Phân tích tác phẩm Một người Hà Nội của Nguyễn Khải cực chất dưới đây sẽ là tài liệu thiết thực đối với các em trong quá trình học tập, tự học và tự đọc để nâng cao mở rộng vốn cảm nhận văn học của mình thêm phong phú, làm văn một cách sáng tạo.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 11: Phân tích tác phẩm Một người Hà Nội (Dàn ý + 7 mẫu)
Phân tích truyện Một người Hà Nội gồm 7 bài văn mẫu khác nhau cực hay kèm theo gợi ý cách viết chi tiết. Qua đó giúp các em có thể tham khảo để nâng cao trình độ học văn học của mình với những bài văn mẫu phân tích tác phẩm hay. Bên cạnh đó các bạn xem thêm tóm tắt Một người Hà Nội.
Phân tích Một người Hà Nội hay nhất
Dàn ý phân tích một người Hà Nội
I. Mở bài:
– Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm
Nguyễn Khải tên đầy đủ là Nguyễn Mạnh Khải, sinh năm 1930 tại Hà Nội, quê gốc ở Nam Định nhưng sinh sống ở nhiều nơi. Năm 1947, ông tham gia tự vệ chiến đấu ở thị xã Hưng Yên, sau đó vào bộ đội, làm y tá. Nguyễn Khải bắt đầu nghề báo, nghề văn từ năm 1950. Truyện Một người Hà Nội sáng tác năm 1990, in trong tập truyện Hà Nội trong mắt tôi, Nhà xuất bản Hà Nội năm 1995. Qua truyện, nhà văn đã thể hiện cảm nhận của mình về lối sống, về bản lĩnh văn hóa của một người Hà Nội.
II. Thân bài
– Phân tích nếp sống thanh lịch dù thời cuộc đầy biến động:
- Nếp ăn, nếp ở, cái mặc
- Cách ứng sử với chính sách cải cách tư sản nhà nước
– Có đầu óc trung thực, thảng thắn
- Không ganh đua, tự ái, thói thời thượng, không có lãng mạn hay mơ mộng viển vông
- Đã tính đi làm, đã đi làm thì mặc đàm tiếu của thiên hạ
– Trân trọng, nâng niu, giữ gìn truyền thống văn hóa Hà Nội
- Dặn dò bọ trẻ:” Là nời Hà Nội thì cách đi đứng nói năng cho chuẩn, không được sống tùy tiện buông tuồng”
- Coi việc giữ gìn nếp sống là một cách “tự trọng, biết xấu hổ”
– Đánh giá
Đặt cô Hiền vào nhiều bối cảnh lịch sử, nhà văn soi chiếu được số phận một dân tộc trong một con người:
- Cái nhìn hiện thực mới mẻ
- Quan niệm về con người, niềm tin vào sự bất tử của những đẹp văn hóa truyền thống
Nhân vật “ Một người Hà Nội “ được soi chiếu ở nhiều thời điểm lịch sử.
– Nghệ thuật
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: ngôn ngữ cá thể hóa
- Liên hệ ngắn gọn với “ Chân dung người Hà Nội” hiện nay.
III. Kết bài
Đánh giá tài năng của tác giả và thành công của tác phẩm.
Phân tích Một người Hà Nội – Mẫu 1
Nguyễn Khải tên đầy đủ là Nguyễn Mạnh Khải, sinh năm 1930 tại Hà Nội, quê gốc ở Nam Định nhưng sinh sống ở nhiều nơi. Năm 1947, ông tham gia tự vệ chiến đấu ở thị xã Hưng Yên, sau đó vào bộ đội, làm y tá. Nguyễn Khải bắt đầu nghề báo, nghề văn từ năm 1950. Trong giai đoạn đầu của sự nghiệp sáng tác, các tác phẩm của ông phản ánh hiện thực ở nông thôn theo xu hướng dị lên trong quá trình xây dựng cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa.
Từ sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Nguyễn Khải đặc biệt quan tâm đến những chuyển biến mạnh mẽ của cuộc sống, của tư tưởng, tình cảm con người trước những biến động phức tạp của xã hội hiện đại. Nhà văn nhìn nhận và đánh giá con người trong mối quan hệ đa chiểu phức tạp : để thông qua đó khẳng định và ca ngợi những giá trị cao đẹp của con người và cuộc sống. Năm 2000, nhà văn Nguyễn Khải được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật, ông mất năm 2008 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Truyện Một người Hà Nội sáng tác năm 1990, in trong tập truyện Hà Nội trong mắt tôi, Nhà xuất bản Hà Nội năm 1995. Qua truyện, nhà văn đã thể hiện cảm nhận của mình về lối sống, về bản lĩnh văn hóa của một người Hà Nội. Từ đó làm nổi bật bản chất tốt đẹp của những con người bình thường mà cuộc đời họ gắn liền với những thăng trầm của lịch sử và quá trình phát triển của đất nước. Cái nhìn mới về con người và cuộc sống của tác giả thể hiện qua những phát hiện bất ngờ; những suy ngẫm thú vị và sâu sắc về “chất kinh kì ” của một người Hà Nội cụ thể là cô Hiền. Nhân vật chính trong tác phẩm có vẻ đẹp rất đặc trưng của người Hà Nội xưa, vừa khôn ngoan, sắc sảo, vừa đôn hậu, linh hoạt trong cách hiểu người, hiểu đời.
Tóm tắt nội dung tác phẩm như sau: Năm 1955, tác giả từ chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội, có đến thăm cô Hiền – một người họ hàng xa. Kháng chiến chống Pháp, cô Hiền cùng gia đình ở lại Hà Nội. Hòa bình lập lại, đất nước tạm chia làm hai miền, cô Hiền không di cư vào Nam mà vẫn ở lại Hà Nội với tài sản là hai căn nhà, một để ở, một cho thuê.
Trong thời kì đầu xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, cô Hiền khôn ngoan tìm cách thích ứng dần với chế độ mới, lối sống mới. Năm 1965, khi đế quốc Mĩ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, cô Hiền vẫn là một “nội tướng” đảm đang việc quản lí gia đình, giáo dục con cái. Dũng, anh con trai cả của cô lên đường nhập ngũ vào Nam chiến đấu. Ba năm sau, anh con trai thứ hai cũng đăng kí nghĩa vụ quân sự nhưng được giữ lại học Đại học vì thi đậu điểm cao.
Năm 1975, miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất, anh Dũng trở về Hà Nội. Trong bữa tiệc cuối năm mừng ngày gia đình đoàn tụ, Dũng kể lại câu chuyện cảm động về Tuất, người bạn cùng trung đoàn đã hi sinh ở cửa ngõ Sài Gòn trước ngày chiến thắng và về người mẹ của Tuất đã nén nỗi đau mất con để tiếp tục sống và làm việc.
Ở giai đoạn đầu thời kì đổi mới, Hà Nội còn bộn bề khó khăn, thiếu thốn. Một lần tác giả ra Hà Nội công tác, ghé thăm cô Hiền, thấy cô vẫn là một người Hà Nội của hôm nay, thuần túy Hà Nội, không pha trộn. Cô Hiền kể cho tác giả nghe về sức sống kì lạ của cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn bị xô ngã sau cơn bão lớn và bày tỏ niềm tin của cô vào cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
Mở đầu tác phẩm, với vai trò là người cháu họ, tác giả đã giới thiệu cô Hiền bằng tình cảm quý mến của mình : Chúng tôi gọi là cô, cô Hiền, là chị em đôi con dì ruột với mẹ già tôi. Lối mở đầu giản dị, tự nhiên như vậy làm tăng tính chân thực và sức thuyết phục của truyện.
Tác giả không miêu tả ngoại hình mà chỉ kể về tời nối, cách sống, cách ứng xử của cô Hiền trong mối quan hệ với người thân trong gia đình, với bạn bè, với thời cuộc… Người kể chuyện không chỉ quan sát mà đôi lúc còn trực tiếp tham gia vào câu chuyện, vì thế mà lời kể, lời bình có vẻ khách quan.
Chín năm kháng chiến chống Pháp, cô Hiền ở lại Hà Nội cùng chồng con. Hòa bình lập lại, đất nước tạm thời chia làm hai miền, cô không di cư vào Nam vì cô nghĩ rằng chồng cô làm nghề dạy học nên chế độ nào cũng cắn. Nhưng nguyên nhân chính là cô không thể rời xa Hà Nội. Trong sâu thẳm tâm hồn cô, Hà Nội đã trở thành không gian sống quá quen thuộc nên không thể thiếu: Hà Nội đối với cô Hiền Đồng nghĩa với một tình yêu lớn lao, sâu sắc.
Lúc đầu, trong suy nghĩ của người cháu (tác giả), những người Hà Nội gốc như cô Hiền thật khó gần, bởi căn nhà của cô là một tòa nhà tọa lạc ngay tại một đường phố lớn, hướng nhà nhìn thẳng ra cây si cổ thụ và hậu cung của đền Ngọc Sơn… Trong khi cán bộ và gia đình họ phải ở chen chúc trong những khu nhà tập thể, có khi phải ở ngay dưới gầm cầu thang của nhà bạn bè. Theo cách đánh giá, nhận xét chung, hồi đó thì: với người vô sản, ở quá rộng là một cái tội. Trang phục của vợ chồng cô Hiền cũng sang trọng quá : Mùa đông ông mặc áo ba-đờ-xuy, đi giày da, bà mặc áo măng-tô cổ lông, đi giày nhung đính hạt cườm.
Cách ăn uống của gia đình cô Hiền và gia đình tác giả cũng thật khác biệt: Lại cái ăn nữa cũng không giống với số đông. Bàn ăn trải khăn trắng, giữa bàn có một lọ hoa nhỏ, bát úp trên đĩa, đũa bọc trong giấy bản và từng người ngồi đúng chỗ đã quy định. Gia đình tôi thì ăn uống bình dân hơn, vợ chồng con cái ngồi xúm xít quanh cái mâm nhôm, thức ăn có khi múc ra đĩa, có khi cứ để nguyên trong nồi, nồi lớn đặt giữa mâm, nồi nhỏ đặt cạnh mâm, cứ việc sục muôi vào, sục đũa vào, vừa ăn vừa quát con mắng cái, nhồm nhoàm, hả hê, không cần phải khuôn bó theo một quy tắc nào cả. Ăn cốt để sống, để làm việc, hay hớm gì cái thứ lễ nghi rườm rà của… giai cấp tư sản.
Những khác biệt cơ bản ấy xét đến cùng đều xuất phát từ cách nhìn và cách sống của các tầng lớp khác nhau trong xã hội. Sự nghi ngại của người cháu không phải là không có cơ sở: Cô Hiền đích thị là tư sản rồi. Đã là tư sản thì không thể tin cậy được. Việc mình mình biết, việc cô mặc cô, dính líu nhiều có ngày lại rắc rối… Điều đáng nói là cô Hiền vừa tìm cách thích ứng với cuộc sống mới, vừa biết giữ gìn nếp sống và cách nghĩ riêng của mình.
Để làm nổi bật tính cách cô Hiền, nhà văn đã đặt nhân vật này trước những biến cố lớn của đất nước. Những biến động của lịch sử, xã hội thường tác động đến nhận thức và cuộc sống của con người, làm thay đổi tính cách, nhưng nhân vật cô Hiền không phải là sản phẩm của hoàn cảnh. Từ góc nhìn văn hóa, tác giả khám phá và thể hiện tính cách rất đáng trân trọng của nhân vật này.
Cô Hiền là người sắc sảo và tế nhị. Sau khi kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, cán bộ và chiến sĩ ta từ chiến khu Việt Bắc về tiếp quản Thủ đô đều sống trong tâm trạng vui sướng, hồ hởi : Chín năm xa phố phường, xa ánh điện, không được vào rạp xem chiếu bóng hoặc cải lương, không được vào một cái chợ đông người giữa ban ngày, bây giờ mỗi ngày đều ở Hà Nội, mỗi đêm ở Hà Nội, mãi mãi còn ở Hà Nội.
Nhưng tác giả băn khoăn vì sao những người như cô Hiền lại có thái độ khác : Chúng tôi thì vui thế, tại sao những người vốn sống ở Hà Nội chưa thật vui nhỉ? Rồi tự lí giải : Họ đang tìm cách thích ứng với chế độ mới, cách sống, cách làm việc, cả cách nói năng nữa. Để khẳng định những suy nghĩ, phán đoán của mình là đúng, tác giả kể một số câu chuyện nhỏ trong gia đình cô Hiền mà minh đã chứng kiến.
Một lần, tác giả đến chơi, khi nghe đứa con kêu ầm lên: Mẹ ơi! Đồng chí Khải đến thì cô Hiền cau mặt gắt : Phải gọi là anh Khải, hiểu chưa ? Thấy chồng nắm tay đứa cháu, hồn nhiên hỏi: Tại sao chủ nhật trước đồng chí không ra chơi, cả nhà chờ cơm mãi, thì cô thở dài, quay người đi. Bởi cái từ đồng chí hồi ấy là từ của những người cùng lí tưởng, chí hướng dùng để gọi nhau. Cô Hiền thấy chồng mình gọi đứa cháu bằng đồng chí nghe không thuận tai nên đã có phản ứng như vậy.
Khi cháu hỏi thăm về dân tình, thời thế thì cô Hiền thành thực trả lời : Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ ? Theo cô, chính phủ can thiệp vào nhiều việc của dân quá, nào phải tập thể dục mỗi sáng, phải sinh hoạt văn nghệ mỗi tối, vợ chồng phải sống ra sao, trai gái phải yêu nhau như thế nào, thậm chí cả tiền công sá cho kẻ ăn người ở. Cô Hiền mạnh dạn, thẳng thắn bày tỏ suy nghĩ, nhận xét của mình trước những hiện tượng chưa hợp lí của cuộc sống mới.
Đối với những người giúp việc trong gia đình, cô Hiền coi họ như người nhà. Trước đây, nhà cô Hiền cũng thuê một anh bếp và một chị vú. Chị vú trông con cho cô từ năm 19 tuổi đến năm 45 tuổi. Trong suốt 26 năm trời, cô Hiền coi anh bếp, chị vú tình nghĩa như người trong họ, đối xử rất tử tế, nên sau này khi đã về quê, vợ chồng họ vẫn qua lại thân tình, ngày giỗ ông chủ và ngày Tết đều đem gạo, đậu xanh, miến và rượu, toàn của nhà làm cả, lên biếu cô và các em.
Với thời cuộc, cô Hiền cũng bộc lộ rõ ràng thái độ của mình. Lúc người cháu (tức tác giả) thân mật và tò mò hỏi cô về thành phần giai cấp, về chuyện tại sao cô không phải học tập cải tạo… thì cô cười rất tươi : Tao chưa đủ tiêu chuẩn rồi thản nhiên nói: Tao có bộ mặt rất tư sản, một cách sống rất tư sản, nhưng lại không bóc lột ai cả thì làm sao thành tư sản được.
Đó là sự thật hiển nhiên. Cô Hiền có cửa hàng làm và bán hoa giấy, cái nghề không giàu nhưng đủ ăn. Các loại hoa giấy, lẵng hoa bằng tre, bằng mây rất đẹp do tự tay cô làm ra, bán rất đắt nhưng chịu thuế rất nhẹ. Vì thế nên cô không bị gán cho là thành phần tư sản giữa cái thời cải tạo và đấu tranh giai cấp rất quyết liệt. Mấy bà bạn của cô Hiền thắc mắc: Trông bà như tư sản mà không bị học tập cũng lạ nhĩ?thì cô nhẹ nhàng, hỏm hỉnh trà lời: Các bà không biết nhưng Nhà nước lại rất biết.
Trong chuyện làm ăn, cô Hiền cũng tỏ ra khôn hơn các bà bạn và thức thời hơn ông chồng. Trước giải phóng, chồng cô dạy học, nhờ viết sách, in sách mà kiếm được tiền, tậu hai căn nhà, một để ở và một cho thuê. Khi có chính sách cải tạo tư sản năm 1956, cô Hiền đã kịp bán ngôi nhà ở Hàng Bún cho một người bạn mới ở chiến khu về. Một năm sau, có cán bộ tới hỏi về nhà cửa, nhắc tới ngôi nhà ở Hàng Bún, cô Hiền trả lời rất lịch thiệp : Xin mời anh tới ngôi nhà anh vừa nói, hỏi thẳng chủ nhà xem họ trả lời ra sao. Nếu còn thắc mắc xin mời anh trở lại.
Trong chế độ mới, chồng cô Hiền không được phép mở trường tư thục nên định mua một máy in nhỏ để kinh doanh. Cô liền hỏi: ông có đứng máy được không? ông có sắp chữ được không ?… ông muốn làm một ông chủ dưới chế độ này à ? Chồng cô tính vốn nhát nên rút lui ngay trước những câu hỏi dồn dập nhưng rất thức thời của vợ. Những nhận xét của cô Hiền về cuộc sống mới sau hòa bình qua cuộc trò chuyện với người cháu là chân thành và táo bạo : Chế độ này không thích cả nhân làm giàu, chỉ cần họ đủ ăn, thiếu ăn một chút càng hay, thiếu ăn là vinh chứ không là nhục, nên tao cũng chỉ cần đủ ăn. Làm hoa giấy không thể làm giàu được nhưng rất đủ ăn, lại nhàn, lại không phải lo sợ gì. Tôi hỏi lại : “Còn chú, còn các em ?”. “Chú tuy chưa già nhưng đành để ngồi chơi, các em sẽ đi làm cán bộ, tao sẽ phải nuôi một lũ ăn bám, dầu họ có đủ tài để không phải sống ăn bám”.
Cô Hiền khôn ngoan, nhanh chóng thích ứng với cuộc sống mới mà vẫn không đánh mất mình. Là người có đầu óc thực tế, mọi việc cô Hiền đều tính toán trước và cô luôn luôn đúng. Suy nghĩ của cô Hiền linh hoạt và quyết đoán : Đã tính là làm, đã làm là không thèm để ý đến những đàm tiếu của thiên hạ. Cô Hiền tuyên bố thẳng thừng với đứa cháu : Một đời tao chưa từng bị ai cám dỗ, kể cà chế độ. Những sự kiện lớn trong cuộc đời cổ đã chứng mình rằng điều đó là đúng.
Trước tiên là việc hôn nhân, vốn là một cô gái Hà Nội có nhan sắc, lại con nhà giàu nhưng gần ba chục tuổi cô Hiền mới lấy chồng. Cô không lấy quan mà công chẳng hứa hẹn gì với đám văn nhân tài tử lãng mạn viển vông mà chọn một anh giáo Tiểu học đứng đắn hiền lành để kết bạn trăm năm. Điều ấy khiến cả Hà Nội kinh ngạc vì con gái thường ham sang, ham giàu, còn cô Hiền lại vượt qua thói thường ấy. Sự chọn lựa này cho thấy cô Hiền có thái độ nghiêm túc đối với hôn nhân, đặt trách nhiệm làm vợ, làm mẹ lên trên hết.
Ở cái thời dân ta sống khổ cực nhưng nhà nào cũng thích có nhiều con thì quyết định chấm dứt sinh đẻ vào tuổi bốn mươi của cô Hiền là hết sức đúng đắn. Cô nói với chồng: Từ nay là chấm dứt chuyện sinh đẻ, bốn mươi tuổi rồi, nếu ông và tôi sống đến sáu chục tuổi thì con út đã hai mươi, có thể tự lập được, khỏi phải sống bám vào các anh chị.
Cô Hiền không tin vào câu Trời sinh voi trời sinh cỏ, mà cô cho rằng con cái phải được cha mẹ nuôi dạy chu đáo để sau này có thể sống tự lập. Như vậy, trách nhiệm quan trọng của bậc làm cha mẹ là tạo dựng nhân cách và chuẩn bị cho con cái một tương lai tốt đẹp. Tình yêu thương con của cô Hiền là tình yêu sáng suốt của một người mẹ có tầm nhìn xa trông rộng.
Cô Hiền đặc biệt coi trọng vai trò người phụ nữ trong việc quản lí gia đình.
Theo cô thì người vợ không chỉ là nội trợ mà còn là nội tưởng. Cô phê bình người cháu: Mày bắt nạt vợ mày quá, không để nó tự quyết định bất cứ việc gì, vậy là hỏng. Người đàn bà không là nội tưởng thì cái gia đình ấy cũng chẳng ra sao. Quan niệm về bình đẳng nam nữ của cô xuất phát từ thiên chức của phụ nữ và cô hiểu rõ vai trò quan trọng của người vợ, người mẹ trong gia đình.
Cô Hiền quan tâm dạy dỗ con cái từ khi còn nhỏ, từ những chuyện nhỏ. Khi ngồi vào bàn ăn, cô thường chú ý sửa chữa cách ngồi, cách cầm bát đũa, cách múc canh, cả cách nói chuyện trong bữa ăn. Cô không coi những chuyện ấy là vặt vãnh mà là văn hóa sống, văn hóa con người; hơn thế, đấy là văn hóa của người Hà Nội. Cô khuyên con cháu: Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng, nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông tuồng.
Cách thu xếp việc nhà và dạy bảo con cái của cô Hiền thật khéo léo và chu đáo. Cô quan tâm dạy bảo các con phải biết tự trọng, biết xấu hổ, nghĩa là biết giữ gìn nhân cách. Đây là nền tảng cơ bản để sau này trưởng thành cỏ khả năng tự lập, có đủ ý chí, nghị lực vượt mọi khó khăn, sống có ích cho gia đình, xã hội.
Năm 1965, Hà Nội phát động phong trào tuyển quân vào Nam chiến đấu. Đợt đầu được 660 người, đều là những chàng trai ưu tú của Hà Nội. Dũng, con trai cả của cô Hiền vừa tốt nghiệp trung học liền tình nguyện xin đi đánh Mĩ. Cô Hiền đã chấp nhận cho con ra mặt trận với một tâm trạng giống như bao bà mẹ khác. Khi người cháu hỏi: Cô bằng lòng cho em đi chiến đấu chứ? Cô đã trả lời : Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng. Sao lại không đau đớn khi mà cô hiểu trong chiến tranh, bom đạn không chừa một ai. Nhưng bằng lòng nghĩa là cô chấp nhận sự hi sinh. Việc nước là quan trọng hàng đầu. Lòng yêu nước của cô Hiền cũng giống như lòng yêu nước của người Hà Nội, sâu sắc và kiêu hãnh biết bao !
Suốt ba năm trời, gia đình không hể nhận được tin tức gì của Dũng đang chiến đấu ở chiến trường miền Nam ác liệt. Tuy vậy, khi đứa con trai thứ hai cũng làm đơn xin đi đánh Mĩ thì cô Hiền vẫn hết sức bình tĩnh. Cô giãi bày với người cháu những lời lẽ rất chân thành và cảm động: Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó… Tao cũng muốn được sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả hoặc chết cả, vui lẻ thì có hay hớm gì.
Những lời nói xuất phát từ đáy lòng của cô Hiền thể hiện một thái độ sống thật đáng trân trọng. Cái tinh tế trong đời sống tình cảm của cô Hiền chính là thái độ biết chia sẻ trước đau thương, mất mát của bao người mẹ khác. Tác giả phản ánh chân thực và tinh tế những giằng xé âm thầm giữa tình yêu con với tình yêu nước, giữa nỗi lo âu với ý thức về danh dự đã diễn ra trong tâm trạng cô Hiền. Không bà mẹ nào muốn con mình gặp gian khổ, hiểm nguy, nhưng cũng không bà mẹ nào muốn thấy con phải sống đớn hèn, nhục nhã. Cô Hiền hiểu con, tôn trọng danh dự của con nên chấp nhận để con vào Nam chiến đấu.
Qua chi tiết này, tác giả muốn khẳng định cá tính và bàn lĩnh của cô Hiền là không cố tạo uy tín, danh dự bằng những lời nói không thành thực, luôn sống đúng với bản chất của mình, đã sống là phải sống cho tử tế. Ngẫm ra trong đời, để làm một người tử tế là chuyện cực khó. Người ta chỉ giữ được sự tử tế khi có lòng tự trọng, biết phân biệt phải trái và biết hi sinh. Qua đó, ta thấy cái chuẩn trong suy nghĩ của cô Hiền là lòng tự trọng. Lòng tự trọng không cho phép con người sống hèn nhát, ích kỉ, trốn tránh trách nhiệm công dân.
Những phẩm chất mà cô Hiền có được là do tiếp thu từ truyền thống gia đình, từ năng lực tự ý thức, từ kinh nghiệm sống đúc rút trong cuộc sống đời thường của một người vợ, người mẹ. Tình yêu Hà Nội của cô Hiền không hời hợt hay cảm tính mà sâu sắc vì nó gắn với một niềm tin: Hà Nội là chuẩn mực về văn hóa của người Việt Nam. Mỗi công dân Hà Nội phải có ý thức giữ gìn và phát huy chuẩn mực đó.
Cô Hiền đã may mắn hơn bà mẹ của Tuất, may mắn hơn hàng ngàn, hàng vạn bà mẹ khác. Tháng 12 năm 1975, cả dân tộc đang say sưa tận hưởng vinh quang chiến thắng thì Dũng, con trai lớn của cô Hiển trở về. Anh đeo ba lô bước vào đến giữa nhà, cô Hiền hỏi: Anh muốn mua gì? Người con trai gầy ốm, đen đủi, chẳng còn dấu vết gì của một chàng thư sinh Hà Nội, nên người mẹ không sao nhận ra được.
Cô Hiền tổ chức liên hoan mừng con trai chiến thắng trở về. Khách mời là bạn bè thân thiết của vợ chồng cô, gồm các công dân Hà Nội, những tên tuổi đã thành danh ở đất kinh kì Vì thế nên bữa tiệc sang trọng và kiểu cách. Ngày thường, cô Hiền và các bà bạn ăn mặc bình dân: áo bông ngắn, quần thâm, đi dép, đi guốc, vuông khăn len tơi tớp buộc quanh cổ hay bịt đầu, nhưng hôm nay, các vị khách ăn mặc thật đẹp. Mấy ông thì khoác áo ba-đờ-xuy, thắt cà vạt. Mấy bà tuy tóc đã bạc, hoặc nửa xanh nửa bạc, nhưng khoác áo nhung, áo dạ, đeo ngọc đeo dây đi lại uyển chuyển. Còn cô Hiền thì xuất hiện như diễn viên sân khấu, lược giắt trâm cài hoa hột lấp lánh…
Cô Hiền tâm sự với người cháu về cách sống của mình: Khi sống giữa những người bình dân, tất cả đều có quyền ăn nói thô tục, nhưng sống với những người quý phái mình phải xử sự ra sao ? Xã hội nào cũng có giai tầng thượng lưu của nó để làm chuẩn cho mọi giá trị… Cái chuẩn đó là tinh túy của lối sống, của văn hóa, đạo đức, của văn minh tiến bộ. Cô Hiền đã cố gắng gìn giữ lối sống đó, dù là trong hoàn cảnh khó khăn.
Anh Dũng đã sống đúng với lời mạ dạy về cách sống của người Hà Nội. Nồm 1965, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác Hệt, vừa tốt nghiệp trung học, Dũng tình nguyện xin vào Nam đánh Mĩ. Anh đã chiến đấu suốt mười năm và may mắn trở về nguyên vẹn. Biết bao đồng dội của anh không có mặt trong ngày toàn thắng. Dũng xúc động kể rằng 660 thanh niên ưu tú của Hà Nội lên đường cùng anh ngày ấy, bây giờ còn lại khoảng chừng trên dưới bốn chục. Hơn 600 người đã hiến dâng tuổi thanh xuân và sinh mạng của mình cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Nhớ về những đồng đội đã hi sinh, Dũng xót xa thương Tuất, người bạn cùng trung đoàn. Ngày vào Nam, lúc tàu qua ga Hàng cỏ, Tuất nghe rõ tiếng mẹ mình phát trên loa của phòng phát thanh nhà ga nhưng anh không thể xuống để từ biệt mẹ. Đấy cũng là những lời cuối cùng của mẹ mà Tuất nghe thấy. Anh đã hi sinh ở trận đánh vào Xuân Lộc, trước ngày toàn thắng có mấy ngày. Có biết bao bà mẹ Hà Nội vô cùng thương con và đầy nghị lực như mẹ của anh, họ đã nén chịu nỗi đau mất con, tiếp tục sống, tiếp tục dựng xây cuộc sống hòa bình. Gặp lại Dũng, bạn chiến đẩu của con, người bà run bần bật nhưng không khóc. Có thể nói những người mẹ Hà Nội đã góp phần tô đậm cốt cách tinh thần người Hà Nội nói riêng và phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam nói chung.
Tác giả đã tìm hiểu và khai thác một góc khuất của chiến tranh mà trước đó văn học mới chỉ đề cập đến cái hùng tráng mà chưa nói đến bi kịch của từng gia đình, từng số phận con người sau chiến tranh. Vinh quang chiến thắng được tính bằng máu nên không thể vì niềm vui hội ngộ trong cuộc sống hòa bình mà mọi người được phép quên đi.
Cô Hiền quan niệm rằng đã mang danh là người Hà Nội thì phải biết hướng tới cái đẹp. Đó là cái đẹp tỏa chiếu từ chiều sâu văn hóa của đất Thăng Long. Không phải ngẫu nhiên mà mỗi tháng, cô Hiền lại tổ chức mời cơm bạn bè một lần. Trong những dịp ấy, cô và bạn bè được sống lại không khí của một thời vàng son thuở trước. Tuy đã lùi vào dĩ vãng nhưng nó chưa hề mất đi bởi đây là nét đặc trưng của người Hà Nội, là dấu hiệu để phân biệt nếp sống kinh kì với nếp sống tỉnh lẻ.
Ở cuối truyện, tác giả kể về lần từ Thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội công tác có đến thăm cô Hiền. Nhiều năm trôi qua, gia đình cô Hiền đã thay đổi rất nhiều. Chồng cô đã mất, các con đã lập gia đình riêng. Cô Hiền ngoài bảy mươi tuổi, tuy đã già yếu nhưng vẫn là người của hôm nay, thuần túy Hà Nội, không pha trộn. Phòng khách của gia đình cô Hiền được tác giả miêu tả khá tỉ mỉ: bộ sa lông cổ bằng gỗ gụ, cái sập gụ chân quỳ chạm trổ rất đẹp cùng nhiều đồ gia bảo khác. Nhìn bà lão tóc bạc đang chăm chú lau cái bát thủy tiên men đỏ trong khung cảnh ngoài trời mưa rốt, tác giả cảm thấy Tết quá, Hà Nội quá, muốn ở thêm ít ngày ăn lại một cái Tết Hà Nội. Cô Hiền đã nâng niu trân trọng những gì tốt đẹp của truyền thống văn hóa Thăng Long. Tính cách của cô Hiền khiến cho tác giả nghĩ về tâm lí sống ồ ạt, xô bồ của đám đông vừa thoát khỏi cái chết, cái khổ. Họ dễ gì có được sự bình tĩnh đế thưởng thức vẻ đẹp trang trọng của một dò hoa thủy tiên.
Cô Hiên than thở về tuổi già hay nghĩ ngợi lan man mọi chuyện y hệt một bà già nhà quê. Cô kể cho người cháu nghe chuyện gió bão làm cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn bật gốc đổ nghiêng, tán đè lên hậu cung… Lúc đầu, cô nghĩ đó là sự dời đổi, điềm xấu, là sự ra đi của một thời. Nhưng cây si không chết mà được cứu sống, sau một tháng nó lại trổ ra lá non. Từ chuyện ấy, cô Hiền suy ngẫm : Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của tạo vật không thể lường trước được.
Sự khác biệt giữa lối sống của người Hà Nội xưa với người Hà Nội thời hiện đại gợi lên nhiều suy nghĩ khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Có người cho là thời thế đổi thay, đương nhiên con người cũng đổi thay. Có người thất vọng trước thực tại và hoài vọng quá khứ. Tác giả cũng không khỏi lo âu khi thấy Hà Nội đang giàu lên, náo nhiệt hơn trước nhiều nhưng đó chỉ là phần xác. Ông không tin rằng lớp trẻ đang hăm hở làm giàu còn có ý thức biết giữ gìn, yêu cái đẹp, còn giữ nét thanh lịch, hào hoa của người Hà Nội. Ông tức và đau vì gặp một số người thiếu văn hóa đến mức đáng giận và đáng thương như người mà ông hỏi đường, anh chàng đi xe đạp, cô con gái …
Nhưng cô Hiền không bình luận một lời nào về những nhận xét có phần bực bội của người cháu mà cô lại kể cho người cháu nghe chuyện cây si sống lại nhờ nỗ lực của thành phố. Đấy là bằng chứng cho thấy người Hà Nội hôm nay không phải chỉ coi trọng vật chất mà vẫn còn quan tâm đến đời sống văn hóa, tinh thần. Chuyện cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn bị bão đánh bật rễ rổi lại hồi sinh gợi nhiều suy nghĩ về lẽ đời, về quy luật bất diệt của sự sống. Sức sống, vẻ đẹp truyền thống văn hóa của người Hà Nội cũng mạnh mẽ, trường tồn như vậy.
Truyện Một người Hà Nội chân thực và sinh động một phần là do tác giả đóng vai người kể chuyện để kể về những nét đặc trưng trong tính cách của người Hà Nội. Chất Hà Nội ẩn chứa trong chiều sâu tâm hồn và tính cách của nhân vật cô Hiền. Từ lời ăn tiếng nói đến nền nếp gia đình, từ cách giáo dục con cháu đến cách thức tổ chức cuộc sống và cách làm cho sang trọng bản thân… Tất cả đều được cô Hiền thu xếp đâu vào đấy. Cô Hiền luôn cổ ý thức rằng mình là người Hà Nội, từ trong cách ăn mặc cho đến những thú chơi thanh cao đòi hỏi sự kiên trì, tì mẩn như gọt củ thủy tiên sao cho hoa nở đúng giao thừa. Cô Hiền không chỉ là biểu tượng của một thời vàng son đã qua mà còn là hiện thân của truyền thống văn hóa Tràng An vững vàng qua bao biến thiên của lịch sử.
Đặt tên truyện là Một người Hà Nội, có lẽ tác giả muốn tô đậm bản lĩnh, cốt cách của người Hà Nội. Họ luôn có ý thức và tự hào mình là người Hà Nội, đại diện cho cả nước. Ca dao có câu: Chẳng thơm cũng thể hoa nhài – Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An. Chất Hà Nội ở nhân vật cô Hiền biểu lộ qua tính cách lịch lãm, qua thái độ ung dung tự tại, bình tĩnh trước những biến động của thời thế, qua sự khôn ngoan, sâu sắc của trí tuệ và chân thành, nồng hậu của tình cảm. Cô Hiền luôn tin tưởng rằng người Hà Nội thời nào cũng đẹp đẽ và thanh lịch.
Từ nhân vật cô Hiền, người đọc có thể nhận ra nhiều nét đẹp trong lối sống. Nối lối sống là hổi đến quan niệm, nguyên tắc làm cơ sở cho những ứng xử có ý thức của con người. Qua suy nghĩ và hành động của cô Hiền, ta thấy nổi bật lên bản lĩnh một con người luôn luôn dám là mình: là mình khi đề cao lòng tự trọng, là mình trong quan hệ với cộng đồng, đất nước, là mình trong chiêm nghiệm lẽ đời.
Lời bình luận của tác giả ở cuối truyện đã thể hiện tình cảm mến yêu và ngưỡng mộ đối với cô Hiền : Một người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng. Giọng kể của tác giả vừa có niềm lo âu, tiếc nuối lại vừa chan chứa cảm giác tin tưởng, tự hào. Hà Nội đang phát triển, giàu sang và hiện đại, liệu những vẻ đẹp xưa có được bảo tồn ? Qua cách kể chuyện, Nguyễn Khải thường đặt một sự việc dưới nhiều góc nhìn để cho bạn đọc tự rút ra kết luận chứ không áp đặt phải theo cách đánh giá của mình; vì thế mà vừa tạo được quan hệ bình đẳng vừa thể hiện được ý kiến của cá nhân. Giọng kể thay đổi linh hoạt, có đối thoại, có bình luận… Ngôn ngữ giản dị đời thường nhưng giàu ngụ ý và đậm chất trữ tình, triết lí… thể hiện sự quan sát sắc sảo, những suy ngẫm, chiêm nghiệm sâu sắc của một người từng trải nên khá hấp dẫn.
Truyện ngắn Một người Hà Nội và nhân vật cô Hiền để lại nhiều thiện cảm, giúp người đọc hiểu sâu hơn về con người và Thủ đô Hà Nội. Bức chân dung nghệ thuật về một người Hà Nội đã được Nguyễn Khải miêu tả rất thành công bằng vốn sống dày dặn và ngòi bút tinh tế. Phải chăng đây cũng là tình cảm của biết bao con người luôn hướng về Thủ đô – trái tim của đất nước. Ở tác phẩm này, Nguyễn Khải còn gián tiếp đặt ra vấn đề: Nhà văn phải có thái độ tỉnh táo, sáng suốt khi đi sâu tìm hiểu và soi chiếu vào những ngóc ngách của đời thường để tìm ra vẻ đẹp của con người và cuộc sống.
Phân tích Một người Hà Nội – Mẫu 3
“Một người Hà Nội“ là một tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Khải. Qua đó, tác giả thể hiện cái nhìn vô cùng mới mẻ của nhà văn về con người, cuộc sống với một hình thức nghệ thuật in đậm cá tính sáng tạo của nhà văn.
Ngay từ cách đặt tên nhan đề “Một người Hà Nội” nhà văn đã mở ra hình tượng trung tâm của tác phẩm là một người Hà Nội mang trong mình vẻ đẹp hà Nội thuần túy không trộn lẫn. Bên cạnh đó còn mở ra không gian nghê thuật cổ kính, mảnh đất Kinh Kì, nghìn năm văn hiến đã trải qua cùng những thay đổi của thời đại. Cũng từ nhan đề có thể soi sáng được tư tưởng và chủ đề của tác phẩm.
“Một người Hà Nội” với nhân vật chính là cô Hiền – người xuất thân từ gia đình Hà Nội giàu có, thân thiện. Ở cô Hiền thấm sâu vẻ đẹp tinh thần, văn hóa cốt cách của một người Hà Nội gốc, tạo nên nơi người đọc về vẻ đẹp ấy sẽ bền vững, không bị nhạt nhòa theo thời gian. Cô cũng là người có tình yêu và gắn bó sâu sắc với mảnh đất hà Nội. Ngay cả khi nơi đây có đang oằn mình trong bom đạn thì cô vẫn bám trụ lại mảnh đất này bằng tình yêu và niềm tin mãnh liệt vào sự trường tồn của Hà Nội.
Ở cô Hiền người ta nhìn thấy hội tụ đầy đủ vẻ đẹp ngoại hình, tính cách và tâm hồn. Về ngoại hình cô mang vẻ đẹp quý phái, sang trọng của mọt người phụ nữ gốc Hà Nội. Bên cạnh đó, cô là người thẳng thắn, có cái nhìn nhạy bén, sâu sắc trước thực tế và là người dám bộc lộ quan điểm sống của mình, dám thẳng thắn nói lên và sóng thật với chính mình. Ở cô cò n là người có lối sống văn minh hiện đại nhưng giữ được lối sống đẹp, không xô bồ, bon chen. Một người hà Nội như cô Hiền mang vẻ đẹp riêng trong cốt cách và nó được tỏa sáng trong bất kì hoàn cảnh nào. Cô Hiền thể hiện là người hiểu được giá trị của cuộc sống, biết hướng đến giá trị cuộc sống và biết hài hòa giữa vật chất và tinh thần. Ngoài ra, cô vẫn giữ được thói quen thời trẻ của mình đó là giao lưu với văn nhân, nghệ sĩ, một cuộc sống phóng khoáng về tinh thần và một tâm hồn nghệ sĩ, là người biết yêu và trân trọng cái đệp. Tuy vậy, cô vẫn là người có đầu óc thực tế trong việc lựa chọn chồng. gần 30 tuổi cô mới lấy chồng. Nhưng người chồng cô chọn không mơ mộng một người làm quan hay làm nghệ sĩ. Người cô chọn là một ông giáo dạy tiểu học hiền lành chăm chỉ. Cô Hiền là người có đầu óc thực tế, khôn ngoan việc gì cũng tính toán trước sau, đã tính là làm, đã làm là không sợ lời đàm tiếu từ thiên hạ. Phải là người hiểu đời, trải đời có bản lĩnh cô mới vượt lên những chuyện thị phi được mất ở đời như thế.
Trong quan hệ với gia đình cô làm tròn bổn phận của một người vợ đảm đang, thông minh, tài giỏi trong việc làm kinh tế và tài giỏi trong việc quản lý gia đình. Đồng thời trong cách dạy con cái thì cô Hiền là người mẹ nghiêm khắc. Từ dáng ngồi trên bàn cô cũng chấn chỉnh và dạy con phải có lòng tự trọng. Một người mẹ có lòng tự trọng và ý thức rõ trách nhiệm của một công dân có lòng yêu nước . Trong quan hệ với người ở cô hiền là người sống tình nghĩa nhân hậu, có trước có sau và gần gũi với mọi người như người thân trong gia đình. Chính vì vậy mà Nguyễn Khải ví cô như “hạt bụi vàng” và nhà văn trân trọng vẻ đẹp cốt cách và tâm hồn của một người Hà Nội như cô Hiền.
Ngoài cô Hiền, mặc dù không trọng tâm miêu tả nhưng Nguyễn Khải cũng khắc họa lại hững nhân vật Hà Nội khác trong tác phẩm. Đó là những thanh niên hà Nội đại diện cho thế hệ trẻ có tự trọng, có trách nhiệm với quê hương, Tổ quốc. Những chàng trai mang trong mình lí tưởng sống cao đẹp sẵn sàng xả thân vì Hà Nội, vì Tổ quốc mình. Đặc biệt là Dũng – chàng trai có lòng yêu nước sâu sắc, sống có lí tưởng và trách nhiệm. Đó là Tuất một chàng trai biết kiềm lại cam xúc của bản thân để hướng đến những điều lớn lao hơn. Và là mẹ Tuất- người mẹ phải gánh chịu sự mất mát to lớn, đánh đổi cả đứa con thân yêu của mình. Một người mẹ đầy nghị lực và bản lĩnh.
Tất cả tô lên một bức tranh khắc họa nhân vật là những con người hà Nội luôn âm thầm và lặng lẽ bằng những cách khác nhau để bảo vệ sự trường tồn của Hà Nội, bảo vệ những vẻ đẹp cốt cách và tâm hồn của những người Hà Nội.
Phân tích Một người Hà Nội – Mẫu 4
Nguyễn Khải được coi là cây bút khá nổi tiếng của văn xuôi nước ta từ sau rách mạng tháng Tám. Những sáng tác văn chương của Nguyễn Khải phản ánh sinh động và khá chân thật quá trình vận động của cả nền văn học từ thời chiến tranh sang thời hòa hình. Trong những sáng tác trước năm 1977, Nguyễn Khải chủ yếu quan tâm đến các vấn đề mang tính thời sự chính trị. Và những sáng tác của ông từ năm 1978 về sau ông lại quan tâm nhiều hơn về cuộc sống đời thường. Ông đi sâu phản ánh và phân tích những diễn biến tâm lí khá phức tạp nhưng rất hợp lí của con người trong thời đại sau chiến tranh. Một người Hà Nội rút từ tập truyện Hà Nội trong mắt tôi là một tác phẩm tiêu biểu cho ngòi bút Nguyễn Khải ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Trong truyện Một người Hà Nội Nguyễn Khải đã xây dựng khá thành công hình tượng nhân vật bà Hiền – một nhân vật khá tiêu biểu cho người Hà Nội.
Một người Hà Nội nói riêng và cả tập truyện Hà Nội trong mắt tôi nói chung là chứa đựng một tình yêu sâu nặng với Hà Nội với những hiểu biết sâu sắc và tinh tế của Nguyễn Khải về nét đẹp của cảnh vật và con người Hà Nội.
Cô Hiền xuất thân từ một gia đình giàu có, lương thiện, có học thức, yêu thích thơ văn. Cô Hiền đẹp, thông minh, được bố mẹ cho phép mở phòng tiếp khách văn chương, vẻ đẹp của cô Hiền là một vẻ đẹp khá toàn diện được tác giả thể hiện qua nhiều góc độ khác nhau, từ cách chọn người bạn trăm năm đến việc thu xếp việc nhà, sinh con và răn dạy con cái.
Về hôn nhân, cô Hiền đã vượt qua thói thường tình của con người, cô không ham danh, hám lợi, không cơ hội, không lính toán. Cô có một quan điểm rất nghiêm túc đúng đắn về hôn nhân. Là một phụ nữ có nhan sắc, yêu văn chương, thời còn con gái tiếp xúc nhiều với những văn nhân nghệ sĩ, nhưng cô lại không sống theo lối sống lãng mạn, viễn vông. Cô cũng chả hứa hẹn gì với đám nghệ sĩ, văn nhân, đùa vui một thời son trẻ thế là đủ. Cô chọn người bạn đời của cô cũng không phải là một ông quan nào mà là một ông giáo cấp tiểu học, hiền lành, chăm chỉ, khiến cả Hà Nội phải kinh ngạc. Cô Hiền luôn đặt trách nhiệm làm vợ, làm mẹ lên trên mọi thú vui khác. Cô coi việc phụng dưỡng chồng, chăm sóc cho chồng con là một niềm vui, là niềm hạnh phúc của cô. Trong việc quản lí gia đình cô Hiền luôn là người chủ động, tự tin và xác định rõ vai trò quan trọng của người vợ trong gia đình. Theo cô “Người đàn bà không làm nội tướng thì cái gia đình ấy cũng chả ra sao”. Vì vậy mà cô Hiền đã phê phán cái thói “bắt nạt vợ” quá đáng của người cháu. Cô là một người sớm có nhận thức về “bình đẳng nam nữ”.
Về việc dạy con, cô Hiền dạy con khi chúng còn nhỏ và dạy từ những chuyện sinh hoạt hàng ngày trong gia đình như cách ngồi ăn, cách cầm bát, cầm đũa, múc canh … vì cô cho đó là một hình thức văn hóa: văn hóa ẩm thực, văn hóa sống … và hơn nữa, đó là văn hóa của người Hà Nội. Theo cô, người Hà Nội phải sống cho thật chuẩn mực: “Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông tuồng”.
Về việc sinh con, cô Hiền cũng có quan điểm rất tiến bộ so với những người đương thời. Cái thời mà người ta thích đẻ nhiều để sau này có “con đàn, cháu đống” cho vui cửa, vui nhà và họ coi đó là niềm hạnh phúc. Họ thích đẻ nhiều mà ít quan tâm đến việc nuôi nấng và giáo dục con cái đến nơi đến chôn vì họ cứ theo cái quan niệm cũ: “Trời sinh voi, trời sinh cỏ”. Cũng ở vào cái thời đại đó nhưng cô Hiền lại có một nhận thức đúng đắn, tiến bộ. Cô không tin vào việc “Trời sinh voi, trời sinh cỏ”, và cô có một quyết định khá dứt khoát: chấm dứt việc sinh đẻ vào năm bốn mươi tuổi, để có điều kiện nuôi dạy con cái một cách chu đáo để chúng có thể “sống tự lập”, không bị lệ thuộc, sống có nhân, cách. Tình yêu thương con của cô Hiền là một thứ tình cảm sáng suốt của một người mẹ có nhân cách, giàu lòng tự trọng, có suy nghĩ sâu sắc, đúng đắn, có tầm nhìn sâu rộng.
Một nét đẹp ở cô Hiền mà khiến chúng ta phải khâm phục và trân trọng đó là “lòng tự trọng“ rất cao cả của cô. Lòng tự trọng không cho phép con người ta sống ích kỉ và hèn nhát. Chính vì có lòng tự trọng cao nên cô Hiền bằng lòng cho đứa con trai lớn của mình là Dũng đi chiến đấu mặc dầu lòng cô đau đớn lắm vì cô “không muốn nó sống bám vào sự hy sinh của bạn bè”. Tiếp đến, cô Hiền cho đứa em Dũng tiếp bước anh mình “bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó”. Lòng tự trọng ấy cũng chính là lòng yêu nước, ý thức cộng đồng thâm trầm, sâu sắc mà không cần ồn ào của cô Hiền.
Cô Hiền là một người sống chuẩn mực có bản lĩnh, tự tin ở chính mình. Cô Hiền có cách sống và vẻ bề ngoài có vẻ tư sản nhưng không hề bị đi học tập cải tạo vì cô chẳng hề bóc lột ai, cô chỉ sống bằng cái nghề làm hoa giấy. Cô Hiền là một con người mang đậm chất Hà Nội. Chất Hà Nội của cô Hiền được thể hiện qua cách sống lịch lãm, sang trọng của cô. Điều này được thể hiện rất rõ ngay trong phòng khách của cô. Phòng khách của cô như lưu giữ cái hồn Hà Nội: cổ kính, quý phái và tinh tế mà “suốt mấy chục năm không hề thay đồi”. Chất Hà Nội của cô Hiền đưực thể hiện qua thái độ ung dung, tự tại trước những biến động của thời cuộc: cô không hề lo sợ trước sự thắng lợi của cách mạng và cũng không tỏ ra mừng vui quá mức. Câu trả lời của cô trước câu hỏi hơi nghiệt của đứa cháu:
“Tại sao cô không phải học tập cải tạo. Cô giấu cũng tài nhỉ ?”
“Tao có bộ mặt rất tư sản, một cách sống rất tư sản, nhưng lại không bóc lột ai cả thì làm sao thành tư sản được. ”
Hoặc:
“Nước độc lập vui quá cô nhỉ”
“Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ?” đã thể hiện khá rõ chất ung dung tự tại của cô Hiền.
Hơn thế nữa, chất Hà Nội ở cô Hiền còn được thể hiện qua sự khôn ngoan, sâu sắc của trí tuệ như việc cô nói về lẽ tuần hoàn: “Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của tạo vật không thể lường trước được’’, hoặc việc cô bộc lộ niềm tin vào tương lai vào cái đẹp của Hà Nội vẫn tồn tại vĩnh viễn, dẫu mỗi thời điểm cái đẹp có khác nhau: “Mỗi thế hệ điều có thời vàng son của họ. Hà Nội thì không thế. Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho một lứa tuổi”.
Nhìn chung lại, ta thấy cô Hiền là một người phụ nữ không những có nhan sắc mà còn có một vẻ đẹp tâm hồn rất lớn. Cô Hiền là một người phụ nữ mẫu mực rất yêu chồng và thương con, có lòng lự trọng cao, có nhiều quan điểm rất tiến bộ như trong việc sinh con, giáo dục con, sống chuẩn mực, lịch lãm, điềm đạm, luôn giữ phong cách của một người Hà Nội và rất yêu Hà Nội, tin tưởng vẻ đẹp của Hà Nội không bao giờ mất đi. Hay nói một cách khác cô Hiền là một người tiêu biểu cho vẻ đẹp của người Hà Nội.
Phân tích Một người Hà Nội – Mẫu 5
Trải qua hàng nghìn năm văn hiến, Hà Nội đã trở thành mảnh đất kết tinh bao tinh hoa của đất trời, là nơi hội tụ cảm xúc của biết bao thế hệ văn nghệ sĩ. Vùng đất kinh kỳ dường như hóa thân thành “nhân vật” có tâm hồn trong trong văn thơ, chẳng cần xô bồ hay hối hả, Hà Nội vẫn để lại dấu ấn riêng gây thương nhớ cho những ai đã từng ghé qua.
Chẳng lãng mạn như Tô Hoài, Đỗ Phấn, truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải đã để lại trong lòng người đọc biết bao cảm xúc dạt dào, vẻ đẹp con người được khắc hoạ thật tinh tế, chân thật, mang đậm màu sắc Hà thành.
Nguyễn Khải sinh ra tại Hà Nội, ông trải qua nhiều bước ngoặc lớn trong cuộc đời mình. Năm 1950, ông bắt đầu sự nghiệp văn chương với những tác phẩm đầu tay: Xây dựng (1950-1951), Xung đột (phần I – 1959, phần II – 1962),… Các tác phẩm viết về đề tài nông thôn: Mùa lạc (1960), Người trở về (1964),… Từ sau năm 1975, các tác phẩm của ông đề cập chủ yếu đến vấn đề chính trị – xã hội mang tính thời sự, đặc biệt là tâm lý, tư tưởng con người trước những biến động của thời cuộc.
Các tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Khải trong giai đoạn này: Cha và con, và… (1979), Thời gian của người (1985) và đặc sắc nhất là truyện ngắn Một người Hà Nội được ông viết năm 1990. Tác phẩm đã khắc họa rõ nét vẻ đẹp tính cách và tâm hồn của con người Hà Nội qua biết bao thăng trầm, biến động của đất nước.
Nhan đề Một người Hà Nội được Nguyễn Khải đặt đã làm nổi bật lên hình tượng trung tâm xuyên suốt của tác phẩm chính là “người Hà Nội” mang trong mình vẻ đẹp toàn diện từ ngoại hình, tính cách cho đến tâm hồn. Nhan đề không màu mè, khoa trương cũng đủ gây ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, nó như mở ra một không gian nghệ thuật tuyệt mỹ, một mảnh đất Hà thành xinh đẹp, cổ kính, trải qua hàng ngàn năm thăng trầm của lịch sử dân tộc
Nguyễn Khải xây dựng nhiều tuyến nhân vật đều xuất thân là người Hà thành, tuy nhiên nổi bật là cô Hiền – nhân vật chính trong truyện. Cô xuất thân trong một gia đình giàu có, nế nếp, có nhan sắc, yêu văn chương và có trí thông minh hơn người. Ở nhân vật này, toát lên vẻ đẹp thuần tuý không trộn lẫn, vẻ đẹp của tinh thần và cốt cách thấm sâu từ nền văn hoá vùng đất kinh kỳ, không thể phai nhoà theo năm tháng.
Cô Hiền yêu mảnh đất này, nơi cô sinh ra và lớn lên với biết bao hoài niệm, cô vẫn ở lại Hà Nội thân thương mặc cho bom đạn đang đổ xuống nơi đây, chẳng ngại hiểm nguy đang trực chờ cô và gia đình mình vẫn bám trụ chỉ bởi vì “không thể rời xa Hà Nội”.Người phụ nữ có vẻ đẹp quý phái, đầy lòng kiêu hãnh, sự tự tin vốn có của người Đô thành, cùng với con mắt nhạy bén, sắc sảo dám bộc lộ quan điểm thẳng thắn, dám sống thật với bản thân.
Mặc cho xã hội đang dần thay đổi, nếp sống hối hả xô bồ đang ngày càng lan rộng trong nhân dân, cô Hiền vẫn giữ cho cho mình được lối sống đẹp, cách cư xử nhã nhặn, thanh cao đúng chuẩn Hà thành. Quả là một con người thức thời, cô nhanh chóng dung hoà được giá trị vật chất và vẻ đẹp tâm hồn, tuy chẳng còn phải tuổi thiếu nữ đôi mươi nhưng người phụ nữ này vẫn giữ cho mình một tâm hồn yêu nghệ thuật, cô vẫn giữ mối quan hệ với những văn nhân, nghệ sĩ, giữ cho tâm hồn biết yêu và trân trọng vẻ đẹp tinh thần.
Gần ba mươi tuổi, cô Hiền mới đi lấy chồng, “đùa vui một thời son trẻ thế là đủ” đã đến lúc làm một người vợ hiền, một người mẹ tốt, cô không chọn “một ông quan nào hết” hay một người văn nghệ sĩ, cô chọn lấy một ông giáo tiểu học “hiền lành, chăm chỉ, khiến cả Hà Nội phải kinh ngạc”. Người phụ nữ này chắc hẳn nổi tiếng cả Hà thành, cô đã có những tính toán cho cuộc đời mình, khi đứng trước ngã rẽ cuộc đời cô lựa chọn một lối đi an toàn nhất nhưng cũng hoàn hảo nhất.
Cô Hiền có tất cả, từ gia thế cho tới ngoại hình, trí tuệ, cô biết mình cần gì và muốn gì, quyết định chọn một nhà giáo tri thức lại hiền lành, chăm chỉ sẽ mang lại cho cô một gia đình hạnh phúc trọn vẹn. Khi là người vợ, người mẹ cô tính toán chu toàn cho tương lai của những đứa con mình, đây quả thực là một người phụ nữ tài sắc vẹn toàn, dám nghĩ dám làm, khi đã làm thì không sợ đàm tiếu, thị phi thiên hạ. Bất kể là bản lĩnh hay trí tuệ cô đều có thừa, thật khiến người kinh khâm phục, kính nể bội phần.
Cô Hiền được tác giả miêu tả như “nội tướng”, mọi việc trong gia đình đều do một tay cô thu xếp chu toàn. Cô tài giỏi trong việc kinh tế lẫn quản lý gia đình, đưa cho chồng những lời khuyên đúng đắn kịp thời, mở một cửa hàng hoa giả mang lại thu nhập cho gia đình, cô bán đi một dinh cơ cho người bạn ở kháng chiến về. Chỉ bằng những hành động trên, ta hoàn toàn có thể cảm nhận được cô Hiền là người rất thức thời, và có trí tuệ hơn người.
Cô và gia đình sống như một nhà tư sản ở trong một “tòa nhà tọa lạc ngay tại một đường phố lớn”, “mùa đông ông mặc áo ba-đờ-xuy, đi giày da, bà mặc áo măng-tô”, “bàn ăn trải khăn trắng, giữa bàn có một lọ hoa”,… Họ vẫn giữ nếp sống Hà thành giữa thời cuộc đổi thay nhưng lại chẳng thấp thỏm lo sợ, cũng chẳng cần để tâm đến lời dị nghị xung quanh bởi vì cô Hiền biết đâu là chuẩn mực, là giới hạn, để giữ cho mình không đủ “tiêu chuẩn” thành tư sản, chẳng cần “bóc lột” ai mọi việc đều tự sức mình mà làm.
Cô tự tin khẳng định với những bà bạn của mình “các bà không biết nhưng nhà nước lại rất biết”, câu nói là thể hiện lòng tin tuyệt đối vào chế độ mới, lòng yêu nước mãnh liệt, dạt dào. Trong nuôi dạy con cái, cô là người mẹ mẫu mực, nghiêm khắc, cô dạy các con từ cách ngồi, cách ăn và cả nói chuyện, đi đứng, dạy cho chúng “không được sống tuỳ tiện, buông tuồng”. Cô truyền dạy cho con lối sống, văn hoá người Hà Nội, khắc sâu vào tâm trí chúng lòng yêu nước và trách nhiệm cao cả với Tổ quốc.
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, là một người mẹ chứng kiến đứa con mình ra chiến trường bom đạn, đối diện với sinh ly tử biệt, mặc dù lo lắng, đau lòng nhưng cô vẫn để con đi. Cô Hiền là một người mẹ mẫu mực, tôn trọng quyết định của con, sống có lòng tự trọng, cô không muốn Dũng “sống bám vào sự hy sinh của bạn bè”.
Ra đi là bảo vệ Tổ quốc, hy sinh cho Tổ quốc không thể có sự ích kỷ, hẹp hòi len lỏi trong tâm trí. Dù đứng ở cương vị nào, cô Hiền vẫn giữ được cốt cách thanh cao, lối cư xử rất đỗi mẫu mực. Nguyễn Khải ví cô như “hạt bụi vàng” là cách ông thể hiện sự yêu quý, trân trọng trước vẻ đẹp trí tuệ và nhân cách của con người Hà Nội.
Nguyễn Khải sáng tạo hình tượng người kể chuyện xuất hiện xuyên suốt chiều dài tác phẩm, theo giọng kể chiêm nghiệm và đầy triết lý của nhân vật vùng đất Hà thành và con người nơi đây hiện lên một cách sinh động, hóm hỉnh và rất chân thật. Tác giả đã rất thành công trong nghệ thuật trần thuật, ông nhìn sự vật, hiện tượng dưới nhiều góc độ và với nhiều cách đánh giá, ngôn ngữ thay đổi linh hoạt, giàu biểu cảm. Các chi tiết nghệ thuật “hạt bụi vàng”, “cây si cổ thụ”,… rất đặc sắc đã góp phần khắc sâu vẻ đẹp con người Hà Nội trong lòng người đọc.
Một người Hà Nội của Nguyễn Khải là truyện ngắn rất đặc sắc và để lại giá trị to lớn cho nền văn học nước nhà. Trong cái nhìn của ông, con người của mảnh đất kinh kỳ hiện lên với vẻ đẹp đậm màu truyền thống, nét đẹp riêng biệt không thể trộn lẫn với bất kỳ nơi đâu. Với sức sống bền bỉ, lòng yêu mến cái đẹp từ ngàn năm lịch sử, người Hà Nội đang bài trừ những cái xấu xa đang du nhập vào nền văn hoá, người người, nhà nhà vẫn giữ nếp sống thanh cao, kiêu hãnh vốn có của mình.
Phân tích Một người Hà Nội – Mẫu 6
Truyện Một người Hà Nội sáng tác năm 1990, in trong tập truyện Hà Nội trong mắt tôi, nhà xuất bản Hà Nội năm 1995. Đây là một tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Khải, thể hiện cái nhìn vô cùng mới mẻ của mình về con người, cuộc sống với một hình thức nghệ thuật in đậm cá tính sáng tạo của nhà văn.
“Một người Hà Nội”, với nhan đề như vậy nhà văn đã mở ra hình tượng trung tâm của tác phẩm là một người Hà Nội mang trong mình vẻ đẹp Hà Nội thuần túy không trộn lẫn. Bên cạnh đó còn mở ra không gian nghệ thuật cổ kính, mảnh đất Kinh Kỳ, nghìn năm văn hiến đã trải qua cùng những thay đổi của thời đại. Cũng từ nhan đề có thể soi sáng được tư tưởng và chủ đề của tác phẩm.
Tác phẩm với nhân vật chính là cô Hiền, người xuất thân từ gia đình Hà Nội giàu có, thân thiện. Ở cô Hiền thấm sâu vẻ đẹp tinh thần, văn hóa cốt cách của một người Hà Nội gốc, tạo nên nơi người đọc về vẻ đẹp ấy sẽ bền vững, không bị nhạt nhòa theo thời gian. Cô cũng là người có tình yêu và gắn bó sâu sắc với mảnh đất Hà Nội. Ngay cả khi nơi đây có đang oằn mình trong bom đạn thì cô vẫn bám trụ lại mảnh đất này bằng tình yêu và niềm tin mãnh liệt vào sự trường tồn của Hà Nội.
Trải qua bao biến cố thăng trầm của đất nước, cô Hiền vẫn giữ được nét đẹp vẹn nguyên trong tâm hồn người Hà Nội không pha trộn. Cô luôn tin tưởng vào tương lai của Hà Nội ngay cả khi sự nghiệt ngã của cuộc sống hiện đại mà người ta dần làm mất đi phần hồn của Hà Nội nhưng cô Hiền vẫn ung dung kể chuyện cây si cổ thụ. Cây si cũng như sự đắp đổi của thời gian, đời người nếu được con người cứu chữa nó sẽ tiếp tục sống lại và hồi sinh.
Tác giả không miêu tả ngoại hình mà chỉ kể về cách sống, cách ứng xử của cô Hiền trong mối quan hệ với người thân trong gia đình, với bạn bè, với thời cuộc… Người kể chuyện không chỉ quan sát mà đôi lúc còn trực tiếp tham gia vào câu chuyện, vì thế mà lời kể, lời bình có vẻ khách quan. Chín năm kháng chiến chống Pháp, cô Hiền ở lại Hà Nội cùng chồng con. Hòa bình lập lại, đất nước tạm thời chia làm hai miền, cô không di cư vào Nam vì cô nghĩ rằng chồng cô làm nghề dạy học nên chế độ nào cũng cần. Nhưng nguyên nhân chính là cô không thể rời xa Hà Nội. Trong sâu thẳm tâm hồn cô, Hà Nội đã trở thành không gian sống quá quen thuộc nên không thể thiếu: Hà Nội đối với cô Hiền đồng nghĩa với một tình yêu lớn lao, sâu sắc.
Trong tác phẩm, tác giả còn thể hiện vẻ đẹp của Dũng, những thanh niên Hà Nội. Họ tình nguyện đăng kí đi đánh Mỹ với lòng sắt son, tình yêu nước nồng nàn. Trước cái chết của đồng đội, họ không những thấy tiếc thương mà còn hổ thẹn. Tuất là bạn của Dũng nhưng Tuất đã hi sinh ở trận đánh vào Xuân Lộc, trước ngày toàn thắng có mấy ngày. Anh về đến Hà Nội “là muốn nhào ngay lại nhà ga, đến phòng phát thanh, gặp mẹ Tuất, nói với bà một lời, vì bọn cháu vẫn ở cạnh nhau suốt mười năm. Vậy mà phải mấy ngày sau, cháu mới dám đến. Cháu biết nói thế nào với một bà mẹ có con hi sinh, mà bạn của con mình lại vẫn còn sống đến tận bây giờ, đến hôm nay”. Thêm một nét đẹp nữa về con người Hà Nội. Họ biết đồng cảm với những người bất hạnh hơn mình. Phần cuối tác phẩm, cô Hiền đã già, Hà Nội đã đổi khác nhưng nét Hà Nội trong cô vẫn còn đó, không bị pha trộn. Chính bởi đó mà tác giả thể hiện sự tiếc nuối nếu nét ấy không còn. “Một người Hà Nội như cô chết đi thật là tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào đất cổ”.
Tác giả đã đem tới cho bạn đọc một tác phẩm với giọng văn nhẹ nhàng pha chất triết luận khi khắc họa hình mẫu cô Hiền. Những người như cô Hiền sẽ soi sáng cho mỗi thế hệ Hà Nội, ấy chính là giá trị nhân văn cao đẹp của cuộc sống và con người mà Nguyễn Khải muốn ngợi ca.
Phân tích truyện Một người Hà Nội – Mẫu 7
Nguyễn Khải bắt đầu viết văn từ năm 1950 cho đến những năm đầu thế kỉ XXI hôm nay. Trước đây, truyện ngắn Nguyễn Khải là cái nhìn tỉnh táo, sắc lạnh, nghiêm ngặt, đơn chiều, nhà văn luôn khai thác hiện thực trong thế xung đột, đối lập cũ – mới, tiến bộ – lạc hậu, tốt – xấu, ta – địch… qua đó khẳng định xu thế vận động từ bóng tối ra ánh sáng của cuộc sống mới, con người mới.
Bước sang thời kì đổi mới, cái nhìn nghệ thuật của Nguyễn Khải là một cái nhìn đầy trăn trở, suy nghiệm, cảm nhận hiện thực xô bồ, hối hả, đầy biến động, đổi thay nhưng cũng đầy hương sắc, chuyển mạnh từ hướng ngoại sang hướng nội, lấy việc khám phá con người làm trung tâm. Nhà văn nhìn con người trong mối quan hệ chặt chẽ với lịch sử, với quá khứ dân tộc, với quan hệ gia đình và sự tiếp nối thế hệ, để rồi cuối cùng bao giờ cũng khẳng định, ngợi ca những giá trị nhân văn cao đẹp của cuộc sống và con người hôm nay. Một người Hà Nội là truyện ngắn tiêu biểu cho hướng sáng tác đó.
Câu chuyện có thể tóm tắt như sau. Nhân vật “tôi” giới thiệu về cô Hiền, người họ hàng, nêu ấn tượng chung về gia đình cô Hiền, một gia đình mà từ nhà cửa cho đến nghề nghiệp, ăn mặc, lối sống đều cho thấy “đích thị là tư sản”. Tiếp đó là những hồi tưởng về sự giàu sang phú quý của những người trong dòng họ cô Hiền thời trước khi hòa bình lập lại năm 1954. Sau hòa bình lập lại, nhân vật “tôi” từ chiến khu về Hà Nội.
Người lính cách mạng thấy người dân Hà Nội đang thích ứng dần với cuộc sống mới. Cô Hiến nói về niềm vui và cả những cái có phần máy móc, cực đoan của cuộc sống xung quanh. Đến thời kì đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, cuộc sống còn nhiều khó khăn.
Cô Hiền tìm việc làm phù hợp với chủ trương, chính sách của chế độ mới, khéo léo chèo chống con thuyền gia đình vượt qua sóng gió.Khi miền Bắc bước vào thời kì đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mĩ, cô Hiền dạy con cách sống “biết tự trọng, biết xấu hổ”, biết sống đúng với bản chất người Hà Nội. Người con trai đầu của có tình nguyện đi bộ đội đánh Mĩ. Người em kể cùng làm đơn tòng quân theo anh, nhưng vì thi đại học đạt điểm cao nên trường giữ lại.
Cho đến khi đất nước tràn đầy niềm vui với đại thắng mùa xuân năm 1975, vợ chồng nhân vật “tôi” đến dự buổi liên hoan mừng Dũng, người con đầu của cô Hiền, trở về. Câu chuyện cảm động của Dũng về Tuất, người đồng đội đã hi sinh và người mẹ của Tuất, một người mẹ Hà Nội có con đi chiến đấu chống Mĩ.
Xã hội trong thời kì đổi mới với đủ cái phải – trái, tốt – xấu. Nhân vật “tôi” từ Thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội công tác, ghé thăm cô Hiền. Giữa không khí xô bồ của thời kì kinh tế thị trường, cô Hiền vẫn là một người Hà Nội của hôm nay, thuần túy Hà Nội, không pha trộn. Từ chuyện cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn, cô Hiền nói về niềm tin vào cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
Nhân vật trung tâm của truyện ngắn là cô Hiền, một người Hà Nội bình thường. Cũng như những người Hà Nội bình thường khác, cô đã cùng Hà Nội, cùng đất nước trải qua nhiều biến động thăng trầm nhưng vẫn giữ được cái cốt cách người Hà Nội, cái bản lĩnh văn hóa của người Hà Nội. Cô sống thẳng thắn, chân thành, không giấu giếm quan điểm, thái độ của mình với mọi hiện tượng xung quanh.
Trước niềm vui kháng chiến thắng lợi, miền Bắc bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới, cô nhận xét: “Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều”. Theo cô, chính phủ can thiệp vào nhiều việc của dân quá, nào phải tập thể dục mỗi sáng, phải sinh hoạt văn nghệ mỗi tối, vợ chồng phải sống ra sao, trai gãi yêu nhau như thế nào, thậm chí cả tiền công xá cho kẻ ăn người ở. Không hề lãng mạn, viển vông, cô là người có đầu óc rất thực tế.
Cô tính toán mọi việc trước sau rất khôn khéo và đã tính là làm, dù làm là không thèm để ý đến những đàm tiếu của thiên hạ.Thời son trẻ, cô giao du với đủ loại thanh niên con nhà giàu, nghệ sĩ văn nhân, nhưng khi phai làm vợ làm mẹ, cô chọn bạn trăm năm là một ông giáo cấp tiểu học hiền lành, chăm chỉ, cô sinh năm đứa con, đến cô con gái út, cô nói với chồng: “Từ nay là chấm dứt chuyện sinh đẻ, bốn mươi tuổi rồi, nếu ông và tôi sống đến sáu chục thì con út đã hai mươi, có thể tự lập được, khỏi phải sống bám vào các anh chị”.
Cô bảo ban, dạy dỗ con cháu cách sống làm một người Hà Nội lịch sự, tế nhị, hào hoa, biết giữ gìn phẩm chất, giá trị của người Hà Nội, cô dạy từ những việc làm nho nhất, ngồi vào bàn ăn cô thường chú ý sửa chữa cách ngồi, cách cầm bát đũa, cách múc canh, cả cách nói chuyện trong bữa ăn đến cái lớn nhất là quan niệm sống, lẽ sống: “Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông tuồng… Tao chỉ dạy chúng nó biết tự trọng, biết xấu hổ.,.”.
Như mọi người khác, cuộc đời cô Hiền song hành cùng những chặng đường dài, nhưng biến động lớn lao của đất nước. Ở đây, lịch sử dân tộc đã được soi sáng qua số phận, cách ứng xử của từng cá nhân. Là một con người, cô Hiền luôn giữ gìn phẩm giá, nhân cách; là một người công dân, cô chỉ làm những gì có lợi cho đất nước, vì vận mệnh sống còn của đất nước.
Xuất phát từ lí tưởng cao đẹp xây dựng một xã hội nhân ái, không có cảnh người bóc lột người, chế độ mới chỉ trân trọng sự lao động sáng tạo của từng người, không chấp nhận hiện tượng ông chủ và kẻ làm thuê, vì thế sau hòa bình lập lại ở miền Bắc mới có chính sách cải tạo tư sản. Mặc dù có bộ mặt rất tư sản, cách sống rất tư sản, nhưng cô Hiền không phải học tập, cải tạo vì cô không bóc lột ai cả.
Cô mở cửa hàng bán đồ lưu niệm và tự tay làm ra sản phẩm: Hoa làm rất đẹp, bán rất đắt:., chỉ có một mình cô làm, các em thì chạy mua vật liệu… Cô không đồng ý cho chồng mua máy in và thuê thợ làm chỉ vì cô muốn góp phần vào việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ để nhanh chóng khôi phục đất nước sau chiến tranh. Bước vào cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, cô vô cùng thương con, lo lắng cho con nhưng sẵn sàng cho con ra trận như những thanh niên khác và mình cũng được vui buồn lo âu như những bà mẹ Việt Nam khác.
Trước việc đứa con đầu tình nguyện xin đi đánh Mĩ, cô nói: “Tao đau đớn mà bằng lòng vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn. Nó dám đi cũng là biết tự trọng”. Ba năm sau, đứa em theo bước anh, cũng đòi vào chiến trường, cô bày tỏ thái độ của mình: “Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó… Tao cũng muốn được sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả hoặc chết cả, vui lẻ thì có hay hớm gì”. Suy nghĩ bình dị như thế của cô Hiền là suy nghĩ của một người thiết tha yêu nước.
Vì sao tác giả cho cô Hiền là một hạt bụi vàng của Hà Nội? Nói đến hạt bụi là người ta nghĩ đến một vật rất nhỏ bé, tầm thường, ít ai nhận thấy, nghĩa là chẳng có giá trị gì. Có điều, là hạt bụi vàng thì dù rất nhỏ bé nhưng lại mang giá trị quý báu. Nhiều hạt bụi vàng hợp lại sẽ thành ánh vàng chói sáng, cô Hiền là một người Hà Nội bình thường, vô danh, nhưng ở cô thắm sâu những cái tinh hoa trong bản chất người Hà Nội; những người Hà Nội như cô đã là những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội, tất cả đang bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng.
Ánh vàng ấy là phẩm giá người Hà Nội, là cái truyền thống, cốt cách người Hà Nội, Hà Nội linh thiêng và hào hoa, Hà Nội văn hiến ngàn năm. Nguyễn Khải có giọng điệu trần thuật rất trải đời, vừa tự nhiên, dân dã, vừa trĩu nặng suy tư, vừa giàu chất khái quát, triết lí, vừa đậm tính đa thanh, ở đây tác giả hoàn toàn nhập thân vào nhân vật “tôi” để diễn tả, kể lại những gì mà mình đã chứng kiến, đã trải qua, đã nghiệm thấy.
Chính cái chất tự nhiên, dân dã đã tạo nên phong vị hài hước rất có duyên trong giọng điệu trần thuật của nhân vật “tôi”, chẳng hạn: “Trong lí lịch cán bộ tôi không ghi tên cô Hiền. Họ thì xa, bắn súng đại bác chưa chắc đã tới, huống hồ còn là bà tư sản, dính líu vào lại thêm phiền…”. Có thể nói, giọng điệu trần thuật như thế đã làm cho truyện ngắn Nguyễn Khải đậm đặc chất tự sự rất đời thường mà hiện đại.
Bên cạnh đó, nhà văn tạo tình huống gặp gỡ giữa nhân vật “tôi” với các nhân vật khác cũng là cách để khám phá, phát hiện tính cách các nhân vật. Những cuộc gặp gỡ gắn với những thời đoạn khác nhau của hiện thực đất nước: sau hòa bình lập lại 1954, sau đại thắng mùa xuân năm 1975, rồi nhiều năm dù trôi qua, đất nước bước vào thời kì đổi mới… theo đó mà miêu tả sự vận động của tính cách cô Hiền.
Ngôn ngữ các nhân vật cũng góp phần khắc họa sâu sắc tính cách từng nhân vật. Chẳng hạn, cô Hiền có đầu óc thực tế, tư duy lôgic, cách nói của cô ngắn gọn, rõ ràng, dứt khoát; đây là cuộc đối thoại của cô với ông chồng đang định mua máy in để kinh doanh; “Ông có đứng máy được không?”; “Không.”, “Ông có sắp chữ được không?” “Không.”. “Ông sẽ phải thuê thợ chứ gì. Đã có thợ tất có chủ, ông muốn làm một ông chủ dưới chế độ này à”.
Bằng nghệ thuật khắc họa lịch sử qua số phận cá nhân và nêu bật phẩm chất con người Hà Nội, con người Việt Nam, Nguyễn Khải đã thành công trong giọng điệu trần thuật, cách xây dựng nhân vật trung tâm là cô Hiền. Cũng qua cuộc đời cô Hiền, người đọc cảm nhận được lối sống, bản lĩnh văn hóa của một người Hà Nội sắc sảo, nhạy bén, luôn thích ứng với mọi hoàn cảnh và vẫn giữ được phẩm giá của mình.