườn ai” không chỉ là một khu vườn cụ thể, mà nó giống như đi theo từng bước của nhà thám hiểm, theo hành trình trong tâm trí, hai bên đường là những khu vườn như vậy.

    Đắm chìm trong sắc xanh của những tán lá vườn, Hàn Mạc Tử bất ngờ nghĩ ra một sáng tạo nghệ thuật độc đáo: “mướt quá”. “mướt” là một trạng thái béo, tươi tốt, tràn đầy sức sống, tỏa sáng với màu xanh ngọc lục bảo dưới ánh mặt trời màu hồng của bình minh.

    Khu vườn phải được chăm sóc tỉ mỉ bởi một bàn tay khéo léo thì mới xanh mướt và lấp lánh được như thế. Hoặc bởi vì bản thân nhà thơ cũng cẩn thận quan tâm, bảo tồn và trau dồi từng chiếc lá trong trái tim mình, để anh ta có thể thoát khỏi một ý tưởng thơ mộng đẹp đẽ như vậy!

    Hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” là một bản vẽ của tinh thần nhấn mạnh linh hồn của cây cối và lá cây trong “vườn ai”, người đọc dường như có thể nghe thấy nhựa sống dịch chuyển trong tán lá, nhìn thấy hương thơm của khu vườn.

    Tất cả đều rực rỡ, vui mừng với một niềm vui mới. Vẻ đẹp có thể so sánh với “ngọc bích” không chỉ lộng lẫy mà còn vô cùng quý giá. Ngay cả màu xanh mộc mạc của cỏ và hoa cũng có thể trở thành một hình ảnh huyền diệu, đẹp như một phép màu, đẹp đến nỗi nó trở thành một biểu tượng của thôn Vĩ.

    Lá trúc che ngang mặt chữ điền

    Nhắc đến con gái Huế, người ta nghĩ ngay đến hình ảnh một cô gái quyến rũ, duyên dáng trong chiếc áo dài tím mộng mơ với chiếc mũ lá trắng nhẹ nhàng, duyên dáng và tinh tế. “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” cho thấy vẻ ngoài nhẹ nhàng và nhẹ nhàng.

    “Lá trúc che ngang” là một bức vẽ khéo léo, gợi lên hình ảnh khuôn mặt thoáng qua của một cô gái trẻ. Một nét vẽ mô tả vẻ đẹp thanh lịch, nhẹ nhàng. Một bức vẽ vẽ một cái nhìn bẽn lẽn, ẩn đằng sau những chiếc lá trúc của cô gái.

    Và hình ảnh cô gái e thẹn nhấp nháy phía sau những chiếc lá trúc chứng minh rằng “vườn ai” và khu vườn của cô gái chỉ là một. Thiên nhiên và con người dưới cây bút sắc bén của Hàn Mặc Tử đã kết hợp hài hòa để tạo nên một bức tranh phong cảnh đẹp, tràn đầy sức sống và nét quyến rũ lạ lùng.

    Với giọng điệu say đắm, ngọt ngào và sâu lắng, Hàn Mạc Tử đã vẽ nên một bức tranh về thôn Vĩ Dạ, mang đến cho người nghe cảm giác đau khổ trong một bài hát Đây thôn Vĩ Dạ này thật mơ mộng và giản dị. Qua đó thể hiện tình yêu lớn của ông đối với vùng đất yên bình và thịnh vượng này.

    Tuy nhiên, ẩn sau mỗi bài thơ là nỗi nhớ, nán lại về con người và những cảnh ở đây. Ông đặt câu hỏi, lo lắng về tình yêu thầm kín của mình với con gái của thôn Vĩ. Ông hỏi về cảnh đẹp của thôn Vĩ. Nhưng tất cả cho nhà thơ lúc đó chỉ là nỗi nhớ.

    Nếu trong khổ đầu của bài thơ là một không gian vui vẻ và sống động, trong phần còn lại của bài thơ, giọng nói của bài thơ chậm lại và ảm đạm hơn nhiều. Chính xác hơn, bắt đầu từ nỗi đau thứ hai, Hàn Mạc Tử đã bày tỏ nỗi buồn và u sầu của mình.

    Vào thời điểm đó, anh mắc bệnh phong, một căn bệnh khiến anh tránh xa mọi người. Sống trong tình cảnh chia ly, tác giả mong muốn, mong muốn trong một tâm trạng tiêu cực, một người bạn tâm giao. Anh khao khát hơn bao giờ hết để chia sẻ, hiệp thông.

    Hàn Mặc Tử khao cầu tình yêu con người, yêu cuộc sống, hạnh phúc. Ông khao khát muốn trở lại cuộc sống bình thường, để trở về thôn Vĩ Dạ. Ông biết căn bệnh nghiêm trọng của mình, và biết rằng thời gian của ông rất ít. Vì vậy, nhà thơ vừa bồn chồn, lo lắng vừa hy vọng có điều gì đó để rời đi. Đây là mong muốn tha thiết và nỗi buồn khi tác giả nhớ đến tác giả.

    Với hình ảnh mang đầy nội tâm, những nét vẽ lãng mạn mô tả, ngôn ngữ tinh tế, sự liên kết phong phú, Hàn Mạc Tử đã vẽ nên một bức tranh thơ mộng và đẹp đẽ về một vùng quê. Và ẩn đằng sau không chỉ là một giọng nói đáng lo ngại của một tình yêu bí mật hay một lời yêu thương với một vùng quê, mà còn là mong muốn thông cảm và trở lại với cuộc sống.

    Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh đẹp về một đất nước quê hương, là tiếng nói của một người yêu cuộc sống, yêu con người. Bài thơ giống như một bông hoa rực rỡ trong rừng hoa của văn học nước nhà. Qua đó thể hiện tinh thần thuần khiết, yêu đời ngay cả trong thời gian đau khổ, tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử.

    Đây thôn Vĩ Dạ khổ 1 hay nhất – Mẫu 2

    Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ Mới. Thơ ông đặc trưng bởi sự dịu dàng, đằm thắm và xen chút buồn man mác. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những sáng tác hay nhất của Hàn Mặc Tử với những cảm xúc chân thật, thiết tha.

    Bài thơ được lấy cảm hứng từ bức thư của Hoàng Thị Kim Cúc gửi cho nhà thơ. Nó là tiếng lòng, là sự nhớ nhung quê hương cùng với một chút thương xót cho cuộc tình dở dang. Vì căn bệnh hiểm nghèo mà Hàn Mặc Tử bị xã hội xa lánh, buộc ông phải sống cách li và vì thế, đã rất lâu nhà thơ chưa về thăm lại thôn Vĩ. Bức thư của cô gái mà anh thầm yêu thương đã làm cho nỗi nhớ quê hương trào lên trong tâm hồn tác giả. Khổ thơ mở đầu chỉ là bốn câu ngắn ngủi nhưng lại có sức truyền tải vô cùng lớn.

    Sao anh không về chơi thôn Vĩ
    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
    Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
    Lá trúc che ngang mặt chữ điền

    Ngay từ đầu bài thơ, tác giả đã dẫn ra một câu hỏi tu từ. Câu hỏi ấy được đưa ra nhưng lại chẳng mong được đáp trả. Có lẽ, nó là lời trách móc nhẹ nhàng của Kim Cúc về sự ra đi của Mặc Tử. Đã bao lâu rồi anh không về thăm lại xứ Huế mộng mơ, thăm thôn Vĩ quen thuộc mà những ngày trước đây hai người đã từng có biết bao kỉ niệm. Câu thơ gợi lên một cảm giác bâng khuâng, xao xuyến. Nó cũng giống như một lời mời gọi sự quay trở lại quê hương, thăm thôn Vĩ Dạ nên thơ, dịu dàng. Và cũng có khi nó là sự tiếc nuối, nhớ nhung da diết của chính tác giả.

    Anh đã xa quê hương mà chưa một lần trở về. Nỗi khát khao được trở về đã thúc giục anh, buộc anh phải tự hỏi chính mình “Sao không về thăm thôn Vĩ”. Thôn Vĩ là một chốn thôn quê bình yên, thơ mộng, đậm chất Huế. Không được trực tiếp tận hưởng không gian ấy nhưng những hình ảnh đẹp nhất, dịu ngọt nhất vẫn đang chảy trong tâm hồn của nhà thơ với sự nhớ mong da diết.

    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

    Hai câu thơ vẽ lên trước mắt bạn đọc một bức tranh tươi đẹp và tràn đầy sức sống. Mỗi câu thơ lại dẫn dắt ta đến với sự xinh đẹp, mộng mơ của thiên nhiên xứ Huế. Ở những con đường nhỏ của thôn Vĩ, hai hàng cau mọc lên thẳng tắp đón lấy ánh nắng mặt trời. Chúng toát lên một vẻ thanh thoát, cao sang. Những tàu cau vươn mình ra xa, đón lấy những cơn gió nhẹ nhàng cùng tia nắng ấm áp. Mặt trời vừa hé, tỏa ra ánh nắng dịu dàng của buổi sớm mai. Những tia nắng không quá chói chang, nóng bỏng, chúng ấm áp một cách dịu hiền.

    Ánh nắng len lỏi vào từng kẽ lá, chiếu rọi xuống mặt đất những hình hài đáng yêu của bóng cây. Nắng sáng mai luôn là thứ nắng tuyệt đẹp. Nó mang đến sức sống, mang đến hơi thở cho mọi vật. Và lấp ló sau những rặng cau là khu vườn ngập tràn màu xanh. Cây cối được mặt trời tưới xuống nhựa sống, chúng đâm chồi nảy lộc và đua nhau xanh tốt. Màu xanh trải dài khắp cả chốn thôn quê. Màu xanh trong mắt của Hàn Mặc Tử có một cái gì đó mới mẻ và lạ lẫm. Nó không phải là xanh rì, xanh thẳm mà lại xanh màu xanh của ngọc.

    Một cách so sánh rất đặc biệt và hấp dẫn. Thiên nhiên trở nên hữu tình và thơ mộng hơn qua con mắt của thi nhân. Màu xanh ấy toát lên một sức sống mãnh liệt và mạnh mẽ. Cây cối cứ mơn mởn lên để đón ánh nắng mặt trời. Nó làm cho không gian của thôn Vĩ Dạ trong lành, thoáng mát và xanh hơn. Mọi thứ đều tươi mới và tràn trề nhựa sống. Thôn Vĩ vẫn luôn luôn là thế, đẹp đẽ, mộng mơ và ngập tràn hương vị thiên nhiên.

    Để rồi, trong không gian ấy, hình ảnh con người hiện lên thật hiền hòa.

    Lá trúc che ngang mặt chữ điền

    Những lá trúc chập chờn theo làn gió. Nó như đang sà xuống khu vườn xanh mát để đắm mình cùng sức sống của thiên nhiên. Cũng có thể những lá trúc ấy đang nghiêng mình bên cửa sổ, ẩn hiện phía sau tấm rèm là khuôn mặt “chữ điền” của những cô gái Huế mộng mơ. Đó là khuôn mặt phúc hậu nhưng không kém phần duyên dáng. Thiên nhiên và con người hòa vào nhau, đan xen với nhau để tạo nên một cái nhìn mới lạ đầy hấp dẫn. Người con gái Huế nhẹ nhàng, e thẹn lấp ló sau những chiếc lá xanh mượt mà. Nó như càng gợi lên nỗi nhớ quê hương da diết đang trực trào trong lòng tác giả.

    Khổ 1 bài Đây thôn Vĩ Dạ tuy ngắn ngủi nhưng đã khơi gợi được biết bao điều ý nghĩa. Một xứ Huế mộng mơ nhưng căng tràn sức sống, một thiên nhiên trong lành cùng những con người hiền hòa, dịu êm. Tất cả sẽ mãi khắc sâu vào trong lòng bạn đọc với tất cả sự yêu thương và trân trọng tình đời và tình người trong Đây thôn Vĩ Dạ, cái chữ “tình” bên trong con người Hàn Mặc Tử tài hoa.

    Cảm nhận Đây thôn Vĩ Dạ khổ 1 – Mẫu 3

    “Thơ chỉ tràn ra khi cảm xúc thật đầy”. Thật vậy, thơ là điệu cảm xúc, thơ là cứu cánh cho cuộc đời mỗi người. Đối với Hàn Mạc Tử cũng vậy, thơ trở thành nơi ông bày tỏ bao nỗi niềm giấu kín cùng cảm xúc mãnh liệt nhưng tồn tại trong đau thương. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của ông là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Hàn. Bài thơ là một bức tranh thiên nhiên đẹp xứ Huế và tình đời tình người sâu kín.

    Cảnh sắc thiên nhiên nơi thôn Vĩ Dạ được gợi mở ra tươi mới tràn ngập sức sống:

    Sao anh không về chơi thôn Vĩ
    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
    Lá trúc che ngang mặt chữ điền

    Mở đầu là câu hỏi: “sao anh không về chơi thôn Vĩ?” vang lên như lời trách thầm, lời nhắn gửi nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình. Câu hỏi là của ai? Mà vừa có nhiều cung bậc như vậy. Không phải là của Hoàng Cúc, hay một cô gái nào khác ở Thôn Vĩ vậy thì của ai? Của Hàn Mạc Tử, dường như tác giả tự phân thân để chất vấn chính mình. Cũng là một lời xác nhận đã lâu rồi không về thôn Vĩ, và không biết đến bao giờ, đến khi nào mới có thể trở về để thăm lại nơi đầy gắn bó những dấu yêu kỉ niệm. Không những vậy, câu hỏi còn là cái cớ rất đáng yêu, nhẹ bẫng lại xót xa để gợi về kỉ niệm thôn Vĩ và bức tranh thôn Vĩ mở ra tự nhiên ở ba câu thơ tiếp với nắng hàng cau, vườn cây và cành lá trúc thân thuộc. “nắng hàng cau” là nắng đầu tiên của buổi sáng sớm, cũng là hình ảnh quen thuộc trong thơ Hàn Mặc Tử.

    Buổi sớm với những hàng cau cao và thẳng vươn cao đón ánh nắng đầu tiên. Sau một đêm bừng tỉnh, sương còn chưa tan hết, nắng mới đã bừng lên tràn ngập trên những hàng cây mới mẻ thanh tân. Trong những câu thơ không chỉ miêu ta ánh nắng một lần mà tác giả còn sử dụng điệp từ “nắng” vẽ ra luồng ánh sáng của thời gian , nắng lan trên đầu vạn vật từ trên cao xuống thấp, tràn cả khu vườn. Khoác lên tấm áo mới tươi tắn thanh tân. Vườn thôn Vĩ ngời lên sắc xanh “xanh mướt như ngọc” thân thuộc. “Mướt” manh sức gợi cảm cao, không chỉ diễn tả màu sắc mà còn cả sức sống. Tính từ độc đáo kết hợp sử dụng biện pháp so sánh “xanh như ngọc” khiến khu vườn biếc lên một màu ngọc lung linh. Vừa có màu sắc xanh tươi vừa lấp lánh ánh sáng khi bóng nắng trên cao chiếu rọi tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp. Nét đẹp thân thuộc mà cũng rất xa xôi qua đại từ phiếm chỉ “ai”, trong ” vườn ai” gợi lên một nét đẹp khó nắm bắt, đẹp nhưng lại quá xa vời. Tất cả chỉ là sự sống của thế giới ngoài kia- một thế giới mà tác giả mong muốn. Cảnh thiên nhiên được tô điểm với sự xuất hiện của con người: “lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Quả là một hình ảnh độc đáo, đa nghĩa với khuôn mặt chữ điền hiền hòa phúc hậu kín đáo che đi bởi màu xanh của lá trúc thanh mảnh. Thật vậy, đây là một sản phẩm sáng tạp quen thuộc trong thơ Hàn được tạo bởi mặc cảm chia lìa của con người luôn tự nhận mình đứng ngoài những cuộc vui. Mở ra một ấn tượng say đắm trong hồn thơ Hàn Mặc Tử trữ tình sâu lắng cùng với đó bộc lộ những khắc khoải chi phối khi hướng về thôn Vĩ.

    Nếu khổ thơ thứ nhất là một bức tranh xanh tươi thì ở khổ thơ thứ hai là bức tranh thiên nhiên nhuốm màu tâm trạng:

    Gió theo lối gió, mây đường mây,
    Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
    Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
    Có chở trăng về kịp tối nay?

    Hình ảnh gió mây, sông nước, trăng hiện lên khác biệt. Gió và mây không đi liền với nhau như vốn dĩ gió thổi mây bay hưng ở đây gió và mây chia làm đôi ngả. Những sự vật vốn dĩ không thể tách rời, thì hồn thơ Hàn Mạc Tử đã chia cắt một thứ không thể cắt chia. Bản thân dòng nước là một vật vô tri vô giác nhưng ở đây” dòng nước buồn thiu”. Một biện pháp nhân hóa khiến dòng sông mang tâm trạng con người. Hay đó là sự chảy trôi của tâm trạng, là nỗi buồn li tán của sự vận động của mây, của gió, cũng chính là mặc cảm chia lìa của tác giả thấm vào cảnh vật. Trên dòng sông ấy là những bông hoa bắp lay. khẽ động ở đôi bờ rất nhẹ rất khẽ. Khi đặt chúng cùng với gió, mây, nước hoa bắp lay gợi sự tàn buồn hiu hắt khiến cảnh sông nước hiện lên hoang vắng rợn ngợp thấm thía nỗi buồn của sự chắc chở thê lương. Nỗi buồn thi sĩ hòa cùng nhịp buồn xứ Huế vang lên câu hỏi:” Thuyền ai đậu bến sông trăng đó”. Trong tâm trạng ấy, chợt bật lên ước ao khát vọng là có một điều gì đó có thể trở về với mình để níu giữ, để bám víu. Những ước mơ của thi sĩ gắn liền với trăng với nhạc. Đó là ước mơ khao khát được tri âm. Ở trăng luôn có những vẻ đẹp mà Hàn Mạc Tử luôn hướng tới. Qua câu thơ ta tưởng tượng cả một dòng sông trăng đang chảy trôi hay trăng đang tán mình trong nước. Hình ảnh “thuyền chở trăng” vừa mơ vừa thực hư ảo huyền hoặc đến khó phân định. Đối với trăng tác giả không chỉ gắn vào đó những ước mơ khát vọng mà còn cả nỗi lo lắng, mặc cảm với hiện tại ngắn ngủi qua từ “kịp”. Sự bối rối hiện hữu trong câu chữ bổ khát vọng thì ít mà cảm giác bi kịch thì nhiều. Mong mỏi của Hàn Mặc Tử gắn liền với đau thương dự cảm đổ vỡ

    Ở khổ một và khổ hai là khắc họa bức tranh thiên nhiên thì ở khổ ba hình ảnh người con gái trong lòng tác giả xuất hiện với bao da diết nhớ mong:

    Mơ khách đường xa, khách đường xa
    Áo em trắng quá nhìn không ra
    Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
    Ai biết tình ai có đậm đà

    Giọng thơ khẩn khoản, gấp gáp thể hiện khao khát gắn liền với hình bóng cụ thể:” khách đường xa” và “em” với tà áo trắng. Thấp thoáng hình bóng giai nhân, dường như ” khách đường xa” và “em” là một. “Em” là một giấc mộng say đắm mộng ảo. Đó là hình bóng đẹp đẽ nhưng vô cùng xa xôi diệu vợi thuộc về thế giới ngoài kia. Với thi sĩ thì hình bóng đó chỉ hiện hữu trong giấc mộng dài. Tưởng chừng giấc mộng như tác giả ngỡ ngàng phát hiện giai nhân đang hiện hữu với tà áo trắng thuần khiết mỏng manh. Đó là vẻ đẹp mà tác giả luôn tôn thờ. Đúng lúc giai nhân hiện hữu rõ nhất trong tâm tưởng cũng là lúc nhà văn tuyệt vọng nhất vì đang tuột mất nó khỏi tầm tay.

    Khép lại tác phẩm với câu hỏi vang lên da diết:
    Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
    Ai biết tình ai có đậm đà

    Chủ thể trữ tình đã trở về với thực tại đầy đau thương với màn sương khói của thực tại hay chính là sương khói của thời gian che phủ khiến tất cả trở nên xa với hư ảo che mờ nhân ảnh của người yêu thương. Kết bài thơ lại một lần nữa vang lên câu hỏi đầy khắc khoải với đại từ phiếm chỉ “ai” có thể là tác giả cũng có thể là người con gái tác giả thầm thương. Tiếng ai vang lên chơi vơi khép lại bài thơ trong nỗi sầu mênh mang trong khát vọng không thôi hướng về tình người. Đó là khao khát được sẻ chia, thấu hiểu và yêu thương dẫu cô đơn tuyệt vọng nhưng không thôi khát khao

    Như vậy bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ mang đến cho người đọc những giá trị sâu sắc. Bên cạnh đó, bài thơ cho ra thấy khi con người bị đẩy đến tận cùng của khổ đau và bế tắc nhưng vẫn hướng đến cuộc đời sự khao khát sẻ chia.

    Cảm nhận khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 4

    Chế Lan Viên từng nhận xét: “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”. Đến với bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, Hàn Mặc Từ đã cho người đọc thấy được một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp nơi thôn Vĩ:

    Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
    Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
    Lá trúc che ngang mặt chữ điền

    “Đây thôn Vĩ Dạ” cho ta gặp một cái tôi trữ tình đau thương và khao khát. Câu thơ mở đầu phảng phất chút riêng tư của tác giả:

    Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

    Câu thơ mở đầu là câu hỏi tu từ với nhiều sắc thái. Vừa là câu hỏi nhưng lại gợi cảm giác như lời trách nhẹ nhàng và cũng là lời mời gọi thiết tha của cô gái thôn Vĩ với nhà thơ. Song đây cũng là lời nhà thơ tự trách mình, tự hỏi mình, là ước ao thầm kín của người đi xa mong được về lại thôn Vĩ. Câu thơ bảy chữ nhưng chứa bảy thanh bằng đi liền nhau làm cho âm điệu trách móc cứ dịu nhẹ đi, lời trách nhẹ nhàng mà tha thiết và bâng khuâng. Thôn Vĩ có cái gì đặc biệt và hấp dẫn mà lời mời lại tha thiết đến vậy? Câu hỏi thấm thía một nỗi niềm nuối tiếc, day dứt vọng lên từ trong lòng nhà thơ khi giờ đây dù thôn Vĩ có thơ mộng đến đâu thì thi sĩ cũng chỉ có thể trở về trong tâm tưởng. Thơ Hàn Mặc Tử là thơ hướng nội. Câu hỏi “Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?” có thể là câu tự văn của chính bản thân ông. “Anh” ở đây là đại từ nhân xưng được dùng ở ngôi thứ nhất, chứ không phải ngôi thứ hai. Một câu hỏi mang tính chất giãi bày. Câu thơ thể hiện niềm nuối tiếc. Dòng thơ đượm buồn, có pha chút hối hận. Cả bài Đây thôn Vĩ Dạ phải chăng là để trả lời câu hỏi đã đặt ra ở câu đầu tiên của bài thơ

    Đối với Hàn Mặc Tử, câu thơ vừa ngọt ngào vừa gợi mở vừa trách móc ấy đã làm hồi sinh, bừng dậy trong nhà thơ bao kỷ niệm về một Vĩ Dạ mộng và thơ. Ngay sau đó là thế giới sự sống hiện ra qua cảnh và người thôn Vĩ, qua hoài niệm của thi nhân ở bao thơ tiếp:

    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
    Lá trúc che ngang mặt chữ điền

    Hình ảnh “Nắng hàng cau nắng mới lên” gợi vẻ đẹp tinh khôi, thanh khiết. Cau là cây cao nhất trong vườn nên sớm đón được những tia nắng đầu tiên của một ngày vì thế nắng hàng cau là nắng thanh tân, tinh khôi. Ánh nắng chiếu vào thân cau đổ bóng xuống khu vườn, thân cau thẳng lại chia thành nhiều đốt điều đặn bởi vậy mà cau như cây thước của thiên nhiên được dựng sẵn trong vườn để đo mức nắng. Loài cây ấy lại chiếu rọi bởi một một thứ ánh nắng đặc biệt, nắng mới lên, nắng đầu tiên của một ngày ấm áp.

    Trước khi tạo nên bài Đây thôn Vĩ Dạ bất hủ này. Hàn Mặc Tử đã có lần đi qua khu vườn nhà Hoàng Thị Kim Cúc ở bến Vĩ Dạ, nhưng chỉ đứng ở cổng mà nhìn vào. Ấn tượng sâu sắc đầu tiên còn lại trong độc giả khi đọc khổ thơ đầu là cảnh “bến Vĩ Dạ lúc hừng đông”. Qua cảnh này, Tử muốn gửi gắm những tâm sự kín đáo nào đây? Trong muôn vàn cây, lá của Vĩ Dạ, nhà thơ nhắc đến hàng cau tắm nắng bình minh. Từ khi xưa, cây cau vẫn gợi mối tình đôi lứa, bằng biện pháp nghệ thuật tăng cấp, nhà thơ đã nhấn mạnh ý “nắng mới lên”, “xanh như ngọc”. Nắng bình minh thì đẹp thật, nhưng qua cái nhìn của thi nhân lãng mạn nó cũng trôi qua rất nhanh.

    Khu vườn “mướt” hàm chứa ý nghĩa của tính từ ướt và láng bóng thể hiện vẻ mượt mà, non tơ, óng chuốt, mơn mởn xanh tươi. Vẻ đẹp ấy đã khiến nhà thơ phải trầm trồ say đắm. Hình ảnh so sánh “xanh như ngọc”: Sương đêm ướt đẫm cỏ cây hoa lá. Màu xanh mỡ màng, non tơ ngời lên, bóng lên dưới ánh mai hồng, trông “mướt quá” một màu xanh ngọc bích. Trong ánh nắng của buổi sớm mai, hình ảnh vườn tược buổi bình minh hiện lên đầy sức sống. Ta có thể hiểu được thông qua điểm nhìn bao quát toàn bộ khu vườn của tác giả. Tất cả hòa hợp và ánh lên một vẻ đẹp thanh tú. Câu thơ là một bức tranh quê rực rỡ, tươi mới và tràn đầy sức sống. Thi sĩ đang muốn tuyệt đối hòa vẻ đẹp cao quý, cao sang của đối tượng. Qua đó thấy được niềm thiết tha với cuộc đời trần thế của chủ thể trữ tình.

    Trong khu vườn xinh đẹp ấy thấp thoáng có bóng người sau khóm trúc. Hình ảnh con người thôn Vĩ hiện lên với khuôn mặt chữ điền

    Lá trúc che ngang mặt chữ điền

    Hình ảnh lá trúc góp phần làm rõ thêm tính quyền quý của khu vườn Vĩ Dạ. Khuôn mặt chữ điền bị lá trúc che ngang lâu nay đã trở thành lời thách đố đối với bao nhiêu bạn yêu thơ. Nhiều người đồng tình khẳng định khuôn mặt chữ điền là khuôn mặt phúc hậu, hiền lành, trung thực, ca dao Huế đã từng có câu :

    Mặt em vuông tựa chữ điền
    Da em thì trắng, áo đen mặc ngoài
    Lòng em có đất có trời
    Có câu nhân nghĩa có lời thủy chung

    “Lá trúc che ngang mặt chữ điền’ – Lá trúc ấy phải ở trong vườn ngọc kia, nó che khuất, che lấp cả sự phúc hậu, hiền lành, trung thực; Phải chăng nó thực sự trở thành trở lực ngăn cách tình người. Nó làm cho “Gió theo lối gió, mây đường mây”; nó tạo nên “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”; nó kết lại trong một lời trách:

    Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
    Ai biết tình ai có đậm đà

    Câu kết bài thơ đã trả lời khá đầy đủ lý do “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Chỉ thiên về việc khai thác vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên và con người xứ Huế, có thể người bình thơ sẽ mắc phải sai lầm là không hiểu hết bi kịch tình yêu của Hàn Mặc Tử. Khi ông viết Đây thôn Vĩ Dạ thì tình cảm của thi nhân với Hoàng Thị Kim Cúc cũng chỉ còn trong quá vãng. Hơn nữa, ông lại đang ở trong tình trạng hoang mang, bi quan đến cực độ khi biết mình bị bệnh nan y. Khổ thơ đầu nói riêng và cả bài “Đây thôn Vĩ Dạ” nói chung do vậy vẫn nằm trong cảm hứng “đau thương” của Hàn Mặc Tử.

    Cảm nhận khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 5

    Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới. Tuy có cuộc đời nhiều bi thương nhưng qua hồn thơ phong phú, sáng tạo và đầy bí ẩn, người đọc vẫn cảm nhận được một tình yêu đến đau đớn hướng về cuộc đời trần thế của ông. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những sáng tác nổi tiếng của Hàn Mặc Tử đã để lại nhiều dấu ấn khó phai trong lòng người đọc. Chính vì vậy, qua bao nhiêu thế hệ, người ta có ba ý kiến nhận định về bài thơ: Đó là bài thơ về tiếng nói trăn trở của mối tình thầm kín; là lời yêu thương với một miền quê; là niềm khao khát được sống trong niềm sẻ chia, đồng cảm được trở về với cuộc đời. Đoạn thơ đầu của thi phẩm đã thể hiện một cách thật tha thiết, xúc động những tâm tình ấy.

    Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
    Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

    “Đây thôn Vĩ Dạ” được Hàn Mặc Tử viết khi đang mắc bệnh nan y – bệnh phong, căn bệnh khiến nhiều người xa lánh, hắt hủi ông nên ông luôn mang trong mình nỗi niềm khao khát được sẻ chia, đồng cảm, muốn trở về với cuộc đời. Nằm trong bệnh viện và nhận được tấm bưu thiếp của người con gái ông thầm thương trộm nhớ, Hàn Mặc Tử lấy đó làm cảm hứng để bài thơ được ra đời. Qua đó, ông đã vẽ nên bức tranh phong cảnh và cũng là tâm cảnh, thể hiện nỗi niềm cô đơn của ông về một mối tình đơn phương xa xăm vô vọng. Không chỉ vậy, bài thơ cũng là tấm lòng yêu tha thiết của nhà thơ đối với thiên nhiên, cuộc sống, con người xứ Huế.

    Mở bài bài thơ, tác giả đã sử dụng câu hỏi tu từ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?” vừa như một lời chào thân mật vừa như lời trách móc nhẹ nhàng của cô gái thôn Vĩ. Không thô lỗ, mà hết sức ân cần, tế nhị. Vì thôn Vĩ có em, vì thôn Vĩ là quê hương anh, là nơi thân thiết của anh. Tuy nhiên, có thể hiểu đây là lời tự nhủ, tự trách của tác giả. Ông tự hỏi bản thân sao bấy lâu nay không về thăm lại vùng đất ấy, thôn quê ấy. Ông khao khát được về thăm quê hương, nỗi nhớ thương mảnh đất ấy cứ đau đáu mãi. Ngặt nỗi, lúc ấy Hàn Mặc Tử đang bị bệnh, làm sao có thể trở về được mà cũng có thể mãi không trở về được…

    Qua ba câu thơ sau, khung cảnh thiên nhiên và con người hiện lên trong hoài niệm, tưởng tượng của Hàn Mặc Tử rất đỗi bình dị, quen thuộc:

    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
    Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

    Nắng mới lên là nắng sớm buổi bình minh. Ánh sáng tinh khôi, rực rỡ ấy làm sáng bừng không gian rộng lớn, khoáng đạt của xứ Huế. Điệp từ “nắng” không chỉ thể hiện sự tràn ngập ánh sáng, sức sống mà còn bộc lộ tâm hồn luôn hướng về ánh sáng, hướng về cuộc đời của Hàn Mặc Tử. Câu thơ ấy đã vẽ nên một hàng cau đầy sức sống, mãnh liệt đang vươn lên đón lấy những tia sáng đầu tiên của buổi sớm. Nhớ đến Vĩ Dạ, nhà thơ nhớ đến hàng cau đầu tiên. Bởi lẽ hình ảnh hàng cau, vun vút cao quá đỗi quen thuộc đối với người dân thôn Vĩ. Nhịp thơ 1/3/3 như bước chân khoan thai của bất kỳ vị khách nào, trầm ngâm nhìn nắng mới lên trên những hàng cau xanh biếc rạng ngời.

    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

    Câu thơ như lời khen ngợi, trầm trồ, ngạc nhiên thốt lên trước vẻ đẹp thanh tao, mơn mởn của cỏ cây, thiên nhiên. Vườn ai? Phải chăng là vườn nhà em? Cảnh cũ người xưa nhưng vì lâu chưa về nên mới thốt lên ngỡ ngàng như vậy. Tác giả dùng biện pháp tu từ so sánh “xanh như ngọc” và từ “mướt”, như vậy có thể thấy thôn Vĩ không chỉ xinh đẹp mà còn rất trù phú. Câu hỏi tu từ “Vườn ai mướt quá” như tiếng reo của trẻ thơ, một tiếng reo trong sung sướng, một lời trầm trồ khen ngợi buột ra tự nhiên khi chợt nhận ra vẻ đẹp bất ngờ của khu vườn. Tưởng chừng như nghe thấy tiếng nhựa sống đang chảy trong cây. Tất cả đều rạo rực, đều đầy sức sống. Chỉ có vườn xuân mới xanh mướt, phì nhiêu đến vậy. Hay chỉ có vườn nhà em mới đẹp đẽ, hữu hình đến thế.

    Lá trúc che ngang mặt chữ điền

    Nhắc đến con gái Huế, người ta nghĩ ngay đến hình ảnh cô gái duyên dáng, thướt tha trong tà áo dài tím mộng mơ cùng chiếc nón lá trắng, dịu dàng, yểu điệu mà tinh tế. “Mặt chữ điền” chỉ tướng mạo phúc hậu, dịu dàng. “Lá trúc che ngang” là một nét vẽ tài tình, gợi lên hình ảnh gương mặt thấp thoáng của thiếu nữ. Một nét vẽ ấy đã miêu tả vẻ đẹp thanh tao, dịu dàng. Một nét vẽ ấy đã vẽ ra dáng vẻ e lệ, ẩn sau lá trúc của người con gái. Và chính hình ảnh cô gái e lệ thấp thoáng sau những lá trúc càng chứng tỏ “vườn ai” và vườn cô gái đứng chỉ là một. Thiên nhiên và con người dưới ngòi bút đầy sắc sảo của Hàn Mặc Tử đã kết hợp hài hòa với nhau tạo nên một bức tranh phong cảnh tươi đẹp, đầy sức sống và có sức hút lạ lùng.

    Bằng âm điệu tha thiết, ngọt ngào, sâu lắng, Hàn Mặc Tử đã vẽ nên một bức tranh thôn Vĩ Dạ cho người nghe cảm nhận khổ một bài Đây thôn Vĩ Dạ thật mơ mộng, bình dị. Qua đó cho thấy tình yêu to lớn của ông đối với mảnh đất yên bình, trù phú này. Tuy nhiên, ẩn sau mỗi ý thơ là nỗi niềm luyến tiếc, vấn vương về người và cảnh nơi đây. Ông vấn vương, trăn trở về mối tình thầm kín của mình với người con gái thôn Vĩ. Ông vấn vương, thương nhớ về cảnh sắc tươi đẹp của thôn Vĩ. Nhưng tất cả đối với nhà thơ thời điểm ấy chỉ còn là hoài niệm.

    Nếu ở khổ một là không gian vui tươi, đầy sức sống thì ở phần còn lại của bài thơ, giọng thơ chùng xuống, ảm đạm hơn nhiều. Chính xác hơn, bắt đầu từ khổ hai, Hàn Mặc Tử đã bộc lộ tâm trạng đau buồn, u uất của mình. Lúc bấy giờ, ông mắc bệnh phong, căn bệnh khiến ông bị mọi người xa lánh. Sống trong lãnh cung của sự chia lìa, tác giả ao ước, khát khao một vị tri âm, tri kỷ. Ông khao khát hơn bao giờ hết về sự sẻ chia, giao cảm. Ông khát khao tình người, tình đời, hạnh phúc. Ông khát khao được trở về cuộc sống bình thường, được trở về thôn Vĩ Dạ. Ông biết căn bệnh hiểm nghèo của mình, biết thời gian minh còn rất ít. Vậy nên nhà thơ vừa như bồn chồn, lo lắng vừa như hy vọng một cái gì đó sẽ rời xa. Đây chính là nỗi niềm ao ước tha thiết cùng nỗi buồn man mác khi tác giả hoài niệm của tác giả.

    Với những hình ảnh biểu hiện nội tâm, bút pháp lãng mạn đầy sức gợi tả, ngôn ngữ tinh tế, giàu liên tưởng, Hàn Mặc Tử đã họa nên bức tranh nên thơ, tươi đẹp của một miền quê. Và ẩn sau đó không chỉ là tiếng nói trăn trở của mối tình thầm kín hay lời yêu thương với một miền quê mà còn là nỗi niềm khao khát được đồng cảm, được trở về với cuộc đời.

    “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bức tranh đẹp về một miền quê đất nước, là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người. Bài thơ như bông hoa rực rỡ giữa rừng hoa của văn học nước nhà. Qua đó cho thấy tâm hồn thanh khiết, yêu đời dù là trong lúc khổ đau, tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử.

    Cảm nhận khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 6

    Nhà thơ Hàn Mặc Tử được biết đến với sức sáng tạo nhất trong số các nhà Thơ mới. Ông có một cuộc đời ngắn ngủi và đầy bi kịch. Thơ của Hàn Mặc Tử là tiếng nói của một tâm hồn yêu cuộc sống, yêu cảnh vật, yêu con người nồng nàn và tha thiết. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những bài thơ tiêu biểu của nhà thơ, thể hiện một hồn thơ tha thiết nhưng tuyệt vọng. Khổ thơ đầu tiên của bài mang đến một bức tranh thiên nhiên đầy vẻ đẹp.

    Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được khơi nguồn cảm hứng từ bức ảnh khung cảnh Huế với lời thăm hỏi của một cô gái Vĩ Dạ lúc thi sĩ đang mắc bệnh hiểm nghèo. Có thể xem bài thơ như một lời tỏ tình với cuộc đời, của một hồn thơ tha thiết với cuộc đời. Khổ thơ đầu tiên là cảnh cây vườn thôn Vĩ tươi sáng trong nắng mai với cảnh sắc bình dị mà tinh khôi, đơn sơ mà thanh tú, nghiêng về cõi thực. Cảm xúc ẩn trong cảnh là nỗi ước ao và niềm đắm say mãnh liệt.

    Vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên được gợi ra thật đặc biệt:

    Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
    Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
    Lá trúc che ngang mặt chữ điền

    Câu thơ đầu tiên, độc giả bắt gặp từ “sao” là một từ để hỏi đứng đầu câu thơ, mở đầu bài thơ. Nó gợi ra sự xao động, băn khoăn của nhân vật trữ tình. Từ “anh” chỉ nhà thơ, thể hiện nhân vật phiếm chỉ trong thơ. Đây là hình thức câu hỏi tu từ, thể hiện một sắc thái gần gũi, dân dã, thể hiện tình cảm chân thật. Khi đọc câu thơ đầu tiên, độc giả sẽ đặt ra vấn đề: Câu hỏi đó là lời mời mọc, lời trách móc hay đó có phải là lời của cô gái? Đây như là lời của chính tác giả, thể hiện niềm khao khát, lời thúc giục niềm khao khát được về thôn Vĩ. Vì tác giả lâm bệnh nặng mà lại quá khát khao nên bằng tâm tưởng, tác giả đã về thôn Vĩ. Thôn Vĩ hiện ra trong trí nhớ của nhà thơ, cả một thế giới sống đã ùa về, gợi ra trong lòng người bao cảm xúc.

    Câu thơ thứ hai, từ “nhìn” là cái cảm nhận được bằng thị giác, rất chân thực. Dường như nhà thơ đang có mặt tại thời điểm nói để chiêm ngưỡng và miêu tả. Tác giả nhận ra sự di chuyển của nắng. Điệp từ “nắng” thể hiện nắng như len lỏi vào bức tranh, tràn trề trong bức tranh. “Nắng mới” là nắng buổi sớm, trong trẻo, tinh khôi, như mang đến luồng sinh khí, mang đến sự sống cho con người. Hình ảnh “hàng cau” lấp lánh trong nắng. Cau là loại cây thân thẳng, trong khu vườn là loại cây đón ánh nắng đầu tiên. Tác giả mở ra một bức tranh khỏe khoắn và tạo cho khu vườn có chiều sâu.

    Câu thơ thứ ba góp phần mở ra bức tranh thiên nhiên xứ Huế đẹp. Đại từ “ai” là từ phiếm chỉ, gợi chút mặc cảm của nhà thơ. Từ “mướt” gợi cảm giác xanh non, láng mượt, lấp lánh, có sự phản quang, có ánh sáng và có sức sống. Từ “quá” như thể hiện một lời reo vui vì ngỡ ngàng trước vẻ đẹp thiên nhiên. Biện pháp nghệ thuật so sánh “xanh như ngọc” thể hiện màu xanh phát ra ánh sáng, tự phát ra ánh sáng của sự sống, cảnh vật như phát ra ánh sáng nội sinh, sức mạnh tràn trề của khu vườn. Bức tranh thiên nhiên xứ Huế đẹp, trong sáng và tràn đầy sức sống.

    Câu thơ cuối cùng nêu lên vẻ đẹp của con người xứ Huế. “Mặt chữ điền” để chỉ người có khuôn mặt phúc hậu. Ý thơ gợi ra niềm khao khát của tác giả mong được hòa hợp, giao cảm, được trở về với cuộc sống. Hình ảnh “lá trúc che ngang” khiến khuôn mặt chỉ hiện ra có một nửa, như gợi sự mặc cảm của tác giả. Dù hiểu theo ý thơ như thế nào thì tình cảm của nhà thơ với con người xứ Huế không bao giờ thay đổi.

    Cảm nhận khổ đầu bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ. Đó là tiếng lòng yêu đời tha thiết, dù đang có sự đau đớn cả về thể xác lẫn tâm hồn, nhưng tác giả vẫn dành cho đời cái nhìn đầy tin yêu, phải là một con người yêu đời lắm mới mơ tưởng về thôn Vĩ đẹp như vậy. Càng xót xa về số phận của Hàn Mặc Tử bao nhiêu, ta càng trân trọng niềm yêu đời quý giá của tác giả bấy nhiêu.

    Cảm nhận Đây thôn Vĩ Dạ khổ 1 – Mẫu 7

    Hàn Mặc Tử là một trong những thi sĩ có sức ảnh hưởng lớn nhất của phong trào Thơ mới. Hàn Mặc Tử có cuộc đời rất bi thảm tuy nhiên thông qua ngòi bút phong phú, sâu sắc và nhiều bất ngờ, người ta lại thấy được một tình yêu đến đau khổ hướng tới cuộc đời thực của ông. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong các tác phẩm tiêu biểu của Hàn Mặc Tử đã lưu lại những ấn tượng không thể phai trong lòng người hâm mộ. Chính bởi vậy, sau bao năm tháng, người đọc có ba ý kiến nhận xét cho tập thơ: Đó là bài thơ mang tiếng nói đau đáu của mối tình đầu dang dở; là lời tri ân với một miền quê; là sự khát khao được tồn tại trong lòng sẻ chia và mong muốn quay ngược trở lại với cuộc đời. Đoạn thơ đầu của tác phẩm đã thể hiện được sự thiết tha và cảm động trong tâm tư đó.

    Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
    Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

    “Đây thôn Vĩ Dạ” được Hàn Mặc Tử sáng tác khi đang bị bệnh nặng – bệnh phong, căn bệnh mà mọi người kỳ thị, xa lánh ông khiến ông luôn ôm trong lòng nỗi niềm khát khao được sẻ chia, cảm thông và để quay về với cuộc sống. Nằm trong bệnh viện và nhặt được chiếc bưu thiếp của cô con gái ông thầm thương trộm nhớ, Hàn Mặc Tử dùng đó làm cảm hứng cho bài thơ được sáng tác. Từ đấy, ông đã vẽ lên bức phong cảnh và cũng là thơ để bày tỏ nỗi niềm bất lực của ông trước một mối tình đơn phương xa xăm vô vọng. Không những thế, bài thơ cũng là tiếng lòng yêu thương thiết tha của tác giả với thiên nhiên, đất nước và con người xứ Huế.

    Mở đoạn đầu bài thơ, tác giả đã dùng câu hỏi quen thuộc: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” vừa như một lời mời thân tình lại như lời trách cứ dịu dàng của cô gái thôn Vĩ. Không thô lỗ, mà lại rất dịu dàng, tinh tế. Vì thôn Vĩ có em, và thôn Vĩ là quê anh, là nơi thân thuộc của anh. Tuy nhiên, có thể hiểu đây là lời tự nhủ, tự trách móc của ông. Ông tự hỏi bản thân tại sao bấy lâu không về thăm lại thành phố đó, thôn quê nọ. Ông khao khát trở về với quê hương và nỗi nhớ miền đất ấy vẫn day dứt khôn nguôi. Khốn nỗi, lúc đó Hàn Mặc Tử đang bị bệnh, sao có thể đi về được mà cũng sẽ vĩnh viễn không quay về nữa. ..

    Qua ba câu thơ sau, khung cảnh thiên nhiên cùng con người hiện lên trong tâm tưởng và hình dung của Hàn Mặc Tử thật giản dị, gần gũi:

    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
    Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

    Nắng mới chỉ là nắng sớm buổi bình minh. Ánh sáng lung linh, rực rỡ đã làm sáng bừng không gian bao la, thoáng đãng của xứ Huế. Điệp từ “nắng” vừa thể hiện sự tràn đầy ánh sáng, sức sống mà còn biểu lộ tâm hồn luôn hướng tới ánh sáng, hướng về cuộc đời của Hàn Mặc Tử. Câu thơ đó đã vẽ ra một hàng cau đầy sức sống, mạnh mẽ đang vươn mình để bắt trọn từng ánh sáng đầu của buổi sớm. Nhớ về Vĩ Dạ, nhà thơ nghĩ đến hàng cau đầu. Vì lẽ hình ảnh cây cau, vút cao quá quen thuộc với người dân thôn Vĩ. Nhịp thơ 1/3/3 như bước chân khoan thai của bất cứ người khách nào đang ngắm ánh nắng mới lên trên từng vòm cau xanh non ngời.

    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

    Câu thơ ví như lời khen, xuýt xoa, kinh ngạc toát lên trước vẻ đẹp thanh cao, thuần khiết của cây cỏ, thiên nhiên. Vườn ai? Hay là vườn của em? Cảnh cũ người xưa nhưng do lâu không gặp cho nên mới thốt lên bất ngờ như thế. Tác giả dùng biện pháp tu từ so sánh “xanh như ngọc” cùng từ “mướt”, như vậy có thể nói thôn Vĩ không những đẹp mà khá thanh bình. Câu nói vui “Vườn ai mướt quá” như tiếng cười của trẻ con, một tiếng hét đầy phấn khích, một lời xuýt xoa ngợi khen buột ra tự nhiên khi bất chợt phát hiện ra vẻ đẹp tuyệt vời của mảnh vườn. Tưởng chừng như nghe được tiếng nước đang phun trong lá. Tất cả cùng rạo rực và thật tràn đầy sức sống. Chỉ có vườn xuân mới xanh mướt và tươi tốt đến thế. Hay chỉ có vườn nhà em mới đẹp và sống động đến vậy.

    Lá trúc che ngang mặt chữ điền

    Nhắc về con gái Huế là người ta liên tưởng ngay đến hình ảnh cô gái yêu kiều, duyên dáng bên chiếc áo dài tím lãng mạn và vành nón lá trắng, dịu dàng, nhẹ nhàng mà đằm thắm. “Mặt chữ điền” thể hiện sự hiền lành, dịu dàng. “Lá trúc che ngang” là một nét vẽ tinh tế, toát nên hình ảnh khuôn mặt thanh tú của thiếu nữ. Một nét vẽ nữa đã miêu tả vẻ đẹp đằm thắm, dịu dàng. Một nét vẽ nữa đã vẽ ra sự e ấp, ẩn hiện sau cây trúc của người con gái. Và cả hình ảnh cô gái đang đứng sau chiếc cây trúc cũng chứng tỏ “vườn ai” và nơi cô gái ở chính là một. Thiên nhiên cùng con người dưới ngòi bút tài hoa sâu sắc của Hàn Mặc Tử đã kết hợp hoàn hảo với nhau vẽ lên một bức tranh phong cảnh tươi đẹp, giàu sức sống và có sức cuốn hút lạ kỳ.

    Với giai điệu thiết tha, nhẹ nhàng, lãng mạn, Hàn Mặc Tử đã vẽ lên một bức tranh thôn Vĩ Dạ để người nghe cảm thấy khổ một bài Đây thôn Vĩ Dạ rất nên thơ, trữ tình. Qua đó cho thấy tình yêu lớn lao của ông với miền đất thanh bình, trù phú này. Tuy nhiên, ẩn sau mỗi ý thơ là nỗi tiếc nuối, vấn vương với đất và cảnh nơi đây. Ông vấn vương, nhớ lại cuộc tình dang dở của anh với người con gái thôn Vĩ. Ông vấn vương, nhớ đến phong cảnh xinh đẹp của thôn Vĩ. Nhưng tất cả với nhà thơ thời điểm đó vẫn còn là kỷ niệm.

    Nếu ở khổ một là không khí tươi vui, tràn đầy sức sống thì ở nửa còn lại của đoạn thơ, giọng ông trầm đi và buồn hơn trước. Iều hơn nữa, bắt đầu ở khổ hai, Hàn Mặc Tử đã thể hiện tâm trạng buồn bã và u ám của ông. Lúc này, ông mắc bệnh phong, căn bệnh làm ông bị nhiều người kỳ thị. Sống trong bóng tối của sự cô đơn, tác giả ước ao, khát khao một vị tri âm, tri kỷ. Ông khao khát nhất là sự sẻ chia, đồng cảm. Ông khát khao tình bạn, tình yêu thương và chia sẻ. Ông khát khao được trở về cuộc sống đời thường và muốn quay lại thôn Vĩ Dạ. Ông biết căn bệnh quái ác của mình và thấy thời gian chỉ còn vô cùng hữu hạn. Vậy là nhà thơ cứ như bồn chồn, lo sợ và chỉ hi vọng một cái gì đấy sẽ ra đi. Đây cũng là niềm mơ ước thiết tha với nỗi buồn man mác khi tác giả hồi tưởng của tác giả.

    Với nhiều hình ảnh thể hiện nội tâm, sự lãng mạn đầy sức gợi và ngôn ngữ sâu sắc, giàu liên tưởng, Hàn Mặc Tử đã hoạ lên bức chân dung thơ mộng, đẹp đẽ của một miền quê. Và ẩn sau đó không chỉ là những tâm sự của mối tình đầu trong sáng hay lời thương yêu với một miền quê mà là nỗi lòng khát khao được đồng cảm, muốn quay về với cuộc sống.

    “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bức tranh đẹp về một miền quê đất nước và là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, thương người. Bài thơ như đoá hoa nở rộ giữa vườn hoa của văn chương nước nhà. Qua đó cho thấy sự lạc quan, yêu đời nhất là những khi đau khổ, bế tắc của Hàn Mặc Tử.

    Cảm nhận khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 8

    Hàn Mặc Tử là một trong những tên tuổi lớn đã có nhiều đóng góp trong việc phát triển phong trào Thơ mới nói riêng và thành tựu thơ ca Việt Nam nói chung. Thơ ông hay nhưng vẫn thoang thoáng một nỗi buồn, phải chắc số phận buồn của ông đã đi vào thơ, chắc cũng vì thế mà Hàn Mặc Từ được người đời gọi với cái tên “thi nhân của những mối tình”. Tác phẩm “Đây thôn Vĩ Dạ” chính là tiêu biểu văn phong ấy. Ông đã nói lên tiếng lòng của bao triệu trái tim bằng những vần thơ tình yêu đơn phương trong khung cản thiên nhiên thơ mộng mà huyền ảo ở xứ Huế mộng mơ.

    Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
    Lá trúc che ngang mặt chữ điền

    Nếu như những vần thơ tình yêu đều gắn với một thời gian, không gian và kỉ niệm cụ thể, thì hình ảnh của nhân vật trữ tình trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đều gắn với thiên nhiên và con người thôn Vĩ với những kỉ niệm khó phai mờ.

    Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

    Có lẽ đến đây nhiều người đọc vẫn còn đang băn khoăn liệu câu thơ là câu hỏi mang ý là lời mời mọc hay lời trách móc hoặc phải chăng là lời của cô gái? Nhưng không, tất cả đều không phải. Đây như là lời của chính Hàn Mặc Tử, tác giả tự đặt câu hỏi cho bản thân, tự chất vấn nhưng cũng phần nào để gửi gắm nỗi nhớ, niềm khao khát, lời thúc giục được về thăm lại thôn Vĩ.

    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

    Ở câu thơ thứ hai, không gian cảnh vật đã được chuyển đến khung cảnh khu vườn thôn Vĩ Dạ. Có thể nói đây là một cuộc hành trình trong tâm thức nhà thơ, bởi lẽ khi sáng tác những vần thơ này, tác giả đang phải chống chọi với căn bệnh phong quái ác. Tất cả chỉ được vẽ lên trong tiềm thức, nhưng không vì thế mà nó thiếu đi cảm xúc. Cái nắng được miêu tả “nắng hàng cau”, có thể cảm nhận rõ đây là nắng sớm tròng ngày, cái nắng ấy nhẹ nhàng chứ không gay gắt, khó chịu. Những tia nắng sớm được thắp lên đầu tiên trên những hàng cau trong vườn. Dù chỉ là qua câu từ nhưng người đọc cũng có thể cảm nhận được một khu vườn đang ngập tràn màu xanh ngọc của là cây, của sự sống. Dù thân thể có thể đang nằm trên giường bệnh nhưng đôi mắt thi nhân đang ở trên khu vườn thôn Vĩ, như đang muốn xé toạc vòm trời đen để nhìn thấy bình minh nắng mới diệu kì thắp lên từ thôn Vĩ Dạ. Nơi ấy có mảnh đất mình nhớ, có người mình thương.

    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
    Lá trúc che ngang mặt chữ điền

    Câu thơ thứ ba tựa như lời cảm thán, đã “vườn ai mướt quá” lại còn phát hiện ra “xanh như ngọc”. “Xanh như ngọc” là màu xanh mỡ màng, tràn đầy sức sống, màu xanh ấy cảm giác như có thể phản chiếu ra ánh sáng. Người ta vẫn bảo thơ Hàn Mặc tử là thơ điên vì khi đọc thơ Hàn Mặc Tử chúng ta bắt gặp nhiều hình tượng, một thế giới vừa thực vừa ảo. Cũng thật khó tin khi trong thơ Hàn Mặc Tử đã gặp lại chính mình với gương mặt chữ điền thời còn là chàng trai trên đất Huế. Lá trúc che ngang càng tạo cảm giác bí ẩn, nửa thực nửa mơ. Phải chăng thi sĩ đang muốn quên mình trong hiện thực bệnh tật phũ phàng để được yêu thêm lần nữa, yêu nhiều hơn nữa? Lá trúc phải chăng đang ngăn cách lòng người người? Cũng có người cho rằng ý thơ cuối là hướng đến bóng hình người con gái mà nhà thơ thầm thương trộm nhớ bao lâu nay, người con gái thôn Vĩ chứ không phải nói về nhân vật trữ tình. Nhưng dù hiểu theo ý thơ như thế nào thì tình cảm của nhà thơ với con người xứ Huế và mảnh đất nơi đây vẫn là không bao giờ thay đổi dù cho năm tháng đổi thay.

    Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” đã khắc họa bức tranh vườn quê thôn Vĩ bằng nỗi nhớ nhung, tiếc nuối, day dứt của nhà thơ với người con gái mình thương thôn Vĩ, với mảnh đất xứ Huế mộng mơ, trữ tình. Chỉ với bốn câu thơ trong khổ thơ đầu, cảnh nói lên tình, tình buồn thấm vào cảnh vật, vào lòng người. Thơ ca của Hàn Mặc Tử sẽ mãi là in sâu vào tâm khảo bạn đọc bao thế hệ.

    Cảm nhận của em về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ khổ 1 – Mẫu 9

    Trong suốt dòng chảy của nền văn học, đã có không ít văn sĩ, thi sĩ rẽ ngược dòng hoài niệm để tìm về một “miền nhớ”, ví như “Hoàng Hạc lâu” của Thôi Hiệu, “Hai cây phong” của Ai-ma-tốp, “Việt Bắc” của Tố Hữu. Những mảnh đất ấy không đơn thuần chỉ là một địa danh mà đã trở thành nơi ấp ôm trọn vẹn tiếng lòng xao động của người cầm bút, là một bến đỗ để ngàn năm vỗ về tâm hồn con người. Cũng để ngòi bút của mình tuôn chảy trong nguồn cảm hứng vô tận ấy, đốm lửa cháy mãnh liệt của phong trào Thơ Mới, người khởi xướng ra “Trường thơ Loạn” – Hàn Mặc Tử – đã để lại dấu ấn sâu sắc trên thi đàn Việt Nam với thi phẩm “Đây thôn Vĩ Dạ”. Bài thơ là cuộc hành trình về thăm chốn cũ trong tâm tưởng của tác giả, thể hiện một hồn thơ đầy thiết tha với cuộc đời và tình yêu chưa bao giờ tắt với mảnh đất và con người xứ sông Hương, núi Ngự. Điều đó được thể hiện rõ nét trong khổ thơ:

    Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
    Lá trúc che ngang mặt chữ điền

    Tựa như những thanh âm trong trẻo nhất, êm ái nhất để mở đầu một khúc giao hưởng với nhiều cung bậc, khổ thơ nhẹ nhàng hé mở tâm hồn người đọc để cảm xúc len qua từng câu chữ, ùa vào tâm khảm. Nếu chỉ đọc một cách đơn thuần thì bốn dòng thất ngôn này miêu tả cảnh sắc xứ Huế vốn không còn xa lạ trong thơ ca. Nhưng đặt trong hoàn cảnh sáng tác bài thơ, người đọc lại bắt gặp một tầng ý nghĩa khác. Khi còn làm ở Sở Đạc Điền Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử có gặp gỡ và phải lòng một cô gái Huế tên là Hoàng Thị Kim Cúc. Chưa có dịp bộc bạch nỗi lòng thì thi sĩ họ Hàn mắc bệnh nan y (bệnh phong), phải đến ở trong trại phong Quy Hòa. Năm 1938, Hoàng Cúc gửi tặng ông bức bưu ảnh phong cảnh Huế cùng vài dòng hỏi thăm mà không đề tên. Để tạ lòng cố nhân, cũng là để cõi lòng phiêu bồng trong mộng ảo, Hàn Mặc Tử viết bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.

    Ban đầu bài thơ có tên là “Ở đây thôn Vĩ”. Nếu đặt nhan đề như vậy, người đọc sẽ chỉ bó hẹp trong cảm quan của nhà thơ, rằng đó là một mảnh đất trong quá khứ, nhuốm sắc phong trần của thời gian. Có lẽ cũng bởi vậy mà Hàn Mặc Tử đã thay đổi nhan đề thành “Đây thôn Vĩ Dạ”. Không chỉ tăng tính nhạc, nhan đề này còn tựa như một lối dẫn quanh co, đưa người đọc băng qua xóm làng, qua bãi bờ để đến với thôn nhỏ mang tên Vĩ Dạ. Từ “đây” mang ý nghĩa nhấn mạnh, vừa để chỉ điểm vị trí, lại vừa thể hiện niềm khao khát chạm đến tình và cảnh. Không phải nơi nào khác mà chính là Huế, chính là thôn Vĩ Dạ. Cũng không phải người nào khác mà là người ông hằng nhớ thương, rung động: “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Phải chăng, chính vì nỗi niềm không thể giãi bày và nỗi đau thể xác, nỗi sầu nhân thế đã là nguồn cảm hứng vô tận cho không chỉ một “Đây thôn Vĩ Dạ” mà cả tập “Thơ Điên” (sau đổi thành “Đau thương”).

    Bài thơ được mở ra bằng một lời mời gọi tha thiết:

    Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

    Ta bắt gặp một địa danh được đặt trang trọng ở cuối câu thơ, cũng là cuối một câu hỏi: “Thôn Vĩ”. “Thôn Vĩ” chính là thôn Vĩ Dạ, mảnh đất mà tác giả luôn ấp ôm trong lòng, luôn khao khát được một lần trở lại. Thôn Vĩ có gì mà nhà thơ yêu mến đến vậy? Địa danh này chỉ là một thôn nhỏ nằm bên bờ sông Hương, cũng có những rặng tre đầu làng, những mái lá liêu xiêu trong ráng chiều lờ mờ khói tỏa, cũng có những cánh đồng xanh mướt thẳng cánh cò bay… một vẻ đẹp đã trở nên mẫu mực, cổ điển trong thơ ca muôn đời, cũng hết sức quen thuộc ngoài đời thực. Nhưng có lẽ, nơi này đặc biệt hơn bởi ông đã gửi gắm một phần linh hồn ở đó, cũng mang theo một mảnh hồn quê xứ sở, gìn giữ trong tim đến suốt cuộc đời. Dù chỉ lưu lại nơi ấy trong một khoảng thời gian không dài nhưng vì lẽ “tình yêu làm đất lạ hóa quê hương”, thôn Vĩ chẳng khác nào một bến đỗ để sau bao phong ba của cuộc đời, Hàn Mặc Tử lại trở về trầm mình trong sự vỗ về ấm áp.

    Thi sĩ hết sức tài tình khi thổi vào tứ thơ chất Huế rất riêng, đầy ngọt ngào, ý vị. Câu thơ chỉ toàn thanh trắc nhẹ nhàng cất lên khiến người đọc cảm tưởng như có một cô gái Huế đang nhỏ nhẹ mở lời. Cô gái ấy dường như đang mời mọc một cách ý nhị, cũng đang khẽ khàng trách móc chàng thi sĩ sao đã lâu như vậy không “về chơi”. Hai tiếng “về chơi” nghe sao mà chân thành, gần gũi, sao mà thổn thức như tiếng mẹ quê hương gọi đứa con xa trở về! Biết bao nhiêu tình cảm được chở chứa trọn vẹn trong hai chữ giản đơn ấy. Chỉ vậy thôi mà sao ta thấy ý thơ dâng đầy nỗi xót xa. Nào có phải Hàn Mặc Tử không muốn về thăm chốn cũ! Về thăm mảnh đất đã “hóa quê hương” ấy là cả một niềm khao khát đến bỏng cháy, chưa bao giờ nguôi ngoai trong tâm hồn thi sĩ. Ấy vậy mà đến tận lúc cuối đời, ông vẫn chưa một lần được về thăm lại chốn xưa.

    Nhà thơ sử dụng câu hỏi tu từ ngay ở câu thơ đầu, khác nào đặt một niềm thắc mắc, dằn vặt xuyên suốt cả thi phẩm. Để rồi ở tứ thơ nào, hình ảnh nào, dù đẹp đến đâu thì người đọc cũng chợt bâng khuâng nhận ra một nỗi nhớ, nỗi sầu ứ nghẹn bên trong.

    Bằng ngòi bút tài hoa, Hàn Mặc Tử đã họa lên bức tranh ngôn từ về vẻ đẹp thôn Vĩ Dạ:

    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

    Thôn Vĩ Dạ dưới cái nhìn của thi sĩ ngập trong nắng. Vẻ đẹp của làng quê Việt Nam mới chân phương, bình dị làm sao! Bức tranh sơn dầu với quang phổ tỏa ra lấp lánh, nhè nhẹ rơi từng hạt, từng hạt óng ánh vàng vào cõi lòng người đọc. Ta vốn biết đây chẳng phải là cảnh vật do chính tác giả tận mắt trông thấy mà chỉ được điểm xuyến từ những hồi ức trong trí nhớ. Hẳn là tình yêu dành cho xứ Vĩ ấy phải lớn lao đến nhường nào mới có thể khiến những kí ức mờ nhòa trở nên sống động, chân thực đến kì lạ. Hàn Mặc Tử đã phủi đi lớp bụi mờ của thời gian, đem vẻ đẹp từ quá khứ của thôn Vĩ Dạ vượt qua những đớn đau của thể xác, thương tổn của tinh thần để đến thực tại. Chính bởi vậy, người đọc cảm nhận cảnh sắc không chỉ qua thị giác mà còn qua những xúc cảm, rung động của trái tim.

    Phải chăng, ngày Hàn Mặc Tử từng đến thăm “quê” trong tiềm thức là một buổi sớm đẹp đến nao lòng? Hay vì thôn Vĩ trong ông quá đẹp đẽ, đến mức nếu hồi tưởng lại không phải là trong một buổi sớm tinh sương thì chẳng có thời khắc nào hơn thế nữa? Có lẽ là cả hai! Trong cùng một câu thơ, chữ “nắng” được lặp lại đến hai lần. Ánh nắng ấy rực rỡ đến độ đong đầy không gian, vương trên vạn vật, chảy tràn sánh vàng tựa mật. Ánh nắng ấy cũng ấm áp đến độ sưởi ấm, thắp lên chút ánh sáng nơi cõi lòng lạnh lẽo của nhà thơ.

    Giữa không gian đầy nắng ấy, thẳng tắp vươn lên những thân cau như nét bút muốn khuấy động cả khoảng trời trong trẻo, lắng nghe tiếng chuông chùa Diệu Đế, Thiên Mụ. Miền Trung đầy nắng và gió có hàng cau là điểm nhìn thân thuộc. Trong khu vườn thôn dã, cau là loài cây cao nhất, đón nắng đầu tiên. Bởi vậy, thứ “nắng hàng cau” là thứ nắng trong trẻo nhất, thanh tân nhất, thuần khiết nhất. Cây cau chia đốt thẳng, giống như thước đo tự nhiên cân đong mực nắng trong vườn. Nắng trong tâm tưởng Hàn Mặc Tử là thứ chất lỏng sánh ngọt lành của mẹ thiên nhiên rót đầy vườn, mặt trời càng lên cao, mực chất lỏng ấy càng dâng lên cho đến lúc phủ qua tán cau, cũng là bao trùm cả khu vườn bằng thứ sắc màu lấp lánh của nó.

    ………………

    Tải file tài liệu để xem thêm bài văn cảm nhận Đây thôn Vĩ Dạ

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *