Văn mẫu lớp 11: Dàn ý bài Vội vàng của Xuân Diệu (9 Mẫu)

Văn mẫu lớp 11: Dàn ý bài Vội vàng của Xuân Diệu (9 Mẫu)

Bài thơ Vội vàng thể hiện một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Biết quý trọng thời gian, biết quý trọng tuổi trẻ, biết sống cũng là để yêu; tình yêu lứa đôi, tình yêu tạo vật.

Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 11: Dàn ý bài Vội vàng của Xuân Diệu (9 Mẫu)

Văn mẫu lớp 11: Dàn ý bài Vội vàng của Xuân Diệu (9 Mẫu)

TOP 9 dàn ý Vội vàng dưới đây của Download.vn sẽ là nguồn tư liệu cực kì hữu ích giúp các bạn có thêm nhiều kiến thức để biết cách phân tích bài thơ Vội vàng, phân tích đoạn 1 Vội vàng, phân tích khổ cuối Vội vàng.

Dàn ý bài Vội vàng chi tiết nhất

    Dàn ý phân tích Vội vàng

    Dàn ý mẫu 1

    1. Mở bài:

    • Giới thiệu về nhà thơ Xuân Diệu
    • Giới thiệu về thi phẩm “Vội Vàng”.

    2. Thân bài:

    a) Khái quát chung: giới thiệu về hoàn cảnh ra đời và nội dung chính của bài thơ.

    b) Phân tích bài thơ:

    b.1) Niềm say đắm trước vẻ đẹp của mùa xuân trên trần thế:

    • Thể thơ ngũ ngôn, nghệ thuật điệp ngữ, điệp cấu trúc “tôi muốn”, giọng thơ sôi nổi, qua đó thể hiện khát vọng muốn đoạt quyền của tạo hóa cháy bỏng, tha thiết, một khát vọng kì lạ bởi tác giả muốn níu giữ hương sắc, vẻ đẹp của cuộc đời, muốn níu kéo thời gian để bất tử hóa vẻ đẹp của mùa xuân.
    • Bức tranh thiên nhiên mùa xuân hiện ra với vẻ đẹp tươi mới, đó là một vẻ đẹp ngay trong chính trần gian này. tất cả đều ở trạng thái quyến rũ nhất và say sưa nhất: “của ong bướm này đây tuần tháng mật, “này đây hoa của đồng nội xanh rì”, “này đây lá của cành tơ phơ phất”,.. tất cả đều rất tươi mới và chân thực. “và này đây ánh sáng chớp hàng mi”, ánh sáng như phát ra từ đôi mắt của người thiếu nữ khi nàng chớp hàng mi, gợi một vẻ đẹp ngây thơ, trong lành. Nghệ thuật so sánh cái vô hình với cái hữu hình “tháng giêng ngon như một cặp môi gần” gợi sự quyến rũ, ngọt ngào và đắm say, cho thấy niềm say mê đến vồ vập của thi sĩ trước cuộc đời. qua đó, thấy được quan niệm thẩm mĩ mới mẻ của xuân diệu: con người là chuẩn mực cái đẹp khi ở độ tuổi thanh xuân.
    • Hai câu thơ cuối giọng thơ lắng xuống. Ngay trong sung sướng, thi nhân đã bắt đầu phải vội vàng, đang trong hạnh phúc đã thấy mầm móng của li biệt.

    b.2) Nuối tiếc trước dòng thời gian chảy trôi:

    • Ba câu đầu: sử dụng lối nói định nghĩa “xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua/ xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già/ mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”. Nếu các nhà thơ xưa thường nhìn thời gian theo một vòng tuần hoàn thì xuân diệu lại nhìn thời gian ở một thế chảy trôi, thời gian một đi mà không quay trở lại “mau với chứ thời gian không đứng đợi/ mau với chứ vội vàng lên với chứ”. Ông ý thức được rằng mùa xuân của cuộc đời đi qua thì cuộc đời cũng qua mau bởi tuổi xuân là tuổi đẹp nhất, có ý nghĩa nhất trong cuộc đời của con người. Đây thực chất là sự ảnh hưởng của tư duy pháp.
    • Ý thức được về sự chảy trôi của thời gian, xuân diệu cảm thấy bâng khuâng và tiếc nuối. thi nhân hình dung cả một cuộc chia ly đầy ắp đất trời, thấm đượm tháng năm “mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi/ khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”. “Mùi tháng năm” là nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, cho thấy sự tương giao trong cách cảm nhận. cuộc chia ly ấy như thấm cả vào những thứ vô hình, khi xuân qua đi thì cỏ cây, con người đều buồn: sông núi thì “than thầm”, gió thì “hờn”.

    b,3) Khát khao sống mãnh liệt:

    • Giọng thơ hối hả, sôi nổi, hối hả, cuồng nhiệt được tạo nên bởi những câu cảm thán thể hiện sự giục giã. Nghệ thuật điệp cấu trúc, điệp từ, liệt kê tạo cho những câu thơ nhịp điệu nhanh, mạnh như một làn song trào dâng cảm xúc. động từ “ôm”, “say”,.. thể hiện khát khao , sự cuồng nhiệt muốn giao cảm với cuộc đời. nhà thơ xưng “tôi” thể hiện một khát vọng cá nhân mãnh liệt, táo bạo. ở đây, thi sĩ lại xưng “ta” để như mở rộng lòng mình với cuộc đời. “ta” ở đây chính là sự mở lòng, mở rộng tấm lòng với cuộc đời, với nhân sinh.
    • Lời giục giã “mau đi thôi” làm cho câu thơ mang một ngữ điệu mới, khác hẳn với câu thơ cổ: ngữ điệu nói. trong thơ cổ, lỡi lẽ thường phải rất chắt lọc, còn Xuân Diệu lại sử dụng những từ ngữ được lặp đi lặp lại rất nhiều lần .
    • Ta cảm nhận như dòng cảm xúc của nhà thơ đang tuôn trào vượt ra ngoài từ ngữ. giọng thơ thể hiện tâm trạng vội vàng phù hợp với những hành động gấp gáp của thi nhân. hình ảnh thơ mơn mởn với mây đưa gió lượn, cánh bướm, cây, cỏ rạng, ánh sáng,… Điệp ngữ “ta muốn” thể hiện một khát vọng cháy bỏng. nhà thơ như muốn tận hưởng cuộc đời và sự quý giá của cuộc sống nơi trần gian. với xuân diệu, mùa xuân là một màu hồng nồng ấm, muốn cắn vào trái chín mùa xuân, trái chín cuộc đời.
    • Nhà thơ như đang say men cảm xúc với cuộc đời. sống “vội vàng” ở đây không phải là lối sống gấp chỉ biết hưởng thụ hôm nay mà bỏ qua ngày mai mà đó là một lối sống tích cực, cho thấy môt khát vọng sống mãnh liệt, yêu cuộc sống của thi nhân.

    3. Kết bài:

    • Khẳng định lại những thành công của Xuân Diệu
    • Bài học dành cho người sáng tác và tiếp nhận văn học.

    Xem thêm: Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu

    Dàn ý mẫu 2

    1. Mở bài:

    – Giới thiệu tác giả, tác phẩm.

    2. Thân bài:

    a. Cái tôi trữ tình đầy mới mẻ:

    – Muốn “tắt nắng”, “buộc gió” để lưu giữ lại những vẻ đẹp bình dị đang diễn ra ở cuộc đời.

    – Cái tôi táo bạo, mạnh mẽ, muốn thay đổi cả quy luật của tạo hóa để lưu giữ vẻ đẹp của trần thế.

    => Thể hiện tấm lòng yêu tha thiết của Xuân Diệu đối với cuộc sống, với thiên nhiên mùa xuân, mà sâu xa là sự tiếc nuối, sợ hãi bản thân không so kịp với bước chân của tạo hóa.

    b. Bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp:

    – Khi nhìn về cảnh sắc mùa xuân, ánh mắt của người nghệ sĩ tràn ngập tình yêu, niềm hạnh phúc đã đầy, ở bức tranh thiên nhiên hầu như mọi cảnh vật đều có đôi có cặp, lãng mạn và tình tứ.

    • Ong bướm ngọt ngào đắm say tuần tháng mật
    • Hoa trong đồng nội xanh rì thực hòa hợp viên mãn.
    • Lá với cành tơ cũng lả lướt đón đưa.
    • Khúc tình si của cặp yến oanh làm cho khung cảnh mùa xuân thêm phần rộn rã.

    – Câu thơ “Và này đây ánh sáng chớp hàng mi” làm cho bức tranh mùa xuân thêm phần lãng mạn, trong trẻo và ấm áp tình người.

    => Bộc lộ được tấm lòng yêu mùa xuân, yêu thiên nhiên tha thiết của tác giả.

    – “Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa”: Đối với tác giả một ngày được sống, được tỉnh giấc chính là một niềm vui lớn.

    – “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần” là sự chuyển đổi cảm xúc mạnh mẽ và thú vị, cách cảm nhận đầy độc đáo.

    – “Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa/Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. Xuân Diệu nuối tiếc mùa xuân ngay chính giữa mùa xuân.

    c. Nhận thức về bước đi của thời gian và sự ngắn ngủi của đời người:

    – Xuân Diệu hiểu và nắm rõ được quy luật không thể thay đổi của tạo hóa thời gian cứ lặng lẽ trôi đi mà không vì một ai mà dừng lại.

    – Tác giả đâm ra tiếc nuối và hờn giận “Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật/Không cho dài thời trẻ của nhân gian”.

    – Buồn bã, ảm đạm trong những vần thơ chứa đựng đầy nỗi tiếc nuối “Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn/….

    => Xuân Diệu không kìm lòng được mà tiếc cả đất trời, tiếc nuối hết tất thảy những gì đang diễn ra xung quanh cuộc sống. Mở ra trong lòng độc giả những nhận thức về sự quý giá của tuổi trẻ.

    d. Người nghệ sĩ hòa vào thiên nhiên, cố gắng tận hưởng, xua đi nỗi nuối tiếc:

    – “Mau đi thôi/Mùa chưa ngả chiều hôm” chính là lời tự thúc giục, động viên bản thân, cũng như nhiều thế hệ trẻ phải nhanh bước chân chạy đua với thời gian mà tận hưởng của sống.

    – Tấm lòng khát khao, rạo rực của người nghệ sĩ như “muốn ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn”, dành trọn hết tất cả những gì xanh tươi, trẻ trung trong vũ trụ.

    – “Hỡi xuân hồng! Ta muốn cắn vào ngươi!” thể hiện được tình yêu mãnh liệt của Xuân Diệu đối với mùa xuân, muốn được tận hưởng một cách trọn vẹn nhất cả thanh, sắc, hương, vị.

    3. Kết bài:

    Nêu cảm nhận chung.

    Dàn ý khổ cuối Vội vàng

    Dàn ý số 1

    I. Mở bài: giới thiệu đoạn 3 bài thơ Vội vàng

    Ví dụ: Xuân Diệu có những tác phẩm rất nổi tiếng, một tác phẩm thơ có sự kết hợp nhuần nhuyễn và độc đáo về mạch cảm xúc và triết lí sâu sắc là bài thơ Vội vàng. Bài thơ thể hiện niềm say mê cái đẹp của thiên nhiên, niềm yêu thiên nhiên sâu sắc của tác giả trong cuộc sống. Bên cạnh niềm say mê thiên nhiên và cuộc sống thì tác giả còn thể hiện khát vọng sống, khát vọng tình yêu cuồng nhiệt và hối hả của cuộc sống. Chúng ta cùng đi tìm hiểu đoạn 3 của bài thơ để hiểu rõ về khát vọng sống, khát vọng tình yêu cuồng nhiệt và hối hả của cuộc sống.

    II. Thân bài: phân tích đoạn 3 bài thơ vội vàng

    1. Bức tranh thiên nhiên được hiện lên một lần nữa:

    – Câu cảm thán “mau đi thôi” thể hiện sự tận hưởng thiên nhiên, cuộc sống , tận hưởng thời gian và cuộc sống

    – Khát vọng sống mãnh liệt, khát vọng được yêu thương

    2. Sự cảm nhận của tác giả qua các giác quan của cơ thể:

    – Các hình ảnh mây, gió, nước, bướm,

    Tác giả cảm nhận cuộc sống và thiên nhiên qua thị giác, khứu giác, thính giác,…

    • Thị giác cảm giác mơn trớn của thiên nhiên
    • Khứu giác cảm nhận được mùi hương đẹp đẽ của thiên nhiên
    • Thính giác cảm nhận được âm thanh của thiên nhiên
    • Tình yêu cuồng nhiệt, mãnh liệt của tác giả

    III. Kết bài: nêu cảm nhận của em về đoạn 3 bài thơ Vội vàng

    Ví dụ: Đoạn 3 bài thơ vội vàng thể hiện khát vọng sống, khát vọng tình yêu cuồng nhiệt và hối hả của cuộc sống. Tình yêu ấy được tác giả cảm nhận qua các giác quan cơ thể hết sức tinh tế và sâu sắc.

    Dàn ý số 2

    I. Mở bài

    Xuân Diệu yêu đời, ham sống, nhưng trong thân phận của một thi nhân mất nước lúc bây giờ, ông luôn lo sợ vì thấy cuộc đời ngắn ngủi, tuổi trẻ, tuổi xuân qua nhanh, nên ông “sống vội vàng, sống cuống quýt” để tận hưởng cuộc đời của mình. Cách sống ấy của thi nhân đã được nâng lên thành quan niệm, triết lí trong bài thơ Vội vàng như lời tự bạch của ông trước cuộc đời. Và cao trào tình cảm của thi phẩm chính là lúc lòng yêu đời, ham sống của nhà thơ bùng lên dữ dội, hối hả, cuồng nhiệt ở cuối bài:

    Ta muốn ôm
    …………………
    – Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi.!

    II. Thân bài

    1. Vì sao ở cuối bài thơ, lòng yếu đời, ham sống của tác giả lại bùng lên dữ dội, hối hả, cuồng nhiệt như vậy

    – Đó chính là cao trào tình cảm tất yếu phải đến trong mạch thơ Vội vàng của tác giả:

    • Mở đầu bài thơ là những biểu hiện của lòng yêu đời, yêu cuộc sống đến si mê, ngây ngất của nhà thơ.
    • Tiếp đến, lại là những băn khoăn, lo lắng của nhà thơ khi ông cảm thấy cuộc đời mình ngắn ngủi, tuổi trẻ, tuổi xuân qua nhanh.
    • Trong nỗi băn khoăn, lo sợ đó, nhà thơ thấy rõ nếu không đến nhanh với cuộc sống để tận hưởng thì sẽ mất nó, vì thế mà ông phải vội vàng đến ngay để ôm ghì lấy nó trong vòng tay của mình.

    – Câu thơ bản lề để cho cao trào tình cảm trào ra cuồng nhiệt chính là: “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm”. Đó là lời tự giục giã của nhà thơ. Chính vì “mùa chưa ngả chiều hôm” nên phải “mau đi

    thôi” để đến với cuộc sống đó, để Ta muốn ôm… tất cả những gì có trong cuộc sống đó.

    2. Cách sống vội vàng, hối hả, cuồng nhiệt của nhà thơ được biểu hiện như thế nào?

    – Nhà thơ muôn ôm ghì, riết chặt cuộc sống trong vòng tay của mình vì sợ mất nó:

    Ta muốn ôm
    Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
    Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
    Ta muốn say cánh bướm với tình yêu…

    – Nhà thơ muốn tận hưởng cuộc sống đó ở những cảm giác cuồng nhiệt, mãnh liệt nhất:

    • Từ ôm đến riết, đến say, đến thâu, đến cắn…
    • Từ rất nhiều sự vật, hiện tượng của cuộc sống: mây đưa, gió lượn, cánh bướm, tình yêu, cái hôn, non nước, cây, cỏ, mùi thơm, ánh sáng, thanh sắc, xuân hồng…
    • Và rất nhiều cảm giác: chuếnh choáng, đã đầy, no nê…
    • Diện tận hưởng rất rộng mà cường độ tận hưởng lại rất cao, rõ nhất là trong câu thơ cuối ” – Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!” Chưa bao giờ trong văn chương lại có một tiếng nói thơ ca mới mẻ và táo bạo đến thế. Đó chính là sự bùng nổ mãnh liệt của “cái tôi – cảm xúc” trong Thơ mới thời kì 1932 – 1941 mà Xuân Diệu là một gương mặt tiêu biểu. Cả đoạn thơ, đặc biệt câu thơ cuối, đã nói lên rất rõ thần thái của Xuân Diệu.

    – Tất cả những điều nói trên đã được thi nhân bộc lộ bằng một tiếng nói thơ đặc sắc, mang tính nghệ thuật cao. Đúng là sự bùng nổ của “cái tôi – cảm xúc” đã kéo theo sự bùng nổ về nghệ thuật thơ, đem đến những cách tân nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu ở đoạn thơ này:

    • Cảm xúc dâng trào mạnh mè làm cho âm điệu câu thơ cuồn cuộn, dồn dập, diễn tả được sự vội vàng, hôi hả, cuồng nhiệt đến với cuộc sống của nhà thơ.
    • Dùng nhiều động từ chỉ hành động và chỉ cảm giác mạnh, ngày càng tăng tiến để bộc lộ cái cảm xúc bùng nổ của thi nhân:

    Ôm —> riết -> say -> thâu -> cắn.

    Chuếnh choáng -> đã đầy -> no nê.

    Cái gì cũng ở cường độ cao, ở trạng thái mê say, ứ tràn.

    + Sử dụng nhiều điệp từ: ta (5 lần), và (3 lần) cho (3 lần) càng khiến câu thơ thêm dồn dập, cảm xúc thơ dâng trào, và con người thơ vội vàng, cuống quýt, cuồng nhiệt của Xuân Diệu được bộc lộ rõ với cái thần thái, sắc diện riêng của thi nhân, không thể lẫn được.

    III. Kết bài

    Nếu Vội vàng là lời tự bạch của Xuân Diệu trước cuộc đời lúc bấy giờ, khắc họa rõ nét gương mặt riêng của con người thi nhân, thì đoạn cuối bài thơ chính là những nét tiêu biểu, sinh động nhất của hồn thơ đó.

    Dàn ý 13 câu đầu bài Vội vàng

    Dàn ý số 1

    I. Mở bài: giới thiệu đoạn 1 bài thơ Vội Vàng

    Một tác phẩm thơ có sự kết hợp nhuần nhuyễn và độc đáo về mạch cảm xúc và triết lí sâu sắc của nhà thơ Xuân Diệu là bài thơ Vội vàng. Bài thơ thể hiện niềm say mê cái đẹp của thiên nhiên, niềm yêu thiên nhiên sâu sắc của tác giả trong cuộc sống. trong bài thơ tác giả đã thể hiện niềm say mê thiên nhiên, tình yêu cuộc sống tha thiết của tác giả được thể hiện rất rõ qua 13 câu thơ đầu của bài thơ. Chúng ta cùng đi tìm hiểu 13 câu thơ đầu của bài thơ để hiểu rõ về tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của tác giả.

    II. Thân bài: phân tích đoạn 1 bài thơ vội vàng

    1. 4 câu thơ đầu:

    • 4 câu thơ đầu thể hiện ước muốn táo bạo, khát vọng mãnh liệt của tác giả, tác giả muốn ngự trị thiên nhiên, tạo hóa
    • Thể hiện trái tim yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết và say mê của tác giả

    2. 7 câu tiếp theo:

    • Bức tranh thiên nhiên được tác giả thể hiện hết sức sâu sắc
    • Bằng tình yêu thiên nhiên của mình tác giả đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên hữu tình, có đôi lứa và vô cùng đẹp đẽ
    • Tác giả muốn sống trọn trong khoảnh khắc hối hả của thời gian
    • Tận hưởng cuộc sống một cách sung sướng và hối hả

    III. Kết bài: nêu cảm nhận của em về đoạn 1 bài thơ Vội vàng

    Ví dụ:

    Đoạn 1 bài thơ Vội vàng thể hiện tình yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên tha thiết của tác giả. Đồng thời thể hiện được một tâm hồn trong sáng và đầy tình cảm của một nhà thơ đầy nhiệt huyết.

    Xem thêm: Phân tích 13 câu đầu bài Vội vàng của Xuân Diệu 

    Dàn ý số 2

    a) Mở bài:

    – Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

    • Xuân Diệu là nhà thơ của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ, một trong những nhà thơ lớn của Việt Nam nổi tiếng từ phong trào Thơ mới.
    • “Vội vàng” là một trong những bài thơ xuất sắc nhất thể hiện tình yêu cuộc sống tha thiết, quan niệm nhân sinh mới mẻ của Xuân Diệu.

    – Khái quát nội dung 13 câu đầu Vội vàng : Ước muốn táo bạo cùng tâm trạng hân hoan chào đón nhưng rồi lại vội vàng và cuống quýt trước sự trôi chảy của thời gian.

    b) Thân bài:

    * Luận điểm 1: Khao khát lưu giữ vẻ đẹp của thiên nhiên

    – Trong thơ ca trung đại ít có nhà thơ nào dám khẳng định cái tôi cá nhân của mình một cách táo bạo nhưng khi đến với phong trào Thơ mới, cái tôi Xuân Diệu đã bộc lộ một cách vô cùng độc đáo:

    “Tôi muốn tắt nắng đi
    Cho màu đừng nhạt mất
    Tôi muốn buộc gió lại
    Cho hương đừng bay đi”.

    • Mùa xuân là mùa tươi đẹp nhất trong năm cũng như tuổi trẻ là khoảng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời mỗi con người.
    • Bốn dòng thơ ngũ ngôn như lời đề từ của bài thơ, khẳng định ước muốn đoạt quyền tạo hóa của thi nhân.
    • “Nắng” mùa xuân là ánh sáng rực rỡ, ấm áp và tươi vui, “hương” mùa xuân là nơi tinh hoa của đất trời, của vạn vật kết tinh, hội tụ.
    • Hành động “tắt nắng”, “buộc gió” là những mong muốn dường như không tài nào thực hiện được bởi lẽ nó đi ngược lại với những quy luật vốn có của tự nhiên.

    – Xuân Diệu muốn ngăn cản bước đi của thời gian để lưu giữ những khoảnh khắc đẹp nhất, đáng nhớ nhất.

    • Thi sĩ khao khát giữ lại ánh nắng để “màu đừng nhạt mất”, giữ lại gió để cuộc sống luôn tràn ngập sắc hương.
    • Điệp cấu trúc “Tôi muốn… để”, động từ mạnh “tắt”, “buộc” cùng với nhịp thơ nhanh, dồn dập, thể hiện khao khát mãnh liệt, hối hả, muốn nhanh chóng không để những vẻ đẹp tạo hóa vụt mất khỏi tầm tay.
    • Nếu thời gian đi bằng nắng, bằng gió làm nhạt màu, làm phai hương thì nhà thơ muốn níu giữ thời gian ngừng bước, để màu sắc và hương thơm còn mãi với cuộc đời, để giữ mãi thời tươi xuân thì của tạo vật.
    • Cũng bởi thế, khao khát này cũng thể hiện sự ham sống bồng bột đến mãnh liệt và quan niệm về thời gian của ông: Thời gian tuyến tính một chiều, khi đã trôi qua rồi thì không trở lại nên nhà thơ có khao khát giữ nắng, giữ gió để tận hưởng hết vẻ đẹp của đất trời.

    => Đó là ước muốn bất tử hóa cái đẹp, giữ cho cái đẹp tỏa sắc lên hương vì đóa hoa hương sắc cuộc đời tươi thắm, ngọt ngào mà mong manh, ngắn ngủi biết bao. Có thể nói đằng sau ước muốn phi lí ấy là một tâm hồn yêu người với thái độ trân trọng, nâng niu và gìn giữ.

    * Luận điểm 2: Bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp

    – Từ thể thơ 4 chữ, nhà thơ chuyển sang những câu thơ 8 chữ, nhịp thơ như trải tỏ ra, chậm rãi, nhẹ nhàng như nhịp tâm hồn thi sĩ đang tận hưởng những tinh hoa của đất trời mùa xuân

    – Điệp ngữ “này đây” được lặp đi lặp lại 5 lần như một lời mời gọi, kết hợp với thủ pháp liệt kê, vừa diễn tả sự giàu có, phong phú bất tận của thiên nhiên vừa thể hiện cảm giác hân hoan, vui sướng của tác giả.

    – “Này đây” là sự hiện hữu của hương sắc cuộc đời, của thiên nhiên trần thế, không phải xa xôi mà gần gũi ngay trước mắt, không phải ở tương lai hay quá khứ mà ngay trong hiện tại lúc này.

    – Điệp từ “của” lặp lại mang tính chất kết nối làm cho bức tranh thiên nhiên tươi đẹp nơi thiên đường trần thế lần lượt hiện ra, lại thêm phần phong phú, giàu có.

    – Nhà thơ sử dụng một loạt biện pháp tu từ nhân hoá, dùng những danh từ thuộc về con người (“tuần tháng mật”, “khúc tình si”) để miêu tả thiên nhiên, kết hợp với “ong bướm”, “yến anh” được gọi tên như đôi như lứa khiến cho vườn xuân bỗng đầy mộng mơ, lãng mạn, vườn xuân cũng là vườn yêu, vườn tình, vườn ái ân hạnh phúc.

    – Tính từ “xanh rì”, “phơ phất” giàu sức gợi tả vẽ nên cảnh thiên nhiên mùa xuân non tơ, tràn đầy sức sống

    => Bức tranh xuân không chỉ có cảnh vật đẹp tươi mà còn tràn đầy ánh sáng và niềm vui, hình ảnh “ánh sáng chớp hàng mi” và “thần vui” vô cùng gợi cảm. Với Xuân Diệu mỗi ngày được sống, được chiêm ngưỡng ánh dương, được tận hưởng sắc hương của vạn vật là một ngày hân hoan vui sướng

    – Thiên nhiên tạo vật say sưa, rộn ràng, mê mải trao gửi sắc hương, xui khiến lòng người ngất ngây tận hưởng, để thi nhân tạo hóa thành tình nhân:

    “Tháng Giêng non như một cặp môi gần”

    • Câu thơ sử dụng nghệ thuật ẩn chuyển đổi cảm giác, hay chính là phép giao thoa mà thơ Mới tiếp thu được từ thơ ca tượng trưng Pháp
    • Đây là câu thơ mới mẻ nhất, hiện đại nhất, đã khái quát được sự hấp dẫn của mùa xuân bằng sự so sánh vô cùng độc đáo. Nhà thơ cảm thụ thiên nhiên bằng tình lứa đôi, bằng thể xác và tâm hồn.

    – Sự hấp dẫn của thiên nhiên hiện ra trong vẻ đẹp của người tình với “cặp môi gần” căng tràn tươi trẻ, mê đắm và quyến rũ.

    • Từ “ngon” được thốt lên đầy khát khao, và đam mê, là sự cảm nhận sâu nhất bằng mọi giác quan
    • Phép so sánh như đã đưa cặp môi của người thiếu nữ trở thành trung tâm của vũ trụ, con người trở thành chuẩn mực cho cái đẹp, là thước đo vẻ đẹp của tạo hóa.
    • “Tháng giêng” là một khái niệm thời gian vốn vô hình, nhưng trong phép so sánh vừa táo bạo vừa mang sắc thái biểu cảm ấy đã trở nên trẻ trung hữu hình qua vẻ đẹp cặp môi gần của người thiếu nữ.

    => Nhà thơ đã thể hiện quan niệm của mình một cách thật sâu sắc: Nếu trong thơ ca Trung đại, các thi nhân lấy thiên nhiên để làm chuẩn mực cho cái đẹp của con người thì đến với Xuân Diệu, con người mới là chuẩn mực cho mọi cái đẹp tồn tại trên cuộc đời này, và thiên đường không phải là những chốn thiên thai xa xôi, huyễn hoặc nào đó, mà chính là nơi đây, chính mặt đất trần thế mới là thiên đường của tình yêu, của cái đẹp và của tuổi trẻ.

    * Luận điểm 3: Tâm trạng của thi sĩ

    – Ngay lúc chàng thi sĩ trẻ đang ngất ngây mê đắm vô cùng trong niềm tận hưởng mật ngọt tình yêu nơi thiên đường trần thế, đang thỏa thuê với bữa tiệc lớn của trần gian và reo lên “tôi sung sướng” thì cũng chính là lúc thi nhân ngừng lặng với cảm giác “vội vàng một nửa”.

    – Câu thơ bị ngắt làm hai, niềm vui không trọn vẹn. Bởi Xuân Diệu nhận ra rằng điều sung sướng ấy ngắn ngủi biết bao. Dự cảm mơ hồ về sự mong manh, ngắn ngủi của kiếp người đã khiến cho thi nhân sống vội vàng tận hưởng.

    => Hai câu thơ được xem như hai cái bản lề khép mở tâm trạng vừa vồ vập đắm say vẻ đẹp của cuộc sống tình yêu vừa là linh cảm bất an, băn khoăn âu sầu của nhà thơ vì thời gian qua mau, tuổi trẻ một đi không trở lại, quả thật Xuân Diệu là nhà thơ của những cảm quan tinh tế về thời gian.

    c) Kết bài

    • Khái quát lại nội dung 13 câu thơ đầu Vội vàng.
    • Nêu cảm nhận của em.

    Dàn ý cảm nhận 13 câu đầu bài Vội vàng

    a) Mở bài

    – Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

    • Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất cả về nội dung lẫn nghệ thuật trong nền văn học hiện tại, được mệnh danh là ông vua của thơ tình, hoàng tử của tình yêu.
    • Bài thơ Vội vàng là một trong những bài thơ tiêu biểu trong phong cách Xuân Diệu.

    – Cảm nhận khái quát nội dung 13 câu thơ đầu: cho ta thấy ước muốn táo bạo, kì lạ của thi sĩ và bức tranh xuân – vẻ đẹp thiên đường trên mặt đất.

    b) Thân bài

    * Luận điểm 1: Khát vọng lạ lùng, mãnh liệt lưu giữ vẻ đẹp của thiên nhiên.

    “Tôi muốn tắt nắng đi
    Cho màu đừng nhạt mất
    Tôi muốn buộc gió lại
    Cho hương đừng bay đi”.

    – “nắng” mùa xuân : ánh sáng rực rỡ, ấm áp và tươi vui

    – “hương” mùa xuân : nơi tinh hoa của đất trời, của vạn vật kết tinh, hội tụ.

    -> “tắt nắng”, “buộc gió” là những hành động bất khả thi, đi ngược lại với những quy luật vốn có của tự nhiên.

    – “cho màu đừng nhạt…” : giữ lại những cái đẹp, cái tươi thắm, màu sắc tự nhiên của sự vật

    – “cho hương đừng bay…” : níu giữ hương thơm của hoa cỏ mùa xuân.

    => Xuân Diệu muốn ngăn cản bước đi của thời gian để lưu giữ cho cuộc đời những gì đẹp nhất, ý thức được sự quý giá, vẻ đẹp của nắng xuân của hương hoa cỏ.

    => Cái tôi ngông cuồng, muốn đoạt quyền tạo hóa, thách thức cả vũ trụ, sự ham sống bồng bột đến mãnh liệt và quan niệm về thời gian của Xuân Diệu.

    * Luận điểm 2: Bức tranh thiên nhiên mùa xuân

    – Thiên nhiên mùa xuân đang trải dài trong khoảng không gian bao la, rộng lớn của đất trời vũ trụ:

    • “Ong, bướm” cùng “mật” ngọt kết hợp với cái màu “xanh rì” tươi mới của đồng nội cỏ
    • Sự mềm mại, uyển chuyển của “cành tơ phơ phất”, thiên nhiên mùa xuân non tơ, tràn đầy sức sống
    • Sự rộn rã, mê ly trong “khúc tình si” của cặp “yến anh”.
    • “Ánh sáng chớp hàng mi” – một thứ ánh sáng tuyệt diệu, dịu dàng bao trùm khắp không gian.
    • “Thần vui” gõ cửa -> mỗi ngày được sống, được chiêm ngưỡng ánh dương, được tận hưởng sắc hương của vạn vật là một ngày hân hoan vui sướng.

    => Bức tranh xuân tươi đẹp nơi thiên đường trần thế không chỉ có cảnh vật đẹp tươi mà còn tràn đầy ánh sáng và niềm vui.

    – Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác:

    “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”

    • “ngon” : khen, ca ngợi tháng giêng – tháng đầu tiên của mùa xuân
    • “cặp môi gần” : giúp liên tưởng mùa xuân giống như một người thiếu nữ đẹp, rạo rực, cuốn hút khiến người ta mê say.

    => Con người trở thành chuẩn mực cho cái đẹp, là thước đo vẻ đẹp của tạo hóa. Thiên đường không phải là những chốn thiên thai xa xôi, huyễn hoặc nào đó, mà chính là mặt đất trần thế – thiên đường của tình yêu, của cái đẹp và của tuổi trẻ.

    * Luận điểm 3: Tâm trạng của nhà thơ.

    “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
    Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”

    – Sung sướng trước vẻ đẹp của thiên nhiên, của cuộc sống

    – “vội vàng một nửa”: vội vàng, lo lắng, bởi có lẽ hơn ai hết, Xuân Diệu cảm nhận thấy sự chảy trôi của thời gian, sự mỏng manh, ngắn ngủi của kiếp người.

    => Không chờ thời gian trôi qua, không chờ đến mùa hạ mới nhớ đến mùa xuân. Không chờ tuổi trẻ trôi qua mới biết tiếc nuối tuổi thanh xuân của mình. Dự cảm mơ hồ về sự mong manh, ngắn ngủi của kiếp người đã khiến cho thi nhân sống vội vàng tận hưởng.

    * Đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích

    • Sự kết hợp nhuần nhị giữa cảm xúc mong manh và mạch luận lý
    • Sử dụng phép nhân hóa, điệp ngữ, so sánh, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác…
    • Giọng điệu say mê, sôi nổi
    • Ngôn từ và hình ảnh thơ sáng tạo, độc đáo.

    c) Kết bài

    Nêu cảm nhận của em về nội dung 13 câu thơ đầu Vội vàng.

    Xem thêm: Cảm nhận 13 câu đầu bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu

    Dàn ý tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ Vội vàng

    I. Mở bài:

    + Xuân Diệu là nhà văn nổi tiếng của dân tộc Việt Nam, những sáng tác của ông chủ yếu viết về tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước và trong đó tình cảm của con người cũng xuất hiện rõ nét trong tác phẩm, trong đó bài thơ Vội Vàng là một trong những bài thơ như thế.

    II. Thân bài:

    + Với việc miêu tả tinh tế và cách xây dựng nhân vật sâu sắc, tác phẩm để lại cho người đọc bài thơ với nhiều cung bậc cảm xúc tinh tế và giàu giá trị to lớn trong tác phẩm.

    + Nhân vật trữ tình trong bài thơ đã được tác giả miêu tả tinh tế, sâu sắc mang nhiều ý nghĩa to lớn không chỉ đối với người đọc mà nó để lại cho người đọc nhiều xúc cảm trước khung cảnh thiên nhiên rộng lớn, ở đó con người có những cảm xúc đặc biệt.

    + Với việc xây dựng nhân vật điển hình, mang nhiều dòng cảm xúc trữ tình, nhân vật trữ tình ở đây được tác giả miêu tả với nhiều trạng thái tâm lý được thể hiện qua các khổ thơ.

    + Nhân vật trữ tình trong câu chuyện có những cảm giác yêu thương trước khung cảnh thiên nhiên, vội vã sống và tận hưởng tuổi thanh xuân của mình.

    + Cách xây dựng nhân vật tinh tế, diễn ra theo dòng thời gian và không gian, nhân vật trữ tình sống và thể hiện cảm xúc của chính mình trong dòng tâm lý, muốn tận hưởng và lưu giữ những trạng thái của tuổi thanh xuân.

    + Nhân vật trữ tình say đắm với tình yêu tuổi trẻ, say đắm trước cuộc sống của tuổi trẻ, những hình ảnh đó thể hiện sự nhẹ nhàng, tinh tế qua cách thể hiện những nét tính cách điển hình, sâu sắc và mang nhiều ý nghĩa to lớn.

    + Tình yêu thiên nhiên của những nhân vật trong bài thơ, cùng với những cung bậc, cảm xúc trong tình yêu.

    + Những nỗi nhớ và sự da diết của nhân vật xuất hiện trong câu chuyện ngày càng thể hiện những đắm say, cuồng nhiệt của tình yêu tuổi trẻ, những điều đó thật nhanh và da diết trong trái tim của người thi sĩ.

    III. Kết bài:

    Tâm trạng của người thi sĩ ngày càng da diết, mang những tình cảm cuồng nhiệt, nhẹ nhàng, da diết trong trái tim người thi sĩ.

    Xem thêm: Phân tích tâm trạng nhân vật trữ tình trong bài thơ Vội vàng

    Dàn ý khổ 2 Vội vàng

    1. Mở bài:

    – Giới thiệu khái quát về tác giả Xuân Diệu và bài thơ “Vội vàng”

    – Dẫn dắt, giới thiệu đoạn 2 của bài thơ:

    Nhận xét về Xuân Diệu, Hoài Thanh từng chia sẻ: “Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ Mới”. Quả thực, đọc và cảm nhận thơ văn Xuân Diệu, ta mới thực thấu điều đó. Ông mới trong cách nhìn nhận, trong cách cảm, cách nghĩ về cuộc đời, con người. Nhà thơ coi thời gian cuộc đời không phải thứ gì tuần hoàn, bất biến mà một đi không trở lại, nên cần sống hết mình với nó. Quan điểm đó được ông thể hiện rất rõ trong bài thơ “Vội vàng”. Đoạn thơ thứ 2 trong bài được coi là một trong những đoạn thơ đặc sắc và giàu ý nghĩa nhất.

    2. Thân bài:

    Đoạn 2 của bài thơ tác giả thể hiện niềm tiếc nuối trước sự trôi chảy của thời gian:

    Nhịp điệu thơ trong đoạn này không sôi nổi, vồ vập như đoạn thơ trên mà chậm hơn, lắng lại những suy tư.

    Dấu chấm giữa câu thơ: “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.” là một tín hiệu nghệ thuật nhiều dụng ý. Dấu chấm ấy đã chặn đứng niềm sung sướng của nhân vật trữ tình, xuân chưa qua mà đã thấy nhớ. Điều đó thể hiện sự nhạy cảm của nhân vật trữ tình hay cũng chính của nhà thơ Xuân Diệu khi ngay trong sung sướng đã thấy tiếc mùa xuân. Xuân Diệu đã nhìn ra trước bước đi của thời gian.

    Thơ xưa khi nói về sự vận động của thời gian, họ coi thời gian là một chuỗi tuần hoàn bất biến, Nguyễn Du từng viết: “Ngày xuân con én đưa thoi”(Cảnh ngày xuân) hay “Ngày xuân như bóng câu qua cửa sổ”. Dẫu vậy, người xưa vẫn ung dung, bình tĩnh vì tin rằng vũ trụ tuần hoàn, xuân đi xuân lại lại.

    Còn Xuân Diệu, “xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua/ xuân còn non nghĩa là xuân đã già”. Đó là lối nói đa nghĩa đầy mới mẻ rằng thời gian luôn chảy trôi, không đứng đợi.

    Thời gian trôi, mùa xuân đi cũng là lúc tuổi trẻ đã qua. Con người quý nhất là mùa xuân, quý nhất là tuổi trẻ. Mùa xuân trôi, tuổi trẻ trôi => tôi cũng mất => tưởng tượng ra cuộc chia li đầy ắp đất trời.

    Một loạt động từ: “rớm, than, hờn, sợ” như là một sự nhân hóa để thể hiện nỗi buồn tiếc trong tâm hồn con người đã tràn sang vạn vật, thấm vào từng cảnh, từng giác quan của con người. Bởi vậy mà con người và vũ trụ đều buồn thê thiết.

    Còn đang trong mùa xuân mà nhà thơ đã hình dung ra sự chia li của vũ trụ, sự rời xa của mùa xuân. Nỗi niềm nuối tiếc đã bật lên thành lời than và qua đó nhà thơ cũng gửi gắm lời nhắn nhủ tới muôn người muôn thế hệ rằng hãy sống hết mình vì tuổi trẻ, thời gian đời người là hữu hạn, một đi không trở lại.

    3. Kết bài:

    Khẳng định lại nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật của đoạn thơ:

    Đoạn thơ thứ hai trong bài thơ đã khẳng định khát khao cháy bỏng được sống hết mình với cuộc đời của nhân vật trữ tình, song cũng chính là tâm tư, nỗi lòng của nhà thơ Xuân Diệu. Ông nhờ thơ ca để giãi bày, tâm sự với người đọc để họ chia sẻ và hiểu ông hơn, trân trọng thời gian tuổi trẻ và sống hết mình với nó.

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *