Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận chất Tây Nguyên trong truyện Rừng Xà Nu

Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận chất Tây Nguyên trong truyện Rừng Xà Nu

Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận chất Tây Nguyên trong truyện Rừng Xà Nu của Nguyễn Trung Thành bao gồm 2 gợi ý cách viết chi tiết kèm theo 3 bài văn mẫu khác nhau cực hay. Với cách viết mạch lạc, rõ ràng từng phần các bạn có thể dễ dàng lựa chọn tham khảo cho bài làm của mình sắp tới.

Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận chất Tây Nguyên trong truyện Rừng Xà Nu

Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận chất Tây Nguyên trong truyện Rừng Xà Nu

TOP 3 bài chất Tây Nguyên trong truyện Rừng Xà Nu cực chất dưới đây sẽ là nguồn tài liệu cực kì hữu ích, là người bạn đồng hành giúp các em hiểu được trình tự làm bài, quan sát, biết cách liên tưởng, so sánh, lựa chọn ngôn từ phù hợp. Ngoài ra các bạn xem thêm bài văn phân tích Rừng xà nu, phân tích hình tượng rừng xà nu.

Cảm nhận chất Tây Nguyên trong truyện Rừng Xà Nu

    Dàn ý cảm nhận chất Tây Nguyên trong truyện Rừng Xà Nu

    Dàn ý số 1

    I. Mở bài:

    – Giới thiệu ngắn gọn những đặc điểm nổi bật về: tác giả, tác phẩm

    + Nguyễn Trung Thành am hiểu sâu sắc về đời sống của con người và vùng đất Tây Nguyên, đặc biệt là phẩm chất anh hùng của nhân dân Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ; sáng tác mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn; “Rừng xà nu là bản anh hùng ca…cứu nước”

    – Giới thiệu đối tượng nghị luận:

    – Chứng minh Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành là 1 truyện ngắn thấm đẫm chất Tây Nguyên

    II. Thân bài:

    – Sơ lược cốt truyện.

    – Ấn tượng đầu tiên đối với bạn đọc là hình tượng cây xà nu:

    • Trong tầm đại bác của đồn giặc
    • Trong đời sống hàng ngày của dân làng Xô-man.
    • Tham dự vào những sự kiện trọng đại của làng.
    • Rừng xà nu bạt ngàn, bất tận.

    – Mở đầu và kết thúc tác phẩm là hình tượng rừng xà nu: thể hiện sức sống mãnh liệt, bạt ngàn đồng thời là biểu tượng trọn vẹn cho nỗi đau, phẩm chất, sức mạnh của dân làng Xô-man, nhân dân Tây Nguyên, của cả dân tộc, gợi ra ý nghĩa của tác phẩm.

    – Hình ảnh con người:

    • Dân làng Xô-man: Cụ Mết – già làng cách mạng: được xem là cây xà nu lâu năm vững chãi; là linh hồn, chiếc gạch nối giữa Đảng và dân làng.
    • Ngoại hình·
    • Ngôn ngữ·
    • Tính cách

    -> Tiếng nói của cụ là tiếng nói thiêng liêng của dân tộc với những kinh nghiệm xương máu.

    – Chị Dít (tiếp nối từ Mai): hiện tại là bí thư chi bộ của dân làng Xô-man.

    + Tính cách (khi còn bé, lúc lớn lên …)

    -> Có thể nói, Dít là cây xà nu mà đại bác quân thù không giết nổi: gan lì, dũng cảm, trưởng thành nhanh chóng, kế thừa và gánh vác sự nghiệp cha anh một cách vững vàng.

    – Bé Heng: như một cây xà nu con, nhanh nhẹn, hiểu biết, đầy lòng tự tin; hứa hẹn sẽ phát triển mạnh mẽ trong tương lai.

    – Câu chuyện anh hùng của Tnú-nhân vật sử thi điển hình: đó là câu chuyện của một đời người nhưng được kể trong một đêm.

    • Hoàn cảnh: mồ côi cha mẹ, được dân làng Xô-man đùm bọc, nuôi dưỡng. Sau đó làm liên lạc cho anh Quyết, bị giặc bắt, vượt ngục trở về lãnh đạo dân làng. Anh đã vượt qua những bi kịch cá nhân để cầm súng.
    • Khi còn nhỏ: xuất hiện trong tính cách anh hùng, sớm tỏ ra thông minh, gan dạ, quả cảm.
    • Khi lớn lên lãnh đạo dân làng: anh đã biết vượt qua đau đớn, bi kịch cá nhân để chiến đấu (bất lực khi nhìn cảnh vợ con bị tra tấn, chịu đựng ngọn lửa tra tấn; yêu thương, gắn bó sâu nặng với buôn làng, quê hương…)
    • Dẫn chứng chi tiết nghệ thuật: bàn tay Tnú, tiếng chày giã gạo của người Strá…

    III. Kết bài:

    – Đặc sắc về nghệ thuật: cốt truyện khéo léo, cách kể chuyện sinh động, giọng điệu sử thi, ngôn ngữ sử thi, nhân vật sử thi…

    – Qua cách khắc họa những phẩm chất anh hùng của tập thể dân làng Xô-man, truyện ngắn Rừng xà nu được xem là bài ca về chủ nghĩa anh hùng.

    Dàn ý số 2

    1. Mở bài

    Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vấn đề cần cảm nhận.

    2. Thân bài:

    a. Chất Tây Nguyên trong hình tượng rừng xà nu:

    – Một loài cây đặc trưng mà chỉ ở mảnh đất Tây Nguyên nó mới sinh trưởng khỏe mạnh và phát triển rực rỡ đến như vậy, gắn bó chặt chẽ với đời sống của những con người nơi đây.

    – Trong chiến đấu rừng xà nu trở thành lớp áo giáp kiên cường bảo vệ dân làng Xô Man khi đứng trong tầm đại bác đại bác của giặc.

    – Trong đời sống thường nhật, cây xà nu trở thành một nhu yếu phẩm của dân làng, làm củi đốt “cháy dần dật” trong bếp mỗi gia đình, khói xà nu làm thành bảng cho Mai và Tnú học tập.

    – Trở thành những thước đo riêng để khắc họa hình ảnh từng nhân vật trong truyện ngắn, rừng xà nu chính là đại diện cho cả một tập thể làng Xô Man, ăn sâu vào từng nếp cẩm, lối tư duy, cách nói chuyện của mỗi một nhân vật.

    – Biểu tượng cho số phận đau thương và những phẩm chất tốt đẹp của con người Tây Nguyên.

    b. Chất Tây Nguyên thông qua hình tượng những người làng Xô Man:

    * Cụ Mết:

    – Với chức vị già làng, cụ chính là một điển hình nhất cho những người dân tộc sống với sức mạnh truyền thống và mang đậm dáng vẻ Tây Nguyên.

    – Là một người thủ lĩnh xứng đáng với sự toàn diện của một ngoại hình khỏe mạnh, đậm chất sử thi.

    – Làm rất xuất sắc vai trò của một vị già làng trong cộng đồng: chỉ bảo thanh niên trai tráng đi giấu vũ khí trên rừng, đôn đốc chuẩn bị lương thực kháng chiến, ra lệnh cứu Tnú một cách mạnh mẽ dứt khoát “Chém! Chém hết!”. Tuyên ngôn kháng chiến đậm âm hưởng Tây Nguyên “Chúng nó cầm súng thì mình phải cầm giáo”, “Thế là bắt đầu rồi! Đốt lửa lên!…Đốt lửa lên!.

    – Chất Tây Nguyên còn thể hiện trong cách cụ giáo dục dân làng về cách mạng, về tình thương nước thương nhà, bằng cách kể đi kể lại biết bao lần về câu chuyện của Tnú.

    => Cụ Mết là một nhân vật mang đậm cảm hứng Tây Nguyên nhất, cụ sống và chiến đấu với bản sắc truyền thống của dân tộc, lối nói, lối tư duy về cách mạng, về tình yêu quê hương đất nước cũng mang đậm chất của mảnh đất bạt ngàn xà nu.

    *Nhân vật Dít:

    – Mang những vẻ đẹp Tây Nguyên đậm đặc, kế thừa trọn vẹn truyền thống cách mạng của quê hương.

    – Dít giống một cây xà nu vừa mới trưởng thành, có những đức tính gan góc và quyết đoán, phù hợp với hình tượng của một người chiến sĩ cách mạng trong kháng chiến.

    – Trong một lần mang lương thực lên rừng Dít bị giặc bắt, chúng nó trói cô lại rồi “lên đạn tôm – xông rồi từ từ bắn từng viên một, không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai, xém tóc, cày đất quanh hai chân nhỏ của Dít”. Thoạt đầu Dít khóc ré lên “nhưng rồi đến viên thứ mười nó … bình thản lạ lùng, bình thản như đôi mắt của chị bí thư bây giờ vậy”. => Sự anh dũng, hào hùng mà có lẽ chỉ có ở những người con Tây Nguyên đã bao đời quen rừng rú, bạo gan.

    *Nhân vật Tnú:

    – Bức tượng đài hoàn chỉnh nhất của một người con Tây Nguyên khi tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mỹ với những nét đẹp mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn.

    – Tnú lớn lên trong sự đùm bọc yêu thương của làng Xô Man, sự giáo dục của cụ Mết thế nên anh có sự giác ngộ cách mạng từ rất sớm, kế thừa hoàn toàn vẻ đẹp truyền thống của dân tộc.

    – Tham gia chiến đấu từ khi còn nhỏ, sự liều lĩnh, gan dạ và khôn khoan khi đi đưa lương thực, thư từ, đã thể hiện rõ ràng những vẻ đẹp phẩm chất của một dân tộc gắn bó với núi rừng Tây Nguyên.

    – Tình cảm sâu nặng với gia đình, Tnú tận mắt chứng kiến vợ con anh bị giặc tra tấn đánh đập, trước hiểm cảnh dù biết là bản thân xông vào sẽ bị bắt và cũng không cứu được mẹ con Mai. Thế nhưng Tnú vẫn nhảy vào.

    => Chứng minh những tình cảm sâu sắc với gia đình, thể hiện rõ nhất cái bụng của con người Tây Nguyên, trước sự đớn đau của người thân yêu, người ta vẫn hành động thực thà theo bản năng, bất chấp hậu quả.

    – Bị giặc bắt đốt 10 đầu ngón tay, những đau đớn tinh thần và xác thịt đến tột cùng nhưng lòng anh chỉ đinh ninh “Người cộng sản không thèm kêu van…”, câu nói đậm âm hưởng Tây Nguyên, thể hiện sự trung thành tuyệt đối của Tnú.

    – Sau khi được cứu thoát, trên vai Tnú không chỉ là món nợ chung của đất nước và còn là mối thù riêng với bọn đế quốc, điều đó trở thành động lực củng cố, là cơ sở vững chắc cho lý tưởng cách mạng của Tnú.

    c. Chất Tây Nguyên thông qua những chi tiết về cung cách sinh hoạt lối sống của người dân làng Xô Man:

    – Người dân đi làm rẫy, nà bắp, trồng sắn, trồng cây pomchu, đeo xà lét, gùi củi,… phục vụ đời sống.

    – Tnú dù đã đi làm cách mạng thế nhưng vẫn đóng khố, hay cảnh Tnú xé quần áo của mình làm tấm vải cho Mai địu con.

    – Mọi người ngồi quây bên bếp lửa, ăn món canh bạc hà nấu lạt trong ống nứa, món cá chua, cảnh cụ Mết chia từng hạt muối cho mọi người,…

    – Chất Tây Nguyên cũng hiện lên trong cảnh Tnú tắm rửa ở máng nước đầu làng để tẩy trần như một tục lệ, hay cảnh người dân cầm đuốc bằng củi xà nu để soi sáng, rồi các loại dụng cụ làm rẫy, làm nương, chiến đấu đặc trưng cho một dân tộc miền rừng núi như giáo, mác, vụ, rựa,…

    – Chất Tây Nguyên còn bộc lộ thông qua lời ăn tiếng nói mang đậm bản sắc vùng miền của các dân tộc, mà ở đó ta thấy được sự thật thà, bộc trực, thẳng thắn của những người con của mảnh đất anh hùng.

    3. Kết bài

    Nêu cảm nhận chung.

    Cảm nhận chất Tây Nguyên trong Rừng Xà Nu – Mẫu 1

    Tây Nguyên – mảnh đất hùng vĩ và thơ mộng, với những con người nồng hậu yêu thương mà kiên cường bất khuất, từ lâu đã là nguồn cảm hứng cho biết bao văn nhân nghệ sĩ. Mỗi người đều tìm thấy ở mảnh đất này một biểu tượng đẹp cho tâm hồn cất cánh, ngòi bút thăng hoa. Ngọc Anh có Bóng cây Kơnia như nỗi lòng thổn thức thiết tha của tình yêu thủy chung son sắt, Thu Bồn có Bài ca chim Chơ-rao, ngân vang khúc hát trong trẻo nồng đượm tình người chiến thắng… Còn Nguyễn Trung Thành lại đem đến cho ta hình tượng những Rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời như sức sống bền và bất diệt của nhân dân Tây Nguyên trong công cuộc chống Mỹ cứu nước

    Đọc Rừng xà nu, không chỉ những nhân vật như cụ Mết, Tnú, Dít, Mai tạo nên ấn tượng sâu sắc trong chúng ta, mà còn là cây xà nu – một hình đặc sắc bao trùm toàn bộ thiên truyện ngắn này. Chính hình tượng cây xà nu tạo nên vẻ đẹp hùng tráng, chất sử thi lãng mạn cho câu chuyện về làng Xô Man bất khuất, kiên cường. Đó là hình tượng hàm chứa nhiều ý nghĩa tượng trưng. Qua hình tượng này, người đọc có thể thấy rõ sức sống kiên cường, sức sống mãnh liệt của con người Tây Nguyên nói riêng, của con người Việt nói chung trong những ngày đánh Mỹ. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Trung Thành lại miêu tả thật cụ thể, thật chi tiết rừng xà nu bằng một thứ ngôn ngữ giàu chất thơ, bằng những “lời có cánh” với một cảm xúc say mê mãnh liệt như đã thấy trong tác phẩm. Gần hai mươi lần nhà văn đã viết về xà nu, dường như cây xà nu tham dự vào tất cả những sinh hoạt, những tâm tình, những buồn vui của con người Tây Nguyên trong cuộc chiến đấu anh dũng của họ.

    Cả một câu chuyện dài, đau thương, bất khuất như một bản anh hùng ca về cuộc đời Tnú, cuộc đời dân làng Xô Man được kể trên nền chính của hình tượng cây xà nu. Cây xà nu, rừng xà nu như những con người, những tâm hồn, vừa là nhân chứng, vừa tham gia vào bản anh hùng ca, cũng vừa chịu đựng mọi gian nan, vất vả, đau thương do tội ác của kẻ thù, nhưng bất chấp tất cả, rừng xà nu vẫn vươn mình cường tráng, vẫn tồn tại bất chấp mọi đau thương: nó tượng trưng cho khát vọng tự do, khát vọng giải phóng, cho phẩm chất anh hùng và sức sống mãnh liệt của dân làng Xô Man, của nhân dân Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.

    Hình tượng cây xà nu hiện lên trong tác phẩm đầy chất thơ hùng tráng. Mở đầu và kết thúc câu chuyện là hình ảnh “hàng vạn cây xà nu” “sinh sôi nảy nở”,“rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng”… “đến hết tầm mắt cùng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời”. Rừng xà nu là biểu tượng cho con người. Cây được miêu tả như con người trong sự ứng chiếu với con người, gợi ra những biểu tượng về đời sống, số phận và phẩm cách của con người – các thế hệ dân làng Xô Man đánh Mỹ.

    Cây xà nu ham ánh sáng và khí trời, “nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng”, cũng như Tnú, như dân làng Xô Man yêu tự do. Rừng xà nu cũng như làng Xô Man, chịu nhiều đau thương bởi sự tàn ác của giặc: “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đúng ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”. Nhưng xà nu có sức sống thật mãnh liệt, không gì tàn phá nổi: “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn cây xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng trên bầu trời”, cũng như các thế hệ làng Xô Man, lớp này tiếp lớp khác đứng lên. Anh Quyết hy sinh thì có Tnú, Mai: Mai ngã xuống giữa tuổi tràn đầy sức sống, thì Dít lớn lên rất nhanh đến không ngờ, trở thành bí thư chi bộ, chính trị viên xã đội: rồi những bé Heng, thế hệ tiếp theo của Dít cũng đang lớn lên, tiếp tục cuộc chiến đấu. Đồng thời, ngược lại, nhiều chỗ miêu tả con người, nhà văn đã so sánh với cây xà nu. Cụ Mết thì “ngực căng như một cây xà nu lớn”, vết thương trên lưng Tnú do giặc tra tấn thì “ứa ra một giọt máu đậm, từ sáng đến chiều thì đặc quyện lại, tím thâm như nhựa xà nu”. Thủ pháp ấy trong miêu tả tạo nên một sự hòa nhập, tương ứng giữa con người và thiên nhiên trong một chất thơ hào hùng, tráng lệ. Nhà văn đã ví cụ Mết “như một cây xà nu lớn” bởi cụ là người hơn ai hết hiểu sự gắn bó của cây xà nu và mảnh đất đang sống, hiểu được sức mạnh tiềm tàng bất khuất của rừng cây cũng như dân làng Xô Man: “Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết hết rừng xà nu này!…”.

    Cây xà nu gắn bó với con người và cuộc sống dân làng. Xà nu không chỉ có mặt trong đoạn mở đầu và kết thúc, nó còn hiện diện trong suốt câu chuyện về Tnú và làng Xô Man của anh. Xà nu có mặt trong đời sống hằng ngày như đã tự ngàn đời nay của dân làng: Ngọn lửa xà nu trong mối bếp; đống lửa ở nhà rông tập hợp cả dân làng, ngọn đuốc xà nu cháy sáng soi những đoạn rừng đêm; khói xà nu hun tấm bảng đen cho anh Quyết đạt Tnú và Mai học chữ..; xà nu cũng tham dự vào những sự kiện quan trọng của cuộc sống chống Mĩ: ngọn đuốc xà nu cháy sáng trong tay cụ Mết và tất cả dân làng vào rừng lấy dao, mác, dụ, rựa đã giấu kĩ, chuẩn bị cho cuộc nổi dậy, và đêm đêm làng Xô Man thức, dưới ánh đuốc xà nu, mài vũ khí; giặc đốt hai bàn tay Tnú bằng giẻ tẩm nhựa xà nu…; cũng ngọn lửa từ các đuốc xà nu soi sáng rực cái đêm cả làng nổi dậy, soi rõ xác mười tên lính giặc bị giết ngổn ngang quanh đống lửa lớn giữa sân làng…

    Cây xà nu còn là người chứng kiến sự giác ngộ, sự hy sinh thầm lặng, lòng dũng cảm, ý chí quật cường của dân làng Xô Man: “Đứng trên đồi xà nu gần con nước lớn. Suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng.”. Ánh lửa xà nu soi sáng lời căn dặn của anh Quyết: “Người còn sống phải chuyển dáo, mác, dụ. rựa, tên, ná… Sẽ có ngày dùng tới”. Lửa xà nu thử thách ý chí cũng như lòng can đảm của Tnú: “không có gì đượm bằng nhựa xà nu.. Mười đầu ngón tay đã thành mười ngọn đuốc… Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi.. ”. Căm thù trong anh cháy giần giật như nhựa xà nu bén nhạy để “bàn tay hận thù” thành “bàn tay trả thù” bóp chết tên ác ôn dưới ngách hầm.

    Câu chuyện cụ Mết kể phảng phất phong vị anh hùng ca. Đêm kể chuyện dưới ánh lửa xà nu chắc cũng giống như đêm già làng thường kể về các bài: anh hùng ca truyền thống của Tây Nguyên. Giọng điệu sử thi của Rừng xà nu bắt nguồn từ đó. Cây xà nu gắn với quá khứ, hiện tại anh hùng, gắn bó với mọi sinh hoạt, phong tục và đời sống văn hóa của dân tộc Tây Nguyên, khiến cho câu chuyện làng Xô Man đánh Mỹ lung linh sắc màu huyền thoại như Đam San, Xinh Nhã thuở nào…

    Có thể nói hình tượng xà nu là mô típ chủ đạo của tác phẩm. Xà nu trở thành biểu tượng cho cuộc sống và phẩm chất của dân làng Xô Man. Đó là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Trung Thành. Nhà văn đã lựa chọn hình ảnh cây xà nu và đem lại cho nó những ý nghĩa mới, những vẻ đẹp mới để dựng lên bức tranh sử thi chống Mĩ của những con người kiên cường bất khuất nơi núi rừng hùng vĩ Tây Nguyên.

    Nói về các tác phẩm: Đất nước đứng lên và Rừng xà nu, có nhà nghiên cứu văn học đã nhận định rằng: Có thể coi đây là những bản anh hùng ca mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn về cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên , nói rộng ra là về hai cuộc chiến tranh nhân dân kì diệu của dân tộc ta. Tác giả Nguyễn Trung Thành (Nguyên Ngọc) thật sự đã khắc họa được những nhân vật anh hùng gắn bó thành một tập thể anh hùng vừa mang dấu ấn của thời đại, vừa đậm đà dáng nét Tây Nguyên.

    Ta hãy phân tích vẻ đẹp của hình tượng các nhân vật nổi bật lên trong bối cảnh hùng vĩ của Rừng xà nu: Tnú, cụ Mết, Dít và bé Heng.

    Nhân vật trung tâm của truyện là nhân vật Tnú được tác giả khắc họa bằng những nét tính cách anh hùng, giàu chất sử thi. Trước hết Tnú rất gắn bó với cách mạng. Từ nhỏ Tnú đã từng nuôi giấu cán bộ và hoàn thành xuất sắc công tác giao liên. Khi bị giặc bắt, Tnú dũng cảm chịu đựng những đòn tra tấn của giặc. Sau khi vượt ngục, anh cùng cụ Mết tiếp tục lãnh đạo dân làng Xô Man mài giáo mài rựa chiến đấu chống lại kẻ thù.

    Tnú tha thiết thương yêu bản làng. Sau ba năm chiến đấu trở về làng, anh nhớ rõ từng hàng cây, từng con đường, từng dòng suối, bổi hổi xúc động khi nghe tiếng chày chuyên cần, rộn rã của những người đàn bà và những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xa xưa, của Mai, của Dít, từ ngày lọt lòng anh đã nghe tiếng chày ấy rồi. Anh yêu thương vợ con tha thiết. Chứng kiến cảnh kẻ thù man rợ dùng cây sắt đập chết mẹ con Mai, nỗi đau thương của Tnú dâng lên tột đỉnh. Anh lao vào lũ giặc với một tiếng thét dữ dội và anh dang hai cánh tay trông như hai cánh lim chắc của anh Ôm chặt lấy mẹ con Mai. Càng đau thương, Tnú càng căm thù giặc. Vợ con bị giết, lòng căm hận biến đôi mắt Tnú thành hai cục lửa lớn. Khi bị giặc bắt, mười đầu ngón tay Tnú bị đốt cháy, anh không kêu lên một tiếng nào (…). Răng anh đã cắn nát môi anh rồi.

    Yêu thương, căm thù biến thành hành động. Tnú thét lên một tiếng. Chỉ một tiếng thôi. Những tiếng thét của anh bỗng vang dội thành nhiều tiếng thét dữ dội hơn. Thế là cơn giông bão nổi lên. Cả làng Xô Man vùng dậy suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng… Nỗi đau xé lòng của Tnú đã khiến cho anh và đồng bào anh dứt khoát đứng lên tiêu diệt cả một tiểu đội giặc hung ác. Riêng Tnú đi “lực lượng” để quyết tiêu diệt mọi kẻ thù tàn ác để bảo vệ bản làng, giải phóng quê hương. Chính trong thực tế chiến đấu mà nhân vật vươn lên nhận thức đó hiểu biết sâu sắc về kẻ thù và nâng lòng căm thù cá nhân lên thành căm thù chung của dân tộc.

    Nhân vật tiêu biểu cho truyền thống của làng Xô Man là nhân vật cụ Mết. Lịch sử chiến đấu của làng, qua lời kể của cụ Mết, thâm sâu vào tim óc các thế hệ. Cụ là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, là pho sử sống của làng. Tấm lòng cụ Mết đối với cách mạng trước sau như một. Cụ đã từng nói: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn”. Trong những năm đen tối cụ Mết cùng dân làng Xô Man, từ thanh niên, ông già bà già, đến lũ trẻ, đi nuôi và gác cho cán bộ và năm năm chưa hề có một cán bộ bị giặc bắt hay giết trong rừng làng này.

    Cụ Mết còn là linh hồn làng Xô Man. Chính cụ đã tìm ra chân lý dùng bạo lực để chiến đấu: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Chinh cụ đã lãnh đạo dân làng đồng khởi. Hình ảnh ông cụ mắt sáng và xếch ngược, ngực căng như một cây xà nu lớn, cất tiếng nói vang vang như một mệnh lệnh thôi thúc họ vùng lên tiêu diệt kẻ thù… thật rực rỡ như trong một trang sử thi anh hùng: “Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mối người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây dụ, một cây rựa.

    Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông! Đốt lửa lên”. Từ ngày ấy làng Xô Man trở thành thành làng chiến đấu. Đó là phần đóng góp không nhỏ của cụ Mết vào công cuộc giải phóng quê hương bản làng.

    Nhân vật tiêu biểu cho những cô gái Tây Nguyên thời chống Mĩ, trưởng thành từ những đau thương và quật khởi của dân làng là nhân vật Dít. Trong thời gian dân làng Xô Man chuẩn bị chiến đấu, rồi bị địch bao vây, cụ Mết và Tnú dẫn đánh thanh niên vào rừng. Chỉ có con Đít nhỏ, lanh lẹ, cứ sẫm tối lại bò theo máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết, Tnú và thanh niên. Khi bị giặc bắt, Dít bị chúng bắt dọa, đạn chỉ sượt qua tai xém tóc, cày đất quanh hai chân nhỏ… thì Dít vẫn đứng lặng giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh, dẻ của nó lại quật lên một cái nhưng đôi mắt nó thì vẫn nhìn bọn giặc bình thản… Ngày Mai bị giặc đánh chết và Tnú ra đi, trong khi mọi người, cả cụ già, đều khóc vì cái chết của Mai thì Dít vẫn lầm lì, không nói gì cả, mắt ráo hoảnh.

    Dít cũng giàu tình cảm thương yêu, khi Tnú về thăm làng, Dít đã là bí thư chi bộ vừa là chính trị viên xã đội. Như ngày nào, đôi mắt Dít vẫn mở to, bình thản, trong suốt khi gặp lại Tnú. Dù trong lòng rất vui: Dít vẫn nghiêm chỉnh thực hiện trách nhiệm kiểm tra giấy về phép của anh. Rồi từ chỗ gọi Tnú là đồng chí, Dít chuyển sang gọi anh là anh, xưng em thật tự nhiên, như người em gái nhỏ của Mai và Tnú ngày xưa và tỏ bày tình thân thiết: “Sao anh về có một đêm thôi… Bọn em miệng đứa nào cũng nhắc anh mãi”.

    Cuối cùng tiêu biểu cho thế hệ trẻ tuổi nhất của dân làng Xô Man là nhân vật bé Heng. Ngày Tnú ra đi lực lượng, bé Heng mới đứng ngang bụng anh, chưa biết mang củi, chỉ mới đeo cái xà-lét nhỏ xíu theo người lớn ra rẫy. Ngày Tnú về phép, bé Heng lớn lên, cũng ít nói như những người dân làng Xô Man này, với cách ăn mặc và trang bị ra vẻ một người lính, một chiến sĩ du kích của bản làng. Làng Xô Man giờ đây trở thành làng chiến đấu và con đường vào làng phải qua hai cái dốc chằng chịt hầm chông, hố chông ngăn chặn địch. Bé Heng đã góp phần không nhỏ vào việc xây dựng những công sự này, nên tỏ ra rất hãnh diện. Sự trưởng thành của nhân vật còn thể hiện trong một cử chỉ nhỏ nhưng toát lên ý thức trách nhiệm và sự tiến bộ về’ sinh hoạt đời sống: Khi đưa Tnú ngang một con suối nhỏ bé Heng bảo Tnú rửa chân, nhưng đừng uống nước lạnh. Uống nước lạnh về chị Dít phê bình đó.

    Nếu cụ Mết xứng đáng với hình ảnh cây xà nu đại thụ giữa rừng xà nu bạt ngàn xanh thẫm thì bé Heng tượng trưng cho cây xà nu mới lớn ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời sẽ phát triển đến đâu, chưa ai lường được.

    Nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Trung Thành mang những nét độc đáo đượm khí vị Tây Nguyên anh hùng. Nếu rừng xà nu tượng trưng cho con người Tây Nguyên kiên cường, thi các nhân vật cụ Mết, Tnú, Dít, bé Heng là hình ảnh những lớp cây xà nu đại diện cho thế hệ nối tiếp nhau của dân làng Xô Man, được khắc họa bằng những nét tính cách cụ thể và sinh động. Qua rừng xà nu ta hiểu biết và mến yêu thêm đất nước và con người Tây Nguyên. Họ đã đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp chiến đấu chung để giải phóng dân tộc.

    Cảm nhận chất Tây Nguyên trong Rừng Xà Nu – Mẫu 2

    Nói về các tác phẩm: Đất nước đứng lên và Rừng xà nu, có nhà nghiên cứu văn học đã nhận định rằng: Có thể coi đây là những bản anh hùng ca mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn về cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên , nói rộng ra là về hai cuộc chiến tranh nhân dân kì diệu của dân tộc ta. Tác giả Nguyễn Trung Thành (Nguyên Ngọc) thật sự đã khắc họa được những nhân vật anh hùng gắn bó thành một tập thể anh hùng vừa mang dấu ấn của thời đại, vừa đậm đà dáng nét Tây Nguyên.

    Ta hãy phân tích vẻ đẹp của hình tượng các nhân vật nổi bật lên trong bối cảnh hùng vĩ của Rừng xà nu: Tnú, cụ Mết, Dít và bé Heng.

    Nhân vật trung tâm của truyện là nhân vật Tnú được tác giả khắc họa bằng những nét tính cách anh hùng, giàu chất sử thi. Trước hết Tnú rất gắn bó với cách mạng. Từ nhỏ Tnú đã từng nuôi giấu cán bộ và hoàn thành xuất sắc công tác giao liên. Khi bị giặc bắt, Tnú dũng cảm chịu đựng những đòn tra tấn của giặc. Sau khi vượt ngục, anh cùng cụ Mết tiếp tục lãnh đạo dân làng Xô Man mài giáo mài rựa chiến đấu chống lại kẻ thù.

    Tnú tha thiết thương yêu bản làng. Sau ba năm chiến đấu trở về làng, anh nhớ rõ từng hàng cây, từng con đường, từng dòng suối, bổi hổi xúc động khi nghe tiếng chày chuyên cần, rộn rã của những người đàn bà và những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xa xưa, của Mai, của Dít, từ ngày lọt lòng anh đã nghe tiếng chày ấy rồi. Anh yêu thương vợ con tha thiết. Chứng kiến cảnh kẻ thù man rợ dùng cây sắt đập chết mẹ con Mai, nỗi đau thương của Tnú dâng lên tột đỉnh. Anh lao vào lũ giặc với một tiếng thét dữ dội và anh dang hai cánh tay trông như hai cánh lim chắc của anh Ôm chặt lấy mẹ con Mai. Càng đau thương, Tnú càng căm thù giặc. Vợ con bị giết, lòng căm hận biến đôi mắt Tnú thành hai cục lửa lớn. Khi bị giặc bắt, mười đầu ngón tay Tnú bị đốt cháy, anh không kêu lên một tiếng nào (…). Răng anh đã cắn nát môi anh rồi.

    Yêu thương, căm thù biến thành hành động. Tnú thét lên một tiếng. Chỉ một tiếng thôi. Những tiếng thét của anh bỗng vang dội thành nhiều tiếng thét dữ dội hơn. Thế là cơn giông bão nổi lên. Cả làng Xô Man vùng dậy suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng… Nỗi đau xé lòng của Tnú đã khiến cho anh và đồng bào anh dứt khoát đứng lên tiêu diệt cả một tiểu đội giặc hung ác. Riêng Tnú đi “lực lượng” để quyết tiêu diệt mọi kẻ thù tàn ác để bảo vệ bản làng, giải phóng quê hương. Chính trong thực tế chiến đấu mà nhân vật vươn lên nhận thức đó hiểu biết sâu sắc về kẻ thù và nâng lòng căm thù cá nhân lên thành căm thù chung của dân tộc.

    Nhân vật tiêu biểu cho truyền thống của làng Xô Man là nhân vật cụ Mết. Lịch sử chiến đấu của làng, qua lời kể của cụ Mết, thâm sâu vào tim óc các thế hệ. Cụ là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, là pho sử sống của làng. Tấm lòng cụ Mết đối với cách mạng trước sau như một. Cụ đã từng nói: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn”. Trong những năm đen tối cụ Mết cùng dân làng Xô Man, từ thanh niên, ông già bà già, đến lũ trẻ, đi nuôi và gác cho cán bộ và năm năm chưa hề có một cán bộ bị giặc bắt hay giết trong rừng làng này.

    Cụ Mết còn là linh hồn làng Xô Man. Chính cụ đã tìm ra chân lý dùng bạo lực để chiến đấu: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Chinh cụ đã lãnh đạo dân làng đồng khởi. Hình ảnh ông cụ mắt sáng và xếch ngược, ngực căng như một cây xà nu lớn, cất tiếng nói vang vang như một mệnh lệnh thôi thúc họ vùng lên tiêu diệt kẻ thù… thật rực rỡ như trong một trang sử thi anh hùng: “Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mối người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây dụ, một cây rựa.

    Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông! Đốt lửa lên”. Từ ngày ấy làng Xô Man trở thành thành làng chiến đấu. Đó là phần đóng góp không nhỏ của cụ Mết vào công cuộc giải phóng quê hương bản làng.

    Nhân vật tiêu biểu cho những cô gái Tây Nguyên thời chống Mĩ, trưởng thành từ những đau thương và quật khởi của dân làng là nhân vật Dít. Trong thời gian dân làng Xô Man chuẩn bị chiến đấu, rồi bị địch bao vây, cụ Mết và Tnú dẫn đánh thanh niên vào rừng. Chỉ có con Đít nhỏ, lanh lẹ, cứ sẫm tối lại bò theo máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết, Tnú và thanh niên. Khi bị giặc bắt, Dít bị chúng bắt dọa, đạn chỉ sượt qua tai xém tóc, cày đất quanh hai chân nhỏ… thì Dít vẫn đứng lặng giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh, dẻ của nó lại quật lên một cái nhưng đôi mắt nó thì vẫn nhìn bọn giặc bình thản… Ngày Mai bị giặc đánh chết và Tnú ra đi, trong khi mọi người, cả cụ già, đều khóc vì cái chết của Mai thì Dít vẫn lầm lì, không nói gì cả, mắt ráo hoảnh.

    Dít cũng giàu tình cảm thương yêu, khi Tnú về thăm làng, Dít đã là bí thư chi bộ vừa là chính trị viên xã đội. Như ngày nào, đôi mắt Dít vẫn mở to, bình thản, trong suốt khi gặp lại Tnú. Dù trong lòng rất vui: Dít vẫn nghiêm chỉnh thực hiện trách nhiệm kiểm tra giấy về phép của anh. Rồi từ chỗ gọi Tnú là đồng chí, Dít chuyển sang gọi anh là anh, xưng em thật tự nhiên, như người em gái nhỏ của Mai và Tnú ngày xưa và tỏ bày tình thân thiết: “Sao anh về có một đêm thôi… Bọn em miệng đứa nào cũng nhắc anh mãi”.

    Cuối cùng tiêu biểu cho thế hệ trẻ tuổi nhất của dân làng Xô Man là nhân vật bé Heng. Ngày Tnú ra đi lực lượng, bé Heng mới đứng ngang bụng anh, chưa biết mang củi, chỉ mới đeo cái xà-lét nhỏ xíu theo người lớn ra rẫy. Ngày Tnú về phép, bé Heng lớn lên, cũng ít nói như những người dân làng Xô Man này, với cách ăn mặc và trang bị ra vẻ một người lính, một chiến sĩ du kích của bản làng. Làng Xô Man giờ đây trở thành làng chiến đấu và con đường vào làng phải qua hai cái dốc chằng chịt hầm chông, hố chông ngăn chặn địch. Bé Heng đã góp phần không nhỏ vào việc xây dựng những công sự này, nên tỏ ra rất hãnh diện. Sự trưởng thành của nhân vật còn thể hiện trong một cử chỉ nhỏ nhưng toát lên ý thức trách nhiệm và sự tiến bộ về’ sinh hoạt đời sống: Khi đưa Tnú ngang một con suối nhỏ bé Heng bảo Tnú rửa chân, nhưng đừng uống nước lạnh. Uống nước lạnh về chị Dít phê bình đó.

    Nếu cụ Mết xứng đáng với hình ảnh cây xà nu đại thụ giữa rừng xà nu bạt ngàn xanh thẫm thì bé Heng tượng trưng cho cây xà nu mới lớn ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời sẽ phát triển đến đâu, chưa ai lường được.

    Nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Trung Thành mang những nét độc đáo đượm khí vị Tây Nguyên anh hùng. Nếu rừng xà nu tượng trưng cho con người Tây Nguyên kiên cường, thi các nhân vật cụ Mết, Tnú, Dít, bé Heng là hình ảnh những lớp cây xà nu đại diện cho thế hệ nối tiếp nhau của dân làng Xô Man, được khắc họa bằng những nét tính cách cụ thể và sinh động. Qua rừng xà nu ta hiểu biết và mến yêu thêm đất nước và con người Tây Nguyên. Họ đã đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp chiến đấu chung để giải phóng dân tộc.

    Cảm nhận chất Tây Nguyên trong Rừng Xà Nu – Mẫu 3

    Nguyễn Trung Thành, hay Nguyên Ngọc là một trong những cây bút xuất sắc trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đầy ác liệt của dân tộc. Trong khi bạn thân của ông là nhà văn Nguyễn Thi gắn bó với mảnh đất Nam Bộ chất phác, thật thà, thì Nguyễn Trung Thành lại dành nhiều tình cảm gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên đầy nắng và gió, với những người con dân tộc Tây Nguyên anh hùng mang vẻ đẹp sử thi, hào hùng trong kháng chiến, với khu rừng xà nu bạt ngàn, kiên cường trước tầm đại bác của địch. Suốt những năm tháng chiến đấu đầy gian khổ, gắn bó sâu nặng với con người và mảnh đất nơi đây, đã để lại trong những trang văn của Nguyên Ngọc một chất Tây Nguyên thấm đẫm trong từng câu chữ, từng nhân vật. Từ đó tạo ra những tác phẩm xuất sắc, có đóng góp to lớn vào nền văn học kháng chiến chống Mỹ với khuynh hướng sử thi, lãng mạn. Tiêu biểu nhất cho cảm hứng Tây Nguyên có lẽ phải kể đến Rừng xà nu, tác phẩm tiêu biểu và xuất sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Trung Thành.

    Chất Tây Nguyên trong tác phẩm trước hết xuất phát từ hình ảnh khu rừng xà nu bạt ngàn mở ra và khép lại toàn bộ tác phẩm. Đó là một loài cây đặc trưng mà chỉ ở mảnh đất Tây Nguyên nó mới sinh trưởng khỏe mạnh và phát triển rực rỡ đến như vậy. Với vai trò là một loài cây đặc trưng, thân thiết, xà nu đã gắn bó chặt chẽ với đời sống của những con người nơi đây. Trong chiến đấu rừng xà nu trở thành lớp áo giáp kiên cường bảo vệ dân làng Xô Man khi đứng trong tầm đại bác đại bác của giặc, ngày ngày hai lượt bị đại bác công phá, suốt mấy năm trời. Trong đời sống thường nhật, cây xà nu trở thành một nhu yếu phẩm của dân làng, làm củi đốt “cháy dần dật” trong bếp mỗi gia đình, khói xà nu làm thành bảng cho Mai và Tnú học tập. Gắn liền với sự kiện đau thương của cuộc đời Tnú, khi chính nhựa xà nu đã thiêu đốt mười đầu ngón tay của Tnú, đống lửa từ củi xà nu giữa cái đêm kinh hoàng đã giúp cho Tnú thấy rõ mặt từng kẻ giết hại vợ con. Đồng thời hình ảnh những cây xà nu nhỏ to, lớn bé lại lần lượt trở thành những thước đo riêng để khắc họa hình ảnh từng nhân vật trong truyện ngắn, rừng xà nu chính là đại diện cho cả một tập thể làng Xô Man. Không chỉ vậy thứ cây đặc trưng của vùng đất Tây Nguyên đầy nắng và gió này còn trở đi trở lại nhiều lần trong tác phẩm, ăn sâu vào từng nếp cẩm, lối tư duy, cách nói chuyện của mỗi một nhân vật. Đằng sau những nét tả thực, thì hình tượng cây xà nu chính là một biểu tượng cho số phận đau thương và những phẩm chất tốt đẹp của con người Tây Nguyên. Với hai hình ảnh tiêu biểu nhất ấy là “cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương” phản ánh lịch sử đau thương và “nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh sáng”, “cạnh một cây mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên , ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên trời”, bộc lộ sức chiến đấu và sức sống tiềm tàng mãnh liệt của những người con dân tộc anh hùng, máu lửa.

    Chất Tây Nguyên còn thể hiện rõ nét hơn trong hình tượng các nhân vật của tác phẩm, đậm đặc từ cái tên, đến ngoại hình, rồi lối nói, lối tư duy,… hay quá trình chiến đấu và số phận bất hạnh. Đầu tiên phải kể đến cụ Mết với chức vị già làng, cụ chính là một điển hình nhất cho những người dân tộc sống với sức mạnh truyền thống và mang đậm dáng vẻ Tây Nguyên. Mà như Nguyễn Trung Thành đã viết đôi lời “Ông là cội nguồn là Tây Nguyên của thời đại đất nước đứng lên còn trường tồn đến hôm nay. Ông như lịch sử bao trùm, nhưng không che lấp đi sự đi tới nối tiếp và mãnh liệt, ngày càng mãnh liệt hơn, sành sỏi và tự giác hơn của thế hệ sau”. Cụ là một người thủ lĩnh xứng đáng với sự toàn diện của một ngoại hình khỏe mạnh, đậm chất sử thi: “ngực căng như một cây xà nu lớn”, “bàn tay nặng trịch nắm chặt lấy vai anh như một cái kìm sắt”, rồi thì “Ông cụ vẫn quắc thước như xưa, râu bây giờ đã dài tới ngực và vẫn đen bóng, mắt vẫn sáng và xếch ngược, vết sẹo ở má bên phải vẫn láng bóng”. Giọng nói mạnh mẽ vang dội “sáu mươi tuổi rồi mà tiếng nói vẫn ồ, ồ, dội vang trong lồng ngực”. Thứ hai nữa là ở cụ với vai trò người đứng đầu mang vẻ đẹp truyền thống đã làm rất xuất sắc vai trò của một vị già làng trong cộng đồng, từ việc chỉ bảo thanh niên trai tráng đi giấu vũ khí trên rừng, đến việc đôn đốc chuẩn bị lương thực kháng chiến, rồi đến việc ra lệnh cứu Tnú một cách mạnh mẽ dứt khoát “Chém! Chém hết!”. Hoặc lời tuyên ngôn kháng chiến đậm âm hưởng Tây Nguyên “Chúng nó cầm súng thì mình phải cầm giáo”, “Thế là bắt đầu rồi! Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây vụ, một cây rựa. Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông! Đốt lửa lên!. Chất Tây Nguyên còn thể hiện trong cách cụ giáo dục dân làng về cách mạng, về tình thương nước thương nhà, bằng cách kể đi kể lại biết bao lần về câu chuyện của Tnú, và cả câu chuyện của mỗi một người dân làng đã hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ. Đối với riêng Tnú, một chàng trai có số phận bất hạnh, cụ dành cho anh nhiều tình thương hơn cả, đó không chỉ là tình thương của một già làng đối với người làng, mà là tấm lòng thương xót, trân trọng của một người cha già đã chứng kiến toàn bộ quãng đời của Tnú từ khi còn thơ bé cho đến khi trưởng thành phải chịu nhiều bi kịch. Cụ nhìn ra được ở Tnú những phẩm chất quý giá của một người cán bộ cách mạng, thế nên cụ đã dành nhiều tâm huyết để dạy dỗ, yêu thương Tnú, hướng Tnú đến với sự nghiệp bảo vệ làng nước quê hương và có thể sau này sẽ trở thành người nối nghiệp, thay cụ dẫn dắt dân làng chiến đấu. Có thể nói rằng tổng thể cụ Mết là một nhân vật mang đậm cảm hứng Tây Nguyên nhất, cụ sống và chiến đấu với bản sắc truyền thống của dân tộc, lối nói, lối tư duy về cách mạng, về tình yêu quê hương đất nước cũng mang đậm chất của mảnh đất bạt ngàn xà nu.

    Nhân vật thứ hai nữa là Dít, một cô gái mang những vẻ đẹp Tây Nguyên đậm đặc, kế thừa trọn vẹn truyền thống cách mạng của quê hương. Dít không mang những vẻ đẹp dịu dàng, mềm mại giống chị gái của mình, thay vào đó Dít giống một cây xà nu vừa mới trưởng thành, có những đức tính gan góc và quyết đoán, phù hợp với hình tượng của một người chiến sĩ cách mạng trong kháng chiến. Sinh ra và lớn lên trong thời buổi đất nước bị giặc tàn phá, thành thử Dít đã có trong mình những phẩm chất liều lĩnh, sự kiên cường khủng khiếp từ lúc còn thơ bé. Trong một lần mang lương thực lên rừng Dít bị giặc bắt, chúng nó trói cô lại rồi “lên đạn tôm – xông rồi từ từ bắn từng viên một, không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai, xém tóc, cày đất quanh hai chân nhỏ của Dít”. Thoạt đầu Dít khóc ré lên “nhưng rồi đến viên thứ mười nó chùi nước mắt, từ đó im bặt. Nó đứng lặng giữa bọn lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mảnh dẻ của nó lại quật lên một cái, nhưng đôi mắt nó thì vẫn nhìn bọn giặc bình thản lạ lùng, bình thản như đôi mắt của chị bí thư bây giờ vậy”. Hình ảnh ấy khiến người ta cảm phục vì sự anh dũng, hào hùng mà có lẽ chỉ có ở những người con Tây Nguyên đã bao đời quen rừng rú, bạo gan.

    Với nhân vật Tnú, anh có lẽ là bức tượng đài hoàn chỉnh nhất của một người con Tây Nguyên khi tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mỹ với những nét đẹp mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn. Tnú lớn lên trong sự đùm bọc yêu thương của làng Xô Man, sự giáo dục của cụ Mết thế nên anh có sự giác ngộ cách mạng từ rất sớm, kế thừa hoàn toàn vẻ đẹp truyền thống của dân tộc. Tnú tham gia chiến đấu từ khi còn nhỏ, sự liều lĩnh, gan dạ và khôn khoan của Tnú khi đi đưa lương thực, thư từ, đã thể hiện rõ ràng những vẻ đẹp phẩm chất của một dân tộc gắn bó với núi rừng Tây Nguyên, chẳng có con sông, cánh rừng, con đường nào mà Tnú không nắm trong lòng bàn tay. Rồi khi bị giặc bắt giam tận ba năm, Tnú cũng chẳng chịu ở yên, anh vượt ngục tìm đường trở về lãnh đạo thanh niên làng tham gia kháng chiến. Nhưng hình tượng người anh hùng đại diện cho cả một cộng đồng không chỉ dừng lại ở sự giác ngộ cách mạng, tấm lòng với quê hương mà còn ở những tình cảm sâu nặng với gia đình, với tư cách là một người chồng một người cha. Tnú tận mắt chứng kiến vợ con anh bị giặc tra tấn đánh đập, đó là nỗi đau không thể hình dung được, trước hiểm cảnh dù biết là bản thân xông vào sẽ bị bắt và cũng không cứu được mẹ con Mai. Thế nhưng Tnú vẫn nhảy vào dùng đôi tay như cái gọng kìm của mình ôm chặt che chở lấy vợ con mình, chứng minh những tình cảm sâu sắc với gia đình, thể hiện rõ nhất cái bụng của con người Tây Nguyên, trước sự đớn đau của người thân yêu, người ta vẫn hành động thực thà theo bản năng, bất chấp hậu quả. Tnú không cứu được mẹ con Mai, lại bị giặc bắt đốt 10 đầu ngón tay, những đau đớn tinh thần và xác thịt đến tột cùng nhưng vẫn không làm lay chuyển được tinh thần cách mạng của người chiến sĩ ấy, lòng anh chỉ đinh ninh “Người cộng sản không thèm kêu van…”, câu nói đậm âm hưởng Tây Nguyên, thể hiện sự trung thành tuyệt đối của Tnú. Sau khi được cứu thoát, trên vai Tnú không chỉ là món nợ chung của đất nước và còn là mối thù riêng với bọn đế quốc, điều đó trở thành động lực củng cố, là cơ sở vững chắc cho lý tưởng cách mạng của Tnú. Hoàn thiện hình tượng người anh hùng lý tưởng của cộng đồng dân tộc, tham gia tích cực vào kháng chiến, dùng đôi tay đầy đau thương của mình giết từng tên giặc để trả mối nợ nước thù nhà.

    Bên cạnh đó chất Tây Nguyên trong Rừng xà nu còn dàn trải trong tác phẩm thông qua những chi tiết về cung cách sinh hoạt lối sống của người dân làng Xô Man. Ví như việc người dân đi làm rẫy, nà bắp, trồng sắn, trồng cây pomchu, đeo xà lét, gùi củi,… phục vụ đời sống. Rồi thì trong cách ăn mặc, Tnú dù đã đi làm cách mạng thế nhưng vẫn mang theo những nét đặc trưng trang phục của dân tộc, như trên mặc áo bà ba rộng thùng thình còn bên dưới vẫn đóng khố, hay cảnh Tnú xé quần áo của mình làm tấm vải cho Mai địu con. Cách ăn uống đậm chất đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên khi mọi người ngồi quây bên bếp lửa, ăn món canh bạc hà nấu lạt trong ống nứa, món cá chua, cảnh cụ Mết chia từng hạt muối cho mọi người,… Chất Tây Nguyên cũng hiện lên trong cảnh Tnú tắm rửa ở máng nước đầu làng để tẩy trần như một tục lệ, hay cảnh người dân cầm đuốc bằng củi xà nu để soi sáng, rồi các loại dụng cụ làm rẫy, làm nương, chiến đấu đặc trưng cho một dân tộc miền rừng núi như giáo, mác, vụ, rựa,… Cuối cùng chất Tây Nguyên còn bộc lộ thông qua lời ăn tiếng nói mang đậm bản sắc vùng miền của các dân tộc, mà ở đó ta thấy được sự thật thà, bộc trực, thẳng thắn của những người con của mảnh đất anh hùng.

    Cảm hứng Tây Nguyên trong sáng tác của Nguyễn Trung Thành là một nét rất riêng trong phong cách nghệ thuật ông, chính điều này đã đưa tên tuổi của tác giả bật lên như một vì sao sáng giữa một rừng các tác phẩm của các nhà văn cùng thời khi viết về đề tài kháng chiến. Để có được những cảm nhận sâu sắc như vậy, chắc chắn một điều rằng bản thân Nguyên Ngọc đã dành rất nhiều tình cảm gắn bó, thương yêu sâu nặng với mảnh đất và những người con anh hùng này trong suốt quãng thời gian sống và chiến đấu đầy gian khổ, để dành độc lập cho dân tộc.

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *