Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Hai đứa trẻ gồm 6 bài văn mẫu hay nhất kèm theo dàn ý tham khảo. Qua đó giúp các bạn lớp 11 có thêm nhiều gợi ý học tập, trau dồi vốn văn chương của mình, hoàn thiện bài văn khi ôn tập, rèn luyện và làm các bài kiểm tra sắp tới đạt kết quả tốt.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 11: Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Hai đứa trẻ
Hai đứa trẻ của Thạch Lam vừa là bức tranh hiện thực phố huyện nghèo, vừa như một bài thơ trữ tình đặc sắc. Tác phẩm Hai đứa trẻ đã gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn bâng khuâng day dứt về đời sống con người. Vậy dưới đây là 6 bài phân tích giá trị hiện thực trong Hai đứa trẻ, mời các bạn cùng đón đọc nhé.
Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm Hai đứa trẻ
Dàn ý giá trị hiện thực trong tác phẩm Hai đứa trẻ
I. Mở bài:
– Giới thiệu tác giả, giới thiệu tác phẩm Hai đứa trẻ. Đặc biệt nhấn mạnh giá trị hiện thực.
– Chủ đề của truyện: Kiếp sống nghèo khổ, quẩn quanh trong đời sống tẻ nhạt, vô vị và khát khao hướng tới cuộc sống tươi sáng của người lao động nghèo.
II. Thân bài: Trình bày những biểu hiện tạo nên giá trị hiện thực của tác phẩm:
– Tác phẩm trước hết là câu chuyện về một ngày tàn, một phiên chợ tàn, những cuộc đời tàn
– Hình ảnh ngày tàn: tiếng trống thu không; mặt trời lặn; bóng tối nhanh chóng ngập tràn.
– Hình ảnh phiên chợ tàn: người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi; hình ảnh mấy đứa trẻ con đi lại tìm tòi. Tất cả gợi sự buồn tẻ, nghèo nàn.
– Hình ảnh những kiếp người tàn; Một nhóm nhân vật lặng lẽ trong bóng tối, ít nói năng, ít hành động. Ngày lao động vất vả, đêm xuống buôn bán kiếm thêm nhưng rất ế ẩm. Cuộc sống mòn mỏi, tẻ nhạt quẩn quanh trong kiếp nghèo.
– Tác phẩm còn là câu chuyện về niềm khát khao vươn tới cuộc sống tốt đẹp hơn (chú ý hình ảnh đoàn tàu và sự chờ đợi háo hức của người dân phố huyện hướng về đoàn tàu, đặc biệt chú ý tâm trạng của hai chị em Liên).
– Ý nghĩa của hình ảnh đoàn tàu: Đoàn tàu như đem một chút thế giới khác đi qua: tươi sáng, rộn rã, sang trọng (khác hẳn đời sống mờ nhạt, tăm tối, buồn tẻ, nghèo khổ muôn thuở của họ). Người ta nhìn đoàn tàu đi qua, lặng lẽ mơ tưởng theo. Họ mong muốn, khát khao cuộc sống tươi đẹp hơn.
III. Kết bài:
– Khẳng định lại tài năng của Thạch Lam
– Cùng với những truyện ngắn khác của ông, Hai đứa trẻ đã góp phần thể hiện sự tài hoa, xuất sắc của Thạch Lam trong viết truyện ngắn trước Cách mạng tháng Tám 1945.
Giá trị hiện thực trong tác phẩm Hai đứa trẻ – Mẫu 1
Thạch Lam – một nhà văn có quan niệm văn chương lành mạnh, tiến bộ và có biệt tài về truyện ngắn, ông viết truyện nhưng cơ bản lại không có chuyện, tài nguyên chính để khai thác những truyện ngắn của Thạch Lam đó là thế giới nội tâm của nhân vật cùng những xúc cảm trong cuộc sống hàng ngày. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là một truyện đặc sắc tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Thạch Lam, truyện không chỉ có sự hòa quyện giữa yếu tố hiện thực và lãng mạn trữ tình mà còn mang cả những giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.
Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” xoay quanh cuộc sống của những người dân nghèo nơi phố huyện trong bối cảnh đất nước khó khăn trước Cách mạng tháng Tám, nhân vật trung tâm chính là hai chị em Liên – An, đặc biệt truyện được kể theo nhân vật Liên đã đưa người đọc đến gần hơn với cuộc sống, suy nghĩ và những xúc cảm của người dân phố huyện từ đó càng thấm thía và xót thương với những kiếp người nghèo khó, cơ cực, cuộc sống tăm tối, quẩn quanh. Có thể thấy, tác giả Thạch Lam đã rất thành công khi phản ánh bối cảnh hiện thực xã hội vào tác phẩm, đó là một phố huyện nghèo nàn trước cách mạng.
Trước hết đó là một bức tranh thiên nhiên thơ mộng nhưng đượm buồn, cảnh phố huyện lúc chiều muộn với tiếng trống thu không, “áng mây hồng như hòn than sắp tàn”, tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve, mũi ẩm mốc, tất cả đã quen thuộc với chị em Liên và những người dân phố huyện nghèo khổ. Cuộc sống của những con người nơi đây cũng giống như khung cảnh đìu hiu, xơ xác của thiên nhiên phố huyện, đó là một cuộc sống nghèo khổ, lam lũ, cảnh chợ tàn chỉ còn toàn rác rưởi, những đứa trẻ nghèo đang nhặt nhạnh tìm tòi bới móc những thứ còn sót lại của những người bán hàng. Bức tranh đã phản ánh hiện thực đời sống người dân miền Bắc nước ta trước cách mạng năm 1945, một cuộc sống nghèo tàn tạ. Cuộc sống về đêm khi tất cả chìm trong bóng tối càng khắc họa rõ hơn cuộc sống tối tăm, tù đọng, quẩn quanh, bế tắc của người dân phố huyện. Trước hoàn cảnh đó, con người ta luôn có những ước muốn, khát khao, giống như cảnh đợi tàu của hai chị em Liên, đợi tàu chỉ để thấy được ánh sáng, sự đông vui, nhộn nhịp, chờ đợi để được thấy cái gì đó tươi sáng hơn, khát khao về một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Bên cạnh giá trị hiện thực, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” còn chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc và cao cả, xuất phát từ chính tấm lòng thương xót, cảm thông và tình cảm của tác giả đối với những số phận người dân nghèo nơi phố huyện. Qua cách miêu tả và kể chuyện về cuộc sống những con người trong phố huyện như gash hàng nước của mẹ con chị Tí, gánh phở của bác Siêu, quán tạp hóa của chị em Liên hay bà cụ Thi Điên, đã bộc lộ rõ tác giả xót xa biết bao trước cảnh nghèo đói, tăm tối “An và Liên ngửi thấy mùi phở thơm, nhưng ở cái huyện nhỏ này, quà bác Siêu là một thứ quà xa xỉ, nhiều tiền, hai chị em không bao giờ mua được”. Không chỉ cảm thương về sự nghèo khổ, tác giả còn cảm thấy thương cho cuộc sống tẻ nhạt, đơn điệu của người dân huyện, từ chính sự cảm thương đó Thạch Lam cũng phát hiện ra những phẩm chất tốt đẹp bên trong con người họ. Đó là sự chăm chỉ, cần cù, chịu thương chịu khó, dù nghèo khó nhưng vẫn cố gắng bươn chải, dù kiếm được chút ít vẫn cố gắng duy trì, vẫn luôn giàu lòng yêu thương với nhau và đặc biệt là vẫn luôn nuôi hy vọng và mơ ước về một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn. Thạch Lam trân trọng những ước mơ, khát khao đó, mong muốn một chuyến tàu đi qua mang theo một thế giới mới, một thứ ánh sáng mới khác với ánh sáng từ bếp lửa của bác Siêu, ngọn đèn dầu của chị Tí và chị em Liên.
Đọc truyện “Hai đứa trẻ” ta như được trở về với bối cảnh xã hội cũ năm 1945, cảm nhận rõ cái nghèo, cái đói bủa vây. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm đã cho người đọc thấy được tài năng và tấm lòng đáng quý của nhà văn Thạch Lam.
Giá trị hiện thực trong tác phẩm Hai đứa trẻ – Mẫu 2
Hai đứa trẻ là một truyện ngắn không có cốt truyện, nó chỉ ghi lại một góc đời thường của những sô phận cơ hàn, nhưng thê mà Hai đứa trẻ đã toát lên yếu tố hiện thực và tấm lòng nhân đạo cao cả của Thạch Lam qua mẫu chuyện lãng mạn nhưng rất hiện thực.
Câu chuyện mở ra cho ta một buổi chiều tà ở một phố huyện nhỏ bé xa xôi, nơi chị em Liên đang trải qua những ngày thơ ấu khó khăn…
“Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru. Phương tây đỏ rực… đám mây ánh hồng…”
Giọng văn mở đầu riêng nó cũng đã đủ toát lên cái vẻ êm ả và hiu quạnh của một buổi chiều như bao buổi chiều ở một phố huyện đìu hiu, nghèo nàn. Chị em Liên đang dọn hàng sau một ngày buôn bán ế ẩm. Nhưng không chỉ có chị epi Liên, mà còn những chị Tí, bác Siêu… cũng phải trải qua những chuỗi ngày đen tối nhất. Chị Tí ngày “mò cua bắt ốc”, tối đi bán nước, cuộc sống nó cứ bắt đầu như thê và vẫn kết thúc như thế, cứ như cái vòng luẩn quẩn mà họ không sao tìm ra lối thoát. những con người, những con đường… tất cả đều hiện lên với cái vé xơ xác của nó, gợi lên cho ta một cuộc sống ngột ngạt tôi tăm. Chỉ bằng giọng vần êm ả, không thôi, cả cuộc đời chung của những số phận riêng đã hiện lèn ngột ngạt, khó chịu: “Chiếc chõng long nan”, “rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị…” của phiên chợ bốc lên, những chi tiết nhỏ nhặt ấy đã miêu tả được cuộc sống đó. những cuộc đời nghèo khó của chị em Liên, của chị Tí, của những đứa trẻ con nhà nghèo hiện lên rất thực, không lãng mạn chút nào. Giọng văn cứ trôi đều đều, gợi lên cái chết cứng của không
gian và thời gian để phố huyện nghèo nàn ấy hiện lên rõ nét. Và đặc biệt, giữa không khí phố huyện tĩnh lặng đến ghê sợ đó, lại vang lên tiếng cười của một bà già điên, vượt qua không gian nhỏ nhoi để lột trần cuộc sống mỏi mòn bế tắc của một con người và của bao con người. Đây là một chi tiết khá đặc sắc của Thạch Lam, nhà văn đã dùng nó để miêu tả chính xác vẻ ảm đạm thê lương những cuộc đời vô vọng. Và đây là lúc Thạch Lam thầm kín bày tỏ tấm lòng êm mát sâu kín của mình đối với những cuộc đời rất thực đó… Ân sau những nỗi buồn cuộc đời chị em Liên là tình thương của Thạch Lam đối với những số phận nghèo nàn. Đó là tình yêu thương đồng loại giữa những cuộc sống đói rách, đó là tâm lòng thương xót của Liên khi thấy “những trẻ em nhà nghèo nhặt nhạnh” những gì có thế được, nhưng “không có tiền để cho”… chi tiết vừa hiện thực, vừa lãng mạn, muốn nói lên lòng thương người thầm kín của tác giả, mộc mạc, đơn sơ nhưng rất thiêng liêng cao cả.
Đó là thực tại, còn tương lai của họ cũng chẳng tươi sáng chút nào. Những con đường cát “mấp mô cũng chẳng khác gì cuộc đời họ, những con đường nhỏ bé, đầy rác rưởi sẽ đưa chị em Liên, chị Tí, bác Siêu… về đâu. Chi tiết “con đường con” của Thạch Lam rất thực đã nêu lên cái tương lai ảm đạm nhưng cũng rất thực của bao người khốn khổ kia. An đằng sau cái lãng mạn, chan chứa tình người của câu văn nhẹ nhàng là một hiện thực lớn lao về cuộc sống tôi tăm cơ cực của bao người. Con đường kia họ đã đi bao lần trong phố huyện nhỏ bé này, sáng đi kiếm sống, chiều tôi lại về, cùng trên con đường đó. Tương lai mở ra trước mắt họ chỉ là con đường vòng nhỏ hẹp không lối thoát kia. Đó là hiện thực khủng khiếp đang đe dọa cuộc đời những con người lầm than.
Giữa lúc tôi tăm ấy, quá khứ xa xăm ấy đã hiện về với chị em Liên như thứ ánh sáng mơ hồ hắt ra từ những ngọn đèn leo lét. Thạch Lam đã sử dụng thứ ánh sáng kia rất đặc biệt, đó là ánh sáng hiu hắt của quá khứ, đang hội tụ về thực tại. Ánh sáng leo lét soi rọi con đường cát “mấp mố kia là chi tiết tả thực pha chút lãng mạn, nhưng đều tập trung vào việc miêu tả những cuộc đời thật kia. Giữa lúc tối tăm không ai câm chị em Liên mơ tưởng về những ánh đèn rực rỡ năm nào, nó là niềm an ủi cho thực tại, hi vọng của tương lai. Thật không quá lãng mạn chút nào! Ánh sáng leo lét của những ngọn đèn tỏa ra một vùng không gian nhỏ bé, SOI rọi về quá khứ mơ hồ đem đến cho người đọc hôm nay niềm xúc động lạ. Chỉ với lòng nhân đạo bao la, một quan niệm nhân bản thật sâu sắc tác giả mới có thể cho ta chi tiết xúc động đến thế! Tìm thấy mình trong quá khứ để rồi an ủi động viên mình trước thực tại đau buồn, đó là cái cỚ rất chính đáng để chị em Liên thức đợi chuyến tàu đêm nay. Tiếng còi tàu hú từ xa như là âm thanh của quá khứ vọng về thực tại để đưa chị em Liên cố gắng thu vào tất cả hình ảnh chuyến tàu như đi từ quá khứ, mang đến cho chị em cô kỉ niệm sáng rực ở Hà Nội có đen sáng lấp lánh. Ta lại gặp những ánh đèn, của năm xưa đang mơ hồ soi đến. Tác giả đã sử dụng ánh
sáng thật khéo léo, để làm nổi bật sự tương phản của bóng đêm thực tại và quá khứ lấp lánh. Chị em Liên lại được nhìn những người “từ Hà Nội” về, con tàu “đồng kền sáng lấp lánh” soi rọi cả một vùng trời mơ ước trong tâm hồn ngây thơ của hai đứa trẻ. Giá trị nhân văn sâu sắc của truyện ngắn là ở đây, bằng tất cả tấm lòng yêu thương, nhà văn đã đem đến cho họ một chút gì đó để hy vọng mà đáng sống.
Nhưng rồi kỷ niệm đẹp nào rồi cũng trôi qua, con tàu lao vùn vụt từ quá khứ về đến thực tại, rồi lại lao nhanh vào đêm tối xa xăm, để lại cho chị em Liên ánh sáng của ngọn đèn tàu với bao luyến tiếc. Chuyến tàu đã đem lại cho Liên những kỉ niệm về “Hà Nội nhiều đèn” rực rờ ánh sáng của năm nào, đưa hai đứa trẻ ngây thơ đến sống với một “thế giới khác hẳn” nào đó. Liên cảm thấy mình sống giữa “sự xa xôi không biết”, ánh sáng leo lét cuối cùng của quá khứ, hơi ấm của quê hương đã khép lại tâm hồn nhỏ bé của Liên, đưa cô đến một giấc mơ tuyệt vời.
Câu chuyện đã khép lại nhưng vẫn để lại trong ta bao suy nghĩ. Câu chuyện được xây dựng theo phương pháp lãng mạn nhưng đã chất chứa bao hiện thực của cuộc sống lam lũ, đói rách. Chính với những câu văn nhẹ nhàng, Thạch Lam đã đi vào cuộc sống nghèo nàn, túng quẫn không lối thoát của chị em Liên, của chị Tí… Đằng sau những câu văn nhẹ nhàng đó là tấm lòng sâu kín của tác giả với bao số phận nghèo khó. Với lòng nhân đạo bao la, Thạch Lam đã xây dựng một câu chuyện mang tính nhân văn rất cao. Ông đã đem đến cho họ ánh đèn rực rỡ của quá khứ năm nào, nhà văn đã đem đến cho chị em Liên một “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo” mà giờ đây là quá khứ tuyệt vời bao người đang khát vọng…
Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam mang giá trị nhân bản rất sâu sắc, được xây dựng theo thủ pháp lãng mạn pha lẫn yếu tố hiện thực, và bao trùm lên tất cả là tấm lòng nhân đạo của nhà văn. Đó là câu chuyện của một thời đã qua, nhưng hôm nay vẫn để lại trong ta bao điều tốt đẹp đáng trân trọng và ta hi vọng rằng sẽ chẳng bao giờ còn những em thơ mòn mỏi chờ chuyến tàu đêm nữa. cuộc sống mới đang đến và sẽ đến với mọi người.
Giá trị hiện thực trong tác phẩm Hai đứa trẻ – Mẫu 3
“Văn học là nhân học” (M. Gorki), trong văn học, do vậy, vẻ đẹp nhân bản của con người luôn luôn là một phương tiện thẩm mĩ mà ở đó chất thơ và chất hiện thực hòa quyện với nhau. Để làm rõ điều vừa nói, “hai đứa trẻ” của Thạch Lam sẽ là một dẫn chứng.
Hai đứa trẻ vừa là bức tranh hiện thực phố huyện nghèo, vừa như một bài thơ trữ tình đặc sắc. Tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn bâng khuâng day dứt về đời sống con người.
Bức tranh hiện thực nơi phố huyện nghèo xơ nghèo xác và lại càng xơ xác tiêu điều hơn từ cái nhìn của nhà văn. Đó là lúc hoàng hôn của một ngày tàn nơi miền quê “mặt trời đã lấp sau rặng tre, nhìn lên chỉ thấy khóm tre màu đen kịt trên nền trời phớt hồng”. Dàn nhạc của ếch nhái bắt đầu văng vẳng kêu ran ngoài đồng, thế cũng đủ làm thành buổi chiều êm như ru, như bao chiều khác.
Là một mô típ nghệ thuật, cái phố huyện hẻo lánh hiện ra trong khung cảnh chợ vãn của buổi chiều, chỉ còn lèo tèo vài ba người bán hàng đang thu dọn, vài đứa trẻ nghèo thu lượm các thứ phế phẩm lặt vặt… Cái bức tranh ấy đã một lần hiện lên trong “gió lạnh đầu mùa’’ nhưng sao nó vẫn nhuốm một nỗi buồn khó tả vào cái giờ khắc của ngày tàn trong Hai đứa trẻ.
Song bức tranh phố huyện ấy không chỉ là cảnh vật mà là bức tranh cuộc sống của con người. Một hiện thực nơi miền quê hẻo lánh, một chút của chốn kinh thành được mang tới từ con tàu đêm đêm. Cuộc sống phố huyện có gì? Đó là hoạt động kiếm sống của những người mà trong mắt Liên, nhân vật trung tâm của tác phẩm đã quá quen thuộc, mỗi người đã có một thói quen. Như bác phở Siêu, chị Tí, bố con người hát xẩm, cụ Thi điên và ngay cả Liên. Việc chủ yếu cũng chỉ là nghe tiếng trống thu không thì đóng cửa quán mà đợi chờ. Hiện thực không làm ta ngỡ ngàng đó là một phố huyện nghèo với những người cần cù lao động một cách lầm lũi đáng thương.
Nhưng tất cả những hiện thực như thế đều đặt trong con mắt quan sát chất chứa trong chất văn lãng mạn.
Thời gian đi vào cuộc sống của phố huyện “rõ ràng” không vụt nhanh hoặc tan vào đêm tối. Thời gian cứ chậm rãi đi theo từng bước phát triển của nội tâm. Từ “tiếng trống thu không” đến một câu văn nhẹ nhàng: “chiều, chiều tối” cất lên trong lòng, rồi trời nhá nhem tối đến không gian đã khuya không còn những “tạp âm” của ban ngày chỉ còn “vòm trời với ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh”. Mỗi thời điểm lại có một cái nhìn cảnh vật khác nhau nhưng điều có phần thi vị hóa nhờ những câu văn tươi mát, uyển chuyển.
Có buổi chiều nào êm như ru trong cách nhìn của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng? Chỉ có tâm hồn lãng mạn Thạch Lam mới có cái mượt mà đượm chất thơ như thế.
Sự tài tình chính là ở chỗ nhà văn vừa hòa nhập hai tâm hồn quan sát – nhà văn và nhân vật là một. Hiểu là nhà văn quan sát cũng đúng mà hiểu là cảnh vật diễn ra trong mắt của nhân vật Liên cũng chẳng sai. Ta thấy rõ điều đó qua cái giật mình của nhân vật. “Liên mải ngồi quên mất! Bây giờ Liên vội vàng vào thắp đèn xếp những quả san đen lại”.
Trời bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”. Những câu văn như vậy có rất nhiều và được dùng một cách chính xác đạt đến mẫu mực. Phải chăng cảm nhận ấy xuất phát từ tâm hồn nhà văn cũng chính là từ tâm hồn nhân vật Liên khi phố huyện đã chìm trong im lìm của vắng lặng. Trong con mắt “Dõi theo những bóng người về muộn từ từ trong đêm”.
Nếu như đầu tối phố huyện còn được “trang hoàng” bằng những ánh đèn hắt ra từ những quán bên đường thì bây giờ chỉ còn là bóng đêm. Chỉ một vài tia sáng le lói từ khe cửa nhà ai thành từng vệt. Con mắt thơ mộng đâu chỉ dừng ở những ánh sáng rất thực mà tìm đến cái mong manh của đốm sáng. Đó là ánh sáng tuy “ngàn sao đua nhau nhấp nháy” nhưng vẫn còn là hữu hạn trong nền trời vô hạn. Ánh sao vẫn cô đơn, ánh sáng của thứ đom đóm lập lòe trong kẽ lu bàng lại càng gợi buồn khó tả. Ánh sáng hiếm hoi của thiên nhiên được nhà vãn ‘‘chớp nhanh trong cái nhìn lãng mạn. Chất thơ chính là ở đó. Vừa có cái hiện thực vừa có sự bay bổng của con người bứt phá lên và nằm lại trên trang văn. Nhưng tất cả vẫn là cái thường nhật diễn ra trong cảnh sống vốn quần quanh lầm lũi.
Ánh đèn của chị Tí đủ sáng một khoảnh nhỏ. Nếu quan sát từ xa, ta sẽ thấy một bức tranh khá hoàn chỉnh về mặt nghệ thuật với hai “gam màu” sáng tối. Khuôn mặt người phụ nữ chân quê chất phác đã trải qua một người bươn chải với cuộc sống để kiếm bát cơm, manh áo. Cuộc sống gia đình bận rộn tối tăm. Nhưng tối nào chị cũng góp một ánh đèn như thế. Tuy để thêm thu nhập, nhưmg hình như họ chỉ bán cho lấy lệ.
Vậy thì cái gì đã làm cho họ ra đây? Phải chăng đó là nếp sống. Và phố huyện ban đêm là một nơi để họ sống… Âm thanh của cuộc sống phát ra từ hình những lời đối thoại, những hoạt động của con người nơi đây. Mỗi người đều góp một thứ ánh sáng, một chút hương vị, âm thanh. Tất cả tạo nên một bức tranh phố nghèo.
Chỉ một vài nét chấm phá nhưng tất cả những con người nhỏ nhoi có mặt trong tác phẩm đã làm nên bức tranh tổng thể của cuộc sống.
Nếu như ở Nam Cao là những cảnh sống hiện thực khốn khổ với nước mắt và cái đói, miếng ăn và áp bức thì cuộc sống hiện thực trong văn Thạch Lam được “đo” bằng một đơn vị “lãng mạn” nhất định. Nét bút của ông đã phác họa một cách rất nhẹ nhàng uyển chuyển. Phố huyện nghèo và cũng có rất nhiều lí do để người dân phải lao vào cuộc bon chen giành giật sự sinh tồn. Nhưng ở đây là một không khí chan hòa thực sự, ấm áp tình người và mỗi người khi ra về chắc chắn vần giữ được sự ấm áp quên thân dù rất buồn.
Sự hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn đã giúp Thạch Lam có được chất văn nhẹ nhàng thanh thoát, ẩn hiện “bộ mặt buồn” nhân hậu tuyệt vời của ông.
Trở lại với cách sinh hoạt ban đêm nơi phố huyện, chất lãng mạn không dừng lại ở cảnh bao quát mà đắm lại ở những trang viết về chị em Liên. Đây chính là điểm nhấn nhà văn đã tập trung khắc họa. Liên gây ấn tượng với người đọc “bởi nội tâm sâu sắc của một con người đa cảm.
Khi màn đêm đã bắt đầu buông xuống cũng chính là lúc Liên thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn. Cảm giác buồn ấy gợi lên từ cảnh phố huyện xơ xác trong tiếng trống thu không vang vọng như hút hồn người. Bất giác, một cảnh tượng làm chị không khỏi chạnh niềm thương. Đó là những chú bé nheo nhóc, nhớn nhác giữa chợ đã vắng từ lâu để nhặt những mẩu que kem và những gì có ích cho chúng. Ấn tượng đầu tiên là Liên có một tấm lòng chẳng trẻ con chút nào. Nỗi lòng buồn cua Liên báo hiệu một sự “trưởng thành” về tâm sinh lí.
Bức tranh phố huyện nghèo hẻo lánh, ẩn khuất trong bóng tối hư vô của phố huyện. Cuộc sống phố huyện đã ăn sâu trong tâm trí Liên. Tưởng như nếu có thiếu hụt một thứ gì của cảnh ngoài kia, Liên đã thốt lên rồi.
Nhưng tất cả vẫn thế, ngay cả tiếng cụ Thi đôi lúc làm cho Liên sợ. Nhưng vẫn là cảm giác thân thuộc, vẫn thấy cụ đáng yêu và đáng thương. Từng cảnh đời, cảnh sống của mỗi con người lần lượt đi qua tâm hồn non nớt của Liên.
Cuộc sống của từng người đã góp nên thành cuộc sống của cả một cộng đồng nhỏ nhoi ở một vùng quê nghèo khó. Từ những mảnh đời cũng giống như Liên cùng chung môi trường sống, ta thấy một điểm chung rất rõ, đó là sự quanh quần chật hẹp của môi trường xã hội. Ngày lại ngày vẫn chỉ là cái chợ tiêu điều, vài dãy hàng quán với những khoảng đất trống “lác đa lác đác trước lều” và những “con người ấy” mà thôi.
Nhưng ở Liên lại có một sự khác lạ. Một hành động tưởng như quái gở và vô nghĩa, đó là “đợi tàu”. Nhưng đó mới chính là chiều sâu của tác phẩm khi tác giả khắc họa hình ảnh Liên đợi tàu với một niềm háo hức rất trẻ con. Chờ đợi kiên trì mặt đăm chiêu đón nhận, săn tìm một tín hiệu vui.
Và con tàu đã đến đúng như sự mong mỏi, đợi chờ, như một thoáng niềm vui nhưng rồi cũng chợt tắt. Tàu hôm nay không đông khách, ánh sáng của toa tàu cũng kém đi. Điều đó làm lòng Liên dấy lên nỗi buồn vô hình. Con tàu vô cảm lầm lũi mang đến niềm vui duy nhất nhưng lại gợi thêm nỗi buồn khó tả. Tiếng rầm rầm của tàu đã khuất sau màn đêm dày đặc, không gian của phố huyện thoáng xao động rồi lại trở về như cũ. Tâm trạng của Liên bây giờ chẳng biết vui hay buồn, khi niềm vui do Liên tạo ra vụt đến, vụt đi. Nhưng vui buồn mà làm gì, khi tất cả đều chìm trong cái ao tù cuộc sống bé nhỏ của con người, còn con người thì chỉ biết bằng lòng, cam chịu hằng ngày chuyến tàu đêm vẫn là niềm mong mỏi của Liên. Khiến “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi “, nhưng rồi Liên cũng phai “ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở trong phố, tĩnh mịch và đầy bóng tối”. Tương lai của Liên, một cô bé, chưa đến tuổi thành niên, có khác gì tương lai chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, một tác phẩm cùng một bối cảnh xã hội, khi vùng chạy ra giữa đêm tối, tối đen như cái tiền đồ của chị. Với chị Dậu phía trước không le lói một ánh sáng nào thì khác gì Liên, ánh sáng phía trước chỉ là ảo vọng dẫu cuộc đời hai con người này cùng tầng lớp xuất thân khác nhau.
Nhưng chất lãng mạn cũng nằm ngay trong cảnh đợi tàu và ý nghĩa đợi tàu. Cuộc sống bon chen đã không làm Liên chìm trong cảnh đời lầm lũi, thầm lặng. Vượt xa hơn là một tâm hồn khát khao sống có hi vọng. Tuy cuộc sống buồn nhưng vẫn tạo được niềm vui để mình sống có ý nghĩa hơn trong cõi đời. Quả thực, tâm hồn Liên là một bài thơ có câu từ khá hoàn chỉnh. Đó là một sự thật hiển nhiên mà Thạch Lam đem lại. Liên sống với niềm vui tượng trưng là chuyến tàu đêm rất thật chạy qua phố huyện nghèo “Liên” là mảng màu chủ đạo tạo nên chất hiện thực và chất lãng mạn trong thiên truyện, tạo nên bằng một cuộc đời, tạo nên như là người dẫn chuyện.
Thành công của Thạch Lam chính là sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp lãng mạn với xu hướng hiện thực, nhân đạo. Chính điều này đã tạo cho mỗi tác phẩm của ông một sức sống trường tồn trong lòng người. Tình người của nhà văn với nhân vật đã đưa ý nghĩa truyện lên một tầng cao mới.
Mấy mươi năm sau, khi xã hội đã thay đổi về chất so với thời những con người như chị em Liên sống. Tố Hữu định nghĩa “Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời còn là thơa nữa”. Nhưng khi đối chiếu truyện ngắn “Hai đứa trẻ” và nhiều thiên truyện khác của Thạch Lam, ta vẫn thấy chúng có đầy đủ những yếu tố mang phong vị cùa một bài thơ trữ tình đặc sắc mà lại hiện thực sâu sắc.
Giá trị hiện thực trong tác phẩm Hai đứa trẻ – Mẫu 4
Nhà văn Thạch Lam là một trong những cây bút chính của nhóm Tự lực văn đoàn. Những tác phẩm của ông đều gắn liền với những người nông dân, thân phận người dân éo le, khó khăn.
Trong mỗi truyện ngắn của nhà văn Thạch Lam đều hiện thực của sống của mình. Tác phẩm Hai đứa trẻ là một tác phẩm thành công với truyện ngắn không có cốt truyện.
Truyện ngắn Hai đứa trẻ không có cốt truyện tình tiết kịch tính ly kỳ hấp dẫn nhưng lại có những triết lý sống sâu sắc, thể hiện giá trị hiện thực, xoay quanh những số phận đau khổ sống trong bóng tối của nơi phố huyện nghèo.
Sau khi đọc xong “Hai đứa trẻ” chúng ta thấy rằng toàn bộ câu chuyện thể hiện cuộc sống nghèo khổ xơ xác của những số phận con người leo lét nghèo khổ. Cuộc sống đó đã được tác giả Thạch Lam tái hiện vô cùng chân thực, tiêu biểu của một buổi chiều tàn lụi.
Trong tiếng trống thu không kêu lên, phương Tây đỏ rực như lửa cháy, tiếng ếch nhái kêu từ cánh đồng không xa vang lên văng vẳng, những đám mây như hòn than sắp tàn…Thể hiện sự quan sát tinh tế, tỉ mỉ của của tác giả Thạch Lam.
Một khoảng không gian mênh mang của bầu trời và đồng ruộng vừa đẹp lại buồn gợi ra trước mắt người đọc vô cùng hiện thực. Trong nền của bức tranh thiên nhiên con người đó cuộc sống của những người nông dân nghèo khổ được tác giả Thạch Lam vô cùng sâu sắc.
Trong bối cảnh đó hai chị em Liên dọn dẹp lại cửa hàng tạp hóa của gia đình cộng lại số tiền ghi chép trong sổ sau mỗi ngày. Bà cụ Thi điên lại đến cửa hàng nhà Liên mua cút rượu, uống một ngụm hết sạch sành sanh hết rồi kêu lên tiếng cười khanh khách.
Bác Siêu gánh hàng phở ra bếp lửa than đỏ bập bùng trong bóng tối. Bác hát Xẩm ngồi chờ đợi trong bóng tối. Rồi hai mẹ con nhà chị Tý dọn gánh hàng nước của mình. Tối nào chị cũng dọn từ sớm tới khuya cũng chẳng bán được là bao nhưng hôm nào chị cũng dọn hàng.
Thông qua ngòi bút tinh tế, sâu sắc của mình nhà văn Thạch Lam đã miêu tả cuộc sống của những con người nơi đây vô cùng hiện thực, một phố huyện nghèo nàn đang thoi thóp trong cảnh chiều tàn.
Đêm nào những con người nơi phố huyện nghèo khổ này để mong chờ một chuyến tàu đi qua. Một chuyến tàu từ Hà Nội mang theo chút ánh sáng, mang theo chút hy vọng cho những số phận con người nơi đây.
Mỗi khi chiếc tàu đi qua tiếng còi và tiếng bánh xe rầm rộ hai chị em Liên có thể nhìn chuyến tàu với ánh sáng chói lóa vụt qua, chuyến tàu thể hiện sức hấp dẫn của nó vô cùng ngập tràn ánh sáng chiếu xuống phố huyện, làm cho phố huyện sáng bừng trong chốc lát.
Trên chiếc tàu những toa tàu hạng sang sáng láng, cái nguồn sáng ấy vụt qua biến vào màn đêm tĩnh lặng nhưng vẫn mang lại cho những con người nhỏ bé nơi đây một chút niềm vui.
Khi nhìn chuyến tàu đó trong lòng hai chị em Liên lại gợi lên những suy nghĩ về biến động của gia đình. Nó là những kỷ niệm xa xôi về ký ức một thời ở Hà Nội. Với hai chị em Liên con tàu đem một chút gì của một thế giới khác đi qua, một thế giới văn minh tươi sáng.
Sau khi đọc xong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” người đọc không khỏi trằn trọc về số phận của những con người nơi đây. Hai chị em Liên và những người sống ở phố huyện mong chờ đoàn tàu tràn ngập ánh sáng, một chút gì mới mẻ đi qua.
Bởi trong cuộc sống của người dân phố huyện chỉ có bóng tối vây quanh, cảnh đời xơ xác nghèo khổ, họ không có niềm vui, cuộc sống mưu sinh của họ đã quá nghèo khổ vô vị.
Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn vô cùng hay và đặc sắc thể hiện phong cách của nhà văn Thạch Lam qua tác phẩm ta thấy rõ lòng nhân đạo và tính hiện thực của nhà văn Thạch Lam với những con người nông dân nghèo khó.
Trong câu chuyện thể hiện màu sắc u tối đượm buồn nhưng nó thể hiện giá trị hiện thực của bối cảnh xã hội lúc đó.
Giá trị hiện thực trong tác phẩm Hai đứa trẻ – Mẫu 5
Tác giả Thạch Lam – một nhà văn có quan niệm văn chương lành mạnh, tiến bộ và có biệt tài về truyện ngắn, ông viết truyện nhưng cơ bản lại không có chuyện, tài nguyên chính để khai thác những truyện ngắn của Thạch Lam đó là thế giới nội tâm của nhân vật cùng những xúc cảm trong cuộc sống hàng ngày. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là một truyện đặc sắc tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Thạch Lam, truyện không chỉ có sự hòa quyện giữa yếu tố hiện thực và lãng mạn trữ tình mà còn mang cả những giá trị hiện thực sâu sắc.
Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” xoay quanh cuộc sống của những người dân nghèo nơi phố huyện trong bối cảnh đất nước khó khăn trước Cách mạng tháng Tám, nhân vật trung tâm chính là hai chị em Liên – An, đặc biệt truyện được kể theo nhân vật Liên đã đưa người đọc đến gần hơn với cuộc sống, suy nghĩ và những xúc cảm của người dân phố huyện từ đó càng thấm thía và xót thương với những kiếp người nghèo khó, cơ cực, cuộc sống tăm tối, quẩn quanh. Có thể thấy, tác giả Thạch Lam đã rất thành công khi phản ánh bối cảnh hiện thực xã hội vào tác phẩm, đó là một phố huyện nghèo nàn trước cách mạng.
Trước hết đó là một bức tranh thiên nhiên thơ mộng nhưng đượm buồn, cảnh phố huyện lúc chiều muộn với tiếng trống thu không, “áng mây hồng như hòn than sắp tàn”, tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve, mũi ẩm mốc, tất cả đã quen thuộc với chị em Liên và những người dân phố huyện nghèo khổ. Cuộc sống của những con người nơi đây cũng giống như khung cảnh đìu hiu, xơ xác của thiên nhiên phố huyện, đó là một cuộc sống nghèo khổ, lam lũ, cảnh chợ tàn chỉ còn toàn rác rưởi, những đứa trẻ nghèo đang nhặt nhạnh tìm tòi bới móc những thứ còn sót lại của những người bán hàng. Bức tranh đã phản ánh hiện thực đời sống người dân miền Bắc nước ta trước cách mạng năm 1945, một cuộc sống nghèo tàn tạ. Cuộc sống về đêm khi tất cả chìm trong bóng tối càng khắc họa rõ hơn cuộc sống tối tăm, tù đọng, quẩn quanh, bế tắc của người dân phố huyện. Trước hoàn cảnh đó, con người ta luôn có những ước muốn, khát khao, giống như cảnh đợi tàu của hai chị em Liên, đợi tàu chỉ để thấy được ánh sáng, sự đông vui, nhộn nhịp, chờ đợi để được thấy cái gì đó tươi sáng hơn, khát khao về một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Bên cạnh giá trị hiện thực, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” còn chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc và cao cả, xuất phát từ chính tấm lòng thương xót, cảm thông và tình cảm của tác giả đối với những số phận người dân nghèo nơi phố huyện. Qua cách miêu tả và kể chuyện về cuộc sống những con người trong phố huyện như gash hàng nước của mẹ con chị Tí, gánh phở của bác Siêu, quán tạp hóa của chị em Liên hay bà cụ Thi Điên, đã bộc lộ rõ tác giả xót xa biết bao trước cảnh nghèo đói, tăm tối “An và Liên ngửi thấy mùi phở thơm, nhưng ở cái huyện nhỏ này, quà bác Siêu là một thứ quà xa xỉ, nhiều tiền, hai chị em không bao giờ mua được”. Không chỉ cảm thương về sự nghèo khổ, tác giả còn cảm thấy thương cho cuộc sống tẻ nhạt, đơn điệu của người dân huyện, từ chính sự cảm thương đó Thạch Lam cũng phát hiện ra những phẩm chất tốt đẹp bên trong con người họ. Đó là sự chăm chỉ, cần cù, chịu thương chịu khó, dù nghèo khó nhưng vẫn cố gắng bươn chải, dù kiếm được chút ít vẫn cố gắng duy trì, vẫn luôn giàu lòng yêu thương với nhau và đặc biệt là vẫn luôn nuôi hy vọng và mơ ước về một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn. Thạch Lam trân trọng những ước mơ, khát khao đó, mong muốn một chuyến tàu đi qua mang theo một thế giới mới, một thứ ánh sáng mới khác với ánh sáng từ bếp lửa của bác Siêu, ngọn đèn dầu của chị Tí và chị em Liên.
Đọc truyện “Hai đứa trẻ” ta như được trở về với bối cảnh xã hội cũ năm 1945, cảm nhận rõ cái nghèo, cái đói bủa vây. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm đã cho người đọc thấy được tài năng và tấm lòng đáng quý của nhà văn Thạch Lam.
Giá trị hiện thực trong Hai đứa trẻ – Mẫu 6
Nhớ tới nhà văn Thạch Lam người ta không chỉ nhớ tới một giọng văn trong sáng, giản dị, thâm trầm nhưng sâu sắc mà người ta còn nhớ tới ông với những truyện ngắn có sự kết hợp giữa chất hiện thực và chất lãng mạn. “Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn như vậy.
Tác phẩm được in trong tập “Nắng trong vườn” (1938), truyện ngắn này vừa tái hiện bức tranh của một phổ huyện nghèo lại vừa như một bài thơ trữ tình đầy xót thương. Chất hiện thực chính là hiện thực cuộc sống, là những gì chân thật nhất, không tô vẽ. Chất hiện thực của truyện ngắn này được thể hiện qua cuộc sống của những con người nơi phố huyện. Đó là những con người tàn sống trong cái ao đời phẳng lặng.
Chị Tí ngày đi mò cua bắt tép, tối đến chị mới dọn hàng nước, ngày nào cũng dọn hàng từ chập tối cho đến đêm mà cũng chẳng được bao nhiêu. Vị khách hàng của chị rất hiếm hoi. Chị bán nước cho mấy người phu gạo, phu xe, thỉnh thoảng có mấy chú lính lệ trong huyện hay người nhà thầy thừa đi gọi chân tổ tôm.
Gánh hàng phở của bác Siêu cũng trở nên xa xỉ với cuộc sống của người dân nơi đây bởi đó là một thứ quà đắt tiền. Bên cạnh đó là vợ chồng nhà bác xẩm góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bật trong yên lặng, thằng con bò ra đất, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường. Cửa hàng của chị em Liên trông coi cũng không khá hơn là mấy, ngày phiên mà cũng chỉ bán được hai bánh rưỡi xà phòng. Bà cụ Thi điện đến mua hàng rồi ra về trong tiếng cười khanh khách đầy ma quái chìm vào trong bóng tối. Chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu, trên đất chỉ còn lại rác rưởi, vỏ bưởi, lá nhân và lá mía. Người ta nói để biết mức sống của người dân ở một nơi người ta dựa vào cảnh họp chợ. Nhưng ở đây Thạch Lam lại miêu tả cảnh chợ tàn ở phố huyện Tất cả những con người ấy đều kiểm sống bằng nghề buôn bán nhỏ, manh mún, cuộc sống thì lay lắt, gợi một sự đáng thương đến tội nghiệp.
Đó là bức tranh hiện thực về con người và bức tranh về cảnh vật thiên nhiên nơi đây cũng không tươi sáng là bao. Từng tiếng trống thu không vang ra để gọi buổi chiều, có âm thanh nhưng không gian hết sức tĩnh lặng. m thanh của tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve không đủ phá tan đi bầu tĩnh lặng đó. Chừng ấy những con người chỉ trông chờ vào chuyến tàu đêm đi qua phố huyện để có được một chút ánh sáng và sự sống.
Bên cạnh chất hiện thực, chất lãng mạn của truyện ngắn này cũng được tác giả thể hiện khá rõ nét.
Chất lãng mạn được bộc lộ qua những diễn biến tâm lý của nhân vật, qua bức tranh thiên nhiên, qua giọng điệu, ngôn ngữ tác phẩm. Trước tiên, bằng giọng điệu tâm tình đầy cảm xúc, Thạch Lam đã dẫn dắt chúng ta vào một bức tranh quê khá yên bình nhưng cũng đầy thơ mộng. Miền quê ấy có “phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hoàng hôn sắp tàn”. Hay việc nhà văn đã miêu tả buổi chiều ấy thấm đượm cả hồn quê: “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”. Miền quê ấy không có những ánh đèn sáng trưng mà chỉ có những khe sáng, hột sáng. Nhà văn miêu tả buổi đêm ở phổ huyện thật lãng mạn và trữ tình: “Trời đã bắt đầu đếm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”. “Vòm trời hàng ngàn ngôi sao lấp lánh, lẫn với vệt sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào những cành cây”. Chị em Liên thì ngước mắt nhìn các vì sao để tìm sống Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông. Có thể nói, bức tranh quê ấy đã góp một phần không nhỏ vào tính chất lãng mạn của truyện ngắn này.
Bên cạnh đó, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đã tô đậm thêm chất lãng mạn của bức tranh toàn cảnh nơi đây. Thạch Lam đã miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật Liên rất chi tiết. Đó là một cô gái mới lớn, giàu lòng trắc ẩn. Chị cảm thấy “lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Liên cảm nhận được mùi riêng của đất, của quê hương này. Liên rất thương những đứa trẻ nhặt nhạnh. sau phiên chợ nhưng chính chị cũng không có gì để cho chúng. Liên thương những kiếp người tàn tạ trong cuộc sống mòn mỏi này trong đó có cả bản thân mình. Chị là một người nhân ái và có lòng trắc ẩn. Khi đoàn tàu đêm đi qua, Liên chưa bao giờ nhận thấy phố huyện tối đến thế, ngọn đèn chị Tí lại yếu ớt đến như vậy. Trong giấc mơ chập chờn, chị thấy mình giống như ngọn đèn hàng nước của mẹ con họ càng cố gắng tỏa sáng thì lại càng nhỏ bé, yếu ớt.
“Hai đứa trẻ” được đánh giá là truyện không có cốt truyện mà chỉ có một sự kiện duy nhất, đó là sự kiện đại đoàn tàu của chị em Liên. Giọng văn bàng bạc, nhẹ nhàng thấm đượm màu sắc trữ tình thơ mộng. Có thể nói chất hiện thực và chất lãng mạn đã quyện hòa vào nhau để tạo nên thành công của tác phẩm nói riêng và thành công trong sự nghiệp văn chương của Thạch Lam nói riêng.