TOP 8 mẫu Phân tích Người trong bao của Sê-khốp mà Download.vn giới thiệu dưới đây sẽ là tư liệu cực kì hữu ích với các bạn học sinh lớp 11. Với 8 bài văn mẫu dưới đây giúp các bạn nắm được các luận điểm, luận cứ rõ ràng, rành mạch. Từ đó biết cách trình bày, sắp xếp các lí lẽ để làm nổi bật vấn đề có hệ thống.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 11: Phân tích tác phẩm Người trong bao (2 Dàn ý + 8 mẫu)
Truyện ngắn Người trong bao thể hiện được cuộc đấu tranh giữa con người với “cái bao” chuyên chế và khát vọng cuộc sống là mình, loại bỏ cuộc sống “trong bao”, thức tỉnh “con người không thể sống mãi như thế được”. Vậy sau đây là 2 dàn ý và 8 bài phân tích Người trong bao hay nhất, mời các bạn cùng tải tại đây.
Phân tích Người trong bao hay nhất
Dàn ý phân tích Người trong bao
Dàn ý số 1
I. Mở bài:
– Giới thiệu đoạn trích Người trong bao của Sê-khốp.
Ví dụ: Sê-khốp là một nhà văn kiệt xuất được sinh ra ở một thị trấn nhỏ. Ông là một trong những đại biểu kiệt xuất cuối cùng trong văn học hiện thực của nước Nga. Ông đã để lại cho nền văn học hơn 500 truyện ngắn truyện vừa và các vở kịch đặc sắc. Nổi bật bà tác phẩm Người trong bao. Tác phẩm nói về hình tượng một người luôn sống trong một cái vỏ bọc, lo sợ cuộc sống, chúng ta cùng đi tìm hiểu tác phẩm để hiểu rõ về phong cách nghệ thuật của Sê-khốp.
II. Thân bài:
1. Chân dung Bê-li-cốp:
- Ngoại hình: thu mình trong vỏ bọc, luôn tạo một thứ bao bọc, bảo vệ mình.
- Lối sống thu mình trong bao.
- Biểu tượng cho sự hèn nhát, quái đản.
- Lối sống thu mình.
- Lối sống trong bao, thu mình, hèn nhát.
2. Ảnh hưởng của Bê-li-cốp:
- Lối sống đã đầu độc, làm ô nhiễm, khiến con người sợ hãi suốt 15 năm.
- Mọi người sợ sệt và xa lánh.
3. Cái chết của Bê-li-cốp:
- Bị đồng nghiệp trêu chọc, phản đối thô bạo.
- Chứng kiến đồng nghiệp không sợ cấp trên.
- Bị cười nhạo vì ngã.
- Sợ ông hiệu trưởng.
III. Kết bài:
– Nêu cảm nhận của em về đoạn trích Người trong bao của Sê-khốp.
Ví dụ: Đoạn trích Người trong bao của Sê-khốp nói lên sự lo lắng về cuộc sống đầy cạm bẫy khiến con người phải sống khép kín, nhưng điều ấy đã khiến con người trở nên hèn nhát.
Dàn ý số 2
1. Mở bài
– Giới thiệu khái quát về tác giả Sê-khốp (những nét chính về cuộc đời, các sáng tác chính, đặc điểm sáng tác,…).
– Giới thiệu khái quát về truyện ngắn “Người trong bao” (hoàn cảnh ra đời, khái quát giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm,…).
– Nêu vấn đề nghị luận: Hình tượng cái bao trong truyện ngắn “Người trong bao”.
2. Thân bài
*Cái bao là một hình tượng mang ý nghĩa tả thực – là một vật dụng được Bê-li-cốp dùng để đựng các vật dụng của mình.
* Cái bao còn là hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng:
– Chiếc bao là hình ảnh tượng trưng cho lối sống thu mình, hèn nhát và luôn sống trong nỗi sợ hãi của Bê-li-cốp:
- Chân dung của Bê-li-cốp luôn được giấu kín sau nhiều lớp bao: Cái mặt được giấu sau một chiếc cổ áo bành tô lúc nào cũng được bẻ đứng lên, mắt đeo kính râm, tai nhét bông, chân đi giày cao su,…
- Nơi ở: Căn phòng chật như cái hộp và những ô cửa thì lúc nào cũng kín mít.
- Suy nghĩ của Bê-li-cốp cũng được giấu trong bao.
- Bê-li-cốp với lối sống, lối suy nghĩ trong bao của mình là một điển hình cho một bộ phận người tri thức Nga.
– Hình tượng chiếc bao trong tác phẩm còn là hình ảnh tượng trưng cho chế độ Nga hoàng chuyên chế bảo thủ, trì trệ đã bóp nghẹt cuộc sống của con người.
3. Kết bài
Khái quát về hình tượng cái bao trong truyện ngắn “Người trong bao” và nêu cảm nghĩ, bài học cho bản thân từ hình tượng ấy.
Phân tích bài Người trong bao – Mẫu 1
Sê-khốp là nhà văn lớn, là cây đại thụ trong nền văn học Nga, ông đã để lại cho nhân loại một kho tàng những tác phẩm có giá trị vô cùng to lớn. Dưới ngòi bút của nhà văn, toàn cảnh xã hội Nga cuối thế kỷ XIX hiện lên một cách rất chân thật, đó là một đất nước ngột ngạt, tù túng, chuyên chế bảo thủ dưới thời kỳ nắm quyền của Nga hoàng. Nhà văn Sê-khốp có lối viết văn rất lôi cuốn, ngôn ngữ sinh động tự nhiên, phản ánh chân thực con người và xã hội Nga lúc bấy giờ.
Truyện ngắn Người trong bao được ông viết năm 1898, đã khắc hoạ thành công hình tượng nhân vật Bê-li-cốp, một anh giáo chức tỉnh lẻ với cái đầu chứa đầy thành kiến, qua đó tác giả châm biếm và đả kích những người tri thức Nga với lối sống “trong bao” cổ hủ, lạc hậu, thích phê phán, bất an trước những gì vượt ra ngoài giới hạn cho phép của mình, và tự coi đó là lỗi lầm của người khác.
Nhân vật chính trong truyện là Bê-li-cốp, một giáo viên dạy tiếng Hy Lạp có lối sống rất kỳ lạ “sống đơn độc như những con ốc, con sên cố thu mình vào vỏ bọc”. Hắn khác thường trong cả cách sống và lối suy nghĩ dị hợm. Lúc nào cũng vậy, bất kể trời mưa hay nắng, thời tiết đẹp hay xấu hắn đều khoác lên mình một bộ trang phục hết sức kỳ cục. Hắn “đi giày cao su” tay cầm ô, mặc áo “bành tô ấm cốt bông”, hắn luôn mang theo bên mình chiếc bao làm bằng da hươu để dựng nào là ô, chiếc đồng hồ quả quýt, nào là dao nhỏ gọt bút chì, ngay cả bộ mặt hắn dường như cũng muốn để cả vào trong bao, bởi Bê-li-cốp luôn “giấu mặt sau chiếc cổ áo bành tô bẻ đứng lên”. Không những thế anh ta còn đeo kính râm, và nhét bông vào tai, đi xe ngựa thì bao giờ cũng phải “cho kéo mui lên”. Với cách miêu tả chân thật, sinh động của tác giả, Bê-li-cốp hiện lên như một kẻ dị hợm và rất nực cười. Giọng văn của Sê-khốp rất hóm hỉnh, hài hước, không cần phải là những câu văn hoa mỹ, chỉn chu nhưng vẫn làm hiện trong đầu người đọc một hình tượng nhân vật “người trong bao” điển hình thuở bấy giờ.
Bê-li-cốp không sống như người thường, có lẽ hắn chỉ đang tồn tại mà thôi, hắn chán ghét cuộc sống, sợ hãi mọi thứ trên cuộc đời. Để bào chữa cho thái độ nhút nhát, hèn kém không dám đối diện với hiện tại của mình hắn luôn nhớ về quá khứ, “ca ngợi những thứ không bao giờ có thật”. Bê-li-cốp chọn dạy tiếng Hy Lạp, một thứ ngôn ngữ cổ, có lẽ đó là môn học an toàn, không có gì đáng phàn nàn “nhờ đó hắn có thể trốn tránh được cuộc sống thực”. Phải chăng đã quen với lối sống tù túng, ngột ngạt mà bất kể thứ gì anh ta muốn làm đều phải thông qua “chỉ thị, thông tư”, còn nếu như không có chỉ thị, thông tư hay bất cứ quy định nào thì đều không được làm. Cứ mỗi lần có ý định thoát ra khỏi “cái bao” của mình thì hắn lại sợ hãi “nhưng lỡ lại xảy ra chuyện gì” và cứ thế hắn không bao giờ thoát ra khỏi cái “vỏ ốc sên” kia cho đến cuối đời. Mỗi khi có chuyện gì trái với khuôn phép, trái với lẽ thường đều làm hắn rầu rĩ mặc cho chuyện đó vốn “chả liên quan gì đến hắn”. Đáng buồn thay điều gì đã khiến Bê-li-cốp trở thành kẻ có tính cách lạ lùng và có phần bệnh hoạn như vậy? Chắc bởi sống dưới thời Nga hoàng chuyên chế nặng nề cùng với những giáo điều thắt chặt đã làm cho một người bình thường phải ép bản thân đi vào khuôn phép, cả đời sống trong tù túng, bó buộc. Bê-li-cốp vừa đáng thương vừa đáng giận, vừa hèn kém nhưng cũng thật tội nghiệp biết bao!
Cách sống của Bê-li-cốp cũng rất lạ thường và lẩm cẩm. Hắn cho rằng việc đến nhà các đồng nghiệp ngồi im cả tiếng đồng hồ không nói năng gì rồi rời đi là để “duy trì những mối quan hệ tốt với bạn bè”. Có thể nói Bê-li-cốp cũng sợ cô đơn nhưng hắn hoàn mất đi khái niệm về lẽ sống đúng nghĩa, “kẻ dị hợm” bao năm thao túng cả thành phố nhỏ bé này, làm tất cả mọi người đều đâm ra “sợ tất cả”, “cái thằng cha quanh năm đi giày cao su và mang ô ấy” khống chế cả trường học, ngay cả thầy hiệu trưởng cũng phải sợ hắn. Ngay cả khi ở nhà, hắn cũng sống trong sợ hãi: “Mặc áo khoác ngoài, đội mũ, đóng cửa, cài then”, như kẻ mắc bệnh hoang tưởng hắn sợ bóng tối, sợ ánh sáng, sợ ăn trộm,… Và trong đầu luôn tồn tại cái suy nghĩ nhạt nhẽo “lỡ lại xảy ra chuyện gì”. Sê-khốp đã cho người đọc cảm nhận được cái lối sống ấy dường như đã bao trùm lên cả bầu trời một màu tối đen đáng sợ, những “người trong bao” họ đã chết ngay cả khi đang sống, chưa bao giờ cảm nhận được hạnh phúc, tâm hồn luôn nặng trĩu như người sống trong ngục tù âm u, lạnh lẽo.
Ấy vậy, mà một người dị biệt đã ngoài tứ tuần như Bê-li-cốp lại từng tính đến chuyện sẽ kết hôn. Mọi người ra sức ghép đôi cho hắn với nàng Va-ren-ca xinh đẹp, có lẽ họ nghĩ hắn sẽ thay đổi lối sống khi có tình yêu của một người phụ nữ sôi động, nồng thắm. Chỉ vì chuyện này, hắn đã suy nghĩ nhiều đến mức “gầy gò hẳn đi, mặt mày nhợt nhạt”, sự việc đến quá đột ngột khiến một kẻ hèn nhát sợ hãi đủ thứ trên đời như hắn lại càng “thu mình sâu hơn vào trong bao”. Phải chăng hắn là một kẻ cổ hủ với cái đầu chứa đầy thành kiến? Chỉ vì nhìn thấy chị em Van-ren-ca đi xe đạp giữa phố đã khiến hắn sửng sốt, tình yêu vì thế mà cũng phai mờ đi. Cuộc đời của tên nhà giáo tỉnh lẻ Bê-li-cốp cũng thật là bi hài! Chẳng phải vậy thì sao chỉ bằng “tiếng cười phá lên” của Va-ren-ca khi chứng kiến hắn bị xô ngã nơi chân cầu thang, đã có thể chấm dứt tất cả “chuyện cưới xin” và “cả cuộc đời của Bê-li-cốp”. Một tháng sau Bê-li-cốp chết, vẻ mặt hắn lúc nằm trong quan tài “hiền lành, dễ chịu” và có phần “tươi tỉnh” chắc vì đang hạnh phúc khi được vĩnh viễn chui vào trong cái bao của mình, không còn phải đối diện với cuộc sống ngoài kia nữa. Đây quả là một bức tranh biếm hoạ cười ra nước mắt, một người sao có thể ngủ “không bao giờ dậy nữa” chỉ vì một tiếng cười? Nhưng đối với Bê-li-cốp đấy là cả một sự nhục nhã, một kẻ luôn sống với giáo điều, một kẻ đạo đức giả chuyên dạy đời người khác như hắn thì đó quả là một sự đả kích quá lớn đến nỗi không có cách nào vượt qua.
Cứ ngỡ Bê-li-cốp chết đi, cuộc sống trong thành phố sẽ thay đổi màu sắc mới, không khí mới. Nhưng không, cuộc sống “nhẹ nhàng thoải mái” chẳng thể nào kéo dài lâu, thay vào đó là cuộc sống vô vị, nhàm chán “chẳng khác lúc trước là bao”. Những kẻ “sống trong bao” không chỉ có mình Bê-li-cốp mà họ đầy rẫy trong xã hội Nga khi ấy và “trong tương lai sẽ còn bao nhiêu người như thế nữa”. Nhà văn Sê-khốp đã tái hiện thành công cái lối sống dung tục, tầm thường, lạc hậu, sặc mùi giáo điều đã đầu độc người dân, đẩy họ vào cuộc sống đau khổ, tù túng, đã để lại bao hệ quả nặng nề tồn tại trong đất nước Nga cuối thế kỷ XIX. Ngôn ngữ chân thực, mộc mạc mà không kém phần sinh động đã góp phần xây dựng cốt truyện lôi cuốn hấp dẫn người đọc, tạo nên một hình tượng nhân vật đặc sắc điển hình “Người trong bao”.
Người trong bao của Sê-khốp là một tác phẩm mang lại cho người đọc thật nhiều cảm xúc, vừa bi hài vừa đáng để suy ngẫm, vừa tiếc thương cho một kiếp người sống vô nghĩa. Qua truyện ngắn, nhà văn không chỉ phản ánh khách quan hiện thực xã hội Nga lúc bấy giờ, mà ông còn khéo léo nhắc nhở mỗi con người: Hãy nhìn cuộc sống với sự lạc quan vốn có, giữ cho tâm không phê phán, hơn thua. Nếu ta cảm thấy cuộc sống không hạnh phúc, vấn đề không phải do một ai khác mà nó nằm ngay chính tâm ta. Chúng ta hãy mở rộng tấm lòng với mọi người và với thế giới xung quanh, tiếp nhận những sự đổi mới để có được một cuộc sống hạnh phúc, ngập tràn tươi trẻ, đừng sống như nhân vật Bê-li-cốp, suốt đời sống trong cái vỏ bọc hài hước của mình, rồi đến cuối cùng cuộc đời chấm dứt trong vô vị, nhạt nhẽo.
Phân tích văn bản Người trong bao – Mẫu 2
Sê-khốp (1860-1904) là một trong những cây đại thụ của rừng văn học Nga, đã để lại nhiều kịch bản và hơn năm trăm truyện ngắn. Tác phẩm của Sê-khốp làm hiện lên toàn cảnh xã hội nước Nga cuối thế kỉ XIX ngạt thở trong bầu không khí chuyên chế bảo thủ nặng nề dưới thời Sa hoàng.
Truyện ngắn “Người trong bao” được Sê-khốp viết vào năm 1898. Qua nhân vật Bê-li-cốp, tác giả châm biếm và đả kích người trí thức Nga sống tầm thường, hủ lậu, hèn nhát và giáo điều, đê tiện và dung tục; đồng thời chỉ ra lối sống ấy đã để lại nhiều di hại đầu độc tâm hồn người, đầu độc cuộc sống, gây ảnh hưởng và hậu quả nặng nề, dai dẳng trong xã hội nước Nga. Cái bao mang hàm nghĩa về một kiếp người, một lối sống, một xã hội đen tối, tù túng, nặng nề mà không sao thoát ra được, chết rồi cũng không thoát ra được!
Cuộc đời của anh giáo chức tỉnh lẻ Bê-li-cốp là những trang hài, là một bức tranh biếm hoạ cười ra nước mắt. Chả thế mà cô giáo Va-ren-ca đã “cười phá lên” khi Bê-li-cốp bị xô ngã “lộn nhào” xuống chân cầu thang, và cô đã “oà lên khóc” khi hắn đã nằm trong bao đi chầu âm phủ!
Bê-li-cốp, giáo viên trung học dạy tiếng Hy Lạp cổ. Hắn quen sống trong tù túng, nô lệ. Với hắn thì “nếu không có chỉ thị nào cho phép thì ta không được làm. Hắn sống vì quá khứ, như một kẻ mang bệnh tâm thần, lúc nào cũng sống trong tâm trạng “sợ hãi”, “lo âu”, “nhút nhát” . Hắn chỉ có một chút niềm vui do bệnh nghề nghiệp sinh ra. Hắn nói “ngọt ngào”: “Ôi, tiếng Hy Lạp nghe thật tuyệt vời êm tai”, rồi “nheo mắt lại”, “giơ một ngón tay lên” và thốt ra tiếng: “Anthropos”. Phải chăng lúc đó gã Bê-li-cốp hạnh phúc nhất. Chắc lúc ấy hắn đã thò đầu ra khỏi cái bao trong khoảnh khắc!
Bê-li-cốp sống một cách kỳ quặc, vừa lập dị vừa lẩm cẩm. Con người hắn cuộc đời hắn, từ cử chỉ, hành động đến ngôn ngữ sinh hoạt. Hắn như đã bị cầm tù, đã bị nhốt vào bao. Quanh năm suốt tháng, nắng mưa, ngay cả mùa hạ hắn vẫn khoác áo bành tô ấm cốt bông! Lúc nào chân cũng đi giày cao su. Chiếc ô, đồng hồ quả quýt, con dao nhỏ để gọt bút chì… tất cả đều đút trong bao. Ngồi xe ngựa, hắn bắt phải hạ mui xe. Bộ mặt hắn cũng được giấu kín trong bao, đó là cái cổ áo bành tô cổ bẻ. Lỗ tai hắn cũng nhét bông. Mọi ý nghĩ, hắn “cũng giấu vào bao”. Với hắn thì cái bao là một thứ vỏ bọc để “ngăn cách, bảo vệ hắn khỏi những ảnh hưởng bên ngoài”. Nhưng thật hài hước, đầu óc hắn cũng chỉ là một cái bao cổ hủ để bọc lấy những chỉ thị, thông tư, những bài báo quy định cấm đoán điều này điều nọ mà hắn cho là “rõ ràng”. Hắn vừa hèn vừa đáng thương! Hắn thật tội nghiệp!
Qua các chi tiết nói về cái bao, Sê-khốp châm biếm một loại “linh hồn chết” trong xã hội Nga cuối thế kỉ XIX, đó là loại trí thức sống lạc hậu, cổ hủ, nô lệ, mù quáng, sống cuộc đời chật hẹp, quẩn quanh tù túng.
Cách sống của Bê-li-cốp cũng rất kì lạ. Hắn có một thói quen “kì quặc”. Hắn thường đến các nhà giáo viên, như hắn nói đến để “duy trì những mối quan hệ tốt với bạn bè”. Nhưng hắn đến mà “chẳng nói chẳng rằng”, cứ “ngồi im như phỗng”, mắt thì nhìn quanh “như tìm kiếm vật gì”, độ một giờ sau thì cáo từ. Tính hắn hâm hay hắn là một mật vụ lân la dò xét? Vì thế, giáo viên nào trong trường cũng sợ hắn. Cả hiệu trưởng, oai quyền thế cũng sợ hắn. Cả thành phố đều sợ hắn. Các bà, các cô không dám diễn kịch vào tối thứ bảy vì sợ rằng “nhỡ hắn biết thì lại phiền”. Giới tu hành không dám ăn thịt và đánh bài khi có mặt hắn. Bê-li-cốp như một bóng ma, một hung thần gieo rắc sợ hãi, làm cho dân chúng trong thành phố suốt một thời gian dài mười lăm năm trời “sợ nói to, sợ gửi thư, sợ làm quen, sợ đọc sách, sợ giúp đỡ người nghèo, sợ dạy học chữ…”.
Sê-khốp đã chỉ ra và cho thấy loại người trong bao, lối sống trong bao thật vô cùng đáng sợ. Loại người ấy, lối sống ấy đã tỏa chiết tâm hồn người, bao phủ lên khắp mọi nơi một bóng đen đáng sợ.
Vì quanh năm suốt tháng tự nhốt mình trong bao nên Bê-li-cốp sống như một người bệnh tưởng, trầm cảm. Hắn sợ ánh sáng, sợ bóng tối, sợ trộm vào nhà, sợ lão nấu bếp cắt cổ hắn. Nhà lúc nào cũng đóng chặt cửa, cài then, chăn trùm đầu kín mít lúc ngủ, ở nhà mùa hè cũng như mùa đông, lúc nào hắn cũng mặc áo khoác ngoài. Suốt đêm, “hắn toàn mơ những điều khủng khiếp” vì thế buổi sáng đến trường, mặt hắn “tái nhợt, rầu rĩ” một cách thảm hại! Lối sống đó là sống khổ, sống mà như chết. Bê-li-cốp đã tự cầm tù mình, đày đọa mình, gây đau khổ cho thân mình. Hắn thật đáng thương hại.
Hóm hỉnh và ý vị biết bao khi Sê-khốp nói về bi kịch ái tình của người trong bao. Cô giáo Va-ren-ca khoảng ba mươi tuổi mới về trường, thế là nữ thần ái tình đến gõ trái tim Bê-li-cốp. Trên bàn trong ngôi nhà “chật như cái hộp”, hắn trân trọng đặt tấm ảnh người đẹp. Ý định lấy vợ choáng ngợp tâm hồn hắn, nhưng vì quen sống trong bao nên hắn cứ lần lữa đắn đo, suy tính, lúc nào mặt mày cũng nhợt nhạt đáng thương. Hắn bị gán ghép, rồi hắn có vẻ thích Va-ren- ca… Thế là bức tranh biếm hoạ “Anthropos si tình” (kẻ si tình) được gửi đến tất cả các giáo viên ở hai trường nam nữ, giáo viên chủng viện, các viên chức và cả Bê-li-cốp nữa. Bức biếm hoạ mới gợi tình làm sao: hình ảnh “Bê-li-cốp đang đi, chân xỏ trong giày mưa, quần túm ống, tay cầm ô, tay khoác tay Va-ren-ca”. Chà! Người trong bao lãng mạn và đa tình quá! Nhưng Bê-li-cốp lại bị sốc, bị bức tranh châm biếm gây cho hắn “một ấn tượng nặng nề”.
Sê-khốp đã tạo nên những chi tiết điển hình, những tình huống điển hình để khắc họa tính cách của Bê-li-cốp người trong bao. Dư vị chua cay, hài hước của câu chuyện càng trở nên hấp dẫn, lôi cuốn.
Bê-li-cốp chẳng gặp “hên” một chút nào! Ngày chủ nhật, mùng một tháng năm hôm ấy, thầy trò cả trường trung học tổ chức cùng đi ra ngoài thành phố vào rừng chơi. Nhưng anh chàng Bê-li-cốp đã bỏ về giữa chừng. Giữa đường hắn bất ngờ thấy hai chị em Va-ren-ca cưỡi xe đạp phóng qua. Cô chị “mặt mày ửng đỏ… vui vẻ, hớn hở” gào to: “Trời hôm nay đẹp thật, đẹp tuyệt, đẹp ghê gớm!”. Bê-li-cốp “ngẩn người ra”, như bị choáng, bị ma ám: “Mặt mày đang từ xanh mét chuyển sang trắng bệch”. Người trong bao phàn nàn, trách cứ: “Chẳng lẽ giáo viên và đàn bà, con gái lại có thể cưỡi xe đẹp, làm như thế coi sao tiện?”.
Phải chăng hắn là một kẻ cổ hủ đáng cười? Phải chăng hắn là một nhà mô phạm đang bảo vệ nên đạo đức chính thống?
Suối ngày hôm sau, người trong bao đau khổ dằn vặt, bực dọc, toàn thân run lên”, thậm chí hắn bỏ cả buổi lên lớp, bỏ cả cơm trưa. Tối hôm đó, dù đang tiết mùa hạ, nhà đạo đức bèn “mặc áo ấm” lần mò đến nhà hai chị em Va-ren- ca. Cô chị đi vắng, hắn chỉ gặp được người em. Hắn thật thà thanh minh về bức tranh châm biếm. Hắn khẳng định nhân cách “tử tế, đứng đắn” của mình. Lấy tư cách là “bạn đồng nghiệp đi trước”, hắn nhắc nhở kẻ “mới bắt đầu đi làm” đôi điều. Hắn chê trách việc đi xe đạp của hai chị em Va-ren-ca “hoàn toàn không hợp với tư thế của một nhà giáo dục thiếu niên”. Hắn cảnh cáo việc đi xe đạp ấy là thiếu gương mẫu, là trái pháp luật, trái nội quy vì “chưa có chỉ thị nào cho phép thì không được làm”. Hắn bày tỏ thái độ nào là “phát kinh lên”, nào là mắt hoa lên” khi nhìn thấy cảnh đàn bà, con gái đi xe đạp! Hắn khuyên nhủ Cô- va-len-cô phải xử sự “thận trọng”, không được buông thả quá chừng như mặc áo thêu ra đường, trong tay còn cầm sách này nọ, lại còn cưỡi xe đạp nữa. Hắn nhắc nhở nếu chuyện ấy đến tai ông hiệu trưởng, ông thanh tra thì “còn ra cái thể thống gì”.
Khi bị Cô-va-len-cô cự lại, hắn răn dạy: “Anh cần phải có thái độ kính trọng đối với chính quyền”. Hắn doạ “sẽ báo cáo với ngài hiệu trưởng nội dung câu chuyện” đã xảy ra mà hắn đã nói với Cô-va-len-cô.
Cuộc đôi co diễn ra, Cô-va-len-cô “thô bạo” chỉ vào mặt Bê-li-cốp và bảo hắn là “tên mách lẻo”, rồi túm lấy cổ áo hắn, tống cổ ra khỏi nhà. Người trong bao “lộn nhào xuống chân cầu thang”. Sự việc diễn ra đầy kịch tính. Khi Bê-li-cốp “sờ lên mũi xem cặp kính có còn nguyên vẹn không”, thì hai người đàn bà và Va-ren-ca bỗng từ đâu xuất hiện, nhìn thấy. Bê-li-cốp đau khổ cảm thấy thà “tự vặt cổ” còn hơn là biến thành trò cười cho thiên hạ. Hắn vô cùng lo sợ câu chuyện sẽ đến tai ngài hiệu trưởng, ngài thanh tra. Người ta sẽ vẽ tranh châm biếm hắn, sẽ ép hắn về hưu…
Có bao chi tiết bi hài. Nhất là khi Va-ren-ca “cười phá lên vang khắp khu nhà”. Tiếng cười “ha-ha-ha!” lảnh lót, âm vang ấy “đã chấm dứt tất cả”: “chấm dứt chuyện cưới xin, chấm dứt cả cuộc đời của Bê-li-cốp”. Cái ngã của Bê-li-cốp xuống chân cầu thang, điệu cười “lảnh lót” của Va-ren-ca có giá trị và ý nghĩa phê phán một cách chua cay lối sống giáo điều, dung tục của hạng người trong bao. Kẻ hủ lậu lên mặt đạo đức giả, dạy đời bằng bài học luân lý cổ lỗ đã bị Sê-khốp châm biếm qua một tình huống bi hài.
Chỉ một tháng sau bị xô ngã, Bê-li-cốp chết. Trước khi đi chầu Diêm Vương, hắn không quên cất tấm ảnh Va-ren-ca để trên bàn đi. Hắn nằm trong quan tài với vẻ mặt “hiền lành, dễ chịu, tươi tỉnh”. Phải chăng hắn “mừng” vì được “chui vào cái bao” vĩnh viễn. Đám ma hắn được cử hành trong một buổi , trời mưa dầm âm u”. Lúc hạ huyệt, Va-ren-ca “bỗng oà lên khóc”. Nàng khóc vì thương tiếc một thiên tình sử chăng? Nàng khóc vì thương hại một con người bảo thủ, cổ hủ từng làm trò cười cho thiên hạ chăng?
Sau khi Bê-li-cốp chết, lúc đầu ai cũng cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái. Nhưng rồi chưa đầy một tuần sau, ai cũng cảm thấy “nặng nề, mệt nhọc, vô vị” vì cuộc sống đã lại diễn ra như cũ, “chẳng tốt đẹp gì hơn trước”. Một Bê-li-cốp chết, một người trong bao đã về chầu âm phủ nhưng còn lại bao nhiêu người trong bao, và “trong tương lai cũng sẽ còn bao nhiêu người như thế nữa!”. Sê-khốp đã chỉ rõ: lối sống tầm thường, hủ lậu, giáo điều, dung tục đã đầu độc con người, đầu độc cuộc sống, sẽ gây bao hậu quả nặng nề, sẽ tồn tại dai dẳng trong xã hội Nga những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.
Phân tích Người trong bao – Mẫu 3
Sê-khốp được mệnh danh là con linh điểu của buổi tịch dương trên đồng cỏ dại nước Nga xưa, là văn hào chói sáng lên lâu đài nhân đạo. Chính tấm lòng của một nhà văn chân chính và những tác phẩm văn học giá trị phản ánh chân thực cảm động số phận người dân và đất nước Nga đã chinh phục được trái tim của độc giả trên khắp mọi nơi, trong số ấy, “Người trong bao” là một trong số những truyện ngắn đặc sắc làm nên tên tuổi của ông.
Người trong bao được sáng tác năm 1898, thời kì này xã hội Nga đang ngạt thở trong bầu không khí chuyên chế nặng nề của Sa Hoàng cuối thế kỉ 19. Môi trường xã hội ấy đã đẻ ra lắm kiểu người quái dị mà Bê-li-cốp nhân vật chính trong truyện là hình tượng điển hình cho số phận bi kịch của những người dân Nga lúc bấy giờ.
Nhan đề của truyện chính là hình ảnh của nhân vật bê-li-cốp, gây tò mò và hấp dẫn người đọc bởi kiểu người quái dị, vừa đáng thương, vừa tội nghiệp ấy. Đồng thời bày tỏ niềm cảm thương cho số phận của những người dân Nga lúc bấy giờ.
Nhân vật chính trong truyện là Bê-li-cốp, hắn là một giáo viên dạy tiếng Hy Lạp, sống rất kì lạ, luôn luôn sợ hãi mọi thứ xảy ra xung quanh mình. Hắn sợ những thử thách cuộc đời, sợ nắng mưa gió tuyết. sợ bị mất cắp và bị thất lạc nên luôn giấu tất cả đồ đạc của mình vào trong chiếc bao. Hắn mặc chiếc áo bành tô to che gần hết khuôn mặt, tai nhét bông điều ấy chứng tỏ hắn sợ phải nghe thấy âm thanh xung quanh, sợ bị nhìn thấy. Không chỉ thế hắn còn sợ giao tiếp, khi đến nhà ai chỉ ngồi 15 phút không nói gì rồi ra về chứng tỏ hắn sợ cô độc ấy vậy mà hắn lại sợ phải giao tiếp và không muốn chịu trách nhiệm với lời nói, và hành động của mình. Trong tình yêu hắn cũng muốn cầm tù tình yêu của mình, hắn sợ cái mới vì chỉ vì nhìn thấy Va-ren-ca đi xe đạp mà sợ hãi, giật mình và hoảng hốt đến tận nhà để nhắc nhở. Điều ấy chứng tỏ hắn sợ mọi thứ đến cả những điều không hề đáng sợ, hắn chỉ nô lệ vào cái cũ, không dám thay đổi, như thế hắn đã chết ngay cả khi đang sống, từng giờ, từng phút trong chiếc bao sợ hãi hắn đang tự tạo ra và bị bầu không khí ngột ngạt của xã hội Nga Hoàng đẩy vào. Để qua hình tượng điển hình ấy, Bê-li-cốp phản ánh chân thực đến bộ mặt xã hội Nga lúc bấy giờ, người dân phải sống trong nỗi sợ và sự cưỡng chế nặng nề đến ngạt thở, qua đó khát khao muốn thay đổi và hướng đến một thế giới tốt đẹp hơn, không bị cầm tù và giam hãm trong chiếc bao nào cả.
Ngôn ngữ của truyện chân thực, chính xác, giàu tính thời sự điểm trúng được những diễn biến tâm lí tinh vi và phức tạp của nhân vật. kết cấu truyện lồng trong truyện giúp câu chuyện trở nên phức tạp, hấp dẫn và lôi cuốn đầy kịch tính, đồng thời thấy được tài năng của tác giả. Khẳng định được tài năng bậc thầy của cây bút xuất sắc trên mảng truyện ngắn.
Qua sự sáng tạo và xây dựng những tình huống, chi tiết và hình tượng điển hình ở tác phẩm Người Trong bao, nhà văn Nga vĩ đại Sê-khốp đã gửi gắm đến chúng ta hình ảnh người dân Nga phải sống trong chế độ Nga Hoàng nặng nề trì trệ như thế nào; đồng thời bày tỏ niềm xót thương, đồng cảm và lời kêu gọi đổi thay của tác giả. Chính những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc ấy đã giúp tác phẩm sống mãi trong lòng độc giả.
Phân tích Người trong bao – Mẫu 4
Văn học làm đẹp trái tim, tâm hồn con người, nó rung lên trong mỗi chúng ta những cảm xúc tế nhị hay mãnh liệt để con người vươn tới tự do, dân chủ, vươn tới thế giới của tình thương, của sự hoàn thiện, hoàn mỹ. Nhà văn thể hiện tất cả điều đó thông qua hình tượng, “làm sống lại một cách cụ thể và gợi cảm những sự việc, những hiện tượng đáng làm ta suy nghĩ về tính cách số phận, về tình đời, tình người”. Tác phẩm có giá trị là tác phẩm luôn chứa đựng khoảng trắng nhằm kích thích sự tìm tòi khám phá của người đọc, chính hình tượng nghệ thuật là nơi ẩn chứa, tiềm tàng những khoảng trắng đó.
Ra đời cuối thế kỷ XIX (1898), “Người trong bao” của An-tôn Sê-khốp với hình tượng thầy giáo Bê-li-cốp đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc không chỉ trong lòng độc giả nước Nga mà còn độc giả thế giới. Hơn thế kỷ trôi qua, nhưng tác phẩm vẫn đứng vững trong lòng người đọc, tại Việt Nam nó được chọn để dạy học trong Ngữ văn 11, chương trình nâng cao. Có lẽ chính việc xây dựng thành công hình tượng nhân vật Bê-li-cốp đã khẳng định chỗ đứng của “Người trong bao”, vì qua đó, những mạch ngầm văn bản cứ hiện dần trong lòng người đọc.
Hình tượng Bê-li-cốp hiện lên thông qua 2 lớp ngôi kể, ngôi kể thứ nhất và ngôi kể thứ ba. Ngôi thứ ba được kể bằng hình tượng người kể chuyện là tác giả, ngôi thứ nhất “tôi” người kể chuyện là một nhân vật trong câu chuyện, thầy giáo Bu-rơ-kin kể với bác sĩ I-va-nứt về thầy giáo Bê-li-cốp trong một chuyến đi săn. Như vậy đã có sự lòng ghép ngôi kể trong ngôi kể, ngôi thứ nhất được lòng trong ngôi kể thứ ba, câu chuyện của thầy giáo Bu-rơ-kin kể với bác sĩ I-va-nứt về thầy giáo Bê-li-cốp được lồng trong câu chuyện mà tác giả kể với đọc giả về câu chuyện đó. Đưa cách kể mang tính chủ quan lòng vào ngôi kể mang tính khách quan là một sự lựa chọn khéo léo. Tác giả đang khách quan để kể về câu chuyện người khác kể lại, tác giả chỉ như một người ghi chép lại những gì mà thầy giáo Bu-rơ-kin kể, vì vậy, câu chuyện vừa tạo được tính thuyết phục trong người đọc lại vừa được kể lại như là sự chứng kiến của một người trong cuộc, nhìn nhận được mọi khía cạnh, mọi vấn đề.
Chính việc lựa chọn ngôi kể đó đã như một hệ quả tất yếu đến sự di động điểm nhìn của người kể chuyện, di động từ ngôi kể thứ ba sang ngôi kể thứ nhất, từ ngôi kể thứ nhất số ít sang ngôi kể thứ nhất số nhiều. Di động điểm nhìn kể chuyện như vậy làm cho nhân vật được nhìn nhận dưới nhiều góc độ, hình ảnh nhân vật được hiện lên một cách tự nhiên, sâu sắc, chân thật hơn. Điểm nhìn quy chiếu từ góc nhìn là người bạn đồng nghiệp, họ dạy cùng trường, ở cùng căn hộ, hai phòng ở đối diện nhau, nên họ biết rõ về nhau một cách rõ ràng, vì thế người đọc, người nghe yên tâm về những lời kể nhân vật tôi. Người kể chuyện có thể đưa ra những bình luận, nhận xét theo quan điểm riêng của mình. Về cuối truyện sau khi chôn cất Bê-li-cốp xong người kể chuyện quy chiếu điểm nhìn sang ngôi thứ nhất số nhiều “chúng tôi”, lúc này không phải câu chuyện được kể dưới điểm nhìn của một cá nhân mà cả tập thể, cộng đồng điều đó vừa thể hiện sự khách quan vừa thể hiện sự ảnh hưởng, tác động của Bê-li-cốp, kiểu người sống trong bao với xã hội, đồng thời thấy được dù Bê-li-cốp đã chết những kiểu người trong bao vẫn còn tồn tại.
Kéo theo những vấn đề đấy là giọng điệu, ở đây giọng điệu kể chậm rãi vừa giễu cợt, châm biếm, mỉa mai vừa u buồn… Qua hình tượng nhân vật người trong bao, Bê-li-cốp, tác giả phê phán sâu sắc lối sống hèn nhát, bạc nhược, bảo thủ và ích kỷ của một bộ phận trí thức Nga cuối thế kỷ XIX. Từ đó, nhà văn khẩn thiết thức tỉnh mọi người hãy thay đổi cách sống, lối sống kiểu “trong bao” nếu muốn có cuộc sống ý nghĩa.
Ngay nhan đề tác phẩm cũng là một tính hiệu thẩm mỹ. Xét về nghĩa đen bao là vật dùng để đựng đồ, bọc đồ, có tác dụng che đậy, bảo vệ, gói ghém… Nghĩa bóng là lối sống và tính cách của Bê-li-cốp luôn thu minh trong bao, một môi trường xã hội thối nát, cũ kỹ đã bao bọc làm thay đổi bản chất con người. Như vậy có một vấn đề đặt ra là nhân vật Bê-li-cốp, người trong bao, chủ thể bị “bỏ” vào “bao” hay tự mình “chui” vào “bao”, nghĩa là tự anh ta tạo cho mình một cuộc sống lập dị kiểu trong bao hay do hoàn cảnh, đẩy anh ta “vào trong bao”?
Bê-li-cốp hiện lên với chân dung biếm hoạ, có cái vẻ bề ngoài không giống ai: gương mặt nhợt nhạt, nhỏ bé, choắt như mặt chồn; quanh năm anh ta đi giày cao su, mặc áo bành tô, đeo kính râm, đội mũ, hai lỗ tai nhét bông, tay cầm dù,… Các vật dụng của anh ta đều được để trong bao.
Không những ngoại hình anh ta luôn được giấu trong bao mà mọi cái liên quan đến anh ta đều gói trong bao. Trong tác phẩm anh ta đã nói 5 lần câu “Nhỡ lại xảy ra chuyện gì thì sao”; khi nằm ngủ anh ta kéo chăn trùm kín mít; đến thăm đồng nghiệp thì chỉ ngồi im; cả ý nghĩ của mình Bê-li-cốp cũng giấu trong bao vì vậy cuộc sống của anh ta là một cuộc sống lập dị, nhút nhát, sợ đối diện với hiện tại, chỉ thích sống theo những thông tư, chỉ thị, giáo điều, rập khuôn, chỉ tôn sùng quá khứ, luôn thỏa mãn, hạnh phúc, hài lòng, mãn nguyện với cuộc sống của mình… Chi tiết cái bao được tác giả nhắc đi nhắc lại 12 lần như những điệp khúc nhấn mạnh chân dung Bê-li-cốp luôn cố thu mình trong bao từ ngoại hình, tính cách, lời nói, hành động, suy nghĩ…
Như vậy, nhân vật Bê-li-cốp là một hình tượng điển hình. Bê-ê-lin-xki cho rằng “Tính điển hình là một trong những dấu hiệu của tính mới mẻ trong sáng tạo, hay nói đúng hơn là bản thân sức sáng tạo. Nếu có thể thì cũng nói rằng tính điển hình là huy chương của nhà văn. Điển hình là người lạ đã quen biết”. Bê-li-cốp là một sáng tạo lớn của An-tôn Sê-khốp, hình tượng nhân vật này vừa hiện lên rõ nét là một nhân vật độc đáo, riêng biệt không lẫn với ai vừa là nhân vật đặc trưng, khái quát cho một kiểu người có lối sống “trong bao”, gấp sách lại người đọc vẫn thấy hiện lên một hình ảnh Bê-li-cốp bằng da, bằng thịt, có những tính cách, suy nghĩ, hành động lời nói kiểu “trong bao” và cũng thấy đâu đây hình ảnh nhân vật này trong cộng đồng người, đâu đó trong xã hội Nga đương thời và cả trong xã hội hiện đại ngày nay.
Bê-li-cốp, vừa là sản phẩm của chính cá nhân anh ta vừa là sản phẩm của xã hội. Ngoài những tính cách cá nhân như đã nói ở trên, Bê-li-cốp còn là con đẻ của xã hội Nga lúc bấy giờ. Chúng ta biết rằng cuối thế kỷ XIX xã hội Nga đang ngạt thở trong bầu không khí chuyên chế bảo thủ nặng nề. Chính môi trường ấy đã đẻ ra lắm thứ sản phẩm người kỳ quái.
Kết cục nhân vật Bê-li-cốp chết, nguyên nhân trực tiếp cũng do những suy nghĩ kiểu “trong bao”. Bê-li-cốp chết là kết thúc cuộc đời một cá nhân, quan tài đựng thi thể y chính là cái “bao” kín đáo nhất. Cái chết của Bê-li-cốp là hậu quả tất yếu của cách sống, kiểu sống đó. Chết là kết thúc cuộc đời, là sự chôn vùi một con người những liệu có chôn vùi được kiểu người “trong bao” không. Khi còn sống Bê-li-cốp đã làm cho mọi người sợ hãi, kể cả đồng nghiệp, thẩm chí là lãnh đạo của anh ta vì thế ai cũng ghét bỏ, nghĩa là anh ta là người mâu thuẫn với tất cả mọi người, là tượng trưng cho xấu xa, nên khi anh ta chết mọi người từ nghĩa địa trở về lòng cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái. Những xét cho cùng lối sống của anh ta có ảnh hưởng không nhỏ tới cộng đồng, kiểu sống trong bao, kiểu sợ hãi, nhút nhát, rập khuôn đó đã lan ra cả cộng đồng vì vậy mọi người đều sợ anh ta, mỗi lần Bê-li-cốp dọa báo thanh tra, cấp trên… thì mọi người đều run sợ, nhân vật tôi từng tâm sự “Bọn giáo viên chúng tôi đều sợ hắn. Thậm chí cả hiệu trưởng cũng sợ hắn… cái thằng cha quanh năm đi giày cao su và mang ô ấy đã khống chế cả trường học chúng tôi suốt mười lăm năm trời… Mà đâu phải chỉ có trường học! Cả thành phố nữa ấy!”. Chứng tỏ rằng Bê-li-cốp có ảnh hưởng, lây lan tới cộng đồng, tác động ngược trở lại đối với cộng động. Như vậy lối sống trong bao không chỉ có ở Bê-li-cốp mà có trong mọi người ở thành phố ấy, một con người với cách sống như vậy mà đã từng khống chế được cả một ngôi trường thậm chí cả thành phố trong hơn mười lăm năm thì cộng đồng đó, thanh phố đó hơn gì cách sống của Bê-li-cốp?
Cái bao còn mang hàm nghĩa về một kiếp người, một lối sống, một xã hội đen tối, tù túng, nặng nề mà không sao thoát được. “Người trong bao”, một hình tượng có tính ẩn dụ vô cùng độc đáo để phản ánh bộ phận trí thức bạc nhược, ươn hèn và qua đó lên án, đả kích chính cái đã sản sinh ra bộ phận trí thức bạc nhược, ươn hèn ấy: chế độ xã hội Nga hoàng cuối thế kỉ XIX.
Sau cái chết của thầy giáo Bê-li-cốp, môi trường, lối sống của xã hội đo có gì thay đổi, có gì tiến bộ, nhân vật tôi vẫn tâm sự “Chưa đầy một tuần sau cuộc sống lại diễn ra như cũ, nặng nề, mệt nhọc, vô vị, một cuộc sống chẳng bị chỉ thị nào cấm đoán nhưng cũng chẳng tự do hoàn toàn, chẳng tốt đẹp gì hơn trước. Trên thực tế, Bê-li-cốp đã chầu âm phủ nhưng hiện còn bao nhiêu là người trong bao, trong tương lai cũng sẽ còn bao nhiêu người như thế nữa!”, Vậy vấn đề ở đây là gì? Làm thế nào để thay đổi và thay đổi gì mới là bản chất. Rõ ràng vấn đề không phải là chống lại, tiêu diệt những “người trong bao” mà là phải thay đổi, xóa bỏ môi trường đã sản sinh ra những “người trong bao” ấy. Chừng nào cái chế độ tàn bạo, thối nát, bất công ấy còn tồn tại thì những sản phẩm và cũng là nạn nhân của nó vẫn không thể mất đi. Văn học thế giới cũng đã từng có nhiều hình tượng nhân vật sống theo kiểu chạy trốn thực tại, từ chối hiện tại ví như hình tượng nhân vật Oskar trong tác phẩm “Cái trống thiếc” của Gunter Grass. Phải chăng Bê-li-cốp với cách sống trong bao cũng là một lựa chọn?
M.Gorki đã từng nhận xét, đọc Sê-khốp, chúng ta thấy “phảng phất đâu đây nụ cười buồn buồn của một tâm hồn biết yêu thương”, “Tiếng thở dài khẽ sâu của một trái tim trong sạch”. Còn nhà văn Nguyễn Tuân khi đọc Người trong bao thì cho rằng: “Truyện Bê-li-cốp là một áng văn đả kích đến tuyệt đỉnh: hình thù tên họ nhân vật đã thành một cái sự, đã thành một hình dung từ ngày nay vẫn còn tác dụng lớn”. Phê phán những nhược điểm, tật xấu của Bê-li-cốp, cảm thương cho số phận của những con người sống trong môi trường ngột ngạt, thối nát xã hội Nga đương thời, đồng thời có dịp để soi lại chính mình nhằm vươn tới một cuộc sống lành mạnh, ý nghĩa hơn.
Phân tích Người trong bao – Mẫu 5
Sê Khốp là một tác giả có sự nghiệp sáng tác đồ sộ với nhiều thể loại. Sê Khốp là một nhà văn Nga kiệt xuất, đại diện cuối cùng của chủ nghĩa hiện thực Nga, nhà cách tân thiên tài về thể loại kịch nói và truyện ngắn. Tác giả Sê Khốp có một truyện ngắn được nhiều người biết đến đó là truyện “Người trong bao”.
Năm 1898, tác giả sáng tác truyện ngắn trong thời gian ông đang dưỡng bệnh ở thành phố I-an-ta trên bán đảo Crưm, biển Đen. Hoàn cảnh xã hội nước Nga lúc này đang nghẹt thở dưới bầu không khí chuyên chế, u ám, nặng nề cuối XIX. Môi trường ấy đã sản sinh ra những con người như Bê-li-cốp, nhân vật chính trong truyện.
Hình tượng nhân vật Bê-li-cốp khi còn sống được tác giả phác họa rất cụ thể. Về ngoại hình, Bê-li-cốp có gương mặt rầu rĩ, tái nhợt. Hắn chân đi đôi giày cao su, tay cầm ô, mặc áo bành tô ấm cốt bông, và hay đeo kính râm. Mọi vật dụng hắn đều để trong bao như ô, dao gọt bút chì, đồng hồ. Lúc nào hắn cũng giấu mặt sau chiếc áo bành tô bẻ cổ đứng lên. Tai của Bê-li-cốp thì nhét bông, khi đi ngựa thì hắn ta kéo mui xe lên. Buồng ngủ của hắn chật như cái hộp. Khi ngủ lúc nào hắn cũng kéo chăn trùm lên đến tận đầu, kín mít. Qua cách giới thiệu của nhà văn về Bê-li-cốp chúng ta có thể nhận thấy đây là một nhân vật kì quái, khác thường.
Nhân vật Bê-li-cốp có một tính cách rất lạ thường. Hắn có một khát vọng mãnh liệt là thu mình vào một cái vỏ, tạo cho mình một cái bao để ngăn cách. Ngay cả đến ý nghĩ của mình hắn cũng muốn cất vào trong bao, không bao giờ có ý kiến gì về một vấn đề nhỏ, to nào. Bê-li-cốp là một người tôn sùng quá khứ, trốn tránh thực tại: Bê-li-cốp là một thầy giáo dạy tiếng Hi Lạp, một thứ tiếng không còn có tính thời sự, hắn luôn tìm cho mình một cách sống an toàn. Bê-li-cốp là một người ưa thích những cái rõ ràng: chỉ thị, thông tư, những bài báo cấm. Hắn là một con người sống máy móc, dập khuôn và giáo điều như một cái máy vô hồn. Tác giả đã làm nổi bật lên chân dung của một con người cô độc, nhút nhát, sợ hãi mọi điều, lúc nào cũng sợ “sợ nhỡ lại xảy ra chuyện gì”.
Bê-li-cốp duy trì mối quan hệ tốt với đồng nghiệp bằng cách đến nhà, ngồi im như phỗng độ một giờ rồi xin cáo từ. Giáo viên, hiệu trưởng đều sợ hắn: các bà cô không dám tổ chức diễn kịch vào tối thứ 7, nhà tu không dám ăn thịt và đánh bài, người ta sợ nói to, sợ gửi thư, sợ làm quen, sợ đọc sách,…
Bê-li-cốp tự tin và tự hào về cách sống của mình, nhưng hắn không biết rằng mọi người xung quanh ghê sợ, khinh ghét và chế giễu hắn. Do vậy, khi bị vẽ tranh châm biếm, thấy hình ảnh chị em Va-ren-ca đi xe đạp, hắn bị đối xử thô bạo, thật sự hắn không thể hiểu và cũng không thể chấp nhận được. Nhân vật Bê-li-cốp được phác họa lên như một dị nhân trong cuộc sống đời thường.
Và rồi, con người dị nhân ấy chết. Khi Bê-li-cốp bị va chạm vào cô Va-len-cô, Va-len-ca thấy vậy lại cười phá lên khi thấy hắn bị té. Chính bởi tiếng cười ấy, đã chấm dứt chuyện cưới xin và chấm dứt cuộc đời của Bê-li-cốp. Nhưng nguyên nhân cái chết của Bê-li-cốp không chỉ có vậy, mà còn nguyên nhân sâu xa hơn, đó là: với tạng người và cách sống của hắn, sớm muộn gì cũng phải tự tiêu diệt hoặc bị tiêu diệt. Cái chết đối với Bê-li-cốp chính là cái vỏ bao tốt nhất mà hắn mong muốn, cái chết sẽ giúp hắn thoát khỏi những gánh nặng và thấy nhẹ nhàng, thanh thản hơn.
Mọi người trong thành phố ấy cứ nghĩ, khi Bê-li-cốp chết đi rồi, cuộc sống của mọi người sẽ thỏa mái hơn, nhưng không ngờ sau khi Bê-li-cốp chết cuộc sống vẫn diễn ra như cũ, mệt mỏi, tù túng và vô vị. Đó chính là do người dân trong thành phố này đã chịu ảnh hưởng, tác động nặng nề, dai dẳng của lối sống, kiểu người như Bê-li-cốp. Chính người như Bê-li-cốp đã đầu độc cuộc sống trong sạch, lành mạnh của đạo đức, văn hóa nước Nga đương thời. Trong xã hội lúc bấy giờ, kiểu người như Bê-li-cốp mang tính phổ quát, điển hình. Nó sống lâu dài như một hiện tượng xã hội, một quy luật trong lịch sử phát triển của loài người, không chỉ ở nước Nga mà thôi.
Hình ảnh “cái bao” trong tác phẩm có ý nghĩa biểu tượng: nó là biểu tượng cho một loại người có lối sống trong bao đã và đang tồn tại ở nước Nga. Nước Nga thời ấy phải chăng cũng đang bị một cái bao khổng lồ vây hãm, ngăn chặn tự do. Qua truyện ngắn tác giả muốn lên án, phê phán kiểu người có lối sống trong bao, tác hại của nó đối với xã hội. Đồng thời tác giả cũng muốn cảnh báo, kêu gọi mọi người thay đổi cách sống, không thể mãi sống vô vị, hèn nhát như vậy được.
Truyện ngắn thể hiện được cuộc đấu tranh giữa con người với “cái bao” chuyên chế và khát vọng cuộc sống là mình, loại bỏ cuộc sống “trong bao”, thức tỉnh “con người không thể sống mãi như thế được”.
Phân tích Người trong bao – Mẫu 6
A.P Sê-khốp (1860-1904) là nhà văn hiện thực vĩ đại không chỉ của Nga, của châu Âu mà còn của cả thế giới với khối tác phẩm đồ sộ, đặc biệt là truyện ngắn. Trong vòng 24 năm lao động cần mẫn, Sê-khốp để lại cho nhân loại khoảng 500 tác phẩm truyện ngắn. Các tác phẩm truyện ngắn của Sê-khốp lột tả cuộc sống, tư tưởng tình cảm của mọi tầng lớp nhân dân Nga “trong buổi hoàng hôn” cuối những năm 70 của thế kỉ XIX mà chủ yếu là những những cuộc sống ti tiện, nhàm chán và nhỏ nhen với những thói hư, tật xấu của con người Nga đang u mê, lạc lối.
Từ những câu chuyện tủn mủn, những tiểu tiết nhỏ nhặt ấy Sê-khốp đã khái quát hóa những mảnh đời thành một thế giới thu nhỏ với đầy đủ những thối nát trong xã hội con đẻ của chế độ Nga hoàng bấy giờ. Trên hết đó là tư tưởng nhân văn, lòng nhân đạo sâu sắc với khát khao giải “chắt lọc loại bỏ từng giọt nô lệ ra khỏi con người”, thức tỉnh ý thức con người về sự vô nghĩa của cuộc sống hiện tại, đồng thời khát vọng hướng tới tương lai. “Người trong bao” là một trong những tác phẩm như vậy: phê phán lối sống bảo thủ, thu mình trong bao, sợ sệt, yên phận, không chịu thức tỉnh, không dám xé vỏ của một bộ phận trí thức Nga cuối thế kỉ XIX và thức tỉnh mọi người “Không thể sống như thế mãi được”.
Nhân vật chính của truyện là Bê-li-cốp, một thầy giáo dạy tiếng Hi Lạp. Chân dung của Bê-li-cốp, qua góc nhìn của người kể chuyện Bu-rơ-kin, là bức chân dung dị thường. Con người này lúc nào cũng vậy, luôn đi giày cao su, cầm ô, mặc áo bành tô ấm cốt bông, giấu mặt sau chiếc cổ áo bành tô bẻ đứng lên, đeo kính râm, lỗ tai nhét bông, luôn kéo mui khi ngồi xe ngựa, khi ngủ thì kéo chăn trùm đầu kín mít… Cái bộ dạng này dường như ngay lập tức khiến độc giả cảm thấy hài hước bởi sự phi lí quá đáng đến ngạt thở này.
Dường như cả bộ mặt của hắn “cũng để ở trong bao”. Cả ý nghĩ của mình, Bê-li-cốp cũng cố giấu vào bao. Hắn không nói những điều mình nghĩ, hắn nói theo thông tư, chỉ thị, những lời nói rao giảng, giáo điều. Sự khô khan cứng nhắc của Bê-li-cốp được tái hiện trong từng lời kể tỉ mỉ của Bu-rơ-kin như một thước phim quay chậm chạp, dần dần để lộ từng chút từng chút một cái bao cùng hội chứng chạy trốn, chui tọt vào bao trong mọi trường hợp của hắn. Để trốn tránh thực tại, Bê-li-cốp lúc nào cũng ngợi ca, tôn sùng quá khứ, muốn trở về những cái không có thật. Sẽ là tuyệt biết bao nếu xã hội có những người hướng tới chân-thiện-mĩ hoặc khiêm tốn, cư xử chừng mực, vì mọi người…nhưng Bê-li-cốp không phải kiểu người tốt đẹp ấy. Hắn chỉ biết đến bản thân, một lối sống ích kỉ; không chỉ có vậy, hắn áp đặt mọi người, mọi chuyện xung quanh mình theo suy nghĩ cực đoan, thiển cận của hắn khiến cho mọi người cũng phát sợ thì: “sợ nói to, sợ gửi thư, sợ làm quen, sợ đọc sách…”
Nỗi sợ là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng “bế quan tỏa cảng” toàn bản thân của Bê-li-cốp. Nỗi sợ luôn tồn tại trong hắn một cách vô thức, nó vô hình nhưng luôn ẩn hiện trong hai con mắt hắn khiến cho mọi vật xung quanh đều gây cho hắn một nỗi bất an khôn lường. Thảm họa ở chỗ, chính vì sự hoảng loạn thái quá của bản thân, Bê-li-cốp đã tự khóa mình trong cái bao mà hắn đã tự tạo, không phải giam lỏng mà là tự thân khóa trái cánh cửa cuộc đời tươi đẹp để rồi chui vào và hít hà cái ngột ngạt trong bao. Nỗi sợ kia, nỗi hoang mang vô độ kia của Bê-li-cốp phải chăng cũng chính là nỗi sợ của một bộ phận không nhỏ người dân đương thời?
Sợ phải chuyển mình, sợ phải làm mới mình, sợ phải đấu tranh thay đổi, chấp nhận tồn tại trong một xã hội u tối, què quặt về mọi mặt… Thật thú vị là hai nhà văn hiện thực vĩ đại của nhân loại là Lỗ Tấn và Sê-khốp lại có nhiều điểm tương đồng đến như vậy. Lỗ Tấn và Sê-khốp cùng sống trong thời đại lịch sử mà xã hội trượt dốc không phanh, người dân sống mà không tự suy nghĩ hay hướng đến tương lai, những mảnh đời nheo nhóc cứ tuần tự tiếp diễn… Cả hai ông đều từ bỏ nghề y để chuyển sang chữa bệnh cho nhân dân của mình bằng thứ thuốc thanh lọc tâm hồn, thức tỉnh họ khỏi những u mê, ung nhọt bấy lâu.
Trở lại với Bê-li-cốp, chúng ta có chút thương cảm đối với hắn. Lẽ ra hắn cũng có thể lấy vợ, cô Va-ren-ca, chị gái của đồng nghiệp. Nhưng Sê-khốp không ru ngủ độc giả bằng kết thúc lãng mạn nên thơ. Việc gì đến rồi cũng sẽ phải đến, làm sao một người cứng nhắc, khô khốc đến đáng sợ như Bê-li-cốp có thể chấp nhận việc hai chị em Va-ren-ca và Cô-va-len-cô vô tư đạp xe mà cười nói trên phố như vậy được bởi việc đi xe đạp là “hoàn toàn không phù hợp với tư thế của một nhà giáo dục thiếu niên” Đối với Bê-li-cốp mà nói thì hành động ấy là quá thể đáng, là không thể chấp nhận được. Các chị, các bà phụ nữ cười nói vô tư như vậy là làm loạn xã hội, hủy hoại xã hội?!?
Tình tiết đối thoại giữa Bê-li-cốp và Cô-va-len-cô càng làm bộc lộ rõ sự trong bao của Bê-li-cốp, sự bảo thủ của hắn khiến người đọc cảm thấy hả hê khi hắn bị Cô-va-len-cô đẩy ngã. Thương hắn nhưng trách hắn nhiều hơn. Khi bị ngã nhào mà hắn không hề quan tâm mình có bị thương không mà chỉ chăm chăm vào việc sợ bị người khác nhìn thấy, sợ làm trò cười cho thiên hạ. Tiếng cười của Va-ren-ca là một chi tiết rất đắt. Có người đã khẳng định chính tiếng cười vang ấy của cô là nguyên nhân dẫn đến cái chết của Bê-li-cốp sau này. Song dù là vì lí do gì thì dường như, cái chết đối với Bê-li-cốp lại là sự giải thoát hoàn hảo nhất cho chính hắn và mọi người. Hắn được chui vào yên ngủ mãi mãi trong cái bao hoàn hảo, tuyệt vời nhất với hắn; không còn phải thấp thỏm “nhỡ có chuyện gì thì sao” khi ngủ trong phòng họp như trước nữa.
Tuy vậy, sự chấm dứt cuộc đời của một kẻ quái thái trong xã hội vẫn không thể diệt tận gốc mọi mầm mống của ung nhọt như Bê-li-cốp được. Một kẻ dị thường đã ra đi nhưng trong xã hội vẫn tồn tại bao nhiêu cái bao nữa, vẫn còn bao nhiêu kẻ sống mà như chết rồi nữa? Câu hỏi được người kể chuyện bỏ ngỏ càng làm tăng thêm sự ám ảnh về một tương lai mù mịt của những sự đời ảm đạm, nhỏ nhặt, tầm thường. Trong truyện, Sê-khốp đã sử dụng mười hai lần từ chỉ cái bao để miêu tả nhân vật chính. Chi tiết cái bao là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc và sáng tạo với tầng lớp biểu ý sâu sắc mang nhiều giá trị xã hội.
Ý nghĩa “Người trong bao” không chỉ dừng lại ở nước Nga, xã hội dưới chế độ Nga hoàng mà còn vươn xa hơn thế. Nó mang tầm vóc thời đại lịch sử, phản ánh, phê phán, thức tỉnh con người và cả xã hội sống có ý nghĩa hơn, hướng về tương lai phía trước. Ngoài những triết lí sống sâu sắc được thể hiện trong truyện, phải kể tới lối viết châm biếm nhẹ nhàng cùng chút hóm hỉnh gây cười, đặc biệt là hình tượng nhân vật Bê-li-cốp cùng cái bao người ám ảnh đã góp phần để tác phẩm trở nên bất hủ. Đó là bài học về cách sống, còn nguyên giá trị đến ngày hôm nay với một số bộ phận thanh niên nước ta, hãy đừng thờ ơ, vô cảm, và thụ động, thu mình như người trong bao để rồi cuộc đời bị bóp nghẹt trong cái bao của chính mình.
Phân tích tác phẩm Người trong bao – Mẫu 7
An-tôn Páp-lô-vích Sê-khốp là nhà văn nổi tiếng của văn học Nga thế kỉ XIX. Ông là đại biểu kiệt xuất cuối cùng của chủ nghĩa hiện thực phê phán Nga. Vốn là một bác sĩ, ông đã viết văn để chỉ ra những căn bệnh tinh thần của thời đại ông. Tác phẩm Người trong bao kể về một viên chức có cách sống của một kẻ thích “trong bao”. Thực chất, đó là một cách sống trốn tránh, hèn nhát, xu phụ, luôn sống trong sợ hãi. Và chính cách sống đó cũng gây nên một hoàn cảnh đen tối, sự ngột ngạt, khó thở cho chính những người xung quanh. Tâm lí nô lệ, hèn đớn, bạc nhược, tự ti là hình ảnh của cuộc sống công chức Nga cuối thế kỉ XIX, một lối sống thảm hại, bạc nhược khiếp sợ trước cường quyền. Lối sống đó phản ánh bầu không khí ngột ngạt, nặng nề thời chuyên chế bao trùm xã hội.
Người trong bao – chân dung mang tính biếm hoạ Người trong bao là biệt hiệu người ta gọi Bê-li-cốp – một giáo viên trung học. Bởi lẽ, hắn có một nếp sống lạ kì: chỉ thích chui vào những cái bao. Qua lời Burkin, một đồng nghiệp: ô hắn để trong bao; chiếc đồng hồ quả quýt cũng để trong bao; dao cũng đặt ở trong bao; bộ mặt dường như cũng ở trong bao ; xe ngựa cũng cho kéo mui lên ; phòng ngủ của hắn cũng chật như một cái hộp; dù nóng bức, hắn cũng trùm chăn kín đầu; cả ý nghĩ của mình, hắn cũng cố giấu vào bao. Nói tóm lại, con người này có khát vọng mãnh liệt thu mình vào trong một cái vỏ, tạo cho mình một thứ bao có thể ngăn cách, bảo vệ hẳn khỏi những ảnh hưởng bên ngoài.
Hơn thế nữa, trong cách sống, hắn còn tự tạo nên những cái bao vô hình khác, rất an toàn: lúc nào cũng ngợi ca quá khứ; ca ngợi chữ Hi Lạp, một thứ từ ngữ; ngợi ca những gì không bao giờ có thật; che giấu cả ý nghĩ. Với những chi tiết được miêu tả rõ ràng như vậy, chân dung kì quặc của người trong bao đã hiện lên thật sinh động. Bên cạnh đó, hắn còn được đặc tả : lúc nào cũng kè kè giày cao su và cái ô. Chi tiết này nhắc lại nhiều lần làm hoàn chỉnh bức chân dung đầy tính biếm hoạ: người “trong bao”! Vì sao vậy? Vì sao hắn luôn muốn trốn trong những cái bao như vậy? Con người đó sợ cái gì? Hoá ra, hắn sợ tất cả.
Hắn sợ cuộc sống hiện thực với tất cả những cái bề bộn, vừa vui thú, vừa tẻ nhạt, vừa vô nghĩa nhưng cũng có nhiều vẻ đẹp tinh thần, vừa ích kỷ song cũng có cái cao thượng: lấy vợ gả chồng, đọc sách, biết những tư tưởng dân chủ của Tuốc-ghê-nhép, Sêđrin với những ầm ĩ (tụ tập, tổ chức diễn kịch tại nhà), những việc có vẻ phạm pháp (giới tu hành mà ăn thịt, đánh bài),… Hắn sợ cả những cái vớ vẩn : kẻ trộm chui vào nhà, sợ bị chế giễu, sợ nhìn thấy những cái nghịch mắt. Hắn trốn tránh cuộc sống hiện thực, bởi cuộc sống đó làm cho hắn khó chịu, ghê tởm, và luôn sợ hãi. Hắn luôn sợ nhỡ lại xảy ra chuyện gì. Ý nghĩ này được nhắc đến năm lần trong câu chuyện, như một nỗi ám ảnh khủng khiếp, khiến hắn không dám nghĩ, dám làm bất cứ điều gì.
Ban ngày thì chui vào mọi thứ bao, ban đêm chui vào trong chăn. Và vì sợ hãi quá, nên trốn trong một cái bao là an toàn nhất. Đó là hình ảnh con người luôn muốn trốn tránh, không dám đối đầu với hiện thực. Vì vậy, khi gặp biển một lúc nhiều phức tạp, biến động, những điều “khủng khiếp” : bị đồng nghiệp trêu chọc về tình cảm của hắn với một cô gái, bị phản đối thô bạo vì những lời dạy dỗ của mình, bị chứng kiến đồng nghiệp tỏ ra không sợ gì cấp trên, bị gọi đúng tên là kẻ mách lẻo, bị cười nhạo vì ngã, sợ ông hiệu trưởng, ông thanh tra biết, sẽ bị chế giễu, bị ép về hưu…, tất cả đã khiến con người luồn sợ có cái gì xảy ra đã không thể chịu đựng được, và hắn đã chết.
Cái chết này cũng là một sự biếm hoạ. Làm sao mà một người bình thường có thể chất và tâm hồn lành mạnh lại có thể chết vì những chuyện vớ vẩn như thế được. Kể cả một kẻ bạc nhược vể mặt tinh thần cũng không dễ chết như vậy. Ngay cả khi chết, dáng vẻ của hắn cũng mang vẻ “trong bao”. Hắn có vẻ thanh thản vì đã đạt được mục đích cuộc đời: Không có cái gì xảy ra nữa, hắn đã được chui vào một cái bao vĩnh cửu!
Người trong bao – ẩn dụ về tâm lí nô lệ, cuộc sống hèn nhát, nặng nề, ngột ngạt, vô vị. Tại sao Bê-li-cốp lại sợ tất cả mọi thứ trên đời này như vậy? Tại sao hắn chọn cho mình lối sống nặng nề, bạc nhược như vậy? Nhà văn đã chỉ rất rõ: đó là do tâm lí hèn nhát, nô lệ của chính hắn. Tâm lí đó khiến hắn sợ bất cứ cái gì phiền nhiều của cuộc sống. Thứ nhất, hắn hèn nhát đến nỗi sợ tất cả những điều khác lạ, sợ cái gì tân tiến, sợ trở thành trò cười cho thiên hạ. Hắn cũng muốn kết giao bè bạn, nhưng chỉ làm người khác sợ hãi vì không biết được những suy nghĩ thật của hắn. Hắn cũng muốn kết hôn, nhưng chỉ cần gặp một trở ngại nhỏ là hắn đã không thể vượt qua: bị chế giễu, bị đối diện với phong cách mới mẻ của cô gái.
Bị chế giễu vì chuyện tình cảm, hắn rất buồn bực bởi thấy mình chẳng làm điều gì sơ suất đáng để bị giễu cợt như vậy. Thấy cô gái Va-ren-ca đi xe đạp – thời đó, đi xe đạp là chuyện lạ, nhất là đối với phụ nữ – hắn đã ngạc nhiên đến hoảng hốt, sợ phút kinh lên. Đấy là giọt nước tràn li, hắn không chịu nổi điều đó. Qua cuộc cãi cọ với Kô-va-len-cô, những ý nghĩ của hắn mới dần bộc lộ rõ. Theo hắn, cần phải cư xử cho thận trọng. Đi xe đạp, mặc áo thêu ra đường, tay cầm sách là những việc buông thả, còn phụ nữ đi xe đạp là chuyện kinh khủng, chẳng ra cái thể thống gì nữa. Nghĩa là, hắn luôn trong trạng thái bảo thủ và luôn sống rất mẫu mực, lúc nào cũng xử sự như một người tử tế, đứng đắn.
Thực ra, có lẽ, hắn là một công chức mẫu mực. Nhưng tâm lí luôn sợ những cái vượt ra ngoài chuẩn mực ấy đã khiến con người hắn trở nên bé nhỏ, tầm thường, vô vị và hèn nhát. Thứ hai, đó là tâm lí đớn hèn, luôn sợ cấp trên. Nô lệ vào cấp trên đến nỗi không dám có ý nghĩa riêng của mình. Đối với hắn, chỉ có những thông tư, chỉ thị mới là cái rõ ràng. Ngợi ca quá khứ, dạy chữ cổ, ngợi ca những cái không có thật, là an toàn. Và an toàn nhất là không làm gì cả, chỉ làm những điều cấp trên cho phép! Hắn còn giải thích rõ vì sao, cái nguyên nhân sâu xa khiến mọi người không được lùm bất cứ việc gì: nếu không có chỉ thị nào cho phép.
Cấp trên ở đây chính là ông hiệu trưởng, ông thanh tra ! Hắn thấy rằng phải luôn luôn kính trọng cấp trên, và đề nghị mọi người “khi có mặt tôi, đừng bao giờ ăn nói như thế vé cấp trên. Anh cần phải có thái độ kính trọng đối với chính quyền”! Vì thế, vừa sợ bị cấp trên hiểu lầm, vừa thấy thái độ không kính trọng cấp trên của đồng nghiệp, hắn đã định mang cuộc cãi cọ của minh với Kô-va-len-cô đi mách với ông hiệu trưởng. Ở đây lại xuất hiện một đặc tính của hắn: luôn xu phụ cấp trên, chỉ điểm, chụp mũ đồng nghiệp (nói những điều không đúng, quy kết sang thái độ chính trị, đạo đức của ai đó). Suy cho cùng, các nét hành động này chính là hệ quả của cách sống hèn nhát: bảo vệ mình bằng cách bôi xấu kẻ khác. Còn đối với mọi người, tại sao, một giáo viên quèn, dạy môn tiếng Hi Lạp vớ vẩn, lại có thể làm cho mọi người không chỉ quanh hắn, mà cả thành phố sợ hãi?
Nguồn gốc của tất cả nỗi khiếp sợ ấy, khiến nó có cơ sở để lây lan, chính là tâm lí nô lệ, hèn nhát phổ biến của tất cả mọi người, không chỉ Bê-li-cốp : sợ cấp trên, sợ cường quyền, sợ dư luận, sợ các vãn bản, thống trị, chỉ thị,… Qua phản ứng dữ dội của Kô-va-len-cô, hoá ra mọi người đều sợ bị chụp mũ (tức là bị buộc những tội không phải mình làm) và rất sợ bị chỉ điểm, mách lẻo, bị đưa chuyện với cấp trên. Điều này hình như trong tâm lí, mọi con người đều sợ, như là một thứ sợ bản năng. Vì nó, người ta phải dẹp bớt các nhu cầu, kể cả những nhu cầu chính đáng của mình, và đâm ra nghi ngờ, dò xét lẫn nhau.
Tâm lí sợ hãi ấy như một bệnh dịch, cũng hay lây lan. Bê-li-cốp đến chơi nhà mọi người, chỉ ngồi lì một chỗ, chẳng nói chẳng rằng. Cũng vì chẳng hiểu hắn nghĩ gì, muốn gì, bởi đến cả ý nghĩ, hắn cũng cố giấu, nên rốt cuộc mọi người đâm ra sợ hắn. Chắc là họ sợ hắn sẽ tố cáo họ với cấp trên, sợ hắn như sợ một con chó săn ngồi canh cửa cho chính quyền. Và rồi họ cũng chẳng dám làm gì nữa, kể cả những việc bình thường như diễn kịch, những việc sai phạm nhỏ nhặt như nhà tu đánh hài, ăn thịt, thậm chí cả những việc tốt mang tính tiến bộ, dân chủ như gửi thư, làm quen, đọc sách, giúp đỡ người nghèo, dạy học chữ,… Tâm lí sợ hãi ấy chính là cái bao vô hình bao phủ thường trực cuộc sống của tất cả mọi người. Cái bao đó không chỉ bao bọc Bê-li-cốp mà còn bao phủ một bức màn u ám lên cuộc sống của con người trong thị trấn suốt mười lăm năm.
Mười lăm năm, thật là một cuộc sống khủng khiếp, không ra cuộc sống con người. Nhưng mười lăm năm ngột ngạt, không dám làm gì ấy, theo người kể chuyện, cứ tướng là do sự hiện diện của “kẻ trong bao”. Nhưng không ngờ, kẻ trong bao dù đã chết rồi, không khí ngột ngạt, bức bối vẫn bao trùm cuộc sống của người dân thành phố. Hoá ra, cái không khí ngột ngạt ấy là do chính cách sống của mọi người tạo nên. Điều đó đã được chính bác sĩ I-van tổng kết : “chúng ta viết những giấy tờ vô dụng, đánh bài đánh bạc…, sống cả đời bên những kẻ vô công rồi nghề” (kẻ đã châm biếm tình cảm của Bê-li-cốp), “những kẻ xui nguyên giục bị” (Bê-li-cốp định mách lẻo với cấp trên), “những mụ đàn bà nhàn rỗi ngu si” (tiếng cười ha ha vô duyên của Va-ren-ca khi nhìn người khác bị ngã là ví dụ), “chúng ta nói và nghe đủ thứ chuyện nhảm nhí, vô nghĩa”.
Tất cả đó là những cái bao, làm không khí ngột ngạt, u ám, tối tăm. Như vậy, lỗi cũng chẳng phải là do lối sống của kẻ trong bao, mà là lỗi của chính cuộc sống thị dân tăm tối, vô nghĩa. Cái u ám của cuộc sống bị bóp nghẹt tự do, dân chủ, dưới sự độc đoán, tàn bạo, luôn có nhà tù, xích xiềng kề bên, cuộc sống tăm tối đó của nước Nga dưới chế độ chuyên chế đã ánh chiếu vào trong đời sống của những kẻ thị dân này. Và cần phải có một cuộc sống khác! Không thể sống mãi như thế được! Đó là lời cảnh báo và cũng là lời phê phán mạnh mẽ lối sống tiêu cực đó của nhà văn Sê-khốp.
Bức chân dung mang tính biếm hoạ người trong bao đã cho thấy một thực trạng đang phổ biến ở nước Nga thời bấy giờ: sự bạc nhược, ốm yếu về tinh thần với tâm lí nô lệ, hèn nhát là một trạng thái thường trực của thời đại, hệ quả của sự bóp nghẹt dân chủ và tự do. Muốn vượt qua được tâm lí đó, cần có một lối sống khác và những điều kiện xã hội dân chủ cởi mở hơn.
Điều ấy, phải do chính những con người dám dũng cảm cải tạo căn bệnh tinh thần của thế hộ mình và phải cùng nhau xây dựng một chế độ tốt đẹp, để có thể giải phóng chính mình, giải phóng con người khỏi những xích xiềng tinh thần vô nghĩa.
Phân tích tác phẩm Người trong bao – Mẫu 8
A.P.Sê-khốp là nhà văn kiệt xuất, đại biểu cuối cùng về văn học hiện thực Nga nửa cuối thế kỉ XIX, nhà cách tân thiên tài về truyện ngắn và kịch nói đã để lại hơn 500 truyện ngắn và truyện vừa trong đó tác phẩm “Người trong bao” câu chuyện cười ra nước mắt về cuộc đời một con người mắc chứng bệnh sợ hãi không chỉ để phản ánh thực trạng xã hội mà còn ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Nhan đề “Người trong bao” đã mang một dụng ý nghệ thuật đặc sắc. Cái bao theo nghĩa gốc là vật dùng để bọc, gói và đựng đồ vật có thể là hình túi hay hình hộp. Theo lớp nghĩa chuyển là để chỉ lối sống và tính cách của những con người luôn khép kín, luôn bao bọc, bảo vệ mình bằng một lớp vỏ như nhân vật Bê-li-cốp. Mặt khác theo lớp nghĩa biểu trưng để chỉ kiểu người bị vây hãm, tù túng. Xã hội là một cái bao khổng lồ, trói buộc, bủa vây con người không có tự do, không có lối thoát. Đó là hiện thực xã hội Nga cuối thế kỉ XIX được nhà văn tái hiện lại qua hình tượng nhân vật Bê-li-cốp hắn chính là con người luôn khao khát mình và mọi đồ vật của bản thân được chui rúc trong cái bao chật hẹp đến ngạt thở.
Tác phẩm được sáng tác năm 1898 khi Sê-khốp đang trong thời gian dưỡng bệnh, xã hội Nga lúc ấy đang ngạt thở trong bầu không khí chuyên chế nặng nề, cuộc sống con người bị bó hẹp. Câu chuyện được kể theo ngôi thứ ba từ lời của nhân vật Bu-rơ-kin là đồng nghiệp Bê-li-cốp, dạy cùng trường, sống cùng nhà với hai phòng đối diện nhau. Người giáo viên kể lại cho bác sĩ I-van I-va- nứt nghe về con người của Bê-li-cốp từ ngoại hình đến suy nghĩ, tính cách, hành động. Nhân vật hiện lên chủ yếu qua lời của người kể chuyện, người nghe và phần lời tác giả rất ít nên câu chuyện được khách quan, mang tính chân thực, gần gũi.
Bê-li-cốp hiện lên qua lời kể và giọng kể mỉa mai của đồng nghiệp là một kẻ rất khác thường, giống như một bức tranh biếm họa giữa cuộc đời. Hắn là kẻ sống trong bao nhưng một câu hỏi đặt ra là hắn bị người ta nhét vào bao hay tự mình chui vào? Có lẽ là cả hai, nguyên nhân sâu xa là ngoại cảnh tác động, xô đẩy con người vào lối sống ấy. Nguyên nhân trực tiếp là do con người không thực sự có ý thức hay chính là nhận thức sai vấn đề nên để cuộc sống bên ngoài ảnh hưởng. Nghe chừng có vẻ phi lí vì Bê-li-cốp luôn che đậy mình bằng vỏ bọc kín đáo. Hắn nổi tiếng khi mùa nào cũng vậy, quanh năm suốt tháng chỉ có áo bành tô ấm cốt bông, đôi giày cao su và cầm theo cái ô. Tất cả mọi vật dụng của hắn đều được đựng trong bao từ đồng hồ quả quýt, con dao gọt bút chì, cả bộ mặt bị dấu đi sau cổ áo bành tô, đeo kính râm, bông nhét lỗ tai, đi xe ngựa phải cho muối lên, luôn giấu đi suy nghĩ bản thân hay trong căn phòng chật hẹp như một cái hộp tù túng đến ngạt thở và còn biết bao nhiêu điều nữa. Tóm lại cả cuộc đời hắn dường như chỉ có một “khao khát mãnh liệt thu mình vào trong một cái vỏ, tạo ra cho mình một thứ bao có thể ngăn cách, bảo vệ hắn khỏi những ảnh hưởng bên ngoài”. Hắn luôn sống trong nỗi sợ hãi, lo âu lúc nào cũng nơm nớp lo sợ “nhỡ ra có chuyện gì”, đi ngủ trùm chăn kín mít nhưng “vẫn thấy rợn rợn, sợ kẻ trộm chui vào nhà”.
Chỉ với vài chi tiết đặc tả ngoại hình và tính cách nhân vật ta có thể thấy được hiện thực xã hội Nga lúc bấy giờ vô cùng rối ren, con người luôn sống trong nỗi sợ hãi dù là điều nhỏ nhặt nhất. Nỗi sợ của ông thầy giáo có thể cho ta thấy bộ mặt thật sự của tầng lớp trí thức Nga lúc bấy giờ rất hèn nhát, bạc nhược không dám đối diện trực tiếp với thế giới bên ngoài. Những con người ấy lúc nào cũng chỉ biết và chỉ thích làm theo thông tư, chỉ thị những thứ mang tính bắt buộc cứng nhắc, ở một mặt nào đó cho thấy điều ấy là chấp hành, mẫu mực nhưng xét trong bối cảnh hiện tại thì lại là sự bảo thủ, ích kỉ. Con người ấy mù quáng tôn thờ chính quyền, sợ hãi quyền lực, quyền uy nên tất cả những hành động của hắn như là để bào chữa cho thái độ nhút nhát, ghê tởm với hiện tại.
Cái chết của hắn do tiếng cười haha của cô-va-ren-ca khi hắn bị em trai cô đẩy xuống ngã cầu thang đã chấm dứt tất cả. Chấm dứt chuyện cưới xin, chấm dứt cuộc đời hắn. Tiếng cười ấy như là sự châm biếm, mỉa mai đả kích tột cùng hành động “sờ lên mũi xem cặp kính có còn vẹn nguyên không”, với con người ấy sĩ diện cao hơn cả sự nguy hiểm của tính mạng. Từ sự kiện đó hắn có thể tưởng tượng ra biết bao câu chuyện phía sau: nào là hắn sẽ biến thành trò cười cho thiên hạ, cả thành phố biết chuyện, rồi đến tai hiệu trưởng, thanh tra dẫn đến chuyện người ta ép hắn về hưu non…một tháng sau hắn chết. Như vậy là khao khát, ước nguyện được bọc bởi cái bao kín, vững chắc, bền bỉ không còn gì tốt hơn chiếc quan tài. Cái chết ấy đến thật bất ngờ đối với những người trong thành phố, mọi người đều cảm thấy nhẹ nhõm và thoải mái, mừng thầm vì không phải sợ hắn. Nhưng cuộc sống ngay sau đó lại diễn ra như cũ vẫn nặng nề ngột ngạt. Chi tiết ấy khiến ta nhớ tới cái lò gạch cũ hiện ra cuối tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao phản ánh hiện thực xã hội nếu không thay đổi thì không biết còn có nhiêu người như Bê-li-cốp trong tương lai. Qua hình tượng nhân vật điển hình Bê-li-cốp nhà văn đã trực tiếp lên án tố cáo xã hội hiện thực phong kiến Nga cuối thế kỉ XIX mục ruỗng, thối nát với những tư tưởng bảo thủ, lạc hậu kém tiến bộ chính điều đó đã đẩy cuộc sống con người vào sự bế tắc, tăm tối, mịt mờ. Đồng thời cũng cho ta thấy thái độ khinh bỉ, coi thường những kẻ có lối sống thấp hèn, vị kỉ cá nhân. Kết thúc truyện bằng ấn tượng mạnh mẽ về câu nói “Không thể sống như thế này mãi được” thể hiện sự day dứt muốn bứt phá, muốn thay đổi xã hội, canh tân đất nước, giải phóng con người ra khỏi những ràng buộc vô hình hay muốn bầu xóa tan bầu không khí ngột ngạt để cho dân tộc Nga phát triển tiến bộ hơn.
Về đặc sắc nghệ thuật trong tác phẩm được thể hiện qua cách chọn ngôi kể thứ nhất và ngôi kể thứ ba đan xen nhau tạo nên cấu trúc kể chuyện lồng trong truyện, giọng kể mỉa mai, châm biếm mà điềm tĩnh, thâm trầm ẩn giấu đằng sau đó là cảm xúc buồn đau, bức xúc, trăn trở của tác giả khi chứng kiến hiện thực xã hội. Nghệ thuật đối trong tính cách và lối sống giữa Bê-li-cốp và chị em Va-ren-ca, các đồng nghiệp giáo viên trường trung học, những người trong thành phố. Đặc biệt nhất là nghệ thuật xây dựng hình tượng về “cái bao”, lời nói “sợ nhỡ lại xảy ra chuyện gì” và câu nói kết luận của I-va-nứt ở cuối truyện.
Dù Bê-li-cốp đã khuất bóng trong trang văn nhưng ở đâu đó trong xã hội này vẫn còn có biết bao Bê-li-cốp thời hiện đại bằng xương bằng thịt tồn tại hằng ngày, những con người ấy luôn mang trong mình thái độ sống vô cảm, thờ ơ không quan tâm đến người khác chỉ biết lợi ích cá nhân. Lối sống ấy cần được xóa bỏ đừng để những trái tim yêu thương bỗng trở nên lạnh tanh, hóa đá. Tác phẩm “Người trong bao” của Sê-khốp có ý nghĩa phổ quát và sâu sắc với xã hội đương thời, không những thế kiểu người sống trong bao còn có ý nghĩa lâu dài đối với mọi thời đại, mọi quốc gia trên thế giới. Tác phẩm đáng cho ta suy ngẫm về bài học làm người đúng nghĩa trong cuộc sống hữu hạn này.