Phân tích Trao duyên 14 câu giữa gồm 2 mẫu dàn ý kèm theo 9 bài văn cực chất, giúp cho các em học sinh lớp 11 tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng về văn phân tích đánh giá đoạn thơ ngày một tốt hơn.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 11: Phân tích 14 câu giữa đoạn trích Trao duyên (2 Dàn ý + 9 mẫu)
Phân tích Trao duyên 14 câu giữa để thấy được bi kịch trong tình yêu của Truyện Kiều. Qua bi kịch đó, phẩm chất cao quý của Thúy Kiều dường như tỏa sáng trước mắt người đọc. TOP 9 mẫu phân tích 14 câu giữa bài Trao duyên cực chất gồm cả bài làm ngắn gọn và đầy đủ để các bạn tham khảo, lựa chọn theo sức viết của mình, giúp các bạn học môn Ngữ văn dễ dàng và có sự chuẩn bị tốt hơn khi học. Bên cạnh đó các bạn xem thêm: phân tích 8 câu cuối Trao duyên, phân tích Trao duyên.
Phân tích Trao duyên 14 câu giữa hay nhất
Dàn ý phân tích 14 câu giữa của bài Trao duyên
I. Mở bài:
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích Trao duyên
- Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.
- Truyện Kiều được xem là kiệt tác của nền văn học được dịch ra nhiều thứ tiếng.
- Đoạn trích Trao duyên (từ câu 723 đến câu 756 trong Truyện Kiều) là lời của Thúy Kiều nói với Thúy Vân.
– Khái quát nội dung 14 câu thơ giữa (từ câu 13 đến câu 26): Tâm trạng của Thúy Kiều khi trao kỉ vật và dặn dò em (độc thoại).
II. Thân bài:
* Hoàn cảnh trao duyên:
– Sau khi thu xếp xong việc bán mình để cứu cha và em, đêm trước khi Kiều phải theo Mã Giám Sinh ra đi, Kiều bồi hồi thương cho chàng Kim, tìm cách trả nợ tình cho chàng. “Đèn thắp sáng đêm nước mắt đầm đìa/ dầu chong trắng đĩa, lệ tràn thấm khăn” nhân lúc Thúy Vân thức dậy hỏi han bấy giờ Kiều mới nhờ em thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.
* Luận điểm 1: Tâm trạng Kiều khi trao duyên, trao kỉ vật cho em (6 câu đầu)
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
– Kỷ vật tình yêu: chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền. -> Những kỷ vật thiêng liêng, quan trọng đối với Thúy Kiều và Kim Trọng.
– “Duyên này thì giữ”: Trao kỉ vật nhưng không thể quên được kỷ niệm -> Tình yêu sâu đậm, nồng nàn Kim – Kiều.
– “Của chung”: từng là của riêng Kim và Kiều, này là của chung Kim, Kiều, Vân -> Sự đau đớn, tiếc nuối.
– “Ngày xưa”: Mọi kỉ niệm chỉ còn là quá khứ -> Luyến tiếc.
=> Lý trí mâu thuẫn với tình cảm, sự giằng xé trong tâm trạng của Thúy Kiều.
* Luận điểm 2: Lời dặn dò của Kiều với em (8 câu sau)
“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”
– Kiều tưởng tượng viễn cảnh hội ngộ bằng thế giới tâm linh, cõi âm đầy ma mị.
– “mai này, dù có” -> Kiều tưởng tượng về cảnh ngộ của mình trong tương lai.
– “Hồn” : Nói đến cái chết.
– “Bồ liễu”: Chỉ người phụ nữ yếu đuối.
– “Trúc mai”: Chỉ tình yêu lứa đôi.
– “Dạ đài”: Âm phủ.
– “Thác oan”: Cái chết oan khuất.
-> Dự cảm về cái chết đầy oan khuất, linh hồn không thể siêu thoát của Kiều.
– Kiều dặn dò Thúy Vân:
- Thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.
- Nhớ đến tình máu mủ chị em.
- Chết đi vẫn nặng lời thề: Tình yêu thủy chung, mãnh liệt, bất tử.
-> Ý thức về sự bất hạnh của bản thân, tự khóc thương cho mình.
=> Tình cảm lý trí xen lẫn, sự giằng xé, đau đớn và nhớ thương Kim Trọng đến tột cùng của Kiều.
* Đặc sắc nghệ thuật
- Nghệ thuật khắc họa, miêu tả nội tâm nhân vật
- Ngôn ngữ độc thoại sinh động
- Sử dụng ngôn từ điêu luyện
- Sự kết hợp giữa ngôn ngữ dân gian và bác học vô cùng đặc sắc.
III. Kết bài:
- Khái quát lại nội dung 14 câu giữa bài Trao duyên.
- Nêu cảm nhận của em.
Dàn ý 14 câu giữa bài Trao duyên
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Du, tác phẩm Truyện Kiều, đoạn thơ Trao duyên và 16 câu thơ giữa (Chiếc vành với bức tờ mây…Rưới xin giọt nước cho người thác oan.)
Lưu ý: học sinh tự lựa chọn cách dẫn mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp tùy thuộc vào năng lực của bản thân.
2. Thân bài
“Chiếc vành với bức tờ mây,
……………………………..
Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên”
Sau khi Vân đồng ý nhận mối duyên của mình, Kiều mang trao lại em những kỉ vật của mình với chàng Kim. Kiểu sẽ thực sự ghi nhớ ơn nghĩa nếu Vân và Kim Trọng nên duyên vợ chồng.
Thật đau đớn và xót xa khi người mình yêu nên duyên cùng chính em gái mình, ấy thế mà, với Kiều, đấy lại là một ơn nghĩa mà Vân làm cho cô khiến cô ghi nhớ mãi.
“Mai sau dù có bao giờ
………………………….
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”
Tuy rằng, Kiều sẽ phải ra đi, nhưng dù còn sống hay khi không còn trên đời nữa, cô vẫn luôn hướng về nhà, về nơi có cha mẹ, có các em và có chàng Kim.
Người con gái ấy đã nghĩ đến trường hợp xấu nhất khi cô chỉ còn là “linh hồn mang nặng lời thề” trở về nhà, cô dặn Vân hãy rảy xin cho cô chén nước để linh hồn cô được siêu thoát.
Đến đây, nỗi xót xa của nàng Kiều dường như bị đẩy lên một cao trào mới. Những suy tư ngổn ngang đè nặng lên vai một cô gái vốn có cuộc sống thanh bình.
Duyên gãy, phải đi xa gia đình, bán thân thành một người rẻ mạt làm Kiều không tránh nỗi chua xót.
3. Kết bài
Khái quát lại nội dung, nghệ thuật của 14 câu thơ; đồng thời khái quát lại giá trị của đoạn thơ và cả tác phẩm.
Phân tích Trao duyên 14 câu giữa – Mẫu 1
“Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn..” (Phạm Quỳnh) Thật không ngoa khi khẳng định Truyện Kiều là một kết tinh cái hay, cái đẹp của tiếng Việt. Khi mà “trải qua những cuộc bể dâu” Truyện Kiều vẫn là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất dẫn dắt tâm hồn dân tộc tìm về chân, thiện, mỹ ở đời. Vượt ra ngoài thành công của nghệ thuật ngôn từ, Truyện Kiều trở nên vĩ đại là bởi tấm lòng nhân đạo của cụ Nguyễn Du thấm đẫm từng trang thơ, xuyên suốt 15 năm lưu lạc trong cuộc đời đầy thăng trầm của nàng Kiều mà đoạn trích Trao duyên chính là căn nguyên đầu tiên của bản đoạn trường. Trước lúc rời xa người thân bắt đầu dấn thân vào sương gió, Kiều đã trao lại mối duyên tình cho Thuý Vân. Khi đã dùng mọi lời thuyết phục Vân đồng ý trong 12 câu thơ đầu đoạn trích, Kiều đứt ruột mà trao lại từng tín vật cho Vân ở 14 câu thơ tiếp theo.
Nhận xét về Nguyễn Du và Truyện Kiều, Mộng Liên Đường chủ nhân từng nói “con mắt trông thấu cả sáu cõi, có tấm lòng suốt cả nghìn đời”. Có thể thấy, con mắt ấy là con mắt của một người đã trải qua nhiều thăng trầm, đời cũng lắm truân chuyên khi sống trong xã hội đầy biến động. Các tập đoàn phong kiến Lê Trịnh chỉ tranh giành quyền lực mà mặc kệ đời sống nhân dân. Bọn quan tham nhũng nhiễu, đồng tiền giữ cán cân công lý… Tất cả mặt trái của xã hội phong kiến thối nát chi phối thế giới quan của Nguyễn Du cùng với quãng đời lưu lạc, Nguyễn Du có hiểu biết phong phú, nhiều chiều, kiến thức sâu rộng đặc biệt là am hiểu tình đời, lòng người. Sự am hiểu này tác động đến tâm hồn “ưu thời mẫn thế” khiến nhà thơ trải lòng mình thương cảm cho những số kiếp hẩm hiu. Kiều từ đấy là ra đời cùng với tấm lòng nhân đạo cao cả ở Nguyễn Du.
Thuý Kiều là một trang tuyệt sắc giai nhân có cuộc đời bình lặng cùng với gia đình. Nàng gặp gỡ và đính ước thề nguyền cùng chàng Kim Trọng, nguyện suốt đời khắc cốt ghi tâm mối duyên tình. Ngờ đâu cũng vì bọn quan sai tham tài mà đẩy gia đình nàng rơi vào cơn nguy biến. Để cứu cha và em, Kiều đành bán thân để tròn chữ hiếu còn chữ tình thì đứt đoạn. Sau một đêm khóc thương cho phận mình, Kiều đã trao lại duyên tình cho Thuý Vân. Đoạn trích Trao duyên trích từ câu 723 đến câu 756 đã làm rõ bi kịch trong tình yêu và bi kịch thân phận của Thuý Kiều.
Nếu ở 12 câu thơ trước đó là một cuộc tranh đấu giữa lý trí và tình cảm khi Kiều thuyết phục em chịu lời thì 14 câu thơ này Nguyễn Du đã tập trung khắc hoạ tâm trạng giằng xé của nàng Kiều thể hiện rõ qua cách sắp xếp lời nói và hành động khi Kiều trao tín vật lại cho Vân.
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.”
Trao duyên đâu chỉ là trao lại lời cậy nhờ Thuý Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Để thể hiện tấm chân tình của mình, Kiều đem cả những tín vật hẹn thề giữa hai người để trao lại cho em. Việc làm này không phải là bước cuối cùng để hoàn thành thủ tục trao duyên mà là sự tiếp nối dẫn đến cao trào của tâm trạng hoang mang, đau đớn khi lý trí bảo rằng phải làm như thế mà con tim thì từng hồi quặn thắt. Bởi thế mà Kiều không thể một lần trao hết kỉ vật cho Vân. Nàng đưa vật trước rồi sau đó là những lời than thở. Mỗi lần kỉ vật rời tay nàng là mỗi lần nàng chìm vào trong mối tơ vò.
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này em giữ, vật này của chung”
“Chiếc vành”, “bức tờ mây” được Kiều đưa đầu tiên cho Vân. Chuyện trao tín vật không phải lạ lùng nhưng khác thường ở chỗ cách mà nàng Kiều định danh cho kỉ vật. “Chiếc vành” và “bức tờ mây” thì đúng là “vật này” nhưng “duyên này” lại là cách nói mơ hồ. Hãy nhớ rằng hai vật này đã in dấu mối tình tưởng như bền chặt trăm năm của Kim Kiều. Ngày đầu xuân năm nào cũng là lần đầu tiên gặp gỡ, Kiều đã cố tâm để quên trên cành đào chiếc kim thoa (chiếc vành) để rồi Kim Trọng mượn lý do trao lại cùng chiếc khăn hồng. Chiếc vành là duyên gặp gỡ, duyên tao ngộ cũng vầy duyên đôi lứa. Còn “bức tờ mây” không gì khác ngoài bức tiên thề hai người đã soạn ra cùng với tóc mây hai mảnh chia đôi trong đêm trăng sáng chứng giám cho lời thề hẹn. Nếu tách câu thơ ra sẽ nhìn thấy được sự sắp xếp tinh tế trong lời nói của Kiều. “Chiếc vành” là “duyên này”, “bức tờ mây” là vật này. Nếu nhìn ở góc độ ấy ta sẽ hiểu được ý ngầm của nàng Kiều “thông minh vốn sẵn tính trời”. “Chiếc vành” suy cho cùng là của riêng Kiều nên Kiều có thể trao lại cho em nhưng “bức tờ mây” là lời ký thác của hai người Kim – Kiều cũng là tấm chân tình mà chàng Kim trao cho Kiều nên Kiều không thể tự mình trao cho Vân tất cả. Thế nên “chiếc vành” Vân có thể thay chị “giữ”, tạm gọi là của riêng Vân chứ “bức tờ mây” thì là “của chung”.
Biết rằng trao vật là trao duyên và nghĩa là mình sắp không còn gì nữa nên nàng Kiều đã hoang mang mà đánh mất đi một phần lý trí. Diễn biến tâm trạng của Kiều từ đây về sau đoạn trích đều theo hướng thiếu dần sự sáng suốt, bình tâm. Vì thiếu bình tâm nên lời nói có phần mâu thuẫn. Duyên đã trao cho em, cả kỉ vật cũng trao vậy mà Kiều lại dùng từ “giữ” và “của chung”. “Giữ” chỉ là Vân thay chị bảo tồn, giữ gìn chứ không hẳn là sở hữu. Vậy hoá ra cái phần duyên mà Kiều trao em chỉ là phần xác, là lý thuyết còn cái cốt lõi, cái thiêng liêng thì thuộc về “của chung”. Có nhiều cách hiểu “của chung” là gì. Nếu hiểu của chung là mối duyên tình của cả ba người Kim, Kiều và Vân thì chưa thỏa đáng. Bởi lẽ hơn ai hết Kiều hiểu rằng cuộc tình trọn vẹn không thể có người thứ ba. Vậy “của chung” thực ra tồn tại trong vô thức của nàng Kiều đó chính là của hai người Kim Trọng và nàng. Tuy có phần vô lý nhưng không phải Kiều lòng dạ hẹp hòi đã trao duyên cho em lại còn muốn lưu giữ tình cho riêng mình. Mọi nguồn cơn cũng do tình cảm đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát của lý trí. Kiều là người nặng tình, trao duyên cho em nhưng tình thì đâu dễ trao.
Trong cảnh tình ấy hẳn Kiều đã cầm lên kỉ vật mà nâng niu, mà đầm đìa nước mắt. Cứ trao một vật là buông lời thở than. Nàng mong muốn em nên vợ nên chồng thì lại khẩn cầu “xót người bạc mệnh”, khi trao “mảnh hương nguyền” thì lại nghĩ đến viễn cảnh sống tức tưởi ở bên kia thế giới. “Người bạc mệnh” chính là cách nói ẩn dụ cho số phận nàng Kiều mỏng manh, bạc bẽo. Cái hồng nhan giữa cơn vẫn vũ đã không giữ được lời thề lại còn phải đứt ruột mà trao tình cho em. Thử hỏi với người con gái nặng nghĩa sâu tình thì có phải số mệnh cũng đứt đoạn từ đây. Dù người đã mất thì vẫn còn “của tin”. Trong giờ phút ấy, Thuý Kiều hiểu rằng lòng chàng Kim và cả Thuý Vân dù có vầy duyên đôi lứa vẫn không thể quên mình. Đã vậy thì người mất chứ tình vẫn còn. Từ “của chung” sẽ dẫn đến “của tin”.
Nói là trao cho Vân “phím đàn với mảnh hương nguyền” nhưng thực sự vật này đâu phải vật cầm trao. Nếu cho “phím đàn” là cách gọi của cung đàn mà Kiều đã so dây dạo cho Kim Trọng nghe trong lần gặp gỡ thì đúng là kỷ vật này chỉ mang phần xác. Dù vẫn là cây đàn cũ, phím tơ đã từng vang lên cung thương cung oán nhưng không có người xưa nhẹ nhàng nâng phím thì đàn có khác chi một vật vô tri. Điều mà Nguyễn Du muốn nói là dư âm còn đọng lại, là phần linh hồn có muốn cũng không thể trao. Cả “mảnh hương nguyền” cũng thế. Mảnh hương còn sót lại trong buổi “đốt lò hương ấy so tơ phím này” hay chỉ là một ký ức đeo đẳng không rời. Nếu đã thuộc về linh hồn, ký ức thì đúng là khó mà trao.
Đoạn thơ còn có sự góp mặt của phép điệp “dù” được lặp lại ba lần: “chị dù thịt nát xương mòn”, “dù em nên vợ nên chồng”, “mai sao dù có bao giờ”. Ở cả ba lần xuất hiện “dù” hàm ý suy đoán một khả năng trong giả định có thể xảy ra ở tương lai. Nhìn một cách tổng thể để thấy Kiều muốn nói rằng: sau này, chị dù có “thịt nát xương mòn” thì cũng ngậm cười nơi chín suối. Em dù có nên duyên chồng vợ với Kim Trọng thì cũng đừng quên người bạc mệnh là chị đây. Và hơn thế nữa, lúc nào đó em cùng chàng đốt mảnh hương, so lại phím xưa thì đâu đó hồn chị đã trở về. Thế nên điệp khúc “dù” đã vẽ ra viễn cảnh thảm thương cứ mãi ám ảnh Kiều.
Cái hay của Nguyễn Du là trong phần chung vẫn tinh tế tìm ra được nét riêng của mỗi trường hợp từ “dù” xuất hiện. “Chị dù thịt nát xương mòn” là lời thuyết phục tối hậu Kiều buộc Vân đồng ý nên sắc thái khẳng định. Câu thơ còn mang cả sức nặng khi Kiều lấy cái chết để tăng ý nghĩa thiêng liêng. Câu “dù em nên vợ nên chồng” sắc thái khẳng định đã mất đi phần nào, câu thơ mang âm điệu dè dặt, chút lo âu và không dứt khoát. Không thể bỏ qua vai trò của từ “ắt” trong câu “xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên” đã góp thêm một tiếng nói e dè, chần chừ khi nhắc đến chuyện Vân và chàng Kim vầy duyên đôi lứa.
Riêng câu “Mai sau dù có bao giờ” thì ngoài ý nghĩa của “dù” câu thơ còn đặc biệt khi nhịp ngắt 2/2/2 từng lời ngập ngừng, ngắt quãng như bẻ đôi ra. Đó mới đúng là tâm trạng uất nghẹn, đau đớn của Kiều. Sau câu thơ này là Kiều nghĩ về cái chết. Một cái chết tức tưởi, oan khuất mà hồn phách còn vất vưởng nặng nợ trần gian.
“Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rưới xin giọt nước cho người thác oan.”
“Dù có bao giờ” không còn là ý nghĩa giả định những chuyện có hoặc không có khả năng xảy ra ở tương lai mà vẽ ra một viễn cảnh thê lương với khả năng trở thành hiện thực rất lớn đến mức người nghe bị ám ảnh bởi sự âm u, tiếng than ai oán. Bầu không khí thì phảng phất hồn ma bóng quế vừa mơ hồ lại vừa huyễn hoặc. Một người con gái đa sầu đa cảm đã tự soạn cho mình khúc Bạc mệnh não nhân, đã từng thổn thức trước số phận hẩm hiu của nàng Đạm Tiên chắc hẳn đã dự cảm những sóng gió mà nàng sắp sửa trải qua. Bán mình làm vợ lẽ không là con đường chết nhưng khi đã trao tất cả duyên tình thì Kiều nghĩ linh hồn của mình đã không còn trong thể xác. Linh hồn ấy sẽ theo lò hương, phím đàn mà trở về chứng kiến hạnh phúc của em mình.
Đoạn thơ sử dụng nhiều hình ảnh mơ hồ từ thời gian không xác định “mai sau”, “bao giờ” đến từ ngữ chỉ cái chết “hồn”, “hiu hiu gió thì hay chị về”, “nát thân bồ liễu” “dạ đài”, “thác oan” như được lấy ra từ một bài văn chiều hồn viết cho chính người còn sống. Ở đó “thân bồ liễu” là cách nói ẩn dụ khi Nguyễn Du mượn đặc điểm của loài cây dương liễu sống gần mặt nước, dù cây vẫn còn sống nhưng cành lá đã tiêu điều để chỉ sự sống yếu ớt, mỏng manh. “Bồ liễu” là phận má đào vốn đã dễ khổ đau nay lại phải đối diện trước duyên số hẩm hiu thì tấm thân dù có nát tan thì vẫn xin giữ vẹn nghĩa tình “đền nghì trúc mai”. Thêm một cách ước lệ tượng trưng được sử dụng “trúc mai” chỉ người quân tử cũng là chỉ tấm lòng son sắt thuỷ chung của Kiều đối với Kim Trọng.
Người còn ở dương gian mà nỗi lo sợ của nàng đã xuống “dạ đài”. Thế nên nàng nghĩ đến chuyện sau này giữa nàng và chàng Kim “cách mặt khuất lời”. Hai kẻ hai nơi xa biệt, không nhìn thấy mặt nhau cũng chẳng thể nghe tiếng nói. Còn chăng chỉ là chút lòng nghĩ về nhau để mà thương cảm cho kẻ đã “thác oan”. Kiều vẫn còn sống nhưng thể xác đã rệu rã không còn đủ sức gọi hồn vía trở về. Trong giây phút ấy, Kiều nghĩ mình đã chết, nói đúng là hơn chết oan khuất nên linh hồn không siêu tán. Nghĩ rằng mình “thác oan” là Nguyễn Du đang mượn lời Kiều để tỏ thái độ phản kháng với sự suy đồi của thời cuộc, công lý và nhân nghĩa đi đâu vắng chỉ để kẻ buôn người, những tên quan tham lộng hành. “Thác oan” cũng là vì sự bất công của xã hội thối nát đã bắt một người con gái trung trinh, son sắt phải sống trong nỗi đau số phận bị vùi dập. Có thể nói đến lúc này đây Thuý Kiều đang chính thức nghĩ đến bi kịch cuộc đời mình. Bi kịch duyên tình không trọn vẹn, bi kịch sinh ra là kiếp nhan hồng mà tạo hoá tỵ hờn khiến cho má đào tan nát và phải chăng tấn bi kịch còn mãi về sau là sống mà như đã thác, vật lộn với bùn nhơ để cố giữ chút trinh nguyên trong tâm hồn. Thế nên Kiều xin em mình “rưới xin chén nước” không phải để hưởng chút lộc của người sống dành cho người chết mà chén nước ở đây là loại nước tinh khiết để giải oan. Theo quan điểm của người xưa, chỉ có người sống mới có thể giải mối oan tình cho người đã khuất thế nên dù hiểu lòng mình trong sạch nhưng Vũ Nương cũng mong chàng Trương lập đàn giải oan nghiệt đã gieo.
Tóm lại, ở 14 câu thơ giữa của đoạn trích Trao duyên, Nguyễn Du đã thực sự chứng tỏ mình là bậc thầy của ngôn ngữ đồng thời cũng là người có tấm lòng nhân đạo sâu sắc. Nhiều từ ngữ tinh tế, đa sắc thái kết hợp xen kẽ các chi tiết miêu tả lời nói, hành động…Tất cả diễn biến theo mạch tâm lý của một cô gái thông minh, nhạy cảm đối diện với bi kịch đời mình.
Đoạn thơ rất thành công khi thể hiện sự xung đột giữa lý trí và tình cảm. Ban đầu là lý trí dẫn đường nhưng càng về sau tình cảm càng thắng thế. Đấy mới đúng là tâm lý của nàng Kiều, một con người có số phận đặc biệt có tính cách đặc biệt và cũng sống động, đau thương như nỗi đau của người phụ nữ tài hoa sống trong giai đoạn xã hội tăm tối.
“Mặt ngọc nỡ sao vùi đáy nước
Lòng trinh không thẹn với Kim Lang
Đoạn trường mộng tỉnh duyên đã đứt
Bạc mệnh đàn ngưng hận vẫn vương…”
(Phạm Quý Thích)
Phân tích 14 câu giữa bài Trao duyên – Mẫu 2
Nhắc đến Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du người ta nhớ ngay đến Truyện Kiều, một thiên truyện trở thành kiệt tác của văn học Việt Nam. Trao duyên là một trích đoạn trong tác phẩm này, trong tổng thể toàn tác phẩm, đoạn trích này có một vị trí, vai trò và ý nghĩa vô cùng đặc biệt. Riêng 14 câu thơ giữa đoạn trích không chỉ thể hiện rõ lời nhờ cậy tha thiết và tình cảnh đáng thương của Thúy Kiều khi trao duyên mà còn thấy được tấm lòng, tài năng của Nguyễn Du trong việc khắc họa nội tâm, tâm lý nhân vật.
Tình yêu của Thúy Kiều với Kim Trọng tưởng chừng như sẽ được hạnh phúc bởi tình cảm tha thiết mặn nồng lại sâu nặng. Thế nhưng biến cố gia đình đã khiến đoạn tình đó đứt ngang chia lìa. Để có thể chuộc cha và em đang bị bắt, Kiều chỉ đành bán mình cho tên Mà Giám Sinh, đoạn trích Trao duyên diễn ra khi sự việc bán mình của Kiều đã rồi. Bản thân trở thành món hàng hóa mua bán trao đổi, không còn được sống với cuộc sống của chính mình, Kiều càng đau đớn hơn vì tình yêu tan vỡ. Đến đây Kiều đành phải trao duyên cho em gái mình là Thúy Vân, nhờ cậy em trả nghĩa ơn tình cho Kim Trọng. Trong khi nói chuyện cùng với Vân, trong lòng Kiều như đang sống lại với những kỉ niệm tình yêu nồng thắm với chàng Kim, nàng sống trong hồi ức với nhiều kỉ vật:
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung…
…Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.”
Những sự kiện trong đêm thề nguyện thiêng liêng của hai người như “phím đàn” là cảnh Kiều ngồi đàn cho Kim Trọng nghe, và “mảnh hương nguyền” là khi Kim Trọng cho thêm hương vào trong lò “Đốt lò hương ấy so tơ phím này”. Có thể thấy, trong tâm hồn Kiều khi ấy là sức sống mãnh liệt của tình yêu thủy chung, sâu sắc. Duyên tình nguyện giữ trong lòng không thể chia sẻ chỉ có thể gửi gắm mối duyên dang dở cùng với những kỉ vật làm của chung của ba người. Thúy Kiều trao đi những kỉ vật tình yêu cho em gái nhưng nội tâm đang giằng xé trong đau đớn, tình yêu của nàng càng mãnh liệt và sâu nặng bao nhiêu thì giây phút ấy nàng càng cay đắng và xót xa bấy nhiêu. Vậy nên Kiều đã chẳng còn nghĩ gì đến quãng đời phía sau của mình, sau khi trao kỉ vật cho Thúy Vân, Kiều đã liên tưởng đến cái chết:
“Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”
Một loạt các từ ngữ đề cập đến cái chết mà Kiều đã nói ra như “thấy hiu hiu gió thì hay chị về”, “hồn”, “thân bồ liễu”, “dạ đài”, “người thác oan”. Trao đi đoạn duyên tình với chàng Kim nàng Kiều cảm thấy cuộc đời mình đến đây đã thấm câu “Hồng nhan bạc phận”, cảm thấy nửa đời về sau từ giây phút bán mình cho Mã Giám Sinh đã là dấu chấm hết. Nàng cảm thấy sự tồn tại là trống trải, vô nghĩa khi không còn tình yêu nữa, không chỉ mường tượng ra cái chết mà nàng nhận định đây sẽ là cái chết đầy oan nghiệt không thể siêu thoát được vì còn vương nợ dương gian. Nàng “xin rưới giọt nước” để linh hồn đơn độc, đau khổ của nàng được siêu thoát.
Thúy Kiều đang nói chuyện với Thúy Vân nhưng thực ra cũng là đang độc thoại với chính mình, những lời tâm sự, dặn dò của Kiều cũng chính là tiếng nói thương xót cho thân phận của một người con gái tha thiết với tình yêu nhưng không thể thay đổi số phận nghiệt ngã. Chữ hiếu đã buộc nàng Kiều phải lựa chọn hy sinh tình yêu, lý trí của Kiều nhận thức được phải nhờ em gái trả nghĩa. Tuy đã nhờ cậy em nhưng bước đường này khiến Kiều đau đớn tột cùng, chỉ biết than thân trách phận, xót xa cay đắng chứ không hề được thanh thản cõi lòng.
Có thể thấy Thúy Kiều là một người con gái mang thân phận đau khổ nhưng nhân cách sáng ngời, trong tâm hồn Kiều không có sự phân chia lí trí hay tình cảm, nhân cách hay thân phận mà hòa quyện chặt chẽ với nhau. Nhờ có bút pháp miêu tả nội tâm nhân vật tài hoa của Nguyễn Du cùng với ngôn từ độc thoại sinh động mà ta cảm thấy Thúy Kiều sống động và chân thực hơn, gần gũi tự nhiên chứ không hẳn là một tấm gương đạo lí.
Phân tích 14 câu giữa bài Trao duyên – Mẫu 3
Có lẽ, đoạn trích “Trao duyên” trong tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du không đơn thuần chỉ dừng lại ở việc trao duyên nữa. Mười bốn câu thơ trong đoạn trích “Trao duyên” là tất thảy nỗi đau đớn về tình yêu Kim – Kiều bị chia cắt và tổng kết lại số phận ngang trái, truân chuyên của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.
Nguyễn Du (1765 -1820) được coi là một đại thi hào của nền văn học dân tộc Việt Nam. Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, hiệu Thanh Hiên, sinh ra và lớn lên tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Tỉnh Hà Tĩnh. Ông là con một gia đình phong kiến quý tộc nhưng sống giữa một thời kỳ lịch sử đầy biến động. Trải qua hơn chục năm sống gian khổ ở nhiều vùng quê khác nhau, ông có cơ hội chứng kiến tất thảy những bất công ngang trái của cuộc đời nhất là người phụ nữ “tài hoa bạc mệnh” trong xã hội cũ. Căm phẫn trước chế độ, thương thay cho thân phận người phụ nữ, tin yêu vào phẩm chất con người… Nguyễn Du đã truyền tải những điều đó trong cùng một tác phẩm “Truyện Kiều”.
Đoạn trích “Trao duyên” trích từ tác phẩm “Truyện Kiều” nói tới việc Thúy Kiều nhờ cậy em gái là Thúy Vân giúp mình tiếp nối mối duyên nồng với Kim Trọng để thay nàng đền đáp tình yêu nặng của nàng.
Mười bốn câu thơ sau đây tái hiện đầy đủ bi kịch tan vỡ của tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng cùng nỗi đau tột cùng về số phận bi thương của đời Kiều. Qua đó, người đọc thấy được tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du và niềm ca ngợi khát vọng hạnh phúc của con người:
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót thương mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”
Sau khi cậy nhờ Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng, Kiều trao lại cho em kỉ vật tình yêu:
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung”
“Chiếc vành” và “tờ mây” là hai kỷ vật minh chứng tình yêu và cũng là lời thề ước giữa Kim Trọng và Thúy Kiều. Kỷ vật của một mối tình đẹp mà Kiều không nỡ rời xa nay đành lòng gửi gắm tất cả lại cho Thúy Vân.
Đồ vật có thể cho, tặng nhưng tình cảm đâu phải là thứ nói cho là cho, nhất là tình yêu. Cái “chung” trong tình yêu ở đây nó phá vỡ tính quy luật của tình yêu đôi lứa. Tình yêu chỉ thực sự thiêng liêng, vĩnh cửu khi nó là của riêng Thúy Kiều với Kim Trọng. Tình yêu vốn không cho phép có người thứ ba. Một khi có người thứ ba, sự thiêng liêng sẽ bắt đầu đổ vỡ. Nguyễn Du có lẽ đang oán, oán cái chế độ xã hội tàn bạo, cổ hủ, nhiễu nhương khiến cho tình yêu thiêng liêng phải tan vỡ.
Từ đây những kỉ vật Kiều trao lại cho Vân sẽ chỉ còn là vật làm tin để Vân nhớ đến Kiều. Kiều nhắc nhở Vân những lúc em hạnh phúc bên người yêu thì đừng bao giờ quên chị:
“Dù em nên vợ nên chồng
Xót thương mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Nỗi đau như đọng lại trong lời thơ “Dù em nên vợ nên chồng”. Nhìn người mình yêu nên vợ nên chồng với người khác đau xót biết nhường nào. Hơn nữa, tuy nguyện vọng của Kiều thành hiện thực, nhưng nàng vẫn đặt ra những giả thuyết tương lai như có điều gì đó vẫn chưa ổn, chưa yên. Kiều tự coi mình là kẻ “mệnh bạc” để người khác phải xót xa, thương hại.
Bốn câu thơ tiếp theo là dự cảm về cái chết mà Kiều đã chuẩn bị sẵn tinh thần để đón nhận:
“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”
Phải nghiệt ngã đến thế nào mà một người mới tuổi xuân xanh cứ ám ảnh hoài về cái chết. Kiều đã mất hết niềm yêu sống trong hiện tại. Kiều chỉ nghĩ tới tương lai và trông chờ vào lòng thương của kẻ khác. Khi Vân hạnh phúc hãy nhớ tới linh hồn của Kiều mà đốt nén hương, chơi bản nhạc tặng Kiều. Nếu có ngọn gió vật vờ nơi lá cây, ngọn cỏ hãy nhớ tới Kiều.
“Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”
Với Kiều, duyên tình có lẽ đã hết, kỉ vật tình yêu cũng đã trao tay, nhưng tâm hồn của nàng vẫn sẽ mãi ghi nhớ lời thề với chàng Kim. Kiều ví mình như thân của liễu, như cành trúc cành mai tuy mỏng manh nhưng thanh cao. Kiều không quản “nát thân”, “đền nghì” vẫn sẽ ghi tạc ơn tình đậm sâu của Kim Trọng.
Kiều dặn dò Vân:
“Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”
“Dạ đài” là nơi âm phủ tăm tối. Kiều tự cho rằng mình sẽ thuộc về chốn âm ty địa ngục. Nhưng dù có “cách mặt khuất lời” tức là sẽ không thể thấy hay nghe được tiếng nói của nhau, thì Vân hãy cứ rảy chén nước “thác oan” cho Kiều. Từ “thác oan” cho thấy Kiều vẫn có gì đó như là ấm ức, oan uổng lắm nên sau khi chết hồn oan không tan, không được siêu thoát. Đó cũng là nỗi ấm ức của chính tác giả khi muốn lên tiếng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho người phụ nữ xưa.
Đoạn trích “Trao duyên” là tình yêu và cũng là số phận bi kịch của Kiều. Nguyễn Du đã thành công trong việc miêu tả nội tâm của nhân vật. Tuy tác phẩm đã ra đời cách nay mấy trăm năm nhưng câu chuyện về thân phận và vẻ đẹp người phụ nữ vẫn là nỗi nhức nhối trong xã hội cả trước và nay.
Phân tích 14 câu giữa bài Trao duyên – Mẫu 4
Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc, ông đã từng sống gian khổ ở nhiều vùng quê khác nhau nên đã chứng kiến những bất công ngang trái của cuộc đời đặc biệt là người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Sau khi đi sứ Trung Quốc, Nguyễn Du đã sáng tạo nên kiệt tác ”Truyện Kiều”. Đoạn trích “Trao Duyên” trong Truyện kiều là một đoạn trích thể hiện bi kịch tan vỡ, dang dở tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng. Nếu như ở những câu đầu Thúy Kiều nhờ cậy em gái Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng thì ở 14 câu tiếp, Thúy Kiều đầy xót xa đau đớn mà trao kỉ vật cho Thúy Vân và nhờ cậy em truyện mai sau.
Khi tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng đang diễn ra tươi đẹp và đằm thắm thì thình lình tai biến lại dồn đến. Sau khi thu xếp mọi việc bán mình để cứu cha và em, ngày mai nàng sẽ phải theo Mã Giám Sinh rời khỏi nhà. Đêm ấy, Kiều không đành lòng với tình cảnh dang dở cùng Kim Trọng nên cuối cùng, sau khi tìm cách thuyết phục và trao duyên cho em, khi thấy Vân đã cảm thông, Thúy Kiều đem từng kỉ vật trao tình yêu giữa mình và Kim Trọng ra trao cho em gái:
”Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Thúy Kiều từ từ trao lại những kỉ vật tình yêu “chiếc vành”, ”bức tờ mây” rồi đến ”phím đàn”, ”mảnh hương nguyền” cho Thúy Vân. Kiều đưa cùng một lúc nhưng là đưa từng món một. Mỗi món đều gắn với một kỉ niệm, mang một ý nghĩa của mối tình nồng nàn. Tưởng như Thúy Kiều vừa trao vừa ngập ngừng ngắm nghía lại từng kỷ vật, nhớ lại từng kỷ niệm với nỗi lòng nuối tiếc khôn nguôi cho mối tình tươi thắm ngày nào. Với Vân, có thế đó là những vật vô tri, nhưng với Kiều mỗi kỷ vật là cả một trời ký ức, là nhân chứng cho một tình yêu hạnh phúc, là lời thề nguyền gắn bó trăm năm… gắn liền với những ngày đẹp nhất đời Kiều. Khi đã gửi gắm tất cả lại cho Thúy Vân, nàng căn dặn em ”Duyên này thì giữ vật này của chung”.
”Duyên này” là duyên giữa Thúy Vân và Kim Trọng, chứ phần của Kiều kể như đã hết. Chị đã trao duyên lại cho em nhưng những kỷ vật này thì xin em hãy coi là ”của chung” bởi còn có một phần là của chị. Lúc Kiều kể về mối tình của mình cho Vân nghe, giọng điệu của nàng vẫn bình tĩnh, nhưng đến lúc trao kỉ vật, nàng cảm thấy mình đã mất hết nên không thể kìm nén được cảm xúc đang dậy sóng trong lòng. Nàng tiếc nuối, đau đớn khi có người thứ ba chia sẻ. Trái tim bắt đầu lên tiếng. Cảnh ngộ bắt Kiều phải ”lỗi thề” nhưng trong đáy lòng nàng đâu dễ để có thể nguôi đi được lời thề xưa và đoạn tuyệt tình cũ được. Đầy xót xa sầu tủi, trong đau đớn tận cùng, Thúy Kiều phải chăng vẫn giữ lấy một chút an ủi nhỏ nhoi.
Những tưởng rằng trao xong ”duyên” là lòng nhẹ bỗng không còn vướng bận, con đường phía trước sẽ không còn gì níu kéo nhưng ai ngờ trong tâm hồn Kiều lại chứa đựng bao nhiêu sự giằng xé, cố níu kéo, đau đớn. Rõ ràng, lí trí bắt buộc Kiều phải dứt tình với chàng Kim nhưng tình cảm của nàng lại không thể tuân theo một cách dễ dàng. Nỗi đau như đọng lại ở câu thơ “dù em nên vợ nên chồng” – Kiều tự thấy mình đáng thương, mình là người mệnh bạc để người khác phải xót xa thương hại. ”Mất người còn chút của tin” Kiều chỉ có thể trao duyên còn tình nàng vẫn không thể trao, nàng không thanh thản, nàng đau đớn đến nỗi nghĩ tới cái chết. Nàng dùng dằng, gửi gắm tất cả lại cho Thúy Vân rồi tâm trạng mâu thuẫn thật sự trong lòng nàng mới bùng lên mạnh mẽ nửa muốn trao, nửa muốn giữ. Nàng đã mất bao công sức để thuyết phục em nhưng chính lúc em chấp nhận cũng là lúc Kiều bắt đầu chơi vơi cố níu tình yêu lại với mình. Sau đó Kiều để mặc cho tình cảm tuôn tràn.
Nhưng có điều đặc biệt nằm ở chữ ”giữ” và ”của chung”. ”Giữ” không có nghĩa là trao hẳn mà chỉ là đưa cho em ”giữ” hộ. Còn chữ ”của chung” lại thể hiện tâm lý là Kiều không đành lòng trao tất cả lại cho em. Những chữ đó chứng tỏ tình yêu của nàng và Kim Trọng thật nồng nàn, sâu sắc. Tuy nhiên, Kiều vẫn trao duyên cho em, khẳng định Thúy Kiều đã đặt hạnh phúc của người mình yêu lên trên hết. Đoạn thơ là một tiếng nấc chứa đầy tâm trạng của nàng khi ấy, khiến người đọc cảm thấy đau lòng. Đó cũng là tài năng miêu tả tâm lí độc đáo của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du
Quá đắng cay cho số phận của mình, thấy rõ là mình mệnh bạc, tất cả đã thành quá khứ, Thúy Kiều nghĩ đến một mai sau mù mịt, đau thương khi mình đã chết. Hơn lúc nào hết, ý nghĩ cứ hiện ra và rõ nét dần
”Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”
Đoạn thơ như một lời chiêu hồn buồn thẳm, một hơi thơ khác hẳn với lúc bắt đầu Trao duyên. Đây vẫn là những lời tâm sự của Thúy Kiều với Kim Trọng mà sao lời lẽ bất chợt trở nên xa lắng, mù mịt, phảng phất ma mị như từ cõi bên kia vọng về đến thế. Hàng loạt từ nói về cái chết: âm điệu chập chờn, hư ảo, thời điểm không xác định ”mai sau”, ”bao giờ”, không khí linh thiêng ”đốt lò hương”, ”so tơ phím”, hình ảnh phất phơ, ma mị ”ngọn cỏ lá cây”, ”hiu hiu gió”,… bắt đầu từ đây Kiều mới thực sự cảm nhận được cái bi kịch của đời mình, bi kịch của sự mất mát, bi kịch của nỗi cô đơn. Nàng cảm thấy mình thật đáng thương. Tâm thức đang chìm dần trong nỗi đau khôn nguôi.
Nàng tưởng tượng đến cảnh sum họp của Trọng – Vân, còn mình chỉ là linh hồn ”xương trắng quê người” vật vờ cô độc, bất hạnh nhưng vẫn ”mang nặng lời thề”, vẫn khát khao mong muốn được theo làn gió nhẹ ”hiu hiu” trên ”ngọn cỏ lá cây” để trở về cõi thế gặp lại người thương yêu. Duyên tình của Kiều đã hết, kỉ vật tình yêu cũng đã trao cho em, nhưng hồn của nàng vẫn chưa dứt nỗi chàng Kim, còn mang nặng lời thề trăm năm gắn bó. Thế mới biết nàng có tình yêu thủy chung, mãnh liệt đến mức nào. Nàng trở nên cô đơn, tuyệt vọng, dự cảm được tương lai đầy bất hạnh của chính mình. Nghĩ đến đấy, Thúy Kiều tha thiết dặn em:
”Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”
Nay lo cho người đã xong, nàng mới nghĩ đến mình và thấy mình mệnh bạc. ”Dạ Đài” là nơi âm phủ tăm tối, trong cảnh ngộ ”cách mặt khuất lời” linh hồn Thúy Kiều vẫn khao khát nhận được sự cảm thông, tưởng nhớ của những người yêu thương nên chỉ xin Trọng một ”chén nước” để làm phép tẩy oan. Điều đó chứng tỏ Thúy Kiều vẫn khao khát được trở về cõi thế để chứng minh cho ty bất diệt của mình. Hồn của nàng còn ‘mang nặng lời thề’ nên dù có chết đi cũng chẳng thể siêu thoát. Nàng đau đớn, sợ hãi trước tương lai mù mịt…Thế mới thật sự là giằng xé, thật sự là bi kịch.
Dưới ngòi bút tài hoa sắc sảo của Nguyễn Du, Thúy Kiều hiện lên rất rõ là một cô gái nhạy cảm, vị tha và giàu lòng yêu thương. Qua nghệ thuật miêu tả nội tâm tài tình thông qua lời đối thoại và độc thoại, nỗi đau và tâm hồn của Kiều càng được thể hiện tinh tế, khắc họa sinh động, sâu sắc và đầy xúc cảm tâm trạng của Thúy Kiều khi tình yêu tan vỡ, nỗi đau đớn của người con gái bất hạnh này
Đoạn trích là những dòng thơ thể hiện bi kịch tình yêu bậc nhất trong Truyện Kiều. Qua đó, bộc lộ phẩm chất cao quý của Thúy Kiều trong tình yêu. Trước sự tan vỡ của tình yêu, nàng làm tất cả những gì có thể làm được để người mình yêu được hạnh phúc nhưng người đau khổ nhất vẫn là nàng. Nhờ thế mà đoạn trích đã thể hiện được tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du: nỗi cảm thông sâu sắc đối với những đau khổ và khát vọng hạnh phúc, tình yêu của con người.
Phân tích 14 câu giữa bài Trao duyên – Mẫu 5
Truyện Kiều được xem là một thiên truyện nói về nỗi đau của con người trong chế độ đầy rẫy những bất công. Là tác phẩm có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Là tác phẩm đạt đến trình độ mẫu mực cổ điển mà tiêu biểu đó là nghệ thuật tả người, khắc họa tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc. Để minh chứng cho điều đó chúng ta có thể tìm hiểu ở 14 câu giữa của đoạn trích Trao Duyên.
Đoạn trích thuộc đoạn mở đầu cho cuộc đời lưu lạc đầy rẫy những khổ đau, ngang trái mà Thúy Kiều phải chịu đựng. Sinh ra trong một gia đình khá giả nhưng cha và em trai bị hàm oan và bị bắt giam. Thúy Kiều đành phải bán mình cho Mã Giám Sinh để cứu cha và em trai. Trước đó Kiều đã có hẹn ước với Kim Trọng, nay đành phải “trao duyên” này cho em là Thúy Vân. Đoạn trích Trao Duyên chính là đoạn nói về việc Thúy Kiều nhờ cậy em trả nghĩa cho chàng Kim. Nhan đề Trao Duyên nhưng không phải việc trao giữa nam và nữ có tình cảm với nhau như ta từng bắt gặp trong ca dao. Ở đây Trao Duyên là gửi tình, gửi duyên cho người khác, người sẽ tiếp nối duyên phận, mối tình dở dang của mình.
Sau khi cậy nhờ em cũng như nhớ lại mối tình của mình với chàng Kim thì mười bốn câu thơ giữa bài tái hiện bi kịch tình yêu tan vỡ của mình:
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót thương mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”
Sau khi nhờ cậy và biết rằng em thuận lòng và để tăng thêm sự dứt khoát cũng như nắm chắc quyết định dứt tình với chàng Kim thì Thúy Kiều đã giao ra kỷ vật đó là “chiếc thoa” với “bức tờ mây”. Nếu nói trao duyên, trao tình cảm thì nghe còn trừu tượng, chưa có cơ sở, nhưng khi đưa ra tất cả những tín vật thì chắn hẳn lúc này Thúy Kiều vô cùng đau đớn. Có thể nói khi nhìn người mình yêu sánh đôi với kẻ khác đã đau đớn mà chính mình chặt đứt tơ duyên, đem trao duyên này cho người khác thì càng đau xót đến nhường nào. Trao kỷ vật cũng nhằm để cho Thúy Vân nhớ đến mình, nàng tự coi mình là “mệnh bạc” để người khác xót xa thay cho thân phận mình. Kiều còn tưởng tượng ra cảnh sau này em mình và chàng Kim:
“Dù em nên vợ nên chồng,
Xót thương mệnh bạc ắt lòng chẳng quên”
Kiều tự coi bản thân chuyến này như đã chết, đánh mất bản thân, mất đi tơ duyên ngày nào thì sống trên đời cũng chẳng còn nghĩa lý gì. Kiều chỉ mong rằng Thúy Vân còn giữ kỷ vật cũng như về người chị “mệnh bạc” này”. Chút níu giữ đó là vật làm tin nay cũng trao đi rồi, còn”phím đàn” ở lại như để mỗi khi ai đó đánh lên sẽ nhớ tới nàng. Bốn câu thơ tiếp theo chính là những dự cảm về cái chết mà Kiều đã sẵn sàng đón nhận:
“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”
Cả một đoạn thơ dài đều là những ám ảnh về cái chết chứ không phải ở bốn câu thơ trên. Chắc hẳn Thúy Kiều đã mất niềm tin vào tương lai phía trước, đứng trước sự nghiệt ngã ở đời thì nàng không trông mong khi mình đi rồi sẽ tìm được hạnh phúc, sẽ được ấm êm. Một người đương tuổi xuân phơi phới nhưng luôn canh cánh về cái chết. Nàng chỉ mong ước duy nhất đó là mai sau Thúy Vân hãy nhớ tới linh hồn của mình để nàng đỡ lẻ loi, hiu quạnh. Khi đàn, khi đốt hương hay khi trông ra ngọn cỏ thì hãy nhớ đến người chị này. Kiều mất niềm tin vào cuộc sống, cho dù chết cũng chỉ biết nương nhờ cỏ cây, vật vờ nơi lá cây ngọn cỏ chứ chẳng biết bám víu vào đâu.
Duyên tình đã hết, dù cho có chết đi và mọi người có thể quên lãng nhưng nàng vẫn mang những tâm tư, tình cảm đi theo:
“Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền ghì trúc mai”
Lời thề, lời hẹn ước mặc dù đã được trao cho em thay mình trả nhưng không có nghĩa là cô đã hoàn toàn trút bỏ, lãng quên. Thậm chí kể cả khi đã chết thì vẫn “mang nặng lời thề”. Nàng tự ví mình như “bồ liễu”, “trúc mai” tuy mảnh mai, yếu đuối nhưng lại thanh cao. Mong muốn được rửa oan khuất khi bị tước mất quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc.
Tóm lại đoạn trích Trao Duyên đã nói lên bi kịch tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng. Đây cũng là đoạn thơ đặc sắc khi Nguyễn Du đã khắc họa thành công tâm lý, miêu tả nội tâm nhân vật. Qua đó phản ánh bi kịch của người phụ nữ trong xã hội xưa.
Phân tích 14 câu giữa bài Trao duyên – Mẫu 6
Có thể nói Nguyễn Du là bậc thầy trong nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật. Tài năng ấy của ông được thể hiện xuyên suốt trong tác phẩm “Truyện Kiều”, tiêu biểu nhất là ở đoạn trích “Trao duyên”. Đoạn trích này đã thể hiện những tâm trạng, cung bậc cảm xúc của Thúy Kiều khi cậy nhờ Thúy Vân “chắp mối tơ thừa” với Kim Trọng. Và nó thể hiện rõ nét hơn ở 14 câu giữa của bài Trao khi Kiều trao kỉ vật và dặn dò Thúy Vân.
Như ta thấy, tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng đang ở giai đoạn đẹp nhất thì bỗng phải chia lìa vì Kiều bán mình cứu cha và em. Hai người đã có một cuộc thề nguyền đầy thiêng liêng và lãng mạn nhưng trong hoàn cảnh gia đình gặp gia biến, phận làm con Kiều lựa chọn chữ hiếu để báo đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ.
Và nàng trao lại mối tình duyên cho Thúy Vân mà trong lòng ngổn ngang những tâm trạng, cảm xúc. Trao lại thứ gì đó thuộc về vật chất thì còn dễ hình dung, đong đếm nhưng Thúy Kiều lại trao duyên, có mấy ai định hình được thứ tình cảm này?
Những kỷ vật của tình yêu như chiếc vòng đeo tay và tờ giấy ghi lời thề nguyền của hai người Thúy Kiều đều đem trao lại để Thúy Vân giữ:
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung”
“Chiếc vành – Tờ mây” là vật thề ước, là sự chứng thực cho mối tình đôi lứa Kim Trọng- Thúy Kiều. Có hai vật đó Kiều mới có thể đường hoàng bên chàng Kim đến “đầu bạc răng long”. Nhưng mất nó đồng nghĩa Kiều với Kim không còn là gì cũng như tình yêu sẽ đổ vỡ không thể hàn gắn. Bởi vậy nên mỗi kỷ vật trao đi như từng mảnh tình yêu cuối cùng rời khỏi tay Kiều. Giọng điệu nghe ra bình thường như vẫn có tiếng nấc nghẹn ngào sau từng câu câu chữ. Trao đi “duyên này…vật này” cho Vân nhưng lại kết bằng hai chữ “của chung”.
Tình yêu với Kiều là sự sống, là hơi thở nên đâu nói bỏ là dứt được. Nguyễn Du cuối cùng vẫn để kiều trở lại là người con gái yếu đuối nằm trong dòng xoáy tâm lí thường tình, khi mất đi thứ gì càng quan trọng với mình thì càng ý thức mạnh mẽ về giá trị thực của nó. Cho nên “của chung” mới vang lên trong Kiều với bao nhiêu giằng xé, mâu thuẫn. Dường như lý trí nàng đã quyết định dứt bỏ nhưng trái tim thì không thể tuân theo. Giống như kỷ vật đã trao nhưng vẫn níu kéo tình yêu, kỉ niệm cho riêng mình.
Nhưng cuộc đời bể dâu với những “sóng gió bất kì” đã khiến Kiều rơi vào bi kịch của sự tuyệt vọng do chính mình tạo ra khi nhìn vào phía trước vẫn hoàn hảo như vậy, chỉ thiếu bóng mình.
“Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Kiều day dứt láy đi láy lại về tương lai nên duyên vợ chồng giữa Kim Trọng và Vân. Như vậy, nghĩa cho Kim Trọng đã trả, Vân đã có hạnh phúc cho mình, nàng cũng đã báo hiếu cho cha mẹ. Nhưng nàng vẫn không thanh thản vì hạnh phúc cuộc đời nàng là chàng Kim đã thuộc về người khác. Tương lai đã không có chỗ cho Kiều. Nàng cô độc, bơ vơ bên lề hạnh phúc. Nàng sẽ chẳng còn lại gì, thân “bạc mệnh” này chỉ mong chờ vào “chút của tin” cùng quá khứ xưa để được tưởng nhớ không bị lãng quên. Hiện tại vẫn còn đây “chút của tin”, nhưng đó chỉ còn là của “ngày xưa”, là vật gợi lại kí ức trong quá khứ của Kiều, còn mai sau sẽ là của Vân. Chữ “ngày xưa” xa xôi vang lên chua xót gọi về mối tình đẹp mới như ngày hôm qua giữa Kim Kiều. Lúc này, dường như nhớ về kỉ niệm tình yêu ấm áp “phím đàn với mảnh hương nguyền” kia lại càng khiến Kiều đau đớn hơn.
Dấn thân sâu vào nỗi tuyệt vọng, Kiều cảm thấy tương lai sống hay chết cũng không mấy khác biệt:
“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”
Cho dù Thúy Kiều có “thịt nát xương mòn” thì cũng mong rằng Thúy Vân và Kim Trọng không quên mình. Nàng còn chỉ cho Thúy Vân biết dấu hiệu để nhận ra khi mình trở về: “Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”. Một con người nặng tình nặng nghĩa như Thúy Kiều không thể lãng quên lời thề của mình với chàng Kim nhanh như vậy được. Ngay cả khi là một linh hồn chốn cửu tuyền thì nàng vẫn “mang nặng lời thề”. Đó là lời thề thủy chung son sắt trọn đời bên nhau cùng Kim Trọng. Lời thề thủy chung ấy nàng sẽ khắc cốt ghi tâm cả cuộc đời không quên. Thế giới cõi âm và thế giới ở trần gian “cách mặt khuất lời” nên Thúy Kiều chỉ xin Thúy Vân “rưới xin giọt nước” cho linh hồn oan khuất của mình. Thúy Kiều đang còn sống mà tâm trí thì nghĩ về cái chết – cái chết oan khuất của một con người mệnh bạc.
Qua đây ta thấy hậu quả mà xã hội xưa đã đày đọa con người ta đến đường cùng, cướp đi quyền yêu và hạnh phúc, khiến cho một cô gái “xuân xanh” như Kiều lại bế tắc nghĩ đến cái chết. Nàng vùng vẫy vọng tuyệt vọng, muốn biết tại sao mình lại phải hy sinh thân mình, trao duyên, chịu đựng giằng xé vì một lỗi lầm không phải của ai cả. Sự không cam lòng ấy lại chẳng thể chia sẻ với ai, không ai thấu hiểu nên càng bế tắc.
Cả cuộc đời, Kiều vẫn luôn sống trong sự trăn trở với những câu hỏi xem mình làm vậy có đúng hay không. Và ngòi bút nhân đạo Nguyễn Du đã nhìn thấy sự khốn khổ đó của con người trong xã hội cũ và để sự tự ý thức về cuộc đời, số phận, phẩm chất lần đầu tiên được bộc lộ rõ ràng, quyết liệt như thế. Nhà thơ đã lên tiếng che chở cho nhu cầu hạnh phúc cơ bản, vốn có của con người.
Phân tích 14 câu giữa bài Trao duyên – Mẫu 7
Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc, ông từng phiêu bạt, sống gian khổ ở nhiều nơi khác nhau nên đã chứng kiến những bất công ngang trái của cuộc đời đặc biệt là người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Qua trang đời của người con gái tài hoa bạc mệnh – Thúy Kiều, Nguyễn Du đã phải thốt lên: “Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Trao duyên là nốt nhạc buồn khởi đầu cho cung đàn bạc mệnh suốt mười lăm năm của Thúy Kiều. Nếu như ở 12 câu đầu Thúy Kiều nhờ cậy em gái Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng thì ở 14 câu tiếp Thúy Kiều đầy xót xa đau đớn mà trao kỉ vật cho Thúy Vân và nhờ cậy em truyện mai sau.
Nguyễn Du có tên chữ là Tố Như hiệu là Thanh Hiên, quê tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh ra trong một gia đình vô cùng danh giá, cha làm quan lớn trong triều Lê, anh trai cùng cha khác mẹ cũng làm tới quan Tham tụng trong triều. Tuổi thơ ông đầy biến động, cha mẹ mất sớm, phải tha hương nhiều nơi lúc thì về quê cha, khi về quê mẹ và có một thời gian phải phiêu dạt tận quê vợ ở Thái Bình. Có thể nói chính cuộc sống chìm nổi cùng với thời thế đầy biến động, phiêu bạt nhiều nơi đã tạo nên một Nguyễn Du có học vấn sâu rộng, trái tim chất chứa yêu thương và cảm thông sâu sắc với những kiếp người nghèo khổ. Nguyễn Du được coi là một người có thiên phú văn học từ nhỏ, bậc thầy trong việc sử dụng tiếng Việt, là ngôi sao sáng chói trên bầu trời văn học Việt Nam. Ông để lại cho đời cả một kho tàng văn học phong phú với khoảng hơn ngàn tác phẩm bao gồm cả chữ Hán và chữ Nôm, trong đó không thể không kể đến Truyện Kiều. Đó là một kiệt tác viết bằng chữ Nôm dựa trên cốt truyện tiểu thuyết của Thanh Tâm tài nhân, tuy nhiên đã được sáng tạo tài trình cải biến để phù hợp với xã hội Việt Nam. Câu chuyện được kể bằng 3254 câu thơ, đoạn trích Trao duyên bắt đầu từ câu 723 đến 756.
Sau khi nhờ cậy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng, Thúy Kiều trao kỉ vật tình yêu lại cho Vân:
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung”
“Chiếc vành”, “tờ mây” là những kỷ vật minh chứng cho tình yêu cũng là lời thề ước của Kim Trọng và Thúy Kiều. Kỷ vật của một mối tình đẹp mà Kiều không nỡ rời xa nay đành gửi gắm tất cả lại cho Vân. Đồ vật thì có thể trao lại cho người khác, nhưng còn tình cảm thì làm sao gửi gắm được, tình yêu giữa hai người đâu phải muốn cho ai là cho. Đó là thứ tình cảm thiêng liêng giữa Kiều và chàng Kim, không thể có người thứ ba xen vào. “Duyên này thì giữ” là trao kỉ vật nhưng không thể quên được kỷ niệm điều đó chứng tỏ tình yêu sâu đậm, nồng nàn của Kim – Kiều. “Của chung” là vật từng là của riêng Kim và Kiều, nay là của chung Kim, Kiều, Vân, nó gợi được sự đau đớn và tiếc nuối. Nguyễn Du có lẽ đang oán cái chế độ xã hội tàn bạo, cổ hủ khiến cho một tình yêu thiêng liêng, mặn nồng như thế phải tan vỡ.
Kỉ vật đã trao lại cho em, Kiều nhắc nhở Vân những lúc hạnh phúc ở bên người yêu thì đừng quên chị:
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Trao kỉ vật lại cho em cũng nhằm để cho em nhớ đến mình, nàng tự coi mình là “mệnh bạc” để người khác xót xa thay cho thân phận mình. Sợi tơ duyên đẹp đẽ ngày nào đã mất đi thì sống trên đời cũng chẳng còn nghĩa lý gì. Kiều chỉ mong rằng Thúy Vân còn giữ kỷ vật cũng như nhớ về người chị “mệnh bạc” này. Chút níu giữ đó là vật làm tin này cũng trao đi rồi, còn “phím đàn” ở lại như để mỗi khi ai đó đánh lên sẽ nhớ tới nàng. Bốn câu thơ tiếp theo chính là những dự cảm về cái chết mà Kiều đã sẵn sàng đón nhận:
“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”
Tác giả sử dụng từ ngữ mang tính giả định “mai này”, “dù có” để thấy được tưởng tượng của Kiều về cảnh ngộ của mình trong tương lai, Thúy Kiều đã mất niềm tin vào tương lai phía trước. Một người đương tuổi xuân phơi phới nhưng luôn nghĩ về cái chết. Nàng chỉ mong ước duy nhất đó là mai sau Thúy Vân hãy nhớ tới linh hồn của mình để nàng đỡ lẻ loi, hiu quạnh. Khi đàn, khi đốt hương hay khi trông ra ngọn cỏ thì hãy nhớ đến người chị này. Kiều mất niềm tin vào cuộc sống, cho dù chết cũng chỉ biết nương nhờ cỏ cây, vật vờ nơi lá cây ngọn cỏ chứ chẳng biết bám víu vào đâu.
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”
Hình ảnh “hồn”, “thân bồ liễu”, “ghì trúc mai”, “dạ đài”, “giọt nước”, “thác oan” gợi ra cuộc sống cõi âm, đầy tâm linh, ma mị. Lời thề, lời hẹn ước mặc dù đã được trao cho em thay mình trả nhưng không có nghĩa là cô đã hoàn toàn trút bỏ, lãng quên. Thậm chí kể cả khi đã chết thì vẫn “mang nặng lời thề”. Nàng tự ví mình như “bồ liễu”, “trúc mai” tuy mảnh mai, yếu đuối nhưng lại thanh cao. Mong muốn được rửa oan khuất khi bị tước mất quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc.
Bằng nghệ thuật khắc họa, miêu tả nội tâm nhân vật, ngôn ngữ độc thoại sinh động, sử dụng ngôn từ điêu luyện tác giả đã cho người đọc thấy được tâm trạng vật vã, đau đớn rồi ngất đi trong tiếng kêu thảng thốt, ai oán của Thúy Kiều. Đó là tâm trạng đau đớn đến cùng cực của Kiều khi phải nhường lại tình yêu của mình và Kim Trọng. Qua đó thấy được bi kịch mà người phụ nữ xưa phải chịu rất nghiệt ngã. Thời gian trôi qua đã hàng trăm năm nhưng đoạn trích Trao duyên nói riêng và kiệt tác Truyện Kiều nói chung vẫn còn nguyên giá trị bởi tài năng miêu tả tâm lí nhân vật của Nguyễn Du đã đạt đến đỉnh cao.
Phân tích 14 câu giữa bài Trao duyên – Mẫu 8
Nguyễn Du không chỉ là danh nhân văn hóa thế giới mà ông còn là đại thi hào dân tộc, một thiên tài văn học của nước nhà. Ông vốn được sinh ra trong một gia đình phong kiến quý tộc nhưng sống trong giai đoạn đồng tiền làm băng hoài đạo đức, đầy biến động, Nguyễn Du chứng kiến được rất nhiều cảnh đời bất công của xã hội bấy giờ, và ông có sự cảm thông sâu sắc đối với thân phận bất hạnh của người phụ nữ. Bởi lẽ đó, ông đã viết nên thi phẩm tuyệt bút “Truyện Kiều”, tác phẩm như tiếng khóc ai oán của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy rẫy những thối nát, bất công. Nổi bật trong đó là đoạn trích “Trao duyên” thể hiện bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh, nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều đồng thời cho thấy tài năng miêu tả tâm lý nhân vật của Nguyễn Du. Nếu như 12 câu đầu Kiều đã thuyết phục được Thúy Vân thì 14 câu sau nàng bắt đầu trao cho Thúy Vân kỉ vật tình yêu và dặn dò em:
“Chiếc vành với bức tờ mây,
……..
Rưới xin giọt nước cho người thác oan.”
Cứ ngỡ hai người “Trai anh hùng – gái thuyền quyên/Phỉ nguyền sánh bước đẹp duyên cưỡi rồng” nào ngờ lại bị cách xa một đời bởi một lí do hết sức đau đớn. Bọn sai nha gây nên vụ án oan sai đối với gia đình Thúy Kiều, nàng buộc phải hi sinh mối tình với Kim Trọng, bán mình lấy tiền hối lộ cho chúng để cứu cha và em. Kiều ngồi trắng đêm nghĩ đến thân phận và tình yêu rồi nàng nhờ em gái là Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng. Những câu thơ đầu nói về việc Thúy Kiều tìm cách thuyết phục Thúy Vân, vừa thuyết phục vừa ràng buộc nhưng vẫn khẩn cầu, Kiều đã đạt được mục đích: nhờ Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Sau khi Thúy Vân đã cảm thông, Thúy Kiều đem các vật đính ước trao lại cho em gái:
“Chiếc vành với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ vật này của chung.”
Giây phút trao kỉ vật của tình yêu là phút giây thiêng liêng, cảm động và rất đau lòng. Tình cảm dẫu sao vẫn còn trừu tượng, chức kỉ vật của tình yêu thì cứ hiển nhiên hiện ra đó, cho nên Thúy Kiều trao “chiếc vành với bức tờ mây” cho em thì nàng cũng đau đớn đến tột độ. Đứng trên góc độ người đọc như chúng ta thì kỉ vật đó chẳng đáng là bao, nhưng đối với Kiều, đó là định ước tình yêu thiêng liêng giữa hai người mà cô trân trọng hơn bao giờ hết. Mỗi lời của nàng nặng như chì, nàng trao duyên nên cũng phải trao cả những kỉ vật tình yêu cho em. Nếu như ở đoạn trên, Kiều kể mối tình của mình cho em nghe bằng giọng điệu cố lấy vẻ bình tĩnh thì đến lúc trao lại kỉ vật cho em, nàng cảm thấy mình đã mất hết nên không thể kìm nén được tình cảm thật nửa, trái tim nàng đã bắt đầu lên tiếng. Ta có thể cảm nhận được sự ngập ngừng, luyến tiếc của Kiều, lí trí bảo phải trao đi nhưng trái tim lại một mực muốn giữ lại.
“Duyên này” từng chớm nở từ buổi gặp nhau giữa Kim – Kiều mà giờ đây đã trở thành duyên giữa Kim và Vân. “Vật này” từng tượng trưng cho tình yêu thiêng liêng Kim – Kiều mà giờ đây đã trở thành “của chung” của Kim – Vân – Kiều. Một tình cảnh hết sức ngang trái, đưa cả ba con người vào vòng xoáy đớn đau không thể tả xiết. Duyên của chị cũng đã trao hết cho em, những kỉ vật này xin em hãy cho nó là một phần của chị, hãy cho nó là “của chung”. Cái xã hội bắt con người phải chung cả cái không thể chung được thì có đáng ghét không, có đáng nguyền rủa không? Đấy chính là lời tố cáo vọng đến thấu trời của Nguyễn Du đối với xã hội đã chà đạp lên hạnh phúc của con người. Xã hội đưa Kiều vào cảnh ngộ phải lỗi thề nhưng lòng nàng không quên được lời thề, không đoạn tuyệt với mối tình được. Đó chính là bi kịch tình yêu của Thúy Kiều.
Kể từ giây phút này, tiếng nói tình cảm đã dần thay tiếng nói của lý trí. Kiều hi vọng cho Thúy Vân và Kim Trọng “nên vợ nên chồng” để trong hạnh phúc gia đình ấy, kỉ niệm về nàng vẫn tồn tại:
“Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.”
Ý nghĩ của Kiều thật chua chát, tủi buồn, nó đọng lại ở câu: “Dù em nên vợ nên chồng”. Từ “dù” ở đầu câu thơ như một giả thiết mơ hồ hi vọng. Kiều biết chắc chắn thế nhưng vẫn mong điều ấy đừng đến. Phải chăng, Nguyễn Du đã nhập tâm vào nhân vật Thúy Kiều, thấu hiểu từng nỗi niềm tâm sự của nàng đề nói lên tiếng nói giúp nàng? Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du sâu sắc biết chừng nào.
Không chỉ trao các kỷ vật đính ước, mà Kiều còn trao những kỉ vật chứng kiến việc thề nguyền đính ước giữa Kiều và Kim Trọng. Khi trao các kỷ vật này, K như sống lại với đêm thề nguyền đính ước qua cách nói “phím đàn”, mảnh hương nguyền” và “Đốt lò hương ấy so tơ phím này” Những chi tiết trên cho ta thấy trong tâm hồn Kiều, những kỷ niệm đẹp về tình yêu có sức sống mãnh liệt. Tình yêu của nàng thật sâu sắc biết nhường nào.
Phân tích 14 câu giữa Trao duyên – Mẫu 9
Truyện Kiều được xem như một thiên truyện diễn tả nỗi đau đớn thống khổ của con người sống trong một thời đại chuộng với những chế độ chứa đựng đầy rẫy bất công. Trong tác phẩm này, Đại thi hào Nguyễn Du đã rất thành công trong việc khắc họa tâm lí nhân vật một cách tinh tế, để rồi bóc trần từng mặt tối của xã hội đương thời. “Trao duyên” được xem là một trong những đoạn trích phô bày nghệ thuật miêu tả nội tâm tài tình của Nguyễn Du khi thể hiện trọn vẹn bi kịch tan vỡ, dang dở trong tình yêu của cặp đôi trai tài gái sắc Kim – Kiều.
Nếu như phân tích 14 câu đầu trao duyên cho ta thấy việc Thúy Kiều nhờ cậy em gái kết duyên cùng Kim Trọng. Thì trong 14 câu tiếp theo chính là nỗi xót xa, đau đớn khi Kiều phải tự tay trao kỉ vật của mình cho Thúy Vân và nhờ cậy em chuyện mai sau.
Khi tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng đang đằm thắm, chỉ đợi ngày đơm hoa kết trái thì chuyện tai ương từ đâu lại ập đến. Đau đớn cảnh nhà, Thúy Kiều đành phải thu xếp chuyện bán mình để cứu cha và em. Sau đêm nay thôi, nàng sẽ phải theo Mã Giám Sinh rời khỏi nhà và đón nhận hàng loạt phong ba bão táp khác kéo đến bủa vây cuộc đời nàng. Đêm ấy, nàng nghĩ về đoạn tình cảm dở dang giữa mình với Kim Trọng, nên đã tìm cách trao duyên cho em để giữ trọng cái nghĩa.
Khi được em gái cảm thông, Kiều liền đem từng kỉ vật là những minh chứng cho tình yêu của mình và Kim Trọng ra trao lại cho Vân:
”Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Kiều đưa từng món một cho Thúy Vân, nhưng chẳng thể ngăn được sự xót xa và tiếc nuối của mình. Mỗi món đồ đều gắn với chuyện tình đôi lứa. Vì thế mà nàng đang ngập ngừng không muốn đưa, hay đang ngắm nghía lại mọi thứ lần cuối trước khi buông bỏ?
Sau khi gửi gắm tất cả cho em, nàng lại căn dặn “Duyên này thì giữ vật này của chung”. “Duyên này” là duyên giữa Kim với Vân, vì phần Kiều từ nay như đã hết. Nhưng vật này, xin em hãy coi nó như là “của chung”, vì dẫu sao nó vẫn có một phần của chị. Lời nói buông nghe thật đau lòng, nàng dường như chẳng thể kìm nén nỗi cảm xúc đang dậy sóng trong lòng mình. Nàng đau đớn, tiếc nuối, nàng tủi hờn, xót xa cho chính tình cảnh của mình.
Lý trí buộc Kiều phải dứt tình với chàng Kim, nhưng con tim nàng lại chẳng hề dễ chịu. Nàng có thể trao duyên, nhưng tình này nàng không thể buông bỏ, không thể thanh thản. Phải chăng chính vì thế mà nàng lại nghĩ đến cái chết. Ngay lúc nàng gửi gắm tất cả lại cho Thúy Vân, sự mâu thuẫn của nàng dường như ngày càng mạnh mẽ. Nàng nửa muốn trao, nửa muốn giữ, nhưng rồi vẫn đành phải trao đi, mặc cho trái tim như đang gào thét thảm thương.
Phân tích trao duyên 14 câu giữa, ta thấy quá cay đắng cho số phận của mình, Kiều nghĩ đến một tương lai mịt mù, rồi lại nghĩ về cái chết của chính mình:
”Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”
Đoạn thơ như một lời chiêu hồn buồn thảm. Lời lẽ của Kiều bỗng chợt trở nên xa lắng, mù mịt lại phảng phất chút ma mị nhưng từ cõi bên kia vọng về. Hàng loạt những từ nói về cái chết được Nguyễn Du sử dụng đã tô đậm sự hoang mang của Kiều trước ngày mai đen tối. Bắt đầu từ lúc này, Kiều mới cảm nhận một cách sâu sắc nhất bi kịch của cuộc đời mình, đó là bi kịch của sự mất mát, là bi kịch của nỗi cô đơn tủi hờn chẳng thể sẻ chia cùng ai. Nàng cảm thấy mình thật thảm thương, để rồi mặc cho tâm thức chìm dần trong nỗi đau khôn nguôi.
Kiều tưởng tượng cảnh sum vầy của Trọng – Vân, trong khi mình chỉ là một linh hồn vật vờ, cô độc và bất hạnh nhưng vẫn mang nặng lời thề, vẫn khát khao được gặp lại người mình thương. Duyên đã hết, kỉ vật cũng đã trao, nhưng lòng nàng vẫn chẳng thể buông bỏ nỗi hình bóng người thương, vẫn mang nặng thời thề gắn bó trăm năm. Nàng như tỏa lên một nét đẹp của người con gái thủy chung, mãnh liệt nhưng lại cô đơn, tuyệt vọng vì tương lai bất hạnh của mình. Nghĩ đến tương lai, nàng lại dặn dò em:
”Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”
Lo cho người xong, nàng mới có thời gian nghĩ đến bản thân và sự mệnh bạc của mình. Sau này, dẫu nàng đang đau đớn tại “dạ đài” tối tăm, nhưng nàng vẫn khao khát được cảm thông, khao khát được thương yêu, tưởng nhớ của người yêu. Vì thế, nàng chỉ xin Trọng cho mình một “chén nước” để làm phép tẩy oan. Điều đó đã thể hiện khao khát được minh chứng cho tình yêu bất diệt của mình. Và cũng chi tiết này đã tô đậm sự đau đớn, sợ hãi trước tương lai mịt mù cùng bi kịch của chính mình.
Ta thấy dưới ngòi bút tài hoa, tinh tế của Nguyễn Du, Thúy Kiều đã hiện lên với vẻ đẹp của một người con gái nhạy cảm, vị tha, giàu lòng yêu thương và đức hi sinh. Đặc biệt, qua nghệ thuật miêu tả nội tâm tài tình cùng lời đối thoại, độc thoại được xây dựng một cách đặc sắc, cảm xúc và tâm trạng của Thúy Kiều khi tình yêu tan vỡ đã được thể hiện một cách sinh động và sâu sắc.
Phân tích đoạn trích trao duyên 14 câu giữa chính là những dòng thơ đặc tả bi kịch trong tình yêu của Truyện Kiều. Qua bi kịch đó, phẩm chất cao quý của Thúy Kiều dường như tỏa sáng trước mắt người đọc. Nàng phải đối diện với sự tan vỡ trong tình yêu, nàng thà làm mọi cách để người yêu mình hạnh phúc rồi để mặc cho bản thân đau khổ, mù mịt với chính tương lai của mình. Chính vì thế, Nguyễn Du đã thể hiện được giá trị nhân đạo sâu sắc: đó là sự cảm thông với đau khổ của những số phận bất hạnh cùng khát khao được hạnh phúc, được yêu thương của con người.