TOP 3 mẫu Phân tích Tinh thần nhân đạo của Nguyễn Đình Chiểu trong Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc trong bài viết dưới đây sẽ giúp các bạn học sinh có thêm nhiều gợi ý tham khảo, trau dồi kiến thức, biết cách viết bài văn phân tích hay, đủ ý để đạt được điểm cao trong các bài kiểm tra sắp tới.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 11: Phân tích Tinh thần nhân đạo của Nguyễn Đình Chiểu trong Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc
Phân tích Tinh thần nhân đạo của Nguyễn Đình Chiểu sẽ có nhiều bạn lúng túng và gặp khó khăn vì không biết nên phải bắt đầu từ đâu cũng như diễn đạt ý như thế nào? Vì thế 3 mẫu phân tích tinh thần nhân đạo trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc dưới đây chắc chắn sẽ giúp ích rất nhiều để các bạn có thể hoàn thiện bài viết của mình một cách nhanh chóng, đầy đủ ý nhất.
Phân tích Tinh thần nhân đạo của Nguyễn Đình Chiểu
Dàn ý phân tích tinh thần nhân đạo
1. Mở bài
– Hình tượng người anh hùng nông dân xưa nay là nguồn cảm hứng nhân đạo cho nhiều tác giả văn học, trong đó có Nguyễn Đình Chiểu.
– Với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu đã tạo nên tượng đài oai hùng cho người nông dân Việt Nam về cốt cách, phẩm chất, qua đó thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc.
2. Thân bài
* Tinh thần nhân đạo thể hiện ở cách xây dựng hình tượng người nông dân anh hùng
– Đức tính tốt đẹp, tư thế dũng cảm, hiên ngang ngẩng cao đầu:
+ Người nông dân xưa nay chỉ biết đến công việc đồng áng, nay lại xung phong ra trận, đối mặt với kẻ thù.
+ Trước cảnh đất nước lâm nguy, họ sẵn sàng bỏ ruộng đất đi theo tiếng gọi Tổ quốc “Súng giặc vang như mõ”.
– Tấm lòng thủy chung của những người nông dân nghĩa sĩ đối với đất nước:
+ Lặng thầm chiến đấu, không tiếc thân mình xả thân hi sinh vì Tổ quốc.
+ Luôn nêu cao tinh thần “tuy là mất tiếng vang như mõ”.
*Tinh thần nhân đạo thể hiện ở việc trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp của những nghĩa sĩ
– Trong con mắt của Nguyễn Đình Chiểu, họ là những người nông dân chân chất, hiền lành, chăm chỉ, cần cù, hồn hậu “Nhớ linh xưa… nghèo khó” nhưng nghĩa khí của họ luôn tuôn trào mãnh liệt, mạnh mẽ.
– Khi kẻ thù giày xéo quê hương, họ trở nên quyết liệt, gan dạ hơn bao giờ hết với lòng căm thù giặc sâu sắc “Bữa thấy bòng bong muốn ra cắn cổ”.
=> Tình yêu quê hương, đất nước, nỗi căm hờn lũ giặc xâm lược đã trở thành hành động quyết liệt “ăn gan, cắn cổ”,…
=> Tính nhân văn được bộc lộ qua lí tưởng chiến đấu cao cả, tinh thần quật khởi của nhân dân khi đứng trước gian khổ.
* Tinh thần nhân đạo là âm hưởng bi tráng như một khúc khải hoàn dành cho những chiến sĩ dũng cảm đã nằm xuống vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
– Người nông dân vốn hiền hòa, chân chất nay vụt trở thành những người lính => Sức mạnh của niềm tin, niềm hi vọng vào tương lai đã biến thành nguồn động lực, năng lượng vô hạn cho những người lính.
– Người nông dân vốn có cuộc sống bình dị nhưng khi đất nước gặp nguy nan, họ lại là những người xung phong đấu tranh quật cường với tinh thần đoàn kết cao nhất.
– Sự sẵn sàng hi sinh của những người chiến sĩ: “Thà thác mà đặng câu… ở với man di rất khổ”
+ Ước vọng nhỏ bé “thà chết vinh còn hơn sống nhục”: Một lần đánh giặc rồi hi sinh, chết vinh quang còn hơn ở với bọn giặc “man di, mọi rợ”.
+ Thân xác họ có thể sẽ bị chôn vùi, trở thành cát bụi nhưng công lao và sự hi sinh anh dũng của họ sẽ trở nên bất tử trong lòng chúng ta.
3. Kết bài
– Khẳng định lại vấn đề cần nghị luận: Tinh thần nhân đạo của Nguyễn Đình Chiểu trong việc xây dựng hình tượng người chiến sĩ Cần Giuộc.
Phân tích tinh thần nhân đạo – Mẫu 1
Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc là tác phẩm tiêu biểu cho bộ phận thơ văn yêu nước chống Pháp của Nguyễn Đình Chiểu. Lần đầu tiên người anh hùng nông dân yêu nước chống ngoại xâm đã bước vào tác phẩm văn học Việt Nam với vẻ đẹp rực rỡ nhất.
Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc là tiếng khóc của dân tộc khóc cho người nông dân anh hùng đã hi sinh trong chiến đấu đuổi giặc thù ra khỏi quê hương. Qua tiếng khóc ấy, Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng được tượng đài nghệ thuật mang tính bi tráng về người nông dân yêu nước chống giặc ngoại xâm. Điều này tạo nên tinh thần nhân đạo của ngòi bút Nguyễn Đình Chiểu.
Trước thất bại đau thương, người nông dân Cần Giuộc vẫn được tác giả tạo nên tầm vóc, tư thế hiên ngang, quả cảm.
Người nông dân yêu nước được thể hiện trong vẻ đẹp rực rỡ của người nghĩa sĩ anh dũng cứu nước. Bởi thế, dù họ lâm vào cảnh chết chóc bi thương nhưng vẫn ngời sáng vẻ đẹp hùng tráng, đậm chất sử thi.
Nguyễn Đình Chiểu đã tạo được tượng đài nghệ thuật bằng chính cuộc đời người nông dân yêu nước chống Pháp vốn chưa có trong văn học Việt Nam từ trước đến nay.
Ca ngợi vẻ đẹp của người anh hùng. Đề cao phẩm chất của người nông dân: hiền lành, cần cù, giản dị, chất phác, gắn bó với mảnh ruộng làng quê, yêu cuộc sống hòa bình, không hề biết đến chuyện súng gươm.
Ca ngợi nghĩa khí của người lao động trong thái độ căm thù quân giặc ngang ngược trắng trợn giày xéo quê cha đất tổ và thái độ thất vọng lo lắng của họ khi nhận thấy triều đình vô trách nhiệm bỏ rơi dân lành trước họa xâm lăng.
Ca ngợi mục đích, động cơ chiến đấu của người nghĩa quân nông dân rất trong sáng và đúng đạo lí của người Việt Nam. Họ chiến đấu là để bảo vệ tấc đất, ngọn rau, vùa hương, bàn độc, của quê hương gia đình. Họ đi chiến đấu với ý thức rất cụ thể thiết thực của người nông dân Việt Nam.
Ca ngợi tinh thần tự nguyện tham gia chiến đấu của người nông dân yêu nước. Vì nền độc lập của đất nước, vì nỗi tủi nhục mất nước nên họ đã từ những người nông dân hiền lành trở thành những con người đi chiến đấu vì đại nghĩa trở thành nghĩa binh, tự nguyện gánh vác việc đánh giặc cứu nước.
Khẳng định vẻ đẹp của người nông dân: khi trở thành người nghĩa quân giữ nước thì tinh thần và lòng quyết tâm chiến đấu của họ cao cả vĩ đại. Lòng mến nghĩa cao độ đã giúp họ làm được những việc kinh thiên động địa, chiến đấu và hi sinh anh dũng.
Yêu quý, trân trọng người lính nông dân ra trận nên tác giả đã miêu tả tinh thần chống Pháp của họ với khí thế mạnh mẽ, bất chấp hiểm nguy, họ đã hành động theo tiếng gọi của lòng yêu nước. Thể hiện điều này, Nguyễn Đình Chiểu đã dùng hàng loạt các động từ diễn tả dồn dập, liên tiếp, dứt khoát, cách ngắt nhịp ngắn gọn để miêu tả khí thế tiến công của người lính khi xung trận.
Phát hiện ra vẻ đẹp của những người nông dân bình thường sống sau lũy tre xanh, vì nghĩa lớn đã trở thành người anh hùng, thành linh hồn của cuộc kháng chiến giữ nước. Họ trở thành nhân vật lí tưởng được mọi thời đại ca ngợi.
Miêu tả nỗi đau thương, mất mát của những người đang sống trước sự hi sinh của người nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Nỗi đau đớn, mất mát của những người ruột thịt, của quê hương, của thiên nhiên, đất nước trước sự hi sinh của nghĩa quân Cần Giuộc.
Ca ngợi, tiếc thương bằng sự thương cảm xót xa. Nỗi tiếc thương thể hiện qua hình ảnh cỏ cây, đất trời đều nhuốm màu tang tóc, nghiêng đổ trước sự hi sinh vì đại nghĩa của những người nông dân.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đã thực sự trở thành khúc ca bi tráng biểu hiện tấm lòng ngưỡng mộ tiếc thương của cả dân tộc đối với người nông dân yêu nước. Tác giả đã viết về điều này bằng giọng văn xúc động, nghẹn ngào, đau đớn nhất.
Ca ngợi, khẳng định quan điểm nhân sinh của người lính nông dân và khẳng định sự bất tử của nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Ca ngợi nghĩa quân có quan điểm sống chết đúng đắn, cao quý: Thà thác mà đặng câu địch khái.
Vì đại nghĩa nên người nghĩa binh đã quên mình sẵn sàng hi sinh chiến đâu cho quê hương, đất nước trong mọi hoàn cảnh: Sống đánh giặc thác cũng đánh giặc…
Tiếc thương và ngưỡng mộ, Nguyễn Đình Chiểu đã khẳng định sự bất tử của người nghĩa sĩ trong lòng nhân dân.
Lần đầu tiên người nông dân vì nghĩa được khắc sâu và phản ánh toàn diện trong văn học.
Trước đây, trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi cũng đã nói đến người nông dân trong sáng tác của mình nhưng còn chung chung, chưa cụ thể như những người dân ấp dân lân của Nguyễn Đình Chiểu.
Trong Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái cũng có hình ảnh người lính “trung quân” dưới sự lãnh đạo của người anh hùng Quang Trung chiến đấu cho sự độc lập tự do của đất nước nhưng vẫn mờ nhạt.
Người lính nông dân của Nguyễn Đình Chiểu được phản ánh trong sự đơn phương đánh giặc, hi sinh vì nghĩa lớn nhưng bị triều đình bỏ rơỉ. Họ thất bại trong cuộc chiến đấu nhưng cái chết của họ lại là ngọn lửa yêu nước có tác dụng khơi nguồn cho các thế hệ sau nối tiếp đi lên.
Tình cảm của Nguyễn Đình Chiểu dành cho người nông dân đã thể hiện lòng yêu nước, quan điểm chống Pháp đến cùng của tác giả.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là tác phẩm bất hủ trường tồn với thời gian, với lịch sử dân tộc nhờ tấm lòng nhân đạo của nhà thơ với người nông dân yêu nước.
Phân tích tinh thần nhân đạo – Mẫu 2
Hình tượng người anh hùng nông dân xưa nay luôn là nguồn cảm hứng nhân đạo cho rất nhiều những tác gia, tác giả. Mang âm hưởng lịch sử dân tộc oai hùng, những người lính nông dân là kết tinh của sức khỏe, tinh thần quật cường, là hình mẫu lý tưởng của người dân đương thời. Trong văn học thời kì Trung đại, người anh hùng nông dân được ca ngợi là những cá nhân sẵn sàng hi sinh vì mục đích cao cả, lớn lao của tập thể. Với tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”, Nguyễn Đình Chiểu đã tạo nên một tượng đài oai hùng cho người nông dân Việt Nam về cốt cách thật thà, chất phác nhưng không hề nao núng đánh đuổi giặc ngoại xâm. Qua hình tượng người nông dân anh hùng, tác giả đã thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc với sự kính trọng, đề cao và biết ơn những bậc tiền bối đã nằm xuống vì sự độc lập dân tộc.
Xuất thân là một nhà nho yêu nước, phải về quê vợ ở Cần Giuộc lánh tạm sự xâm lược của giặc Pháp, Nguyễn Đình Chiểu hơn ai hết thấu hiểu được nỗi khổ đau, bất hạnh và mất mát khi nước nhà bị xâm lăng. Viết “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” trong hoàn cảnh xót thương cho hơn hai mươi người nông dân quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời đã hi sinh oanh liệt vì độc lập tự do, tác phẩm không đơn thuần chỉ là một bài tế tri ân mà còn là tiếng lòng xót thương đối với những chiến sĩ nhân dân dũng cảm, thể hiện tinh thần nhân đạo, tình cảm trân trọng của tác giả cũng như khắc họa hình tượng bi tráng của những người nông dân yêu nước.
Tinh thần nhân đạo qua hình tượng người nông dân anh hùng trước hết thể hiện ở cách xây dựng hình tượng người anh hùng. Người anh hùng nhân dân hiện lên với những đức tính tốt đẹp, tư thế dũng cảm, hiên ngang ngẩng cao đầu, không ngại khó khăn gian khổ. Những người nông dân quen thuộc với công việc tay chân đồng áng, nay lại mang giáp ra trận, đối mặt với quân thù được vũ trang đủ đầy. Đứng trước cảnh đất nước lâm nguy, họ sẵn sàng bỏ ruộng đất, đi theo tiếng gọi Tổ quốc:
Súng giặc đất rền
Lòng dân trời tỏ
Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao
Một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ.
Lãnh thổ Đất nước bị đe dọa cũng là lúc tinh thần quật cường của nhân dân dâng cao, như một làn sóng nhấn chìm tất cả những bè lũ âm mưu xâm lược. Đứng trước thử thách gian lao, tấm lòng thủy chung với đất nước của người dân mới được “trời tỏ”, có trời cao chứng giám cho tấm lòng của họ. Như những người lính thầm lặng, không khoa trương, nhưng sự hi sinh anh dũng của họ có trời thấu. Lâm vào cảnh bi thương, những người chiến sĩ không hề chùn bước mà nêu cao tinh thần “tuy là mất tiếng vang như mõ”, tuy hi sinh nhưng danh tiếng vẫn còn mãi lưu truyền. Nguyễn Đình Chiểu nêu cao tinh thần nhân đạo bằng chính hình tượng người lính nông dân, tượng đài cao cả về lòng yêu nước, sẵn sàng xả thân vì nước của người dân miền đất Cần Giuộc.
Tinh thần nhân đạo được tác giả thể hiện qua việc ca ngợi vẻ đẹp của người anh hùng. Dưới cách nhìn của ông, người nông dân là kết tinh của những đức tính quý báu, tốt đẹp. Họ là những người dân hiền lành, chất phác, chân phương:
Nhớ linh xưa
Cui cút làm ăn
Toan lo nghèo khó
Cuộc sống của họ gắn liền với con trâu cái cày, chỉ biết làm lụng, tích cóp, yêu chuộng hòa bình. Nỗi lo của họ chỉ là ăn no mặc ấm, không đói khát, không tranh chấp, nào biết đến binh đao. Những người dân hồn hậu luôn hướng thiện là hình tượng đẹp đẽ của người dân Việt Nam. Người nông dân Cần Giuộc cũng vậy, những lo toan vụ mùa, thời tiết thất thường đã quá đủ nặng gánh trên đôi vai họ. Tuy thế, nghĩa khí của người dân lao động giống như ngọn lửa tiềm tàng luôn sẵn sàng bùng cháy trong họ. Khi gót giày của quân thù bắt đầu giày xéo ruộng đất nước nhà, họ không còn là những người nông dân vô hại mà trở thành những người lực điền khỏe mạnh, mang mũ mang giáp ra trận đánh giặc:
Bữa thấy bòng bòng che trắng lốp; muốn tới ăn gan
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ
Giống như hình tượng Thánh Gióng năm nào, từ một cậu bé chẳng biết nói biết cười, nghe tin giặc đến xâm lược bỗng vươn vai một cái lớn nhanh như thổi. Bản chất thật thà, lương thiện của người nông dân khi gặp lũ bất lương liền trở thành đội quân lính tráng mang tinh thần bất diệt. Cái căm tức, thù hằn quân giặc biến thành khát khao muốn hành động, muốn diệt trừ “muốn tới ăn gan”, “muốn ra cắn cỏ”, muốn diệt trừ tận gốc thực dân Pháp. Khác hoàn toàn với hình tượng người nông dân quen thuộc, phải chẳng, chính vì tình yêu nước, vì lòng căm thù giặc, và vì tự do của mình và những người thân yêu, họ sẵn sàng đứng lên, biến đổi thành đội quân tinh nhuệ, không quản khó khăn gian khổ. Tính nhân văn được thể hiện rất rõ khi tác giả xây dựng những biến đổi tâm lý của những nghĩa sĩ Cần Giuộc. Đứng trước sự thờ ơ, vô trách nhiệm của quan lại triều đình, họ từ những người “chỉ biết ruộng trâu”, “việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy…tay vốn quen làm” trở thành chiến binh hùng dũng, oai vệ, với “hỏa mai đốt bằng rơm con cúi”, “gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay”. Ra trận với những vũ khi tự chế thô sơ, nhưng quyết tâm cao ngùn ngụt, tinh thần quyết chiến quyết thắng, không ngại hi sinh vì độc lập tự do. Họ chiến đấu vì quê hương, chiến đấu vì tấc đất, vì miếng cơm manh áo của mình. Tính nhân văn qua hình tượng người lính nhân dân được bộc lộ qua mục đích chiến đấu cao cả cùng tinh thần quật khởi của nhân dân khi đứng trước hiểm nguy, gian khổ.
Tinh thần nhân đạo của “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là âm hưởng bi tráng như một khúc khải hoàn dành cho những chiến sĩ dũng cảm đã nằm xuống vì sự nghiệp lớn lao. Với giọng văn giàu cảm xúc, Nguyễn Đình Chiểu vừa ca ngợi, vừa thể hiện nỗi thương nhớ, tiếc nuối vì tinh thần đại nghĩa của họ.
Chi nhọc quan quản gióng trống kì; trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu đồng súng nổ
Bản hùng ca của người chiến thắng, của những anh hùng, vượt qua cả những nỗi lo sợ đơn thuần, chẳng quản ngại sự chênh lệch vũ trang. Chỉ cần có tinh thần, có ý chí quyết tâm ắt hẳn sẽ thành công. Từng câu văn đều mang âm hưởng hào hùng, tráng lệ. Những người nông dân hiền lành nay lại hoàn toàn có thể chiến đấu như những người lính được chèn giũa trong môi trường quân đội. Chính sức mạnh tinh thần, niềm tin bất diệt vào chiến thắng trong tương lai đã biến thành nguồn động lực, nguồn năng lực vô hạn. Hình tượng người anh hùng áo vải, người nghĩa sĩ nông dân giống như một bức tranh lan tỏa cảm xúc, khiến người đọc dường như được hòa mình vào cái bất diệt của đội quân ra trận. Không chỉ là riêng lẻ một cá nhân, một cái tên anh hùng cụ thể mà đây là làn sóng dân tộc, là khối sức mạnh toàn dân đoàn kết. Giống như những vần thơ của Nguyễn Khoa Điềm:
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Những người nông dân sống một cuộc đời giản dị, không đòi hỏi, không trang đấu, đến khi đất nước gặp khó khăn, chính họ lại là những người tiên phong đấu tranh quật cường, không ngại đánh đổi cả máu và nước mắt để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc. Còn gì đáng quý hơn người dân, người dân chính là cốt cách, là nền tảng, là nguồn sức mạnh của một quốc gia. Không có nhân dân thì làm sao có đất nước, có khí thế hào hùng nhấn chìm mọi bè lũ gian dối cướp bóc.
Đỉnh cao của tính nhân văn trong tác phẩm là những câu thơ thể hiện sự sẵn sàng hi sinh của những người chiến sĩ:
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh
Hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ
Những lời ca tụng gần như đã trở nên trọn vẹn, khi để cho chính những người lính bộc lộ ra ước vọng “thà chết vinh còn hơn sống nhục”, thà một lần đánh giặc rồi hi sinh, chết đi còn nở mày nở mặt, hơn là ở với lũ giặc ngoại xâm “man di”, mọi rợ. Xét trên hoàn cảnh thực tế, hai mươi chiến sĩ nằm xuống, hai mươi có thể là con số nhỏ so với một đại quân, nưng đây là hai mươi người nông dân hiền hậu, chân lấm tay bùn, chiến đấu vì nghĩa vụ cao cả của đất nước. Khi người ta không còn coi nặng cái chết nữa là khi con người trở nên bất tử, khi tính mạng còn được đặt dưới cả độc lập dân tộc thì những con người ấy xứng đáng được tôn làm đại trượng phu.Thân xác họ có thể đã được chôn vùi, tâm hồn họ có thể về với cát bụi, nhưng hình ảnh và công lao của họ sẽ mãi mãi bất tử trong lòng những người còn ở lại.
Qua hình tượng người nông dân anh hùng, tác giả đã thể hiện sự yêu thương, kính trọng đối với những người dân bất chấp nguy hiểm, đi theo tiếng gọi của trái tim, của tinh thần dân tộc. Vẻ đẹp tiềm ẩn của những người nông dân đã trở thành hình ảnh anh hùng, xứng đáng được người đời ca tụng. Bằng giọng văn hùng tráng cùng lối viết vừa gần gũi, vừa trang nghiêm, vừa mang tính nhạc, vừa đậm chất tình, tác giả không chỉ đẽo gọt thành công bức tượng đài người nông dân kiên cường mà qua đó, ông khéo léo nhắn nhủ tâm tư, tình cảm của mình, một sự kính trọng cho thế hệ đàn anh đi trước.
Trong thời kì văn học Trung đại, khi phần lớn các tác phẩm văn học đều ca ngợi sự trị vì của Vua chúa, để bày tỏ sự trung kính của bậc tôi tớ hoặc thơ ca của những đạo sĩ ẩn dật, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” giống như một bản hùng ca bi tráng dành cho những người nông dân. Tính nhân đạo thể hiện qua hình tượng người anh hùng không quản gian khổ, vẻ đẹp sức vọng cũng như tâm hồn cùng mục đích chiến đấu cao cả của người tráng sĩ nhân dân. Không đơn thuần chỉ là một bài văn tế, Nguyễn Đình Chiểu còn qua đó còn kêu gọi toàn dân đứng lên chống giặc, đánh đuổi quân xâm lược, bảo vệ tổ quốc.
Phân tích tinh thần nhân đạo – Mẫu 3
“Chết là hết”, người đời thường nói vậy. Và cuối cùng ai cũng phải chết. Nhưng có những cái chết “không một tiếng vang”; lại có những cái chết để “tiếng thơm muôn thuở”. Người nghĩa sĩ cần Giuộc năm xưa đứng dậy chống Pháp đã lựa chọn cái chết thật đẹp: “Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; Thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ”. Có thể nói toàn bộ bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là “khúc ca của những người thất thế nhưng vẫn hiên ngang” (Phạm Văn Đồng).
Thế là đã hơn một thế kỉ trôi qua. Cuộc khởi nghĩa của những người nông dân Cần Giuộc đã thất bại. Họ phải ngã xuống giữa chiến trường trong cảnh “da ngựa bọc thây”, “xác phàm vội bỏ”. Họ là những người thất thế, đúng như vậy. Nhưng bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu đã làm họ “sống lại” trong những hình tượng đầy khí phách hiên ngang. Những tấm gương đại nghĩa vằng vặc như trăng sao ấy đã tạo cho bài Văn tế âm hưởng của một khúc ca bi tráng. Người nghĩa quân cần Giuộc vốn chỉ là những nông dân hiền lành, quanh năm: “Cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó, chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung…”. Ấy thế mà khi giặc đến, họ liền trở thành những dũng sĩ. Ở họ, nhà thơ nhấn mạnh tinh thần hoàn toàn tự nguyện, tự giác:
Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Trong khi triều đình khiếp nhược, chỉ tính bài nhượng bộ, đầu hàng thì họ đã tự động đứng dậy. Tinh thần: “Mến nghĩa làm quân chiêu mộ” của những người dân cày này thật đáng khâm phục. Cuộc chiến đấu của họ tất nhiên là đầy khó khăn: Lực lượng địch, ta quá chênh lệch, thiếu kĩ thuật quân sự, thiếu quân trang, vũ khí. Đoàn nghĩa quân nông dân chân đất nghèo khổ, lam lũ này gần như đi thẳng đến chiến trường từ những túp lều rách nát và những luống cày của họ, không cờ treo, trống giục, không mũ nón, không giáp trụ, cũng chẳng gươm giáo, cung tên…
Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu bầu ngòi
Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chị nài sắm dao tu, nón gõ
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi”, “gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay.
Thế mà họ đã làm cho kẻ thù thất điên bát đảo, khiến cho “mã tà ma lí hồn kinh”. Sức mạnh của họ không có gì khác ngoài sức mạnh tinh thần. Họ đã lấy gan vàng đọ với đạn sắt, lấy lòng căm hờn chống lại “tàu thiếc, tàu đồng. Nguyễn Đình Chiểu không quên họ là những nông dân: “Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ“. Người dân cày vốn hiền lành, nhưng một khi lòng yêu nước ở họ được khơi dậy thì sức mạnh căm thù trở nên thật dữ dội:
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ
Ông căm thu ấy đã đem đến cho họ sự đồng cảm và sức mạnh phi thường. “Kẻ đâm ngang, người chém ngược”, họ tả xung hữu đột, tung hoành ngang dọc như ở chỗ không người: “Đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có”.
Nguyễn Đình Chiểu đã ca ngợi những nghĩa sĩ nông dân bằng những hình tượng thật chói lọi và những lời nói thật trang trọng, đẹp đẽ. Nhưng ông không che giấu sự thật đau lòng. Bài văn còn là lời ai điếu, là tiếng khóc của Đồ Chiểu trước sự thất thế và cái chết của nghĩa quân cần Giuộc. Cái chết của họ khiến cho con người, đất trời, cây cỏ cũng phải động lòng:
Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng.
Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ.
Lắng nghe trong lời văn của Đồ Chiểu như có tiếng khóc, tiếng nấc nghẹn ngào:
Ôi thôi thôi!
Chùa Tông Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm; đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trễ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; Não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Cái bi bao trùm lên cả đoạn thơ, nhưng cái bi ở đây không phải là cái bi thảm mà là bi tráng. Đây là nỗi đau lớn vì Tổ quốc, vì nhân dân. Đau mà không khiến người ta nản lòng, thối chí, bi mà giục giã mọi người đứng dậy hiên ngang. Cuộc khởi nghĩa đã thất bại. Nhiều nghĩa quân đã phải ngã xuống. Nhưng chết vinh còn hơn sống nhục: Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.
Chết như thế thì chết cũng như còn, vì “danh thơm đến sáu tỉnh chúng đều khen”, “tiếng hay trải muôn đời ai cũng mộ”. Chết như thế là để lại tấm gương chói lọi, có sức động viên lớn đối với cuộc chiến đấu sẽ còn tiếp tục:
Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh…
Ca ngợi người anh hùng chống Mĩ, Nguyễn Văn Trỗi, nhà thơ Tố Hữu viết:
Có những phút làm nên lịch sử
Có cái chết hóa thành bất tử.
(Hãy nhớ lấy lời tôi)
Đó cũng là cái chết của những nghĩa sĩ Cần Giuộc, những con người “thất thế nhưng vẫn hiên ngang” được phản ánh trong bài Văn tế bi tráng của Nguyễn Đình Chiểu. Cảm ơn nhà thơ mù Đồ Chiểu đã bằng tấm lòng và tài năng nghệ thuật làm sống dậy cả một thời bi thương mà oanh liệt. Ông đã bất tử hóa những người đã khuất, tạc dựng họ thành một cụm tượng đài bền vững và cao đẹp trong thơ cũng như trong lòng người đọc mãi mãi về sau.