Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du (2 Dàn ý + 16 Mẫu)

Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du (2 Dàn ý + 16 Mẫu)

Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du gồm 2 gợi ý cách viết kèm theo 16 bài văn xuất sắc của các học sinh giỏi. Qua bài văn phân tích Đọc Tiểu Thanh kí các bạn sẽ được trang bị kiến thức, suy nghĩ sâu sắc nội dung ý nghĩa của bài thơ để nhanh chóng biết cách viết bài văn phân tích hay.

Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du (2 Dàn ý + 16 Mẫu)

Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du (2 Dàn ý + 16 Mẫu)

TOP 16 bài phân tích Đọc Tiểu Thanh kí cực chất dưới đây không chỉ giúp các em học sinh rèn luyện kĩ năng viết văn mà còn giúp trau dồi kiến thức, cải thiện kỹ năng viết văn phân tích bài thơ hay, có thêm sự tự tin, chủ động trong các kì thi. Bên cạnh đó các bạn xem thêm Cảm nhận bài thơ Độc Tiểu Thanh kí.

Phân tích Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du cực hay

    Dàn ý phân tích Đọc Tiểu Thanh kí

    1. Mở bài phân tích Đọc Tiểu Thanh kí

    – Giới thiệu vài nét về Nguyễn Du:

    + Nguyễn Du (1765 – 1820) là đại thi hào của dân tộc Việt Nam với tài năng kiệt xuất, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của dân tộc.

    – Giới thiệu bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí:

    + Đọc Tiểu Thanh kí là một trong những tác phẩm tiêu biểu của thơ văn Nguyễn Du, là tiếng nói đồng cảm với thân phận người phụ nữ bất hạnh xưa – nạn nhân của chế độ phong kiến.

    2. Thân bài phân tích Đọc Tiểu Thanh kí

    * Tìm hiểu khái quát về cuộc đời nàng Tiểu Thanh

    – Tiểu Thanh là người con gái có thật, sống cách Nguyễn Du 300 năm trước ở đời Minh (Trung Hoa), là người rất thông minh và nhiều tài nghệ.

    – Tuy có tài sắc vẹn toàn nhưng phải chịu số phận làm lẽ cô đơn, bất hạnh, hẩm hiu.

    – Nàng bị vợ cả ghen, đày ra sống ở Cô Sơn cạnh Tây Hồ côi cút một mình.

    – Trước khi lâm bệnh mất vì buồn rầu năm 18 tuổi, nàng có để lại một tập thơ sau bị vợ cả đốt, hiện chỉ còn sót lại một số bài được tập hợp trong “phần dư”.

    => Tiểu Thanh là người con gái tài sắc, bạc mệnh.

    * Luận điểm 1: Đọc phần dư cảo, thương cảm cho Tiểu Thanh (hai câu đề)

    “Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư”
    (Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang)

    – Tây Hồ hoa uyển (vườn hoa bên Tây Hồ) – thành khư (gò hoang) -> Hình ảnh thơ đối lập giữa quá khứ và hiện tại

    – “tẫn”: đến cùng, triệt để, hết

    -> Nguyễn Du mượn sự thay đổi của cảnh sắc để nói lên được sự thay đổi của cuộc sống: Hồ Tây là một cảnh đẹp xưa kia thì giờ đây trở thành một bãi gò hoang.

    => Đau xót, ngậm ngùi cho vẻ đẹp chỉ còn trong dĩ vãng.

    “Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”
    (Thổn thức bên song mảnh giấy tàn)

    – “độc điếu”: một mình viếng – “thổn thức”: trạng thái thương xót, đồng cảm

    – “nhất chỉ thư”: một tập sách – “mảnh giấy tàn”: bài viếng nàng Tiểu Thanh của Nguyễn Du.

    -> Một mình nhà thơ ngậm ngùi đọc một tập sách (di cảo của Tiểu Thanh)

    -> Nhấn mạnh sự cô đơn lắng sâu trầm tư, sự xót thương với người xưa

    => Hai câu thơ thể hiện được sự thương xót của nhà thơ dành cho Tiểu Thanh, người con gái tài sắc nhưng có một cuộc đời thật bạc bẽo. Người mất đi rồi chỉ còn lại cảnh Hồ Tây nhưng nó cũng không còn đẹp như khi nàng còn sống nữa.

    * Luận điểm 2: Số phận bi thương, uất hận của Tiểu Thanh (hai câu thực)

    Chi phấn hữu thần liên tử hậu
    (Son phấn có thần chôn vẫn hận)

    – “Son phấn”: vật trang điểm của phụ nữ, tượng trưng cho vẻ đẹp, sắc đẹp của người phụ nữ

    -> Sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành của Tiểu Thanh.

    Văn chương vô mệnh lụy phần dư
    (Văn chương không mệnh đốt còn vương)

    – “Văn chương”: tượng trưng cho tài năng.

    – “hận, vương”: diễn tả cảm xúc

    – “Chôn”, “đốt”: động từ cụ thể hóa sự ghen ghét, sự vùi dập phũ phàng của người vợ cả đối với nàng Tiểu Thanh.

    -> Triết lí về số phận con người: tài hoa bạc mệnh, tài mệnh tương đố, hồng nhan đa truân… cái tài, cái đẹp thường bị vùi dập.

    -> Thái độ của xã hội phong kiến không chấp nhận những con người tài sắc.

    => Gợi lại cuộc đời và số phận bi thương của Tiểu Thanh, ca ngợi, khẳng định tài sắc của Tiểu Thanh đồng thời xót xa cho số phận bi thảm của nàng – cái nhìn nhân đạo mới mẻ, tiến bộ.

    * Luận điểm 3: Niềm suy tư và mối đồng cảm của tác giả với Tiểu Thanh (hai câu luận)

    Cổ kim hận sự thiên nan vấn
    Phong vận kỳ oan ngã tự cư

    (Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
    Cái án phong lưu khách tự mang)

    – “Cổ kim hận sự”: mối hận xưa và nay, mối hận muôn đời, mối hận truyền kiếp -> mối hận của những người tài hoa mà bạc mệnh.

    – “Thiên nan vấn”: khó mà hỏi trời được

    -> Nỗi oan khuất của thân phận người phụ nữ tài hoa trong xã hội phong kiến đầy bất công: người có sắc thì bất hạnh, nghệ sĩ có tài thường cô độc.

    – “Kì oan”: nỗi oan lạ lùng

    – “Ngã”: ta (chỉ bản thể cá nhân)

    -> Nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã. Số phận cay đắng của những con người tài hoa trong xã hội xưa.

    => Nguyễn Du không chỉ thương xót cho nàng Tiểu Thanh mà còn bàn ra tới nỗi hận của muôn người, muôn đời trong đó có bản thân nhà thơ. Qua đó, thể hiện sự cảm thông sâu sâu sắc đến độ “tri âm tri kỉ”.

    * Luận điểm 4: Từ cảm thương cho người, tác giả xót thương cho chính mình (hai câu kết)

    Bất tri tam bách dư niên hậu
    Thiên hà hà nhân khấp Tố Như

    (Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
    Người đời ai khóc Tố Như chăng)

    – “Tam bách dư niên”: Con số mang tính ước lệ, ý chỉ thời gian dài.

    – “Tố Như”: Tên chữ của Nguyễn Du

    -> Tiếng khóc cho nàng Tiểu Thanh nay đã có tác giả thấu hiểu và giải oan cho nàng, ông băn khoăn không biết hậu thế ai sẽ khóc ông.

    => Ý thơ chuyển đột ngột từ “thương người” sang “thương mình” với khát vọng tìm được sự đồng cảm nơi hậu thế.

    – Câu hỏi tu từ: “Người đời ai khóc Tố Như chăng” -> một câu hỏi nhức nhối, da diết, thể hiện nỗi buồn thống thiết, ngậm ngùi cho sự cô độc của chính tác giả trong hiện tại.

    -> Khao khát tìm gặp được tấm lòng tri kỉ giữa cuộc đời.

    => Tâm trạng hoài nghi, đau khổ, thương người, thương mình của nhà thơ. Tấm lòng nhân đạo mênh mông vượt qua mọi không gian và thời gian.

    3. Kết bài phân tích Đọc Tiểu Thanh kí

    – Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ:

    • Nội dung: Thể hiện cảm xúc, suy tư của Nguyễn Du về số phận bất hạnh của người phụ nữ có tài văn chương trong xã hội phong kiến, xót xa cho những giá trị tinh thần bị chà đạp – một phương diện quan trọng trong chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du.
    • Đặc sắc nghệ thuật: Thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, từ ngữ thơ sâu sắc, đầy triết lí, nghệ thuật đối, câu hỏi tu từ; hình ảnh thơ hàm súc, giàu giá trị biểu tượng.

    – Nêu cảm nhận của em.

    Phân tích bài Độc tiểu Thanh Kí – Mẫu 1

    Sê-khốp đã từng nói “Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ” câu nói ấy làm ta bỗng nhớ đến một nhà thơ lớn của dân tộc, một danh nhân văn hoá thế giới, một bậc thầy về ngôn ngữ và hơn cả là một người có quan điểm tư tưởng nhân đạo tiến bộ nhất trong xã hội phong kiến xưa,… con người vĩ đại ấy không ai khác ngoài đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Thơ của ông không chỉ hay mà còn sâu sắc đi vào trái tim người đọc để rồi những áng văn kì bút ấy sống mãi với thời gian mà chẳng bao giờ mất đi cái giá trị cao cả vốn có của nó vì vậy chẳng lẽ tự nhiên nhà thơ Tố Hữu sau này có viết:

    Tiếng thơ ai động đất trời
    Nghe như non nước vọng lời ngàn tu
    Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
    Tiếng thơ như tiếng mẹ ru những ngày”.

    Và giờ đây ta hãy cùng khám phá tài hoa của ông qua thi phẩm “Độc Tiểu Thanh kí” mà trong đó chính là cái nhìn đồng cảm đến tinh tế về những con người tài hoa bạc mệnh, bị rẻ rúng trong xã hội phong kiến đang dần suy thoái cùng với đó là bức thông điệp gửi gắm đến muôn đời sau để rồi cho ta thấy cái nhân đạo thấm nhuần trong ông đẹp đẽ đến nhường nào!

    Bài thơ được sáng tác vào một lần Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc được lấy cảm hứng từ câu chuyện về cuộc đời bất hạnh của nàng Tiểu Thanh sống vào thời Minh (từ thế kỉ XIV đến thế kỉ XVII). Nàng vốn là người tài sắc vẹn toàn nhưng rồi cái quy luật phũ phàng của trời đất đâu có tha riêng cho một ai: “Chữ tài liền với chữ tai một vần”! Vẫn ở cái tuổi “Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” nhưng nàng đã phải làm vợ lẽ khi mới là một thiếu nữ và cuộc đời nàng cũng chìm trong bóng tối từ đây… Bị vợ cả ghen ghét, đày đọa sống một mình tại đỉnh núi Côn Sơn không ai quan tâm kể cả bố mẹ hay từ người phu quân của nàng để rồi sự cô đơn, uất ức đã làm nàng chết dần, chết mòn theo thời gian và cũng để rồi người con gái ấy sống mãi ở tuổi xuân xanh… Sau khi mất đi, những bức hoạ và những bài thơ chứa đựng tâm tư của nàng cũng bị người vợ cả đốt sạch chỉ còn vương vấn, sót lại chút ít mà thôi. Và có lẽ nhan đề bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí” cũng bắt đầu từ đây, phải chăng sau khi đọc tập thơ ấy đã khiến Nguyễn Du rung động rồi tạo thành nguồn cảm hứng tuôn trào trong ông?

    Nguyễn Du từng viết trong “Truyện Kiều” rằng:

    “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

    Và đó cũng chính là tâm trạng của ông khi bước tới ngọn núi Côn Sơn đã lụi tàn qua năm tháng:

    “Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khuê
    Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”.

    (Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang
    Thổn thức bên song mảnh giấy tàn)

    Đó không chỉ là sự thay đổi nghiệt ngã của cảnh vật mà còn là của con người, từ một vườn hoa đẹp, lộng lẫy, sức sống căng tràn bao nhiêu thì nay lại trở nên tàn tạ, hoang phế, đìu hìu bấy nhiêu. Con người cũng vậy, thời gian cũng đã cướp đi biết bao nhiêu thứ từ con người, phải chăng đó là sự mỏng manh, ngắn ngủi của cái đẹp, là sự xuất chúng, hơn người của tài năng cũng tàn phai theo? Tiểu Thanh chẳng hề ngoại lệ, vâng, nàng có tài, có sắc ai mà chẳng biết, ai mà chẳng hay nhưng rồi: “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” khiến cho bông hoa như nàng cũng phải lụi tàn trước ngọn lửa ghen tuông bùng cháy dữ dội như muốn thiêu đốt trọn cái tài, cái sắc của nàng. Làm vợ lẽ đã đành nhưng nàng chẳng có được sự tự do kể cả trong tình cảm của mình. Mọi thứ từ, mọi việc làm, mọi cuộc gặp gỡ đều phải được người vợ cả đồng ý thì thư mới được gửi đi, việc mới được làm, chồng mới được gặp,… Dường như nàng có phu quân cũng như không vậy, ước chăng cũng một lần được nói ra tâm tư, cũng một lần được nhung nhớ như người phụ nữ trong “Chinh phụ ngâm” của Đoàn Thị Điểm:

    “Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
    Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
    Ngàn dâu xanh ngắt một màu
    Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”.

    Nguyễn du gợi nên nỗi xót xa, thương cảm cho cái đẹp bị trò đời trêu đùa đến nhẫn tâm, đến khi bị tàn lụi, bị huỷ hoại thậm tệ là lìa xa trần thế mới thôi…

    Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”

    Khi tới nơi đây, héo tàn, trơ trụi đã đành nay còn thêm cả ảm đạm, đìu hiu không một bóng người dù vậy Nguyễn Du vẫn trang trọng kính viếng bởi chăng trong họ là một sợi dây đồng cảm đang kết nối với nhau, đó là tiếng nói đồng điệu của những con người đa tài nhưng số phận chẳng được trọn vẹn như cái tài ấy. “Độc điếu”- tâm thế cô đơn không chỉ riêng Tiểu Thanh mà còn là của Nguyễn Du. Nàng thì cô đơn giữa chốn không người, cảnh vất thê lương hoang tàn còn ông thì cô đơn giữa dòng đời bởi chẳng ai hiểu được ông, hiểu được cái nhân đạo cao quý, cái tư tưởng sâu sắc mà con người cao cả hướng tới bấy lâu nay. Đọc di cảo của nàng lại càng khiến ông không khỏi xót xa bởi cái phũ phàng của cuộc đời đặt ra để thử thách đời người và có lẽ, chính ông cũng đã sớm chiêm nghiệm điều ấy:

    “Trải qua một cuộc bể dâu
    Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.

    Thấm thoát cũng đã hơn ba trăm năm, những gì về người con gái ấy chỉ còn là một tập thơ với những trang giâý tàn mà Nguyễn Du đọc bên cửa sổ, dù có ít ỏi đi chăng nữa cũng đủ cho hậu thế xót xa mà nhỏ lệ, nhỏ lệ trước cách mà trò đời đối xử với nàng, cách mà nó làm nàng nhỏ bé, tàn tạ rồi ra đi mãi mãi đến đau lòng…

    Cuộc đời nàng, số phận nàng luôn làm người đời suy tư, thổn thức ngay cả Nguyễn Du cũng vậy:

    “Chi phấn hữu thần liên tử hậu
    Văn chương vô mệnh lụy phần dư”.

    (Son phấn có thần chôn vẫn hận
    Văn chương không mệnh đốt còn vương)

    Son phấn làm gì có thần? Nhưng với Nguyễn Du thì có đấy. Văn chương thì làm gì có mệnh (vô mệnh) nhưng trong thơ của Nguyễn Du hoàn toàn ngược lại. Dường như ông đã khéo léo sử dụng hình ảnh “chi phấn” để ẩn dụ cho nhan sắc của Tiểu Thanh, nhan sắc ấy không chỉ đẹp mà còn bất tử và trường tồn mãi mãi. Vẻ đẹp ấy có sức sống kì diệu ngay cả khi bị chôn vùi dưới đất xấu thì nó vẫn làm người đời nhớ đến mà tiếc thương và đây cũng là lần đầu tiên trong nền văn học trung đại Việt Nam, dưới sự kìm hãm của xã hội phong kiến có một nhà thơ dám miêu tả vẻ đẹp hình thức của người phụ nữ, ngay cả khi Nguyễn Dữ miêu tả Vũ Nương cũng chỉ khiêm tốn hoạ nên vẻ đẹp tâm hồn của nàng. Dường như đó là tiếng nói bất bình của Nguyễn Du bởi lẽ vẻ đẹp của người phụ nữ bị xã hội rẻ rúng, coi thường và đây cũng là một bước đi mới trong nền văn học trung đại đương thời. Văn chương vốn “vô mệnh” nay lại thành hữu mệnh, có lẽ đó là ẩn dụ cho tài năng của nay cũng phải “lụy” cái bạc mệnh của con người. Nó cũng biết đau khổ, biết buồn vui, biết vương vấn,… và rồi bỗng chợt nhận ra cái oan trái, ngang ngược mà ông trời sắp đặt cho nó. Có sắc, có tài rồi cũng để làm gì:

    “Có tài mà cậy chi tài
    Chữ tài liền với chữ tai một vần”.

    Hai câu thực khép lại là lòng thương cảm sâu sắc về số phận bất hạnh tài hoa nhưng bạc mệnh của nàng Tiểu Thanh đồng thời mang niềm tin vào thuyết luân hồi đạo phật cũng như là nguồn cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Du. Ông nhận ra được những giá trị tốt đẹp của con người qua đó ta thấy một tâm hồn đa cảm đến sâu sắc!

    Hai câu luận vẫn là niềm thương cảm ấy nhưng giờ đây còn vang lên tiếng nói của tri âm nghe mà nhói lòng người:

    Cổ kim hận sự thiên nan vấn
    Phong lưu kì oan ngã tự cư”.

    (Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
    Cái án phong lưu khách tự mang)

    Tài hoa nhưng bạc mệnh có lẽ đã trở thành “Cổ kim hận sự” , xưa thì có số phận của nàng Tiểu Thanh và những người cùng cảnh ngộ, nay thì là những người như ông. Nhưng rồi khi ngẩng đầu lên hỏi trời thì trời cũng chỉ biết lặng thinh không nói một lời khiến cái hận càng thêm hận, thấm thía lại càng thêm thấm thía,.. khi trời không đáp con người cũng chỉ biết bất lực, bế tắc, nó thể hiện một hiện thực bất công của xã hội phong kiến nhiều hủ tục để rồi Thuý Kiều trong “Truyện Kiều” cũng phải thốt lên rằng:

    “Đau đớn thay phận đàn bà
    Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.

    Nguyễn Du đau đớn, căm giận trước cái đẹp, cái thiện đang dần bị thế lực hắc ám chà đạp, những con người như Tú Bà, Mã Giám Sinh hay Sở Khanh được ông miêu tả bằng tất cả sự căm phẫn. Tú bà thì:

    “Thoắt trông nhợt nhạt màu da
    Ăn gì to lớn đẫy đà làm sao”.

    Mã Giám Sinh thì:

    “Quá niên trạc ngoại tứ tuần
    Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”.

    Sở Khanh lại là kẻ:

    “Một chàng vừa trạc thanh xuân
    Hình dong chải chuốt áo khăn dịu dàng”.

    Tại sao những kẻ như vậy lãi vẫn sống yên bình, ăn chơi trác táng mà khi ấy những người như Tiểu Thanh hay Thuý Kiều, Đạm tiên lại phải chịu biết bao sóng gió cuộc đời để rồi người thì ra đi mãi mãi, người thì chẳng bao giờ có được tình yêu của chính mình,… Bản thân Nguyễn Du tự cho mình là người có tài và cùng hội với những con người tài hoa bạc mệnh. Cái tài của ông dùng để cảm nhận cái đẹp, để thương con người, để thể hiện vẻ đẹp sâu sắc của tâm hồn chứa đựng cảm hứng nhân đạo khác hoàn toàn với Nguyễn Công Trứ mang nét cao ngạo, thể hiện cái tôi một cách ngông cuồng. Cái phong lưu của con người đã trở thành một cái oán, cái án ấy khiến người ta bị đày đọa, bị hắt hủi, bị hành hạ cho đến sức cùng lực kiệt thì mới thôi. Phải chăng khi đặt mình cùng vào chiếc thuyền khiến cho tiếng nói tri âm, tri kỉ lại càng vắng thêm sâu sắc thêm nhường nào…

    Đau đớn trước cái ngang trái của cuộc đời và giờ đây Nguyễn Du lại tự thương cho chính bản thân mình và đó vô tình trở thành một nét mới trong văn học trung đại- cảm hứng tự thương:

    “Bất tri tam bách dư niên hậu
    Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”.

    (Chẳng biết ba trăm năm nữa
    Người đời ai khóc Tố Như chăng?)

    Hai câu kết mở ra là cả một thế giới nội tâm của Nguyễn Du, “tam bách dư liên hậu”-con số 300 năm chỉ mang tính chất ước lệ tượng trưng nhưng đó lại là nỗi niềm cô đơn của ông trong thời đại. Câu hỏi tu từ ở cuối bài bày tỏ niềm khao khát, mong muốn tìm được sự thấu hiểu, thương cảm. Tiếng khóc của người đời là thứ mà Nguyễn Du luôn tìm kiếm bởi đó là tiếng vang của sự tri âm, đồng cảm. Từ xót thương cho những kiếp người tài hoa bạc mệnh và rồi ông cũng tự khóc cho chính mình, ông cũng là một trong những số ít nhà thơ đưa tên chữ của mình vào trong thi phẩm, dường như đó là cái tôi, cái cá nhân mà ông muốn khẳng định qua đó lại một lần nữa Nguyễn Du thể hiện tấm lòng nhân đạo lớn lao của mình đó là sự tự thương. Khép lại bài thơ là tiếng nói bất bình lần nữa của ông, bằng 2 câu thơ thất niêm phá tính quy phạm vốn có của văn học trung đại để lên án mạnh mẽ những kẻ không chân trọng giá trị của con người đặc biệt là những con người tài hoa.

    Bài thơ đã ra đời cách đây mấy trăm năm nhưng giá trị nhân đạo mà nó để lại vẫn là mãi mãi. “Độc Tiểu Thanh kí” thể hiện cảm xúc, suy tư của Nguyễn Du về số phận bất hạnh của người phụ nữ có tài, có sắc nhưng bị xã hội phong kiến mục nát chà đạp. Khóc cho họ và rồi Nguyễn Du cũng khóc cho chính mình, cho một tài năng mà xã hội mục nát ấy chẳng thể nhận ra vì vậy Nguyễn Du cùng với “Độc Tiểu Thanh kí” luôn sống mãi trong lòng hậu thế với những giá trị nhân đạo cao quý, đúng như Lâm Ngũ Đường từng nói: “văn chương bất hủ cổ kim đều viết bằng huyết lệ”.

    Phân tích Đọc Tiêu Thanh kí đạt điểm 9+ – Mẫu 2

    Nguyễn Du là tác giả tiêu biểu của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX với “con mắt nhìn thấu sáu cõi” và “tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời”. Những người phụ nữ có tài có sắc nhưng đường đời truân chuyên bất hạnh là cảm hứng lớn trong sáng tác của Nguyễn Du. Và nàng Tiểu Thanh cũng là một kiếp người tài hoa bạc mệnh như thế. Là người con gái tài sắc, vốn thông minh nên từ nhỏ nàng Tiểu Thanh đã thông hiểu các môn nghệ thuật cầm kỳ thi họa. Năm 16 tuổi, nàng được gả làm vợ lẽ cho Phùng Sinh, một công tử nhà gia thế. Vợ cả tính hay ghen lại cay độc, bắt nàng ra sống riêng trên Côn Sơn, gần Tây Hồ. Vì đau buồn, nàng sinh bệnh rồi qua đời khi mới tròn mười tám xuân xanh. Những đau khổ, muộn phiền được gửi gắm vào thơ nhưng phần lớn bị vợ cả đem đốt hết, may mắn còn một số bài sót lại. Thương xót, đồng cảm với số phận của người con gái tài sắc vẹn tròn mà số mệnh ngắn ngủi, Nguyễn Du viết ra bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí”. Bài thơ không chỉ thể hiện cảm xúc, suy tư sâu sắc của Nguyễn Du về số phận bất hạnh của người phụ nữ mà còn thể hiện niềm xót xa cho những giá trị tinh thần bị chà đạp.

    Khi đọc những dòng thơ cuối cùng còn sót lại của nàng, Nguyễn Du đã thật sự thấu hiểu và bày tỏ lòng thương cảm của mình qua bài thơ “Độc tiểu thanh kí” như là lời xót thương của nàng trước nỗi đau cuộc đời, hai câu đầu là hai câu tả cảnh nhưng để kể việc:

    “Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
    Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”

    Bằng giác quan nghệ thuật, ta bắt gặp một vườn hoa với sắc hương và hình dáng trong quá khứ. Cái đẹp ấy đã chi phối choáng ngợp đến tâm hồn ta. Cái đẹp ấy tưởng chừng sẽ trường tồn vĩnh cửu với thời gian nhưng dần theo năm tháng cũng lụi tàn dần, một sự lụi tàn đến ngỡ ngàng và chua xót. Vườn hoa bình yên, êm ả ngày nào giờ đã trở thành một bãi hoang phế trơ trụi và tiêu điều. Từ “tẫn” được Nguyễn Du sử dụng để miêu tả nhưng lại mang một hàm ý thể hiện sự thương tiếc, có thể thấy thời gian đã tàn phá mọi thứ. Đứng trước sự nuối tiếc, thương xót pha lẫn chút ngậm ngùi. Nguyễn Du mượn sự biến đổi của thiên nhiên mà ngụ ý sự biến đổi khôn lường của cuộc sống, con người. Đó là sự ý thức về cái vô hạn của trời đất và cái hữu hạn của con người. Nó gợi lên sự tàn lụi không thể nào tránh khỏi cho một kiếp người, cho hồng nhan. Ước chăng cũng một lần được nói ra tâm tư, cũng một lần được nhung nhớ như người phụ nữ trong “Chinh phụ ngâm” của Đoàn Thị Điểm:

    “Cùng trông lại mà cùng chẳng thấu
    Thấy xanh xanh mấy ngàn dâu
    Ngàn dâu xanh ngắt một màu
    Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”

    Nguyễn Du đã rất đau xót! Câu thơ không chỉ ý nghĩa cho sự mở đầu, giới thiệu sự việc mà chính là cảm xúc của nhân vật trữ tình:

    “Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”.

    Một khung cửa sổ tương thông lòng người với vũ trụ, tương thông lòng người với tình người. Bên những mảnh thơ tàn của một tài hoa bị vùi dập, Nguyễn Du cảm nhận và thổn thức đau thương. Ông muốn níu giữ tất cả, níu kéo tất cả nhưng cuối cùng chỉ còn lại sự tàn tạ. Sâu sắc của câu thơ nằm ở chỗ từ “độc” và từ “nhất” đều mang ý nghĩa lại “một” lại cùng hiện hữu. “Độc” là một mà “nhất” cũng là một, nhưng nếu “nhất chỉ thư” là số từ chỉ lượng một tập thơ thì “độc điếu” là trạng từ chỉ tâm thế của nhà thơ một trạng thái cô độc một mình. Việc dùng cùng một nghĩa qua hai từ khác nhau, Nguyễn Du như muốn nhấn mạnh sự cô đơn nhưng cũng nhấn mạnh cả sự tương xứng trong cuộc gặp gỡ này. Một trạng thái cô đơn gặp một kiếp cô đơn bất hạnh. Cái để gợi cho lòng người thi sĩ đau có nhiều mà tình thì mênh mông, vô hạn, Nguyễn Du đã khóc Tiểu Thanh – khóc nàng qua một tập sách nhỏ. Lòng Nguyễn Du mênh mông mà sâu lắng quá!

    Nguyễn Du có cảm giác mảnh giấy tàn ấy vẫn còn vương vấn linh hồn của nàng, còn phảng phất đến tận bây giờ. Ông xót xa cho thân phận bạc mệnh đó:

    “Chi phấn hữu thần liên tử hậu
    Văn chương vô mệnh lụy phần dư”

    Hai câu thơ gói trọn tiếng lòng xót xa của Nguyễn Du, chua xót đến tột độ khi nghĩ đến người con gái bạc mệnh ấy. Trước phần di cảo của một tài năng, Nguyễn Du cảm nhận được cả cái tài, cái tình Tiểu Thanh, “chi phấn” được hiểu là son phấn ẩn dụ cho nhan sắc, thì “văn chương” chính là ẩn dụ cho tài năng của nàng. Đó đều là những giá trị đáng quý, nhưng đau xót thay những giá trị tốt đẹp ấy đều bị dập vùi dập, chà đạp bởi một xã hội tàn ác, xấu xa . Nghệ thuật đối được dùng rất chỉnh giữa những hình ảnh “chi phấn hữu thần” với “văn chương vô mệnh”, “liên tử hậu” với “lụy phần dư” dẫn đến sự song hành của hai cặp đối tượng: son phấn và văn chương, sắc đẹp và tài năng. Ở Tiểu Thanh hội tụ tất cả những tinh túy ấy. Người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại phải chịu số phận bất hạnh, trái ngang. Những nghiệt ngã đời nàng là nỗi sầu vạn kỉ. Dưới suối vàng, Tiểu Thanh chắc còn đau đớn, u uất… Nỗi đau ai oán của nàng sâu sắc, mạnh mẽ hơn nhiều khi cả linh hồn nàng cũng bị hủy diệt: “Văn chương không mệnh đốt còn vương”. Văn chương vốn “vô mệnh” nay lại thành hữu mệnh, có lẽ đó là ẩn dụ cho tài năng của nấy cũng phải “lụy” cái bạc mệnh của con người. Nó cũng biết đau khổ, biết buồn vui, biết vương vấn,…và rồi bỗng chợt nhận ra cái oan trái, ngang ngược mà ông trời sắp đặt cho nó. Có sắc, có tài rồi cũng để làm gì:

    “Có tài mà cậy chi tài
    Chữ tài liền với chữ tai một vần”

    Hai câu thực khép lại là lòng thương cảm sâu sắc về số phận bất hạnh tài hoa nhưng bạc mệnh của nàng Tiểu Thanh đồng thời mang niềm tin vào thuyết luân hồi đạo phật cũng như là nguồn cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Du. Ông nhận ra được những giá trị tốt đẹp của con người qua đó ta thấy một tâm hồn đa cảm đến sâu sắc!

    Hai câu luận vẫn là niềm thương cảm ấy nhưng giờ đây còn vang lên tiếng nói của tri âm nghe mà nhói lòng người, nhưng biết làm sao đây?

    “Cổ kim hận sự thiên nan vấn
    Phong vận kỳ oan ngã tự cư”

    Hai câu thơ cất lên đầy sự tuyệt vọng, ai oán và u sầu nặng nề. Tài hoa nhưng bạc mệnh có lẽ đã trở thành “Cổ kim hận sự”, xưa thì có số phận của nàng Tiểu Thanh và những người cùng cảnh ngộ, nay thì là những người như ông. Nhưng rồi khi ngẩng đầu lên hỏi trời thì trời cũng chỉ biết lặng thinh không nói một lời khiến cái hận càng thêm hận, thấm thía lại càng thêm thấm thía,… khi trời không đáp con người cũng chỉ biết bất lực, bế tắc, nó thể hiện một hiện thực bất công của xã hội phong kiến nhiều hủ tục. Cái tài và sắc đẹp phải được trở lại đúng với giá trị của nó, không ai có quyền phủ nhận. Nhưng hiện tại, sự thực hoàn toàn khác. Người tài tử buộc phải chấp nhận cái án phong lưu mang nặng tình nhân thế. Từ xúc cảm xót thương cho Tiểu Thanh đến tình thương dành cho những kiếp người tài hoa bạc mệnh nói chung rồi nhìn lại thì tự thương mình, tự coi mình cũng cùng mang nỗi oan lạ lùng, sự vận động của cảm xúc nhà thơ như từng lớp sóng lòng âm ỉ nhưng thấm thía, từng lớp từng lớp dần dần cho thấy sự đồng cảm đã đạt đến mức tri ân, chủ nghĩa nhân đạo đã biểu hiện ở mức cao nhất, để rồi Thuý Kiều trong “Truyện Kiều” cũng phải thốt lên rằng:

    “Đau đớn thay phận đàn bà
    Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

    Đứng trước số phận của nàng Tiểu Thanh Nguyễn Du trở lại lòng mình mà “Giật mình mình lại thương mình xót xa” và đó vô tình trở thành một nét mới trong văn học trung đại – cảm hứng tự thương. Hai câu thơ cuối như xoáy chặt vào lòng ta một nỗi đau đớn, tuyệt vọng của một trang tài tử:

    “Bất tri tam bách dư niên hậu
    Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”

    Hai câu thơ mở ra như cả thế giới nội tâm của Nguyễn Du, lời thơ như vừa tuyệt vọng, vừa hy vọng, vừa cô đơn, vừa tìm kiếm. “tam bách dư niên hậu”- con số 300 năm chỉ mang tính chất ước lệ tượng trưng nhưng đó lại là nỗi niềm cô đơn của ông trong thời đại Nguyễn Du tự đặt ra để kiếm tìm cho mình một người tri âm tri kỷ như ông đã khóc cho Tiểu Thanh, như Thúy Kiều đã từng khóc cho Đạm Tiên. Câu hỏi tu từ ở cuối bài bày tỏ niềm khao khát, mong muốn tìm được sự thấu hiểu, thương cảm. Tiếng khóc của người đời là thứ mà Nguyễn Du luôn tìm kiếm bởi đó là tiếng vang của sự tri âm, đồng cảm. Từ xót thương cho những kiếp người tài hoa bạc mệnh và rồi ông cũng tự khóc cho chính mình, ông cũng là một trong những số ít nhà thơ đưa tên chữ của mình vào trong thi phẩm, dường như đó là cái tôi, cái cá nhân mà ông muốn khẳng định qua đó lại một lần nữa Nguyễn Du thể hiện tấm lòng nhân đạo lớn lao của mình đó là sự tự thương. Khép lại bài thơ là tiếng nói bất bình lần nữa của ông, bằng hai câu thơ thất niêm phá tính quy phạm vốn có của văn học trung đại để lên án mạnh mẽ những kẻ không chân trọng giá trị của con người đặc biệt là những con người tài hoa.

    Khép lại bài thơ là tiếng nói bất bình lần nữa của ông, bằng hai câu thơ thất niêm đã phá tính quy phạm vốn có của văn học trung đại để lên án mạnh mẽ những kẻ không chân trọng giá trị của con người đặc biệt là những con người tài hoa. Tấm lòng Nguyễn Du còn thấu đến ngàn đời. Nhưng có lẽ giờ đây, trang tài tử đã yên lòng nhắm mắt bởi đời sau đã có bao tấm lòng gửi lời tri ân đến ông, như vần thơ của Tố Hữu đầy thương cảm và trân trọng:

    “Tiếng thơ ai động đất trời
    Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
    Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
    Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày.
    Hỡi Người xưa của ta nay
    Khúc vui xin lại so dây cùng Người!”

    “Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Vì vậy đòi hỏi người sáng tạo phải có phong cách nổi bật, tức là có cái gì rất riêng mới lạ trong phong cách của mình.” Để làm nên thành công của tác phẩm “Đọc tiểu thanh ký” thì yếu tố nghệ thuật nắm giữ một vai trò vô cùng quan trọng qua việc vận dụng thể thơ đường luật, những hình ảnh đối lập đem lại hiệu quả nghệ thuật cao qua đó thể hiện sự thương cảm sâu sắc mà tác giả dành cho Tiểu Thanh ​​- một hồng nhan bạc mệnh, một tài năng thi ca đoản mệnh, cho những kiếp hồng nhan đa truân, tài tử đa cùng, mà với cảm hứng tự thương và sự tri âm sâu sắc, ông đã đặt vấn đề: quyền sống của người nghệ sĩ, sự cần thiết phải tôn vinh, trân trọng những người làm nên các giá trị văn hóa tinh thần.

    Nhà văn Bùi Hiển cho rằng: “Ở nước nào cũng thế thôi, sự cảm thông sẻ chia giữa người đọc và người viết là trên hết”. Nhưng với một Nguyễn Du trong “Độc Tiểu Thanh kí” ta còn thấy ở ông một nỗi niềm, một sự trăn trở, một niềm khát khao được mọi người cảm thông với chính mình. Qua tác phẩm Nguyễn Du đã thể hiện sự cảm thông sâu sắc với số phận số phận bất hạnh của người phụ nữ và cả những kiếp người tài hoa bạc mệnh nhưng đó cũng là sự cảm thông mà ông dành cho chính mình. Trải qua biết bao năm tháng cái tình của Nguyễn Du vẫn còn nguyên trong lòng bạn đọc.

    Phân tích Đọc Tiểu Thanh kí – Mẫu 3

    Nguyễn Du được xem là một thiên tài văn học, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của dân tộc. Ông được mệnh danh là đại thi hào của văn học Việt Nam. Trong suốt cuộc đời sáng tác của mình, ông đã để lại vô vàn những tác phẩm có giá trị ở cả chữ Hán và chữ Nôm. Tác phẩm của ông luôn chan chứa tình yêu thương con người, trân trọng những điều tốt đẹp bên trong con người.

    “Độc Tiểu Thanh kí” là một trong số những sáng tác bằng chữ Hán tiêu biểu của Nguyễn Du. Độc Tiểu Thanh kí phân tích Nó đã thể hiện được những cảm xúc, suy tư của tác giả về số phận bất hạnh của người phụ nữ xã hội cũ. Đồng thời qua tác phẩm, chúng ta có thể cảm nhận sâu sắc và trân trọng tấm lòng nhân đạo, yêu thương con người của ông.

    Mở đầu bài thơ, tác giả đã khắc hoạ nên hoàn cảnh, bối cảnh sác tác:

    “Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
    Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.”

    Ở đây, tác giả đã sử dụng hình ảnh thơ đối lập giữa quá khứ và hiện tại: “Tây Hồ hoa uyển” (vườn hoa bên Tây Hồ) với “thành khư” (gò hoang). Cùng với đó, động từ “tẫn” nhằm thể hiện sự triệt để đến cùng của sự vật. Từ đó, câu thơ đã gợi ra một nghịch cảnh giữa quá khứ và hiện tại: Vườn hoa bên Tây Hồ xưa kia nay đã thành bãi đất hoang, không có sự sống. Vì vậy lời thơ khơi gợi sự xót xa của nhà thơ trước sự đổi thay, sự tàn phá của thời gian đối với cái đẹp.

    Tác giả cũng rất tài tình khi sử dụng các từ chỉ sự đơn độc: “độc điếu” (một mình viếng) và “nhất chỉ thư” (một tập sách). Với hai hình ảnh đó, tác giả như muốn nhấn mạnh sự cô đơn tột cùng của con người. Đồng thời cũng nhấn mạnh cả sự tương xứng trong cuộc gặp gỡ này. Đó là cuộc gặp gỡ của một người mang trạng thái cô đơn với một kiếp bất hạnh, đơn độc.

    Độc Tiểu Thanh kí phân tích Chỉ với hai câu thơ, tâm trạng của tác giả đã được thể hiện một cách rõ ràng. Tác giả đã ngỡ ngàng trước cảnh tượng thiên nhiên hoang vắng, tàn tạ và cũng vô cùng xót xa, tiếc nuối cho số phận éo le của nàng Tiểu Thanh.

    Tiếp theo, tác giả miêu tả rõ nét số phận của nàng Tiểu Thanh thông qua hai câu thơ tả thực:

    Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
    Văn chương vô mệnh lụy phần dư.”

    Đến đây, tác giả đã sử dụng nghệ thuật hoán dụ rất tài tình. Hình ảnh “chi phấn” là tượng tượng trưng cho vẻ đẹp, sắc đẹp của người phụ nữ. Còn “văn chương” lại tượng trưng cho tài năng, trí tuệ của con người. Việc sử dụng từ hoán dụ như vậy đã gợi tả người con gái vừa có tài, vừa có sắc, hoàn hảo, rất đáng trân trọng.

    Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng các từ ngữ diễn tả cảm xúc như “hận”, “vương” để thể hiện tình cảm của mình. Đó là sự tiếc nuối, xót xa cho tài năng và dung mạo của người thiếu nữ bạc mệnh. Các từ “chôn”, “đốt” đều là những động từ cụ thể hóa sự ghen ghét, sự vùi dập vô cùng phũ phàng của người vợ cả đối với nàng Tiểu Thanh. Đây cũng là điển hình cho thái độ của xã hội phong kiến khi xưa. Ở đó, họ không chấp nhận những con người tài sắc vẹn toàn như nàng, chỉ chực tìm cách vùi dập, đè nén những số phận bất hạnh ấy.

    Thông qua lời thơ, Nguyễn Du cũng bộc lộ triết lí của mình về số phận con người trong xã hội phong kiến. Với ông, họ là những người tài hoa nhưng bạc mệnh, “tài mệnh tương đố”, “hồng nhan đa truân”. Và khi có tài, có sắc, họ sẽ bị vùi dập không thương tiếc:

    “Có tài mà cậy chi tài
    Chữ tài liền với chữ tai một vần

    (Truyện Kiều)

    Qua hai câu thơ, Nguyễn Du đã cực tả nỗi đau về số phận bất hạnh của nàng Tiểu Thanh tài sắc. Đồng thời cũng bộc lộ tấm lòng ca ngợi, trân trọng nhan sắc và đề cao tài năng, trí tuệ của nàng Tiểu Thanh. Không những thế, nó còn có sức tố cáo mạnh mẽ đối với xã hội phong kiến bấy giờ khi vùi kiếp người xuống dưới bùn đen.

    Tiếp đó, tác giả suy ngẫm rộng ra về số phận con người, với cuộc đời:

    “Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
    Phong vận kỳ oan ngã tự cư.”

    Cụm từ “cổ kim hận sự” nhằm diễn tả mối hận xưa và nay. Đó không chỉ là mối hận nhất thời mà là mối hận muôn đời, mối hận truyền kiếp. Và cũng chính là mối hận của những người tài hoa mà bạc mệnh đối với cuộc đời đầy rẫy những bất công. Nỗi hận ấy thật sự là “thiên nan vấn”, khó mà có thể hỏi trời được. Câu thơ này đã mang tính khái quát cao, biểu trưng cho cả xã hội. Nỗi hận kia không phải là nỗi hận của riêng nàng Tiểu Thanh hay của tác giả Nguyễn Du mà còn là của tất cả những con người tài hoa trong xã hội phong kiến cũ. Câu thơ đã thể hiện rõ nét sự đau đớn và phẫn uất cao độ trước một thực tế vô lí của cuộc đời. Đó là người có nhan sắc thì bất hạnh, nghệ sĩ có tài năng lại thường cô độc. Nỗi trái ngang ấy, không biết phải làm sao được.

    Nhấn mạnh thêm nỗi đau đớn của số phận Tiểu Thanh, tã giả sử dụng từ “kì oan”, là nỗi oan lạ lùng, hiếm gặp. Kết hợp với đó, từ “ngã” nhẳm chỉ bản thể cá nhân. Đây là cái khẳng định mình đầy táo bạo so với thời đại Nguyễn Du đang sống. Tác giả đã không đứng bên ngoài mà nhìn vào nữa, mà giờ đây ông trở nên chủ động, tự mình đi tìm sự tri âm với nàng, với những người tài hoa nhưng bạc mệnh. Qua đó, ta thấy được tấm lòng trân trọng cái đẹp của nhà thơ. Ông không chỉ xót thương riêng cho nàng Tiểu Thanh mà còn bàn ra tới nỗi hận của muôn người, muôn đời. Và trong đó có chính bản thân nhà thơ. Qua đó, thể hiện sự cảm thông của nhà thơ đối với nhân vật đã đến độ “tri âm tri kỉ”, thấu hiểu và tìm được điểm chung.

    Sau cùng, tác giả sử dụng hai câu kết để khóc cho người, khó cho mình ở tương lai:

    “Bất tri tam bách dư niên hậu,
    Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”

    Đến đây, Nguyễn Du đã sử dụng câu hỏi tu từ một cách độc đáo. Nguyễn Du khóc nàng Tiểu Thanh, đồng thời cũng băn khoăn và khóc thương cho chính mình. Ông băn khoăn, trăn trở rồi hậu thế ai sẽ khóc thương ông, liệu có ai đồng cảm với ông hay không? Điều này đã thể hiện nỗi cô đơn của nghệ sĩ lớn “Tiếng chim cô lẻ giữa trời thu khuya” (Xuân Diệu). Ông cảm thấy mình lạc lõng vô cùng ở hiện tại và đã tìm thấy được một người làm tri âm, tri kỉ ở quá khứ. Thế nhưng bản thân vẫn ước mong, mong ngóng một tấm lòng thấu hiểu mình trong tương lai, như mình đã tìm đến và thấu hiểu nàng Tiểu Thanh Vậy. Điều này đã cho thấy vượt qua mọi không gian, thời gian, trái tim yêu thương và tấm lòng nhân đạo sâu sắc của Nguyên du vẫn còn tồn tại mãi.

    Khép lại bài thơ Độc Tiểu Thanh kí, ta vẫn không khỏi xót xa cho nàng Tiểu Thanh tài giỏi nhưng bạc mệnh. Đồng thời thấy tấm lòng yêu thương, vị tha, thấu cảm của Nguyễn Du với những con người bất hạnh trong xã hội cũ.

    Phân tích Độc Tiểu Thanh Kí – Mẫu 4

    Là một đại thi hào của dân tộc cũng là danh nhân văn hóa thế giới, Nguyễn Du đã để lại cho đời sau một gia tài văn học đồ sộ bao gồm cả chữ Hán và chữ Nôm. Khi sáng tác thơ văn, người ta thấy Nguyễn Du luôn day dứt một nỗi niềm thương cảm dành cho những người phụ nữ tài hoa mà bạc mệnh trong xã hội đó là những nàng Dương Qúy Phi, nàng Thúy Kiều và còn có cả nàng Tiểu Thanh trong bài thơ Độc Tiểu Thanh ký.

    Ai đã từng đọc bài thơ Độc Tiểu Thanh ký đề biết đây chính là bài thơ viết về nàng Tiểu Thanh – một người con gái tài sắc vẹn toàn sống vào thời Minh, Trung Quốc. Tuy nhiên, xoay quanh tiêu đề của bài thơ này vẫn còn nhiều tranh cãi. Người thì hiểu rằng: Nguyễn Du đọc tập thơ của nàng Tiểu Thanh nhưng cũng có người lại hiểu rằng Nguyễn Du đọc câu truyện viết về nàng Tiểu Thanh. Nhưng dù hiểu theo cách nào, nguồn cảm hứng để đại thi hào Nguyễn Du sáng tác nên bài thơ này cũng từ cuộc đời đầy bi ai của nàng. Tiểu Thanh vốn dĩ có tài sắc, được gả làm vợ lẽ một gia đình quyền quý khi mới chỉ 16 tuổi. Nhưng nàng lại phải sống cô quạnh trên Cô Sơn cạnh Tây Hồ do vợ cả hay ghen. Vì đau buồn cảnh sống tù túng, Tiểu Thanh sớm sinh bệnh và mất ở tuổi 18. Trong những tháng ngày ấy, Tiểu Thanh gửi nỗi lòng của mình vào những vần thơ nhưng cũng bị vợ cả đốt gần hết, may vẫn có những vần thơ được giữ lại đến ngày nay.

    Nguyễn Du đứng trước bài thơ của nàng Tiểu Thanh mà nức nở:

    “Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
    Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”

    (Dịch: Vườn hoa cạnh Tây Hồ đã thành bãi hoang,
    Ta chỉ viếng nàng qua bài ký đọc trước cửa sổ mà thôi”

    Hai câu thơ mở đầu nghe buồn não ruột bởi Nguyễn Du thấy sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại. Tây Hồ khi còn nàng Tiểu Thanh xinh đẹp, trẻ trung là một vườn hoa rực rỡ nhưng đến hiện tại chỉ còn là bãi hoang điêu tàn. Từ “tẫn” được tác giả sử dụng thể hiện mọi thứ đã bị thay đổi hoàn toàn, không còn một dấu vết nào của năm xưa. Sự thay đổi của thời gian quả thực khắc nghiệt: vườn hoa biến thành gò hoang là chứng tích của thời gian, còn cuộc đời hẩm hiu, đau khổ của nàng Tiểu Thanh cũng chỉ còn lại qua chứng tích là những trang giấy thơ văn mà thôi. Nguyễn Du đứng trước quang cảnh của thực tại, khó tránh những tiếng thở dài não ruột và liên tưởng đến thân phận của những người có tài văn chương. Sự lẻ loi, đơn độc lên đến tột cùng khi chỉ trong 1 câu thơ có tới 2 từ gồm từ “độc” và từ “nhất” xuất hiện.

    Tiếp đến hai câu thực, câu chuyện về nàng Tiểu Thanh vẫn là tiền đề khơi gợi cảm xúc, lòng trắc ẩn của đại thi hào:

    “Chi phấn hữu thần liên tử hậu
    Văn chương vô mệnh lụy phần dư”

    (Son phấn có thần chôn vẫn hận
    Văn chương không mệnh đốt còn vương)

    Bất cứ ai nghe câu chuyện về Tiểu Thanh cũng khó tránh khỏi sự tiếc thương cho cuộc đời đầy bi ai. Trước khi cảm nhận cái chết đang gần kề, Tiểu Thanh có thêu họa sĩ vẽ chân dung của mình nhưng nàng chỉ chọn được 1 bức duy nhất theo đúng ý để treo lên. Tiểu Thanh cứ nhìn bức tranh mình xinh đẹp, kiều diễm với thần thái tự tại mà khóc đến chết. Cuối cùng, chính bức tranh đó cũng bị người vợ cả đốt cùng thơ văn của nàng. Bằng cách sử dụng hình ảnh gắn liền với hồng nhan “chi phấn”, tác giả đã khéo léo nói về cuộc đời tài hoa bạc mệnh của người con gái ấy. Không chỉ vậy, Nguyễn Du còn khơi gợi ra những bất công, ngang trái trong cuộc sống đời thực, chẳng phải riêng của nàng Tiểu Thanh. Người tài hoa bị cái ác dập vùi trong đau khổ đến mức nếu son phấn có thần chắc chắn có chết cũng vẫn hận, còn văn chương dù không có số mệnh nhưng bị đốt bỏ cũng mãi vương vấn. Cái tàn nhẫn của người đời đủ khiến những vật vô tri vô giác cũng phải oán thán trời xanh.

    Khác với hai câu đề và hai câu thực có phần hướng ngoại, đến hai câu luận, Nguyễn Du đã ngẫm về đời và ngẫm về mình:

    “Cổ kim hận sự thiên nan vấn
    Phong vận kỳ oan ngã tự cư”

    (Mối hờn kim cổ trời khôn hỏi
    Cái án phong lưu khách tự mang)

    Mặc dù bản dịch thơ khá chuẩn, nhưng từ “Mối hờn” không đảm bảo sức nặng như từ cổ kim hận trong nguyên tác. Mối hờn ở đây không phải thù hận mà là sự tiếc hận – sự tiếc hận cho những con người tài năng, những thế hệ tài năng nhưng lại gặp phải nhiều ngang trái trong cuộc đời. Cảm thương cho những con người như vậy, Nguyễn Du cũng tin rằng dường như có một thông lệ định sẵn cho những con người tài hoa sẽ bạc mệnh như nàng Tiểu Thanh, như nàng Thúy Kiều… Mối hận cổ kim là mối hận của người xưa và người nay, tức người thời Nguyễn Du, là chính Nguyễn Du. Người xưa có thể là Nguyễn Du và những người như nàng. Người nay có thể là những người phụ nữ hồng nhan bạc mệnh cùng thời Nguyễn Du và chính thế hệ tài năng như Nguyễn Du đã gặp nhiều ngang trái trong cuộc đời. Đến đây, Nguyễn Du tự thấy mình có thể xếp vào cùng hội cùng thuyền với nàng Tiểu Thanh qua câu thơ: Phong vận kì oan ngã tự cư. Lời oán trách không chỉ thể hiện sự bất bình, sự đau khổ và bất lực của nhà thơ trước những bất công của xã hội đã chà đạp lên giá trị văn chương, nghệ thuật thời phong kiến. Biết oán ai bây giờ, chỉ biết oán trời, oán vận. Trời vốn vô tình với những con người tài hoa, hiện tại là Nguyễn Du và trước đó 300 năm là nàng Tiểu Thanh còn về sau hậu thế cũng sẽ có những con người phải chịu nỗi ấm ức này. Có lẽ chính bản thân Nguyễn Du thời điểm này và cả về sau cũng không thể lý giải được những ngang trái mình gặp trên đường đời. Những tâm sự của các thi sĩ đời xưa như: thời trai trẻ ta cũng là kẻ có tài, mà vẫn phải chịu cảnh lang thang mười năm gió bụi đã trở nên quá phổ biến. Câu hỏi về cuộc đời cứ mãi không có câu trả lời, va đập vào sự vô định vô hình tạo nên nỗi đau thấm gan thấm ruột.

    Sau cái chết của nàng Tiểu Thanh, đến 300 năm sau vẫn có Nguyễn Du ngồi bên cửa sổ trước tập thơ, câu chuyện về nàng mà cảm thương, xót thương cho số phận của người con gái ấy. Vậy, Nguyễn Du – người cùng hội cùng thuyền với Tiểu Thanh cũng tự hỏi:

    Bất tri tam bách dư niên hậu.
    Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

    (Không biết hơn ba trăm năm sau
    Thiên hạ ai người khóc Tố Như?)

    Người xưa cho rằng, những người cùng cảnh ngộ sẽ có sự thấu hiểu và cảm thương cho nhau sâu sắc hơn bất kỳ ai. Giống như Nguyễn Du cảm thương số phận nàng Tiểu Thanh, Thúy Kiều cũng đã từng khóc than và tỏ lòng thành với nàng Đạm Tiên. Những con người đồng khí sẽ thường gặp nhau dù có cách nhau nhiều thế kỉ, họ cũng sẽ gặp nhau trong tâm tưởng, trong sự hoài niệm. Nguyễn Du dù cách Tiểu Thanh tới 300 năm, nhưng trước cuộc đời, trước số phận của nàng Nguyễn Du không tránh khỏi sự đồng cảm, lời khóc than. Và rồi, chính Nguyễn Du nghĩ đến cuộc đời của mình và tự hỏi rằng: liệu hậu thế về sau, liệu 300 năm có lẻ nữa, người đời có ai cảm thương cho số phận của ông như chính ông đã cảm thương cho số phận của nàng Tiểu Thanh hay không. Cũng từ đây, ta thấy được một nỗi cô đơn, nỗi cô độc giữa chính cuộc đời, chính thời đại chẳng thể tìm được người tri âm, tri kỷ. Với mong muốn ấy, Tố Như khát khao hậu thế về sau có thể có người trở thành tri âm của ông qua những tác phẩm ông để lại cho cuộc đời.

    Độc Tiểu Thanh kí là bài thơ thể hiện nỗi lòng, sự cảm thông của đại thi hào Nguyễn Du với nàng Tiểu Thanh tài hoa bạc mệnh. Cũng qua đó, Nguyễn Du cảm thán cuộc đời, cảm thán cuộc đời mình dường như cũng giống nàng Tiểu Thanh. Cũng như những bài thơ khác của ông, Độc Tiểu Thanh kí mang đầy giá trị nhân đạo khi Nguyễn Du đã nhắc đến vấn đề cuộc sống của những con người bị cái ác, bị xã hội vùi dập và đặc biệt là người phụ nữ trong thời đại xưa. Ông không chỉ thể hiện sự xót thương mà còn cả sự trân trọng những gì họ để lại cho đời sau. Trước tấm lòng của Tố Như, chẳng cần đợi đến 300 năm sau, Tố Hữu đã “tri âm” Nguyễn Du qua những vần thơ da diết:

    Tiếng thơ ai động đất trời
    Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
    Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
    Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày…

    (Kính gửi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu)

    Phân tích Độc Tiểu Thanh kí – Mẫu 5

    Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc là danh nhân văn hóa thế giới, là nhà thơ tiêu biểu trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Ông để lại cho đời số lượng lớn bài thơ trong đó có những sáng tác đạt đến trình độ cổ điển và mẫu mực, Trong đó phải kể đến bài thơ ” Độc tiểu thanh kí”, bài thơ được khơi nguồn từ hình ảnh người con gái tài hoa bạc mệnh.

    Tương truyền Tiểu Thanh là một cô gái Trung Quốc có tài và có sắc, sống khoảng đầu thời Minh. Cô được biết đến là người con gái thông mình, nhiều tài nghệ thuật như thi ca, âm nhạc. 16 tuổi cô về làm vợ lẽ cho một nhà quyền quý. Vì vợ cả hay ghen bắt cô phải sống một mình trên Cô Sơn, cạnh Tây Hồ. Sống trong sự cô đơn, buồn tủi, Tiêu Thanh sinh bệnh và từ giã cuộc đời ở năm 18 tuổi. Vì quá thương thay cho thân phận người con gái tài hoa bạc mệnh nên Nguyễn Du đã viết nên bài thơ này. Mở đầu bài thơ với hai câu đề đã như tiếng trút lòng của Tiểu Thanh

    Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
    Độc điếu song tiền nhất chỉ thư

    (Tây hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
    Thổn thức bên song mảnh giấy tàn)

    Câu thơ không nhằm mục đích miêu tả cảnh đẹp Tây Hồ mà ngụ ý tác giả chỉ là mượn không gian để nói lên suy nghĩ, cảm nhận về sự biến đổi trong cuộc sống. Tây Hồ vốn được biết đến là cảnh đẹp có tiếng nhưng với cuộc đời của nàng Tiểu Thanh thì cảnh đẹp nơi ấy “hóa gò hoang”. Người nằm dưới lòng “gò hoang” kia là nàng Tiểu Thanh bạc mệnh chỉ để lại trên trần thế “mảnh giấy tàn” là phần di sản của Tiểu Thanh.

    Trong không gian điêu tàn ấy, con người xuất hiện với dáng vẻ cô đơn qua từ ngữ “độc điếu”. Hai hình ảnh “gò hoang” và “mảnh giấy tàn” đã làm cho nhà thơ cảm giác “thổn thức bên song”. Hai câu đầu chỉ là lời giới thiệu thì sang hai cậu thực nhà thơ đã làm sáng tỏ hơn cảm giác buồn thương ngậm ngùi trong hai câu đề

    Chi phấn hữu thần liên tử hậu
    Văn chương vô mệnh lụy phần dư

    (Son phấn có thần chôn vẫn hận
    Văn chương không mệnh đốt còn vương)

    Mượn hình ảnh “son phấn” và ” văn chương” ngụ ý nhắc đến nàng Tiểu Thanh. Cả cuộc đời nàng chỉ biết làm bạn với son phấn và văn chương để vơi đi những buồn tủi, bất hạnh. Nhà thơ dùng từ “son phấn” để ẩn dụ khi nói về nhan sắc của nàng Tiểu Thanh nhưng cái đẹp ấy lại bị vùi dập không thương tiếc.

    Dù đã chết “chôn” nhưng linh hồn nàng vẫn chưa siêu thoát vẫn ôm một nỗi “hận” trần thế. “Hận” vì sự ghen tuông vô lý của bà vợ cả đã đẩy nàng vào cái chết khi tuổi vừa mới 18 đôi mươi, hận vì những trang văn vốn chẳng có tội tình gì cũng bị đốt cháy nhưng như còn chút nuối tiếc ” còn vương” nên vẫn còn lại một số bài. Từ số phận của nàng Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã khái quát thành cái nhìn về con người trong xã hội phong kiến trong hai câu luận tiếp theo:

    Cổ kim hận sự thiên nan vấn
    Phong vận kỳ oan ngã tự cư

    (Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
    Cái án phong lưu khách tự mang)

    Dường như nỗi oan ức của Tiểu Thanh không phải chỉ của riêng mỗi nàng mà là cái án, cái kết thúc chung của những con người “tài hoa bạc mệnh” có từ thời “cổ” chí “kim”. Nhà thơ dùng từ “hận sự” như muốn nhắc đến một mối hận suốt đời nhắm mắt cũng không thể quên. Có tài, có sắc nhưng lại không thể an yên, vui vẻ với kiếp người. Khi đọc những vần thơ trên người đọc còn sẽ liên tưởng đến hình ảnh nàng Kiều của Nguyễn Du. Đó cũng là một số phận sinh ra trong xã hội phong kiến tài sắc chẳng kém ai vậy mà cuộc đời nàng lênh đênh, bạc mệnh quá. Nhà thơ Nguyễn Du đã từng viết 2 câu thơ ngậm ngùi, xót xa:

    Trăm năm trong cõi người ta
    Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau

    Những oan khuất của nghìn đời ấy chỉ có trời mới hiểu “trời khôn hỏi” nhưng dẫu có biết thì cũng không thể làm gì được. Đó như một cái án của nhiều nạn nhân, nhiều con người trong cái xã hội lúc bấy giờ phải “tự mang”. Hai câu thơ khóc thương người nhưng dường như cũng để thương mình của Nguyễn Du đã thể hiện được tầm vóc lớn lao của chủ nghĩa nhân đạo và cách nhìn sâu sắc của ông. Khép lại bài thơ với hai câu kết là những dòng suy tư, cảm nghĩ của chính nhà thơ về thời thế, thời cuộc:

    Bất tri tam bách dư niên hậu
    Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như

    (Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
    Người đời ai khóc Tố Như chăng)

    Khóc cho Tiểu Thanh của ba trăm năm trước bằng sự đồng điệu về suy nghĩ, thấu hiểu về cảm xúc nhưng nhà thơ đã tự vấn, hoài nghi và đặt câu hỏi cho chính mình. Một câu hỏi chứa đựng nhiều xót xa, nếu như ba trăm năm sau những vần thơ của Tiểu Thanh vẫn còn có Nguyễn Du thương cảm nhưng liệu ba trăm năm sau có còn “ai khóc Tố Như chăng”.

    Người đời khi ấy liệu có nhớ hay đã quên đến ông, câu hỏi như xoáy sâu vào suy nghĩ của người đọc. Câu thơ như bộc lộ nỗi bi phẫn của nhà thơ trước thời cuộc để rồi khóc thương người, nhà thơ tự khóc thương chính mình.

    Nhưng đến ngày hôm nay, ai trong chúng ta đều biết đến, đều ghi nhớ đến Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc, một tượng đài bất từ của nền văn học Việt Nam bởi những tác phẩm đồ sộ mang giá trị cao đã và đang được lưu truyền cho các thế hệ sau.

    “Độc tiểu thanh ký” là một bài thơ để lại những thương cảm trong lòng người đọc về số phận bất hạnh của những con người tài hoa nhưng bạc mệnh. Đồng thời qua đây, tác giả cũng đã phản ánh thực trạng xã hội phong kiến tàn ác đã đẩy con người vào những bước đường cùng, chà đạp lên nhân phẩm và lãng quên những giá trị mà họ đã để lại cho đời.

    Phân tích Độc Tiểu Thanh kí – Mẫu 6

    Nguyễn Du là một cái tên mà nhắc đến thì ai cũng biết. Tên tuổi của ông thường gắn liền với Truyện Kiều thế nhưng ông còn nhiều sáng tác khác nữa. Có thể nói Nguyễn Du là một người có sự đồng cảm với những người phụ nữ đương thời. Chính vì thế những bài thơ của ông thường khóc cho số phận của những con người hồng nhan bạc mệnh. Ngoài Kiều ra thì chúng ta còn thấy Nguyễn Du khóc thương cho nàng tiểu Thanh đời nhà Minh qua tác phẩm độc tiểu thanh ký. Qua bài thơ Nguyễn Du thể hiện sự thương cảm cho những con người tài sắc nhưng bạc mệnh. Đồng thời qua đó ông thể hiện sự day dứt trăn trở cho số phận những người có tài trong đó có chính bản thân ông.

    Cảnh Hồ Tây gắn liền với những với giai thoại về nàng Tiểu Thanh tài sắc vẹn toàn, sống vào đầu đời nhà Minh. Vì hoàn cảnh éo le, nàng phải làm vợ lẽ một thương gia giàu có ở Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang. Vợ cả ghen, bắt nàng ở trong ngôi nhà xây biệt lập trên núi Cô Sơn. Nàng có làm một tập thơ ghi lại tâm trạng đau khổ của mình. ít lâu sau, Tiểu Thanh buồn mà chết, giữa lúc tuổi vừa mười tám. Nàng chết rồi, vợ cả vẫn ghen, đem đốt tập thơ của nàng, may còn sót một số bài được người đời chép lại đặt tên là Phần dư (đốt còn sót lại) và thuật luôn câu chuyện bạc phận của nàng.

    Mở đầu bài thơ tác giả dựng lên một hình ảnh Hồ Tây đầy những u ám, nó không đẹp phảng phất ngây ngất nữa mà nó mang một nỗi niềm oan ức của người con gái đa tài có nhan sắc kia:

    “Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
    Độc điếu song tiền nhất chỉ thư. ”

    (Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,
    Thổn thức bên song mảnh giấy tàn)

    Nhắc đến Tây Hồ người ta thường nghĩ đến những cảnh đẹp thế nhưng ở đây Nguyễn Du lại nói là gò hoang. Có thể nói ở đây ngày xưa đúng là một cảnh đẹp thật đấy nhưng giờ đây thì không. Nó chỉ còn lại một gò hoang vu mà thôi. ở nơi ấy nàng Tiểu Thanh đã mất đi và chính sự mất đi ấy đã làm cho cảnh vật nơi đây âm u tràn trong những uất ức mà cô phải chịu. Nó không còn đẹp nữa giống như người con gái ấy không còn nữa. Tây Hồ thành gò hoang cũng như cô ấy đã ra đi và giờ đây chỉ còn là một nắm xương khô mà thôi. Hai chữ “thổn thức” như gợi lên bao đau đớn buồn thương của người con gái ấy. Tiếng lòng Tiểu Thanh hay chính là tiếng lòng của Nguyễn Du. Ở đây có một sự đồng điệu về nhân vật và tác giả. Họ cùng chung một sự nghiệp văn chương cho nên trước sư ra đi của người tài giỏi Nguyễn Du đồng điệu tâm hồn mình.

    Đến hai câu thơ sau chúng ta lại thấy được những linh hồn của cô nàng tài sắc ấy vẫn còn vấn vương trên cõi trần, vẫn ở đâu đó khiến cho nhà thơ cảm nhận được:

    “Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
    Văn chương vô mệnh lụy phần dư:”

    (Son phấn có thần chôn vẫn hận,
    Văn chương không mệnh đốt còn vương)

    Son phấn ở đây chỉ nhằm nói đến Tiểu Thanh, son phấn để chỉ người phụ nữ bởi nó là một vật trang điểm khiến cho nhan sắc của những người phụ nữ thêm phần lộng lẫy và xinh đẹp hơn. Tác giả như cảm nhận thấy được cái thần thái của người con gái ấy vẫn còn đâu đây mặc dù bị chôn đi nhưng mà nỗi hận vẫn còn. Chính nhà thơ dùng tâm hồn đồng điệu của mình để cảm nhận được điều đó. Và chính cái chết ấy đã mang đi sự nghiệp văn chương của cô. Vốn dĩ nó còn được phát triển nữa nhưng thật sự không thể được vì cái người làm ra nó vì xinh đẹp mà bị giết hại. Có thể nói nhan sắc kia đã làm cho văn chương bị liên lụy. Thế nhưng những tác phẩm văn chương của nàng tiểu Thanh ấy dù bị đốt đi nhưng hãy còn vương. Văn chương đâu có mệnh có linh hồn vậy mà ở đây lại có. Tất cả để nói lên rằng linh hồn của tiểu Thanh.

    Nhà thơ tiếp tục bày tỏ nỗi lòng mình với nàng Tiểu Thanh tài sắc trong hai câu thơ tiếp. có thể nói rằng những câu thơ như càng ngày càng thấm đẫm sự thương xót người xưa của nhà thơ. Từ đó ta thấy được nhà thơ đang như “thương người như thể thương thân” vậy:

    “Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
    Phong vận kì oan ngã tự cư.

    (Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
    Cái án phong lưu khách tự mang. )”

    Nỗi hận của nàng Tiểu Thanh là một nỗi hận kim cổ, câu thơ chứa đựng biết bao nhiêu tuyệt vọng. Không những thế Nguyên Du đã nâng nỗi hận của Tiểu Thanh thành nỗi hận của đời này truyền sang đời khác. Cái chết oan ức của Tiểu Thanh không thể hết oan ức được. Phong vận ở câu thơ thứ sáu không có nghĩa là sự phong lưu về vật chất mà là sự phong lưu về tinh thần, Nói cách khác là chỉ cái tâm, cái tài của những kẻ tài hoa. Con người tài hoa là tinh túy của trời đất, vậy mà sao số phận họ lại nhiều vất vả, truân chuyên đến vậy? đúng là:

    “Có tài mà cậy chi tài
    Chữ tài liền với chữ tai một vần”

    Càng thương tiếc Tiểu Thanh bao nhiêu thì Nguyễn Du lại nghĩ đến bản thân mình bấy nhiêu:

    “Bất tri tam bách dư niên hậu, .
    Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”

    (Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
    Người đời ai khóc Tố Như chăng ?)

    Nhà thơ lo lắng cho bản thân mình trước sự trôi chảy của cuộc đời. Rồi mai này Nguyễn Du cũng mất đi nhưng không biết rằng có ai khóc Tố Như không. Câu hỏi cất lên mang đầy sự trăn trở về số phận mình. Ba trăm năm con số ấy là rất dài nhưng đến ngày nay thì người ta đã nhớ đến Nguyễn Du rất nhiều rồi.

    Qua đây ta thấy được sự thương cảm xót xa đồng điệu của những con người tài hoa bạc mệnh với nhau. Nguyễn Du quả thật là một nhà văn của người phụ nữ, ông không những có một tác phẩm về cuộc đời nàng Kiều mà ông còn thương cảm với nàng Tiểu Thanh bên Trung Quốc. Tóm lại nhà thơ viết lên bài thơ này một mặc để bày tỏ sự thương tiếc với người tài hoa nhưng bạc mệnh lại vừa thể hiện sự trăn trở về số phận của bản thân mình.

    Phân tích Độc Tiểu Thanh kí – Mẫu 7

    Độc Tiểu Thanh kí là một trong những bài thơ chữ Hán hay nhất của Nguyễn Du in trong Thanh Hiên thi tập. Có thể Nguyễn Du sáng tác bài này trước hoặc sau khi được triều đình cử đi sứ sang Trung Quốc.

    Thắng cảnh Tây Hồ gắn liền với giai thoại về nàng Tiểu Thanh tài sắc vẹn toàn, sống vào đầu đời nhà Minh. Vì hoàn cảnh éo le, nàng phải làm vợ lẽ một thương gia giàu có ở Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang. Vợ cả ghen, bắt nàng ở trong ngôi nhà xây biệt lập trên núi Cô Sơn. Nàng có làm một tập thơ ghi lại tâm trạng đau khổ của mình. ít lâu sau, Tiểu Thanh buồn mà chết, giữa lúc tuổi vừa mười tám. Nàng chết rồi, vợ cả vẫn ghen, đem đốt tập thơ của nàng, may còn sót một số bài được người đời chép lại đặt tên là Phần dư (đốt còn sót lại) và thuật luôn câu chuyện bạc phận của nàng.

    Nguyễn Du đọc những bài thơ ấy, lòng dạt dào thương cảm cô gái tài hoa bạc mệnh, đồng thời ông cũng bày tỏ nỗi băn khoăn, day dứt trước số phận bất hạnh của bao con người tài hoa khác trong xã hội cũ, trong đó có cả bản thân ông.

    Phiên âm chữ Hán:

    Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
    Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
    Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
    Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
    Cổ kim hận sự thiên nan vấn;
    Phong vận kì oan ngã tự cư.
    Bất tri tam bách dư niên hậu,
    Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

    Dịch thơ Tiếng Việt:

    Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,
    Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
    Son phấn có thần chôn vẫn hận,
    Văn chương không mệnh đốt còn vương.
    Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
    Cái án phong lưu khách tự mang.
    Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
    Người đời ai khóc Tố Như chăng?

    Đến với Tiểu Thanh ba trăm năm sau ngày nàng mất, trong lòng nhà thơ Nguyễn Du dậy lên cảm xúc xót xa trước cảnh đời tang thương dâu bể:

    Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
    (Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,)

    Câu thơ có sức gợi liên tưởng rất lớn. Cảnh đẹp năm xưa đã thành phế tích, đã bị hủy hoại chẳng còn lại gì. Trên gò hoang ấy chôn vùi nắm xương tàn của nàng Tiểu Thanh xấu số. Nói đến cảnh đẹp Tây Hồ, chắc hẳn tác giả còn ngụ ý nói về con người đã từng sống ở đây, tức Tiểu Thanh. Cuộc đời của người con gái tài sắc này cũng chẳng còn lại gì ngoài những giai thoại về nàng. Cảnh ấy khiến tình này nhân lên gấp bội. Trái tim của nhà thơ thổn thức trước những gì gợi lại một kiếp người bất hạnh:

    Độc điếu song tiền nhất chi thư.
    (Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.)

    Tiểu Thanh đã bày tỏ tâm trạng của mình qua những bài thơ đó như thế nào?

    Chắc chắn là nỗi buồn tủi cho thân phận, nỗi xót xa cho duyên kiếp dở dang và thống thiết hơn cả là nỗi đau nhân tình không người chia sẻ. Tiếng lòng Tiểu Thanh đồng điệu với tiếng lòng Nguyễn Du nên mới tạo ra được xúc động mãnh liệt đến thế. Nhà thơ khóc thương Tiểu Thanh tài hoa bạc mệnh, đồng thời cũng là khóc thương chính mình – kẻ cùng hội cùng thuyền trong giới phong vận.

    Nguyễn Du cỏ cảm giác là dường như linh hồn Tiểu Thanh vẫn còn vương vấn đâu đây. Nàng chết lúc mới mười tám tuổi trong cô đơn, héo hắt, đau khổ. Oan hồn của nàng làm sao tiêu tan được?

    Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
    Văn chương vô mệnh lụy phần dư:

    (Son phấn có thần chôn vẫn hận,
    Văn chương không mệnh đốt còn vương.)

    Ba trăm năm đã qua nhưng tất cả những gì gắn bó với nàng vẫn như còn đó. Chi phấn (son phấn) nghĩa bóng chỉ phụ nữ; tức Tiểu Thanh. Son phấn là vật để trang điểm, song nó cung tượng trưng cho sắc đẹp phụ nữ. Mà sắc đẹp thì có thần (thần chữ Hán cũng có nghĩa như hồn) nó vẫn sống mãi với thời gian như Tây Thi, Dương Quý Phi tên tuổi đời đời còn lưu lại. Nỗi hận của son phấn Cũng là nỗi hận của Tiểu Thanh, của sắc đẹp, của cái Đẹp bị hãm hại, dập vùi. Nó có thể bị đày đọa, bị chôn vùi, nhưng nó vẫn để thương để tiếc cho muôn đời.

    Văn chương là cái tài của Tiểu Thanh nói riêng và cũng là vẻ đẹp tinh thần của cuộc đời nói chung. Văn chương vô mệnh bởi nó đâu có sống chết như người? Ấy vậy mà ở đây, nó như có linh hồn, cũng biết giận, biết thương, biết cố gắng chống chọi lại bạo lực hủy diệt để tồn tại, để nói với người đời sau những điều tâm huyết. Dụ nó có bị đốt, bị hủy, nhưng những gì còn sót lại vẫn khiến người đời thương cảm, xót xa. Nhà thơ đã thay đổi số phận cho son phấn, văn chương, để chúng được sống và gắn bó với Tiểu Thanh, thay nàng nói lên nỗi uất hận ngàn đời. Hai câu thơ đầy ý vị ngậm ngùi, cay đắng, như một tiếng khóc thổn thức, nghẹn ngào.

    Đến hai câu luận:

    Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
    Phong vận kì oan ngã tự cư.

    (Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
    Cái án phong lưu khách tự mang.)

    Nhà thơ tiếp tục bày tỏ niềm thương cảm của lòng mình. Câu thơ: cổ kim hận sự thiên nan vấn chứa đựng sự tuyệt vọng. Từ nỗi hận nhỏ là hận riêng cho số phận Tiểu Thanh, Nguyễn Du nâng cao, mở rộng thành nỗi hận truyền kiếp từ xưa tới nay của giới giai nhân tài tử. Tài hoa bạc mệnh, đó có phải là quy luật bất di bất dịch của Tạo hóa ? Là định mệnh rõ ràng khắt khe của số phận? Nếu đúng như thế thì nguyên nhân là do đâu? Trải mấy ngàn năm, điều đó đã tích tụ thành nỗi oán hờn to lớn mà không biết hỏi ai. Nỗi oan lạ lùng của những kẻ tài sắc như Tiểu Thanh cũng là nỗi oan của những người tài hoa bạc mệnh rõ ràng là vô lí, bất công, nhưng khó mà hỏi trời vì trời cũng không sao giải thích được (thiên nan vấn). Do đó mà càng thêm hờn, thêm hận.

    Phong vận ở câu thơ thứ sáu không có nghĩa là sự phong lưu về vật chất mà là sự phong lưu về tinh thần, Nói cách khác là chỉ cái tâm, cái tài của những kẻ tài hoa. Con người tài hoa là tinh túy của trời đất, vậy mà sao số phận họ lại nhiều vất vả, truân chuyên đến vậy? Nguyễn Du đã từng viết: Chữ tài liền với chữ tai một vần. Bởi thế nên phong lưu đã thành cái án chung thân mà khách (kẻ tài hoa) phải mang nặng suốt đời. Oái oăm thay, biết là vậy mà bao thế hệ văn nhân tài tử vẫn tự mang nó vào mình. Nguyễn Du đã nhập thân vào Tiểu Thanh để nói lên những điều bao đời nay vẫn cứ mãi băn khoăn, dằn vặt.

    Càng ngẫm nghĩ, nhà thơ càng thương tiếc Tiểu Thanh và càng thương thân phận mình. Từ thương người, ông chuyển sang thương thân:

    Bất tri tam bách dư niên hậu,
    Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

    (Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
    Người đời ai khóc Tố Như chăng)

    Câu hỏi đậm sắc thái tu từ cho thấy Nguyễn Du vừa băn khoăn vừa mong đợi người đời sau đồng cảm và thương cảm cho số phận của mình. Có thể hiểu ba trăm năm là con số tượng trưng cho một khoảng thời gian rất dài. Ý Nguyễn Du muốn bày tỏ là giờ đây, một mình ta khóc nàng, coi nỗi oan của nàng như của ta. Vậy sau này liệu có còn ai mang nỗi oan như ta nhỏ lệ khóc ta chăng ? Câu thơ thể hiện tâm trạng cô đơn của nhà thơ vì chưa tìm thấy người đồng cảm trong hiện tại nên đành gửi hi vọng da diết ấy vào hậu thế. Hậu thế không chỉ khóc cho riêng Tố Như, mà là khóc cho bao kiếp tài hoa tài tử khác.

    Nhà thơ thấy giữa mình và Tiểu Thanh có những nét đồng bệnh tương liên. Tiểu Thanh mất đi, ba trăm năm sau có Nguyễn Du thương xót cho số phận nàng. Liệu sau khi Tố Như chết ba trăm năm, có ai nhớ tới ông mà khóc thương chặng?

    Câu thơ như tiếng khóc xót xa cho thân phận, thương mình bơ vơ, cô độc, không kẻ tri âm, tri kỷ; một mình ôm mối hận của kẻ tài hoa bạc mệnh giữa cõi đời. Dường như nhà thơ, đang mang tâm trạng của nàng Kiều sau bao sóng gió cuộc đời: Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh, Giật mình, mình lại thương mình xót xa.

    Mở đầu bài thơ là thương người, kết thúc bài thơ là thương thân. Tứ thơ không có gì lạc điệu bởi đến đây, Tiểu Thanh và Nguyễn Du đã hòa làm một – một số kiếp tài hoa mà đau thương trong muôn vàn số kiếp tài hoa đau thương trong xã hội phong kiến cũ.

    Bài thơ cho thấy niềm thương cảm của Nguyễn Du đối với con người mênh mông biết chừng nào ! Nó không bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Nguyễn Du không chỉ thương người đang sống mà thương cả người đã khuất mấy trăm năm. Thương người, thương mình, đó là biểu hiện cao nhất của đạo làm người. Đời người hữu hạn mà nỗi đau con người thì vô hạn. Trái tim đa cảm của nhà thơ rất nhạy bén trước nỗi đau to lớn ấy. Giống như truyện Kiều, Độc Tiểu Thanh kí là đỉnh cao tư tưởng nhân văn của đại thi hào Nguyễn Du.

    Phân tích Độc Tiểu Thanh kí – Mẫu 8

    Nguyễn Du tên là chữ Tố Như. hiệu Thanh Hiên, biệt hiệu Hồng Sơn lạp hộ (Nhà săn bắn núi Hồng Sơn), sinh năm 1765 thời Lê mặt tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

    Thân sinh là cụ Hoàng Giáp Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm, thủ tướng Lê triều. Gia đình cụ Nguyễn Du là một gia đình Nho học lỗi lạc, cả nhà đều làm quan to dưới triều Lê khiến thời ấy đã có câu ca dao ca ngợi:

    Bao giờ ngàn Hống hết cây,
    Sông Rum hết nước, họ này hết quan.

    Gia đình Nguyễn Du còn là một gia đình văn học nổi tiếng. Cụ Nguyễn Nghiễm từng gửi gắm tâm sự mình vào bài phú “Khổng Tử mộng Chu Công”. Thời bấy giờ nước ta có 5 danh sĩ nổi tiếng mà gia đình họ Nguyễn đã có 2 người được nêu danh (Nguyễn Du và Nguyễn Đạm).

    Nguyễn Du là con bà trắc thất Trần Thị Tần, người huyện Đông Ngạn tỉnh Bắc Ninh. Bà có 4 người con mà Nguyễn Du là con thứ ba. Năm 18, Nguyễn Du thi đỗ Tam trường (Tú tài), và bắt đầu cuộc đời chìm nổi theo vận mệnh đất nước.

    Năm 1802, vua Gia Long lên ngôi, kêu gọi tôi thần nhà Lê ra làm quan. Vua cũng cho triệu Nguyễn Du. Không thể từ chối được, nên năm ấy ông ra làm Tri huyện Phù Dực, tỉnh Thái Bình, sau lại thăng Tri Phủ. Thường Tín cùng tỉnh. Làm quan được mấy năm thì ông cáo bệnh xin về.

    Năm 1806, ông lại được triệu về Kinh với chức Đông Các học sĩ. Năm 1809, được đưa làm Cai bạ tỉnh Quảng Bình (tức là Bố Chính). Năm 1813, ông được thăng cần Chính điện học sĩ và được làm Chánh sứ sang cống Tàu đáp lễ sắc phong An Nam Quốc vương. Thời gian này, Nguyễn Du viết Bắc hành tạp lục. Đi sứ về, ông được thăng chức Lễ Bộ Hữu Tham Tri. Năm 1820; ông vừa được lệnh đi sứ Tàu lần thứ hai thì thọ bệnh rồi mất nhằm ngày mùng 10 tháng 8 năm Canh Thìn (Minh Mạng nguyên niên).

    Bài thơ Độc Tiểu Thanh Kí là một bài thơ nổi tiếng bằng chữ Hán, được in trong Thanh Hiên thi tập, thể hiện lòng nhân ái và sự đồng cảm của nhà thơ về nàng Tiểu Thanh tài sắc nhưng phận bạc.

    Nguyễn Du với Tiểu Thanh là hai người xa lạ. Vậy Tiểu Thanh là ai?

    Tương truyền Tiểu Thanh là một cô gái Trung Quốc có tài và có sắc, sống khoảng đầu thời Minh. Vốn thông minh nên từ nhỏ cô đã thông hiểu nhiều môn nghệ thuật như thi ca, âm nhạc. Năm 16 tuổi, cô làm vợ lẽ một nhà quyền quý. Vợ cả là người hay ghen, bắt cô phải sống riêng trên Cô Sơn, cạnh Tây Hồ. Nỗi uất ức đau khổ được cô gửi gắm vào thơ nhưng bài thơ đã bị người vợ cả đốt, may mắn có một số bài thơ còn sót lại. Người ta cho khắc in số thơ đó, đặt tên là Phần dư (Bị đốt còn sót lại). Sống trong tình cảnh đó, Tiểu Thanh sinh bệnh và từ giã cõi đời ở tuổi 18. Nguyễn Du cảm thương người con gái tài sắc phận bạc ấy mà làm bài thơ này. Bài thơ chữ Hán được dịch nghĩa theo văn xuôi là:

    Vườn hoa bên Tây Hồ đã thành bãi hoang rồi. Chỉ viếng nàng qua một tập sách đọc trước cửa sổ. Son phấn có thần chắc phải xót xa vì những việc sau khi chết. Văn chương không có số mệnh mà cũng bị đốt dở. Mối hận cổ kim khó mà hỏi trời được. Sống phong lưu, nhàn nhã cũng tự mang bản án vào mình. Ta tự thấy là người cùng một hội với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã. Không biết hơn ba trăm năm sau, thiên hạ ai người khóc Tố Như?

    Bài thơ khá hay nên có nhiều người dịch ra tiếng Việt. Giản Chi, Nguyễn Quảng Tuân, Vũ Tam Tập dịch theo thể thơ, riêng Vũ Hoàng Chương thì diễn ra thơ lục bát. Dù là hình thức nào, người dịch vẫn không làm chệch hướng nội dung của bài thơ. Ở đây, chúng ta tìm hiểu, cảm nhận bài thơ theo bản dịch của Vũ Tam Tập.

    Hai câu đề của bài thơ:

    Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,
    Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.

    Đấy là hai câu thơ tức cảnh sinh tình dù bài thơ không được sáng tác tại chỗ (Tây Hồ). Đây là cảnh trong tâm tưởng của nhà thơ. Mà đúng thế. Nhà riêng của một nhà quyền quý chắc chắn là đẹp, cảnh Tây Hồ vốn đẹp nổi tiếng. Hiện thực là thế, nhưng với đời của nàng Tiểu Thanh, với nhà thơ thì không thế. Cảnh đẹp ấy, trong tâm tưởng của nhà thơ đã “hóa gò hoang”. Một đồi đất nhỏ thì có gì là đẹp! Mà đó là nấm mồ vô chủ ai mà đến thăm (Truyện Kiều) thì người đang nằm dưới lòng đất kia lại càng lạnh lẽo, càng cô đơn. Người đang nằm dưới lòng “gò hoang” kia, nàng Tiểu Thanh bạc mệnh kia chỉ còn lại ở dương thế “mảnh giấy tàn” là phần di cảo của Tiểu Thanh Kí. Chính hai chi tiết, hai hình ảnh “gò hoang” và “mảnh giấy tàn” này là nguyên nhân khiến nhà thơ “thổn thức bên song”. Cảm xúc của nhà thơ về nàng Tiểu Thanh được diễn tả rõ hơn ở hai câu thực:

    Son phấn có thần chôn vẫn hận
    Văn chương không mệnh đốt còn vương.

    Hoán dụ “son phấn” để chỉ nàng Tiểu Thanh. Tiểu Thanh dù đã chết (chôn) nhưng linh hồn chắc phải xót xa, căm giận người đã đốt những trang thơ của nàng. “Hận” vì hai lẽ: ghen tuông mù quáng khiến nàng phải chết, và đốt những trang thơ vốn chẳng có số phận {mệnh), và chúng vẫn không cháy hết như còn nuối tiếc (còn vương) muốn giữ phần còn lại cho hậu thế.

    Trên là những câu thơ tức cảnh sinh tình, cảm thương cho người tài sắc nhưng bạc phận. Từ đó nhà thơ đã bàn rộng thêm ở hai câu luận:

    Hình như nhà thơ muốn an ủi nàng Tiểu Thanh, tự nhủ với lòng mình rằng xưa nay những người tài hoa nhưng bạc mệnh cũng đã có nhiều. Việc đó thì chỉ có trời mới hiểu. Nhưng dù trời có hiểu vẫn chẳng thể nào can thiệp được sự ganh ghét của người vợ cả, của người đời về lối sống phong lưu đài các, nhàn nhã của người có tài. Mở đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du đã viết:

    Trăm năm trong cõi người ta,
    Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.

    Ban đầu, các nhà văn xưa mượn thuyết tài mệnh tương đối này để miêu tả cuộc đời của những phụ nữ có nhan sắc, hiền đức nhưng phải chịu nhiều nỗi oan khiên. Nguyễn Dữ với chuyện Người con gái Nam Xương, Nguyễn Gia Thiều viết về cung nữ trong Cung oán ngâm khúc, Đặng Trần Côn với người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm… Đấy là những mảnh đời riêng biệt.

    Riêng với Nguyễn Du, nhà thơ lại quan tâm đặc biệt đến đời của những phụ nữ có cả sắc lẫn tài “thi hoa lẫn… cung thương làu bậc ngũ âm…” (Kiều) khá tương đồng với thân phận của những nhà nho thất sủng trong xã hội loạn lạc, suy thoái. Là Dương Quý Phi, Tiểu Thanh, Người con gái gảy đàn ở Thăng Long trong thơ chữ Hán; là Đạm Tiên, Thúy Kiều trong Truyện Kiều. Đây là những kẻ “tài tình chi lắm cho trời đất ghen” mà nhà thơ cảm thông với họ đồng thời cũng ngụ ý ví với thân phận của mình.

    Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
    Người đời ai khóc Tố Như chăng?

    Ấy là dự cảm của nhà thơ về số phận của mình. Với Tiểu Thanh, người phụ nữ xa lạ có phần đời bất hạnh khiến nhà thơ thương khóc như vậy dù nàng sống trước nhà thơ ngoài mấy trăm năm, không biết ngoài ba trăm năm sau có ai thương cảm khóc nhà thơ chăng?

    Biết được số phận của Tiểu Thanh, Nguyễn Du liên tưởng đến số phận của mình. Đúng vậy, nhưng như trên đã viết, nhà thơ nghĩ đến thân phận của những nhà nho, những người có tài, trong đó có ông. Đấy là mối đồng cảm “tình lại gặp tình”, như Thúy Kiều trước mộ Đạm Tiên, “thấy người nằm đó biết sau thế nào?” Đó là sự liên tưởng, mối ưu tư tự nhiên của những người có đời sống tinh thần thiên về tình cảm.

    Trước mộ Đạm Tiên.

    Kiều rằng: “Những đấng tài hoa,
    Thác là thể phách còn là tinh anh”

    Công chúng, thời nào cũng thế, rất công minh trong việc tìm tòi, chắt lọc “tinh anh” của “đấng tài hoa”. Điều ấy chúng ta thây ở tục ngữ, những bài ca dao, những tác phẩm văn chương có từ thuở xa xưa tới nay vẫn còn được truyền tụng. Ngay cả Truyện Kiều, hay Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du đã qua hai trăm năm vẫn còn được truyền tụng, và sẽ còn được truyền tụng lâu dài.

    Phân tích Độc Tiểu Thanh kí – Mẫu 9

    “Độc Tiểu Thanh ký” là một câu chuyện đời được kể bằng mấy câu thơ cô đọng hàm súc của Nguyễn Du. Có thể coi đây là bài thơ bằng chữ Hán hay nhất của ông in trong tập Thanh hiên thi tập. Bài thơ chính là tiếng lòng tiếc thương, xót xa cho số phận của người con gái tài hoa nhưng bạc mệnh.

    Bài thơ độc Tiểu Thanh ký được lấy cảm hứng từ câu chuyện cảm động của người con gái sống vào đầu đời nhà Minh. Nhưng vì gia cảnh nghèo khó, éo len nên nàng được gả vào một gia đình giàu có, làm lẽ đến hết đời. Tuy nhiên vợ cả ghen tuông nên đã cho nàng ở tách biệt trong ngôi nhà ở núi Cô Sơn. Trong những năm tháng sống ở đó, bà đã có hàng trăm bài thơ thổ lộ nỗi niềm, tình cảnh cô đơn lẻ bóng của mình. Ít lâu sau đó, nàng vì quá buồn bã mà chết trong lúc tuổi đời còn quá trẻ. Vợ cả đã đốt đi hết những bài thơ nàng viết, tuy nhiên còn sót lại một số bài, mà sau này người ta bảo chép lại và đặt tên là “Phần dư” để ghi chép lại cuộc đời đầy oan nghiệt của nàng.

    Nguyễn Du khi bắt gặp những bài thơ ấy đã nảy sinh lòng trắc ẩn, xót thương cho thân phận tài hoa bạc mệnh. Và qua nhân vật này, ông phản chiếu vào cuộc đời mình, nhận ra cuộc đời có quá nhiều bất công, khổ ải.

    Nguyễn Du đã mở đầu bài thơ bằng cách gợi ra không gian nơi nàng Tiểu Thanh từng sống:

    Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
    Thổn thức bên song mảnh giấy tàn

    Hai câu thơ có sức gợi, sức ám ảnh rất lớn, khiến người đọc tưởng tượng ra không gian, khung cảnh rất xa xa – nơi người con gái bạc mệnh đã từng sống. Tây Hồ là nơi cảnh đẹp hữu tình nhưng lại hóa gò hoang vắng, heo hút vì có người con gái mãi mãi chôn vùi tuổi thanh xuân của mình ở đây.

    Những tâm sự chồng chất ấy, nàng đã giãi bày qua những vần thơ đẫm nước mắt. Hình ảnh người con gái có chồng cũng như không, một mình vò võ, “thổn thức” bên song cửa sổ với những mảnh giấy tàn viết nên tâm sự đau lòng. Không còn gì buồn và thê thảm hơn khi “có chồng hờ hững cũng như không”. Cuộc đời của những người phụ nữ xinh đẹp, tài hoa trong xã hội phong kiến dường như đều bị chà đạp như thế.

    Nguyễn Du có cảm giác như mảnh giấy tàn ấy vẫn còn vương vấn linh hồn của nàng, còn phảng phất cho đến tận bây giờ.

    Ông xót xa cho thân phận bạc mệnh đó
    Son phấn có thần chôn vẫn hận
    Văn chương không mệnh đốt còn vương

    Hai câu thơ này đã toát lên sự xót xa, chua xót đến tột độ của Nguyễn Du khi nghĩ đến người con gái mệnh bạc ấy. Đã 300 năm trôi qua nhưng hình ảnh của nàng vẫn còn vương vấn, khiến người đòi về sau không khỏi xót thương. Tác giả dùng từ « son phấn » để chỉ nhan sắc của người con gái dù có xinh đẹp bao nhiêu thì cũng bị vùi dập, chà đạp không tiếc thương, cuối cùng đành ôm hận mà chết. Những trang thơ mà nàng viết, bị người ta đốt cháy hết thì nó vẫn còn được lưu truyền cho đến ngày nay.

    Hai câu luận đã thể hiện được sự đồng cảm, xót xa cho thân phận tài hoa này :

    Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
    Cái án phong lưu khách tự mang

    Hai câu thơ cất lên đầy sự tuyệt vọng, ai oán và u sầu nặng nề. Hỏi trời cao, trời không thấu, trách kẻ bạc tình, người không hay. Nguyễn Du thốt lên một câu hỏi đầy chua xót nhưng nhận về mình nhiều khổ đau. Những người phụ nữ tài hoa, xinh đẹp từ xưa đến nay dường như đã mang trong mình cái « án » oan nghiệt, không thể rũ bỏ được.Hay chính xã hội phong kiến đã đẩy họ vào bước đường cùng nhiều chua cay như thế này.

    Và ở hai câu kết, tác giả đã vận vào bản thân mình, vận sự bạc mệnh của người phụ nữ tài hoa ấy

    Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
    Người đời ai khóc Tố Như chăng?

    Một câu hỏi tu từ đầy ngậm ngùi và chua xót khi nghĩ đến cảnh mình sau 300 năm nữa. Tiểu Thanh sau 300 năm vẫn khiến người đọc xót xa, day dứt, nhưng liệu rằng mình có còn được như thế, hay hóa thành cát bụi.

    Câu hỏi đậm giá trị nhân văn, ông muốn hỏi dò tâm ý của mọi người khi nghĩ đến số phận của những người tài hoa sau một thời gian dài sẽ như thế nào. Từ số kiếp tài hoa bạc mệnh của Tiểu Thanh, ông đã liên tưởng đến cuộc đời nhiều sóng gió của bản thân mình. Câu thơ còn khiến cho người đọc phải nghĩ, phải day dứt và xót xa trăm nghìn lần.

    Bài thơ “Độc tiểu thanh ký” của Nguyễn Du là một kiệt tác để lại trong lòng người đọc nhiều nỗi niềm thương cảm về số phận bất hạnh của nhiều người trong xã hội, lên án xã hội chà đạp lên nhân phẩm của họ.

    Phân tích bài  Đọc Tiểu Thanh kí – Mẫu 10

    Thơ văn Nguyễn Du tựa như một kim tự tháp sừng sững giữa đất trời mênh mông. Ba mặt của kim tự tháp ấy, mỗi mặt đều mang một vẻ đẹp kỳ lạ. Mặt chính diện óng ánh sắc màu “Truyện Kiều” với “Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”. Mặt trái cấu trúc bằng một thứ vật liệu dân dã với “Thác lời trai phường Nón”, với “Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu”. Và mặt phải của ngôi tháp là những lớp men ngọc, những khối đá hoa cương, đã được tạo, được khắc bằng “Thanh Hiên thi tập”, “Nam trung tạp ngâm”, “Bắc hành tạp lục”. Nhân dân ta rất lấy làm tự hào về thi hào dân tộc Nguyễn Du.

    Nếu “Truyện Kiều” là công trình nghệ thuật bậc thầy của Nguyễn Du về nỗi đau, niềm vui của những kiếp người thì thơ chữ Hán lại cho thấy một cách trực diện sự khám phá tài tình của ông về cái thế giới sâu thẳm ẩn náu trong đáy tâm hồn nhà thơ. Thi sĩ Xuân Diệu đã viết: “Chính thơ chữ Hán chứa đựng bóng hình, đời sống, nét mặt, mái tóc, dấu chân, tâm tình, suy nghĩ của Nguyễn Du”.

    Từ những cảm nhận ấy, mỗi một chúng ta xúc động biết bao khi đọc bài thơ “Độc Tiểu Thanh ký” của Tố Như. Tiểu Thanh là ai? Đó là một cô gái “Nổi danh tài sắc một thì” sống vào đời Minh. Nàng lấy làm lẽ một thương gia họ Phùng. Vợ cả đánh ghen, bắt nàng “biệt cư” trong một ngôi nhà trên núi Cô Sơn cạnh Tây Hồ. Tiểu Thanh có một tập thơ nói lên cuộc đời khát khao hạnh phúc và đầy nước mắt của mình. Tiểu Thanh đau khổ mà chết giữa lúc tuổi đời vừa mười tám xuân xanh. Nàng chết rồi mà tập thơ của nàng vẫn bị vợ cả đêm đốt, may còn sót lại một số trang, một số bài và được người đời chép lại gọi là phần dư cào. Thi hào Nguyễn Du trên đường đi sứ qua Tây Hồ, đã đến viếng mộ Tiểu Thanh và đọc tập dư cảo của nàng. Đọc hai câu trong phần đề ta cảm nhận rõ điều đó. Đúng là bài thơ “Độc Tiểu thanh ký” nằm trong Bắc hành tạp lục”.

    Từ lúc nàng Tiểu Thanh sống và chết đến lúc Nguyễn Du đi sứ (1813) qua Tây Hồ đã hơn ba trăm năm. Đã có biết bao vật đổi sao dời, biển dâu, dâu biển. Thế mà một vài bài thơ mỏng manh của nàng Tiểu Thanh vẫn làm cho một nhà thơ phương Nam rơi lệ? Mở đầu bài thơ là cả một sự bùi ngùi thương cảm:

    “Tây hồ hoa uyển tận thành khư,
    Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”

    “Hoa uyển” và “khư” là hai khái niệm chuyển hóa đối lập. Cảnh xưa đẹp thế mà nay đã hoang tàn, phế tích. Chữ “tận” nghĩa là hết, là kiệt cùng. Bao trùm lên cảnh vật là một màu sắc tang thương, đau buồn. Nơi gò hoang ấy chỉ còn lại nấm mồ người bạc mệnh và một mảnh giấy tàn (nhất chỉ thư). Một mình nhà thơ đứng lặng trước cửa sổ đọc “mảnh giấy tàn” điếu người xấu số. Thương cuộc đời bể dâu cũng là thương người, thương người bạc mệnh cũng là thương mình. Xót xa và thương cảm. Đó là sự cảm thông của khách tài tử với giai nhân bạc mệnh, của người đang sống đối với người đã khuất. Sau hơn ba trăm năm nàng Tiểu Thanh mất mà “mảnh giấy tàn” của nàng vẫn còn làm cho Nguyễn Du thổn thức, rơi lệ!

    Hai câu thơ trong phần thực như chứa đầy nỗi uất ức của Tố Như:

    “Chi phấn hữu thần liên tử hậu
    Văn chương vô mệnh lụy phần dư”

    “Chỉ phấn” là son phấn tượng trưng cho sắc đẹp của Tiểu Thanh. Văn chương là hiện thân cho tài năng của nàng. Nguyễn Du hỏi đời và hỏi người nhưng mà là để khẳng định: Son phấn có thần, sau khi chết người ta còn xót thương, tiếc nuối. Văn chương còn có số mệnh gì mà người ta còn bận lòng về những bài thơ sót lại sau khi bị đốt! Son phấn và văn chương như những chứng nhân về cuộc đời, về kiếp người oan khổ, ly hận! Vì thế nên son phấn, sắc đẹp thì “có thần”, nó vẫn sống mãi với thời gian và lòng người như Tây Thi, Chiêu Quân, Dương Quý Phi…. cũng như hoa tàn nhưng hương hoa, linh hồn của hoa còn tỏa ngát đâu đây, sắc đẹp của giai nhân vẫn sống mãi cùng tên tuổi họ: “Thác là thể phách, còn là tinh anh”. Nỗi hận và xót xa của “son phấn” chính là nỗi đau thương, nỗi hận của nàng Tiểu Thanh: “Tuổi trẻ bị chôn vùi, sắc đẹp bị hãm hại! Văn chương là tài năng, là vẻ đẹp tinh thần của Tiểu Thanh. Văn chương vốn vô mệnh vì nó vô tri, đâu có sống, chết như Người. Ấy vậy mà “mảnh giấy tàn” của người bạc mệnh “vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt”, chống chọi lạc cùng cái ác, vươn lên mà tồn tại, làm nhức nhối người đời, xưa và nay. Nguyễn Du nói về “son phấn” và “văn chương” là để khẳng định ngợi ca tài sắc Tiểu Thanh, của mọi tài tử giai nhân trong cuộc đời bể dâu. Và chính Nguyễn Du, với cảm quan người nghệ sĩ liên tài từ “mảnh giấy tàn” mà nói lên nỗi uất hận ngàn đời của Tiểu Thanh, của những hồng nhan bạc mệnh!

    Nghĩ về tài sắc giai nhân và cái đẹp trong cõi nhân gian, Nguyễn Du xót xa suy ngẫm về lẽ đời và tình người trong mọi điều oan trái:

    “Cổ kim hận sự thiên nan vấn
    Phong vận kỳ oan ngã tự cư”

    Sự oán hận xưa và nay khó mà hỏi trời được. Đất dày trời cao “Oan này còn một kêu trời nhưng xa” (“Truyện Kiều”). Nói hỏi trời vì không thể hỏi người. Và khi đã “thiên nan vấn” tức là nỗi bế tắc, oan khổ đày rẫy mọi nơi, mọi chốn. Câu thơ như một tiếng kêu thương rung động cõi đất, trời. Và nỗi oan phong vận kỳ dị kia, ta tự mình lại buộc lấy mình. Phong nhã, phong lưu cùng với đào hoa là vẻ đẹp, là bản sắc của con người. Trong cõi đời ta mấy ai được phong nhã hào hoa? Phong lưu là niềm mơ ước của nhiều người. Sao Nguyễn Du lại gọi là “cái án phong lưu”? Khách phong lưu đáng lẽ được hưởng cái nhàn nhã, thanh thản cuộc đời sao lại phải mang cái án oái ăm vào mình? Đúng là nghịch lý, nghịch cảnh. “Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy!” . Đã bao đời nay, “cái án phong lưu ấy” đã đeo đẳng vô số tao nhân mặc khách. Nguyễn Du đâu phải là kẻ “Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa” mà là đã nhập thân vào Tiểu Thanh để nói lên những điều day dứt, băn khoăn bao đời nay. Khách tài tử phong lưu đã tri âm với giai nhân bạc mệnh là vậy. Họ là tài tình, là cái đẹp, là khát vọng về cái đẹp, nên họ cảm thương nhau. Nguyễn Du đã cảm thương Dương Quý Phi (Dương Phi cố lý), đã “thổn thức” Tiểu Thanh, với cảm tâm của một khách tài tử. Thương nàng Tiểu Thanh bao nhiêu, ông càng thương mình bấy nhiêu! “Độc Tiểu Thanh ký” là khúc bi ai thương người, cũng là lời tự thương đau xót:

    “Bất tri tam bách dư niên hậu
    Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”

    Nguyễn Du là một “bậc tài tử trong đời. Tiểu Thanh là một khách hồng nhan. Nguyễn Du tìm thấy giữa mình và người con gái ấy có những nét “đồng bệnh tương liên”. Tài tử gian nan, hồng nhan bạc mệnh. Tiểu Thanh chết trong đau khổ, lưu lại với “nhất chỉ thư”, một mảnh giấy tàn, thế mà hơn ba trăm năm sau còn có Nguyễn Du Thương xót cho số phận nàng. Rồi nhà thơ tự khóc mình và cất tiếng nói: Liệu sau khi ông mất, hơn ba trăm năm, trong thiên hạ còn có ai thương ông? Hai câu kết này rất nổi tiếng. Ai đã từng đọc Nguyễn Du đều nhớ. Tôi vẫn rất thích hai câu dịch của Xuân Diệu:

    “Ba trăm năm nữa mơ màng
    Có ai thiên hạ khóc chàng Tố Như?”

    Câu thơ Chứa đầy tâm sự, tâm trạng. “Một tấm lòng vẫn giấu che, bộc lộ trong một phút giây, chệch nhẹ bức mành, mà ta nhìn được cả một thế giới còn chưa nói” (“Con người Nguyễn Du trong thơ chữ Hán” – Xuân Diệu). Câu thơ như tiếng khóc xót thương cho số phận mình. Ở nơi đất khách quê người, trong những tháng ngày đi sứ. Tố Như càng cảm thấy mình bơ vơ, không kẻ tri âm tri kỷ, một mình ôm mối hận của kẻ tài hoa bạc mệnh: “Người đời ai khóc Tố Như chăng?”.

    Viết về Nguyễn Du, nhà thơ Tố Hữu có câu “Tiếng thơ ai động đất trời….”. Sau khi Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử. Nguyễn Du cất tiếng nghẹn ngào:

    “Thương thay cũng một kiếp người
    Hại thay mang lấy sắc tài làm chi?”

    Ở trong bài thơ “Độc Tiểu Thanh ký”, ông lại xót xa hỏi: “Son phấn có thần chôn vẫn hận – Văn chương vô mệnh đốt còn vương?”. Bài thơ cho ta thấy niềm thương cảm sâu xa của Tố Như đối với con người là vô cùng mênh mông. Đời người hữu hạn, nỗi đau của con người – con người bạc mệnh là vô hạn. Đọc bài thơ “Độc Tiểu Thanh ký”, chúng ta càng thấy rõ cái tâm của nhà thơ lớn dân tộc, càng vô cùng thấm thía chất nhân văn trong thơ chữ Hán của Tố Như.

    Phân tích bài Đọc Tiểu Thanh kí – Mẫu 11

    Nhắc đến Nguyễn Du, ai trong chúng ta cũng nghĩ ngay đến “Truyện Kiều” bởi đây là một tác phẩm kiệt xuất của thơ ca trung ca trung đại Việt Nam. Song, ngoài “Truyện Kiều” Nguyễn Du cũng còn sáng tác nhiều bài thơ thể hiện sự đồng cảm, thương xót đối với những thân phận hồng nhan nhưng bạc mệnh. Trong số các bài thơ đó thì “Độc Tiểu Thanh kí” là bài thơ tiêu biểu hơn cả.

    Bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí” được gợi cảm hứng từ một câu chuyện có thật về một cô gái sống vào đầu đời nhà Minh. Cô gái ấy tên là Tiểu Thanh, nàng có nhan sắc vẹn toàn, cầm kì thi họa đều giỏi cả. Thế nhưng nhà nghèo cho nên nàng được gả vào làm vợ lẽ một nhà giàu. Vì bị vợ cả ghen tuông, bắt nàng ra sống riêng ở Cô Sơn, gần Tây Hồ. Trong những ngày tháng cô quạnh đó, nàng Tiểu Thanh đã viết thơ để bày tỏ tình cảnh và nỗi lòng mình. Ít lâu sau, nàng vì quá muộn phiền mà qua đời khi mới mười tám xuân xanh. Người vợ cả đã đem đốt hết những bài thơ của nàng, tuy nhiên một số bài vẫn còn sót lại. Người ta vì thấy thơ hay nên chép lại và đặt tựa là “Phần dư tập”.

    Nguyễn Du khi đọc được những bài thơ của nàng Tiểu Thanh đã rất đồng cảm, thương thay cho một thân phận tài hoa nhưng bạc mệnh. Thương cho nàng Tiểu Thanh, tác giả cũng nghĩ đến chính bản thân mình, và từ đó ông cũng nhận ra cuộc đời là đầy rẫy những bất công, khổ ải.

    Ngay từ mở đầu bài thơ, không gian nơi nàng Tiểu Thanh từng sống đã gợi lên một nỗi buồn xa vắng:

    Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
    Thổn thức bên song mảnh giấy tàn

    Đọc lên hai câu thơ, người đọc hình dung đến một khung cảnh hoang vắng nào đó của miền sơn cước. Ở đó, chỉ duy nhất có một người con gái lẻ loi ngồi bên lầu. Tây Hồ cảnh tuy đẹp nhưng lại hóa gò hoang vắng, quạnh quẽ, đìu hiu. Một cô gái tuổi còn xuân xanh mà phải chôn vùi ở một nơi heo hút thế này sao không buồn bã cho được.

    Những nỗi lòng buồn hận ấy, nàng đã giãi bày qua những vần thơ bi ai, tha thiết. Hình ảnh “thổn thức” bên song cửa sổ với những mảnh giấy tàn còn gợi nhắc về câu chuyện nàng bị người vợ cả ghen tuông đem đốt hết những vần thơ ấy. Để bây giờ chỉ còn lại những “mảnh giấy tàn” nhưng đủ sức làm cho người ta phải cảm thấy thương tâm bởi những “thổn thức” đau đáu không biết giãi bày với một ai của nàng Tiểu Thanh. Có lẽ, số phận của nàng cũng là số phận chung của rất nhiều cô gái trong xã hội phong kiến ngày đó. Cuộc đời của những người tài giỏi, tài hoa thường hay bị vùi dập và chà đạp đến thương tâm.

    Những tâm tư đau khổ của nàng Tiểu Thanh dường như vẫn còn sức ám ảnh rất lớn, cho nên Nguyễn Du mới có cảm giác như mảnh giấy tàn ấy vẫn còn vương vấn linh hồn của người con gái bạc mệnh ấy:

    Son phấn có thần chôn vẫn hận
    Văn chương không mệnh đốt còn vương

    Tác giả dùng từ “son phấn” để chỉ sắc đẹp của người con gái. Thế nhưng cái đẹp, cái tài ấy lại bị vùi dập không thương tiếc. Mảnh giấy tàn như vẫn còn vương vấn những u buồn và uất hận bởi nàng phải chết khi còn quá trẻ. Chính vì phải chết khi còn quá trẻ cho nên người đời không khỏi xót thương cho thân phận tài hoa bạc mệnh của nàng. Không những thế, những trang thơ mà nàng viết để bày tỏ nỗi lòng cũng bị người ta đốt cháy hết. Chỉ còn lại một phần những mảnh giấy tàn là còn lưu lại đến ngày nay. Có thể thấy rằng, xã hội phong kiến không chỉ cướp đi tuổi xanh của người con gái mà còn muốn vùi dập, bóp chết một tài năng.

    Đến đây, nhà thơ Nguyễn Du không khỏi thương xót cho số phận nàng Tiểu Thanh:

    Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
    Cái án phong lưu khách tự mang

    Một sự tuyệt vọng, bi ai oán và u sầu xoáy tận tâm can! Nỗi oan trái của người con gái đem hỏi trời cao, trời cao không thấu, trách kẻ bạc tình, người nào có hay. Nỗi oan trái ấy dường như đã trở thành cái “án” của những người tài hoa. Tài hoa nhưng bạc mệnh. Hiểu rõ điều đó, Nguyễn Du thốt câu hỏi để rồi nhận ra thực tế đầy chua xót. Đó là cái số phận sinh ra đã thế hay chính cái xã hội phong kiến đã đẩy họ vào bước đường cùng oan trái như vậy? Câu trả lời có lẽ sẽ khiến người đọc phải day dứt và ám ảnh mãi không thôi.

    Và ở hai câu kết, từ sự bạc mệnh của nàng Tiểu Thanh, tác giả đã vận vào số phận của mình và để lại cho người đọc một câu hỏi chất vấn về số phận của những con người tài hoa:

    Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
    Người đời ai khóc Tố Như chăng?

    Một câu hỏi mà chứa đựng rất nhiều xót xa, ngậm ngùi. Ba trăm năm sau những vần thơ của nàng Tiểu Thanh vẫn còn khiến người đời thương cảm. Thế nhưng liệu rằng ba trăm năm sau có “ai khóc Tố Như chăng?”. Câu hỏi như xoáy vào tâm can của người đọc. Người đời còn nhớ hay sẽ quên những số phận tài hoa bạc mệnh thương tâm như thế này? Vào thời điểm đó, thực sự đây là một câu hỏi hãy còn để ngỏ. Thực tế đã chứng minh cho đến ngày nay, đã qua ba thế kỉ mà chúng ta vẫn còn nhớ và nhắc đến tài năng Nguyễn Du. Điều này đã cho thấy, dù là trải qua bao nhiêu thời gian thì tài năng và những giá trị của những người kiệt xuất vẫn luôn được trân trọng và cảm thông.

    “Độc tiểu thanh ký” là một bài thơ để lại những thương cảm trong lòng người đọc về số phận bất hạnh của những con người tài hoa nhưng bạc mệnh. Đồng thời qua đây, tác giả cũng muốn nói lên thực trạng xã hội phong kiến tàn ác đã đẩy con người vào những bước đường cùng, chà đạp lên nhân phẩm và hòng bóp chết những tài năng của họ.

    …………..

    Tải file về để xem thêm bài văn phân tích Đọc tiểu Thanh kí

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *