Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng Tnú trong Rừng xà nu và A phủ trong Vợ chồng A Phủ mang đến 2 gợi ý cách viết và 2 mẫu siêu hay gồm bài cảm nhận ngắn gọn, đầy đủ. Qua đó giúp cho các em học sinh lớp 12 có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng luyện Văn ngày một tốt hơn.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 12: Cảm nhận hình tượng Tnú và A phủ (2 Dàn ý + 2 mẫu)
Cảm nhận hình tượng nhân vật Tnú và A Phủ chúng ta thấy được những nét tương đồng, mỗi nhân vật còn có những nét cá biệt, thể hiện tài năng sáng tạo của hai nhà văn. Nhờ đó, nền văn xuôi của chúng ta vừa có sự thống nhất, vừa có sự phong phú. Bên cạnh đó các bạn tham khảo thêm phân tích Vợ chồng A Phủ, phân tích nhân vật Mị và một số bài văn hay khác tại chuyên mục Văn 12.
So sánh hình tượng nhân vật Tnú và A phủ
Dàn ý cảm nhận hình tượng Tnú và A phủ
Dàn ý số 1
I. Mở bài. Giới thiệu khái quát hai tác phẩm, tác giả và vấn đề nghị luận
Nguyễn Trung Thành và Tô Hoài là hai nhà văn gắn bó mật thiết với cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc ta. Điểm chung của hai nhà văn là đều có những tác phẩm ngợi ca truyền thống yêu nước, căm thù giặc và khao khát chiến đấu, son sắt với cách mạng của nhân dân ta. Tuy cả hai tác giả đều nói về người dân trong cuộc kháng chiến nhưng mỗi nhà văn lại xây dựng nhân vật với những đặc điểm riêng. Tnú trong “Rừng xà nu” và A Phủ trong “Vợ chồng A Phủ” là hai nhân vật tiêu biểu. Tuy nhiên có ý kiến cho rằng:Ở Tnú không có vấn đề tìm đường, nhận đường như nhân vật A Phủ, câu chuyện về Tnú được mở ra từ chính chỗ A Phủ dần khép lại.
II. Thân bài
1. Giải thích:
– Tìm đường, nhận đường là vấn đề nhận thức về lý tưởng – mục đích cao nhất của cuộc sống.
– Nhân vật A Phủ của Tô Hoài được coi là nhân vật đang trên đường đi tìm lý tưởng và nhận thức lý tưởng. Nhân vật Tnú đã có lý tưởng ngày khi anh còn nhỏ.
→ Ở Tnú không có vấn đề tìm đường, nhận đường như nhân vật A Phủ, câu chuyện về Tnú được mở ra từ chính chỗ A Phủ dần khép lại. Có nghĩa Tnú là hệ nối tiếp, đi sau sẽ có những bước phát triển và phẩm chất mới mẻ hơn so với nhân vật đàn anh A Phủ.
2. Điểm gặp gỡ và khác biệt của hai nhân vật
2.1. Điểm gặp gỡ
Đều sinh ra từ những vùng cao xa xôi, hẻo lánh:
- A Phủ sinh ra tại vùng núi Tây Bắc.
- Tnú sinh tại vùng đất Tây Nguyên đầy nắng và gió.
Đều mồ côi:
- Cha mẹ A Phủ mất trong dịch đậu mùa khi đó cậu chừng 10 tuổi. Lần lần đi làm thuê cho nhà người.
- Tnú cũng mồ côi từ nhỏ được dân làng STrá nuôi dưỡng.
Lớn lên đều là những chàng trai khỏe mạnh, cường tráng:
- A Phủ được ví như con trâu tốt trong làng.
- Tnú được ví như cây xà nu cường tráng bất chấp đạn bom.
Cả hai đều có phẩm chất dũng mãnh, căm thù cái ác, sự bất công và đi theo cách mạng:
– A Phủ
- Chống lại A Sử – con quan khi hắn phá cuộc chơi → không sợ cường quyền.
- Sau khi được Mị cắt dây cởi trói, chạy đến vùng Phiềng Sa, được người cán bộ A Châu giác ngộ, anh đã là du kích hoạt động rất tích cực.
– Tnú:
- Gan góc quả cảm ngay từ nhỏ (Chi tiết: Nuôi giấu cán bộ, nuốt thẻ khi bị bắt)
- Chỉ huy dân làng mài vũ khí, chuẩn bị lực lượng chiến đấu.
- Mặc dù chịu nhiều đau thương: vợ con mất, bàn tay bị đốt nhưng anh vẫn đi lực lượng cầm vũ khí chiến đấu.
2.2. Sự khác biệt
a. A Phủ
Cảnh ngộ của A Phủ rất đáng thương:
- A Phủ mồ côi cha mẹ từ khi còn nhỏ
- Nạn nhân của những tập tục phong kiến lạc hậu
- Kiếp sống nô lệ ngựa trâu cho nhà thống lí.
Tính cách của A Phủ rất đặc biệt:
- Gan góc, có ý thức phản kháng mỗi khi không chịu nổi điều gì (chi tiết: đánh A Sử; để hổ bắt mất một con bò, anh không van xin, không cầu cứu, đêm cúi xuống nhay đứt hai vòng dây trói; khi được Mị cứu, anh quật sức chạy thoát)
- Tuy nhiên do bị đọa đày triền miên khiến trong anh còn rơi vào tình trạng chấp nhận, cam chịu (chi tiết: tập tễnh đi giết lợn phục dịch những kẻ vừa hành hạ mình; một mình rong ruổi ngoài rừng mà không chạy trốn; nghe lời thống lí tự đi lấy cọc, đóng cọc, lấy dây để hắn trói mình) → thói quen cam chịu, cam phận của người nông dân trên các vùng núi cao, khi ánh sáng của Đảng chưa vươn tới. Họ sống như trong đêm tối không biết đường ra, không ai chỉ đường vạch lối. Đến khi cái chết cận kề, họ mới biết dựa vào nhau để giành giật lấy sự sống.
→ Tô Hoài rất biện chứng trong hai mặt đối lập của nhân vật và chỉ ra cho người đọc thấy đó là bước tìm đường, nhận đường của A Phủ để sau này sang Phiềng Sa gặp A Châu (cán bộ Đảng), anh được giác ngộ và sẵn sàng cầm súng trở thành du kích quay về giải phóng quê hương.
b. Tnú:
Khác với A Phủ, câu chuyện về cuộc đời của Tnú được mở ra từ chính câu chuyện về A Phủ được khép lại.
- Tnú mồ côi nhưng được sống trong vòng tay yêu thương đùm bọc của dân làng Xô Man.
- Được gần cán bộ cách mạng là anh Quyết, được dạy chữ để sau này tiếp nối làm cán bộ, lãnh đạo phong trào cách mạng ở quê hương.
→ Tnú có những điều kiện mà các nhân vật anh hùng miền sơn cước trước đó chưa có, hay chỉ có khi đã trải qua vô vàn đau khổ, gian truân.
Vì thế, ở Tnú không còn là nhân vật tìm đường nữa, anh đã có những điều kiện thuận lợi và phẩm chất mới mẻ, vượt xa với A Phủ
– Tnú có một bi kịch đau đớn nhưng vượt lên hoàn cảnh đau thương, anh lên đường vào lực lượng vũ trang tiếp tục chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước.
3. Đánh giá chung
– Tnú – người anh hùng mà cụ Mết kể trong cái đêm dài ấy có những phẩm chất thật đáng quý. Anh may mắn hơn so với thế hệ đàn anh của mình như anh hùng Núp và A Phủ:
- Không phải sống kiếp tội đòi cam phận, cam chịu.
- Được thừa hưởng phong trào cách mạng từ cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc.
- Được giác ngộ lí tưởng cách mạng ngay từ tuổi nhỏ.
– Nhưng “Lớp cha trước, lớp con sau / Đã thành đồng chí chung câu quân hành” tất cả các anh đều là những người con ưu tú của núi rừng Tây Bắc, Tây Nguyên trong các cuộc chiến tranh vệ quốc, mang trong mình chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng của dân tộc Việt Nam, mãi mãi là tấm gương sáng cho các thế hệ tiếp nối.
III. Kết bài:
- Đánh giá lại vấn đề
- Bài học nhận thức và hành động cho thế hệ trẻ trong cuộc sống, xã hội mới.
Dàn ý số 2
I. Mở bài. Đi từ điểm chung của hai tác giả, tác phẩm đến điểm riêng của từng nhân vật
- Điểm chung: Hai nhà văn Tô Hoài và Nguyễn Trung Thành đều gắn bó trực tiếp đến cuộc kháng chiến, họ viết về những người nông dân miền núi chịu nhiều đau khổ nhưng có truyền thống yêu nước, ý chí quật cường.
- Điểm riêng: Cách xây dựng hình tượng nhân vật mỗi nhà văn có những nét riêng => “Ở Tnú không có vấn đề về tìm đường, nhận đường như nhân vật A Phủ, câu chuyện về Tnú được mở ra từ chỗ A Phủ dần khép lại”
II. Thân bài:
Giải thích nhận định: “Ở Tnú không có vấn đề về tìm đường, nhận đường như nhân vật A Phủ, câu chuyện về Tnú được mở ra từ chỗ A Phủ dần khép lại”.
- Tìm đường, nhận đường là quá trình tìm kiếm, nhận thức về lối đi lớn của cuộc đời, lý tưởng sống, chiến đấu, ở đây là tìm thấy lối đi theo Cách mạng giải phóng dân tộc.
- A Phủ đi từ một người nông dân chưa có lối thoát đến một chiến sĩ cách mạng => tìm đường. Tnu đã có lý tưởng soi sáng khi còn nhỏ.
- Câu chuyện Tnu mở ra từ chỗ A Phủ khép lại, tức là Tnú là thế hệ nối tiếp con đường cách mạng của A Phủ, thế hệ sau sẽ có những bước phát triển nổi bật, mạnh mẽ so với thế hệ trước.
Phân tích hai nhân vật:
Điểm giống nhau:
+ Hai nhân vật đều là những người con dân tộc, A Phủ sinh ra ở vùng núi Tây Bắc, Tnu sinh ra ở vùng Tây Nguyên => Đều là những nơi xa xôi, thiếu thốn nhưng đồng bào lại sống rất chân thành, lam lũ.
+ Đều mồ côi từ bé, lớn lên trong sự đùm bọc của dân làng. Cha mẹ A Phủ qua đời trong một trận dịch đậu mùa, có người làng đói bụng bắt A Phủ đem đổi lấy thóc của người Thái. A Phủ không thích sống ở đồng bằng nên trốn lên vùng núi Hồng Ngài, ở cho nhà này, làm thuê cho nhà khác kiếm sống. Còn Tnú, cha mẹ Tnú chết sớm, dân làng Xô Man nuôi Tnú lớn khôn.
+ Mỗi người lớn lên đều đại diện cho dân làng: khỏe mạnh, cường tráng, chân thành, siêng năng: A Phủ biết làm nhiều việc như đúc lưỡi cày, cuốc, săn bò tót, chạy nhanh như ngựa. Con gái trong làng bảo “đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà”. Tnú thì từ bé đã sống tự lập, có ý chí học tập. Cụ Mết từng nói “đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”.
+ Hai nhân vật đều hướng đến chính nghĩa, bảo vệ công bằng, dũng cảm, có ý thức chống lại cái ác và tìm ra lối đi đúng đắn: A Phủ dám đánh cả con quan là A Sử vì hắn phá cuộc chơi. Khi bị bắt A Phủ nhận tội mình làm, được Mị cắt dây trói, A Phủ chạy tới Phiềng Sa và được cán bộ Đảng giác ngộ, anh tham gia du kích. Tnú đã theo Cách mạng từ bé, anh nuôi quân, làm liên lạc, lớn lên chỉ huy dân làng đánh giặc.
– Sự khác nhau:
* Cuộc đời A Phủ nhiều thăng trầm, đau thương như thân phận những người dân nghèo miền núi:
- Nạn nhân của cái đói, cái khổ: bị người làng đói quá bắt bán cho người Thái
- Nạn nhân của những tập tục lạc hậu, dị đoan miền núi: đánh con quan nên bị xử phạt tiền và bị đánh đập, không có tiền thì Thống lí Phá tra cho vay, làm nô lệ để gạt nợ, bị đem cúng trình ma nhà chủ nợ.
- Kiếp sống của một nô lệ: quanh năm suốt tháng làm việc quần quật cho nhà Thống Lí, làm mất bò phải bị trói vào cột, bị bỏ đói chịu rét sắp không sống được nữa…
* Trong A Phủ là hai mặt đối lập của một con người tiêu biểu cho người nông dân nghèo miền núi chưa ý thức được giá trị bản thân và bị thế lực cường quyền đè nén:
- Sức sống tiềm tàng, ý chí phản kháng: đánh A Sử, khi bị tró không van xin, không cầu cứu, khi Mị cắt dây trói, A Phủ vùng hết sức còn lại để chạy.
- Tuy nhiên có lúc lại cam chịu, chấp nhận: bị đánh đập, hành hạ bởi những kẻ cường quyền, lý dịch, buộc phải gánh những khoản nợ vô lý; có lúc đi chăn trâu, bò một mình ở rừng mà vẫn không trốn chạy; tự lấy dây thừng, cọc để Thống lí trói mình
=>Sống theo thói quen cam chịu do bị chèn ép lâu ngày. Họ chưa tìm được lối đi cho cuộc đời, chưa được soi rọi bởi ánh sáng tự do. Sống trong đêm tối vì chưa ai vạch đường, chỉ lối. Dù vậy trong mỗi con người tồn tại sức mạnh của lòng ham sống, sức mạnh ấy bộc lộ rõ nhất khi họ đứng trước ranh giới giữa sự sống và cái chết.
=> Tìm ra hai mặt đối lập bên trong nhân vật, Tô Hoài muốn gợi cho người đọc một bếp lửa tàn với bên trên là tro lạnh nhưng ẩn sâu trong ấy là những hòn than đang âm ỉ cháy. Chỉ đợi một cơn gió mạnh là có thể thổi tung lớp cho đi và bùng lên ngọn lửa. Chính vì lẽ ấy mà sau này khi gặp được A Châu, được giác ngộ lí tưởng, A Phủ đã nhận ra con đường đi của mình.
* Nhân vật Tnú
– Cuộc đời Tnú được mở ra từ sự khép lại của A Phủ. Tnú không còn tìm đường nữa mà từ nhỏ đã được nuôi dưỡng bởi ánh sáng cách mạng và tình yêu thương, đoàn kết của dân làng.
– Tnú không chỉ vùng dậy đấu tranh theo tình thần tự phát mà anh được rèn luyện, dạy bảo để trở thành người lãnh đạo của phong trào cách mạng quê hương. Tnú hòa mình vào cuộc chiến, quên đi nỗi đau của bản thân => hình tượng của một người anh hùng cách mạng.
– Tnú là bước phát triển tiếp theo của A Phủ khi đã hóa thân vào cuộc chiến của cả dân tộc, vì thế anh có điều kiện để bộc lộ những phẩm chất mới mẻ mà A Phủ chưa có:
- Giàu tình yêu thương với gia đình, quê hương, lòng trung thành với cách mạng: tình huống hai mẹ con Mai bị địch tra tấn, anh bị đốt mười đầu ngón tay, sau này làm du kích được nghỉ phép 1 đêm là xin được về thăm buôn làng…
- Dũng cảm, kiên cường, mưu trí: từ bé đã chẳng sợ địch, băng rừng, vượt suối để nuôi quân và đi liên lạc, lúc bị địch thì nuốt thư, xé rừng mà đi, chọn những nơi nước dữ dội qua…
- Lập được chiến công: cùng dân làng đánh giặc
Tnú có những lợi thế của thời đại: không phải sống trong kiếp nô lệ như A Phủ, lớn lên khi phong trào cách mạng đã đủ lông, đủ cánh, được anh Quyết rèn luyện, dạy bảo từ bé => vì thế cũng thể hiện những phẩm chất mới mẻ của người anh hùng trong thời kì KC chống Mỹ.
III. Kết bài:
Mỗi giai đoạn lịch sử đều có ý nghĩa nhất định, giai đoạn sau bao giờ cũng là bước nối tiếp, kế thừa của giai đoạn trước đó. Tinh thần Cách mạng cũng thế, phải bắt đầu từ việc tìm đường, nhận đường thì mới có một phong trào Cách mạng sôi nổi với những con người xả thân cho quê hương, đất nước cũng như có A Phủ thì mới phát triển đến Tnú.
Cảm nhận hình tượng Tnú và A phủ – Mẫu 1
Nguyễn Trung Thành là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến, gắn bó mật thiết với mảnh đất Tây Nguyên. Vì vùng đất ấy đã rất quen thuộc đối với ông từ những ngày viết đất nước đứng lên thời kỳ chống Pháp. Nay trở lại vùng đất ấy để viết về những người con Tây Nguyên chống Mĩ thì tác giả đã gặp lại cái màu xanh bạt ngàn của những rừng xà nu chạy dài đến chân trời .
Chính vì thế mà tác giả đã yêu say mê cây rừng xà nu tù ngày đó ông đã kể lại như vậy. Cho hình tượng nhân vật Tnú gắn liền với hình ảnh cây xà nu đã trở thành ấn tượng mạnh mẽ và gợi cảm hứng sáng tác cho ông.
Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm của ông luôn thể hiện vốn hiểu biết sâu sắc, đặc biệt về những phong tục và sinh hoạt đời thường của những vùng văn hóa khác nhau trên đất nước ta. Ông thành công với những tác phẩm viết về loài vật và đặc biệt ấn tượng với những tác phẩm viết về hiện thực cuộc sống và con người Tây Bắc. Nổi bật là truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, với hình tượng người anh hùng A Phủ.
Khi so sánh hình tượng nhân vật Tnú và A Phủ, ta mới thấy được rằng cả hai nhân vật đều sinh ra ở những vùng quê hẻo lánh. Nếu như A Phủ sinh ra tại vùng núi Tây Bắc thiếu thốn thì Tnú lại sinh ra ở một nơi chẳng mấy khá hơn đó là Tây Nguyên đầy nắng và gió.
Cả hai đều mồ côi từ rất sớm, cùng lớn lên trong tình yêu thương của mọi người. Họ đại diện cho dân làng bằng tất cả sự khỏe mạnh, cường tráng và siêng năng. A Phủ biết làm nhiều việc như đúc lưỡi cày, cuốc, săn bò tót, chạy nhanh như ngựa. Con gái trong làng bảo “đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà”. Tnú thì từ bé đã sống tự lập, có ý chí học tập. Cụ Mết từng nói “đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”.
So sánh hình tượng nhân vật Tnú và A Phủ để thấy rõ cả hai nhân vật đều hướng đến chính nghĩa, bảo vệ công bằng, dũng cảm, có ý thức chống lại cái ác và tìm ra lối đi đúng đắn. A Phủ dám đánh cả con quan là A Sử vì hắn phá cuộc chơi. Khi bị bắt A Phủ nhận tội mình làm, được Mị cắt dây trói, A Phủ chạy tới Phiềng Sa và được cán bộ Đảng giác ngộ, anh tham gia du kích. Còn Tnú đã theo Cách mạng từ bé, anh nuôi quân, làm liên lạc, lớn lên chỉ huy dân làng đánh giặc.
Cuộc đời A Phủ nhiều thăng trầm, đau thương như thân phận những người dân nghèo miền núi. Anh là nạn nhân của cái đói, cái khổ: bị người làng đói quá bắt bán cho người Thái. Nạn nhân của những tập tục lạc hậu, dị đoan miền núi: đánh con quan nên bị xử phạt tiền và bị đánh đập, không có tiền thì Thống lí Pá tra cho vay, làm nô lệ để gạt nợ, bị đem cúng trình ma nhà chủ nợ.
Trong A Phủ là hai mặt đối lập của một con người tiêu biểu cho người nông dân nghèo miền núi chưa ý thức được giá trị bản thân. Tuy bị thế lực cường quyền đè nén nhưng vẫn ngời sáng sống tiềm tàng, ý chí phản kháng. Song, có lúc lại cam chịu, chấp nhận bị đánh đập, hành hạ bởi những kẻ cường quyền, lý dịch, buộc phải gánh những khoản nợ vô lý.
Tô Hoài đã để cho nhân vật sống theo thói quen cam chịu do bị chèn ép lâu ngày. Họ chưa tìm được lối đi cho cuộc đời, chưa được soi rọi bởi ánh sáng tự do. Sống trong đêm tối vì chưa ai vạch đường, chỉ lối.
Dù vậy trong mỗi con người A Phủ tồn tại sức mạnh của lòng ham sống, sức mạnh ấy bộc lộ rõ nhất khi họ đứng trước ranh giới giữa sự sống và cái chết. Tìm ra hai mặt đối lập bên trong nhân vật, Tô Hoài muốn gợi cho người đọc một bếp lửa tàn với bên trên là tro lạnh nhưng ẩn sâu trong ấy là những hòn than đang âm ỉ cháy. Chỉ đợi một cơn gió mạnh là có thể thổi từng lớp cho đi và bùng lên ngọn lửa. Chính vì lẽ ấy mà sau này khi gặp được A Châu, được giác ngộ lí tưởng, A Phủ đã nhận ra con đường đi của mình.
Cuộc đời Tnú được mở ra từ sự khép lại của A Phủ. Tnú không còn tìm đường nữa mà từ nhỏ đã được nuôi dưỡng bởi ánh sáng cách mạng và tình yêu thương, đoàn kết của dân làng. Tnú không chỉ vùng dậy đấu tranh theo tình thần tự phát mà anh được rèn luyện, dạy bảo để trở thành người lãnh đạo của phong trào cách mạng quê hương.
Tnú hòa mình vào cuộc chiến, quên đi nỗi đau của bản thân, anh là bước phát triển tiếp theo của A Phủ khi đã hóa thân vào cuộc chiến của cả dân tộc, vì thế anh có điều kiện để bộc lộ những phẩm chất mới mẻ mà A Phủ chưa có. Đó không chỉ là sự dũng cảm, kiên cường khi cùng dân làng đánh giặc mà còn thể hiện phẩm chất bên trong của con người đó là tình yêu thương gia đình.
Lập được chiến công cùng dân làng đánh giặc, Tnú có những lợi thế của thời đại. Khi so sánh hình tượng nhân vật Tnú và A Phủ, ta mới thấy rõ người con Tây Nguyên Tnú không phải sống trong kiếp nô lệ như A Phủ, lớn lên khi phong trào cách mạng đã đủ lông, đủ cánh, được anh Quyết rèn luyện, dạy bảo từ bé. Vì thế mà ở anh thể hiện những phẩm chất mới mẻ của người anh hùng trong thời kì kháng chiến chống
So sánh hình tượng nhân vật Tnú và A Phủ để thấy rõ giai đoạn lịch sử đều có ý nghĩa nhất định, giai đoạn sau bao giờ cũng là bước nối tiếp, kế thừa của giai đoạn trước đó. Tinh thần Cách mạng cũng thế, phải bắt đầu từ việc tìm đường, nhận đường thì mới có một phong trào Cách mạng sôi nổi với những con người sẵn sàng cống hiến bản thân cho Tổ quốc như Tnú và A Phủ.
Qua bài viết so sánh hình tượng nhân vật Tnú và A Phủ, chúng ta đã hiểu rõ hơn về vẻ đẹp của những người anh hùng miền núi. Từ đó, ca ngợi tinh thần chiến đấu chống giặc của dân tộc.
Cảm nhận hình tượng Tnú và A phủ – Mẫu 2
Tô Hoài và Nguyễn Trung Thành đều là những cây bút văn xuôi tiêu biểu trong nền văn học Việt Nam sau năm 1945. Nếu Tô Hoài rất sở trường với hiện thực cuộc sống của người dân miền núi Tây Bắc thì Nguyễn Trung Thành lại gắn bó máu thịt với mảnh đất Tây Nguyên trong những năm kháng chiến chống Mĩ. Nếu nói đến Tô Hoài, không thể quên truyện ngắn Vợ chồng A Phủ – một truyện ngắn xuất sắc viết về cuộc sống của những người dân Tây Bắc dưới chế độ phong kiến, thực dân, thì nhắc đến Nguyễn Trung Thành là phải nói đến Rừng xà nu – một “Đất nước đứng lên” của thời đánh Mĩ. Đặt hai nhân vật A Phủ (Vợ chồng A Phủ) và Tnú {Rừng xà nu) bên cạnh nhau, ta sẽ thấy rất nhiều ý nghĩa trong những nét tương đồng và khác biệt giữa họ.
A Phủ và Tnú tuy được xây dựng trong hai tác phẩm của hai tác giả ở hai thời kì khác nhau, ở hai miền đất khác nhau, nhưng đều là những con người miền núi. Một người thuộc dân tộc Mèo ở vùng Tây Bắc nên thơ (A Phủ), một người thuộc dân tộc Strá ở vùng Tây Nguyên hùng vĩ (Tnú). Cả hai đều mồ côi cha mẹ từ thuở ấu thơ, mang dáng dấp những đứa con côi trong cổ tích. A Phủ và Tnú đều sớm dạn dày, gan góc bởi hoàn cảnh sống đầy thử thách. Có nét gì chung rất dễ nhận ra ở hai con người cách nhau hàng ngàn cây số: đó là sự mạnh mẽ về thể chất và tinh thần. A Phủ đã dám đánh cả con quan, để rồi kiên gan chịu đựng những trận đòn báo thù khủng khiếp. Tnú thì thuở ấu thơ đã dám ra rừng đem gạo nuôi cán bộ, bị bắt, bị chém ngang dọc trên bụng trên lưng vẫn không hé răng khai báo nơi ở của cán bộ, bị đốt mười đầu ngón tay bằng nhựa xà nu vẫn cắn mồi đến bật máu để chịu đựng. Hai người chịu hai kiểu hành hạ, hài kiểu cực hình khác nhau, nhưng ta đều thấy ở họ sự chịu đựng phi thường.
Cả A Phủ và Tnú đều là những con người luôn hướng về ánh sáng. Tnú bắt gặp lí tưởng cách mạng được truyền từ anh Quyết, cán bộ của Đảng hoạt động bí mật, Tnú giống như cây xà nu tiếp ánh sáng mặt trời để không ngừng vươn toả lên bầu trời tự do. A Phủ cũng lao khỏi bóng tối ở Hồng Ngài, chạy hàng tháng trời trong rừng để đến Phiềng Sa – khu du kích, rồi sau đó gặp cán bộ, được giác ngộ, trở thành đội trưởng đội du kích. Phẩm chất cách mạng ở những người dân miền núi trong hoàn cảnh ngặt nghèo đã được hai nhà văn thể hiện rất sinh động.
Hai nhân vật ở hai vùng đất khác nhau, thuộc hai tộc người khác nhau, nhưng ta vẫn thấy ở họ có nét nào đó tương đồng trong tính cách. Ngoài sự cứng cỏi, gan góc, A Phủ và Tnú đều rất lặng lẽ, ít nói. Họ thuộc loại nhân vật hành động. Ấn tượng sâu nhất mà người đọc có được về hai nhân vật này là những hành động của họ. Với A Phủ, đó là hành động đánh con quan, hành động đi săn thú rừng, vác cả con bò bị hổ ăn mất một phần, làm bất cứ việc nặng nhọc nào trong nhà thống lí… Nó cho thấy sức mạnh thể chất của một con người. với Tnú, đó là hành động mang gạo ra rừng nuôi cán bộ, đi một mình lên núi cao ba ngày để mang đá trắng về làm phấn học chữ, lấy đá tự đập vào đầu khiến máu chảy ròng ròng khi học chữ không vào, cùng dân làng thức mài vũ khí hằng đêm để chuẩn bị chiến đấu, bóp chết tên đồn trưởng của giặc bằng hai bàn tay thương tích…
Bên cạnh nhiều điểm tương đồng, A Phủ và Tnú còn có những nét riêng, độc đáo, thể hiện khả năng cá biệt hoá của hai nhà văn. Điều này thể hiện đầy đủ qua số phận riêng của từng nhân vật.
A Phủ hiện ra qua những trang truyện của Tô Hoài là một chàng trai mang trong mình những phẩm chất đáng quý. A Phủ lao động giỏi, có thể đúc lưỡi cày hoặc làm bất cứ việc gì. Thế nhưng, dù giỏi giang như vậy, rốt cuộc A Phủ cũng chỉ an phận làm thuê làm mướn kiếm sống qua ngày. Mặc cho bao nhiêu con gái trong bản ước ao có được A Phủ, chàng trai nghèo này không bao giờ dám mong có được một tổ ấm hạnh phúc gia đình. Một nét nổi bật của A Phủ là sự mạnh mẽ và phóng túng. Không bị trói buộc bởi mặc cảm nghèo hèn, A Phủ vẫn hoà mình vào những cuộc hẹn trong đêm tình mùa xuân như bao nhiêu trai gái trong bản. Cũng bởi tính cách mạnh mẽ, không chấp nhận sự ngang ngược vô lí của kẻ quyền thế, A Phủ dám đánh cả con quan. Có thể đây chỉ là hành động bột phát, tức thời, nhưng nó cũng cho thấy cái sức mạnh thể chất và tinh thần của một con người.
Cũng vì hành động liều lĩnh ấy mà A Phủ phải chịu đựng biết bao nhiêu đau khổ cả về thể chất lẫn tinh thần. Trước hết là những trận đòn báo thù độc ác. Bọn người nhà thống lí trói A Phủ, đưa về, đánh chửi tàn nhẫn mấy ngày liền, khiến cho mặt mày sưng lên như mặt hổ phù. Không dừng lại ở đó, chúng còn muốn tước đoạt quyền sống của một người tự do bằng cách bắt A Phủ phải nộp một trăm đồng bạc trắng để ăn vạ. Số tiền đó là một đời A Phủ nằm mơ cũng không thấy. Buộc A Phủ vay tiền để nộp vạ, thực chất, thống lí Pá Tra đã sử dụng một thủ đoạn quen thuộc: dùng những đồng tiền nợ để trói buộc số phận con người. Hãy nghe lời tuyên án: “Mày không có trăm bạc thì tao cho mày vay để mày ở nợ. Bao giờ có tiền giả thì cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày ở làm con trâu, con ngựa cho nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”. Với A Phủ, đó là bản án chung thân.
Đi ở trừ nợ có nghĩa là phải chấp nhận thân phận của kẻ nô lệ trong nhà thống lí Pá Tra. Với sự hỗ trợ của thần quyền, chúng tước đoạt hoàn toàn ý thức về sự tự do tối thiểu của con người. Đã làm kiếp con ở trừ nợ, A Phủ không hề có ý định bỏ trốn, dù đó là việc nằm trong tầm tay. Dường như có sợi dây trói vô hình siết chặt, khiến A Phủ chấp nhận số phận mình như một lẽ đương nhiên.
Nỗi đau khổ ghê gớm nhất của A Phủ thể hiện qua việc chịu đựng hình phạt của thống lí Pá Tra. Mải đi săn nhím, để hổ bắt mất một con bò, A Phủ bị thống lí Pá Tra áp dụng hình phạt mà hắn quen dùng: trói đứng vào cột cho đến chết. Theo lệnh thống lí, A Phủ lặng lẽ đi lấy cọc, tự tay chôn cọc, lấy dây rồi ngoan ngoãn đứng vào bên cọc để thống lí thực hiện hành động trừng phạt. Không một sự phản kháng, không có sự vùng vằng chống đối. Con người mạnh mẽ, từng dùng cả con quay bằng gỗ ngát đánh vào mặt con quan giờ đây chỉ là một kẻ nô lệ mà sự sống chết hoàn toàn bị định đoạt bởi bàn tay của chủ. Hành động trừng phạt A Phủ không chỉ cho thấy sự tàn bạo của những kẻ thống trị, mà quan trọng hơn, nó thể hiện sâu sắc bi kịch của những con người bị áp bức. Đó không chỉ là nỗi đau về thể xác, mà còn là nỗi thống khổ khôn cùng về tinh thần. Sợi dây trói và thái độ của A Phủ ở đây có tính chất như một biểu tượng. Nó giúp người đọc hiểu rằng: sợi dây trói vật chất thì có thể cắt đứt bằng dao, nhưng sợi dây trói tinh thần thì vô cùng bền chặt. Sợi dây ấy chỉ có thể bị chặt đứt bằng sự giác ngộ về quyền làm người của mỗi cá nhân mà thôi.
Xây dựng nhân vật Tnú trong truyện Rừng xà nu, Nguyễn Trung Thành tô đậm hai nét cơ bản trong tính cách của Tnú: sự gan góc, dũng cảm và đời sống tình cảm phong phú. Thuở ấu thơ, sống trong sự đùm bọc của dân làng, Tnú đã tỏ ra gan góc đến liều lĩnh. Không gì có thể khiến Tnú run sợ. Chính điều đó đã phát triển thành phẩm chất dũng cảm vô song của Tnú lúc trưởng thành. Vượt ngục trở về, Tnú thực hiện ngay hai điều anh Quyết dặn lại trước lúc hi sinh: thay anh làm cán bộ và cất giữ vũ khí để có lúc dùng đến. Làm cán bộ của Đảng và mài vũ khí để cất giữ chẳng khác nào thách thức sự truy diệt của kẻ thù. Với lòng dũng cảm, Tnú đã đối mặt với thử thách ghê gớm này. Ấy là khi anh bị kẻ thù đốt mười đầu ngón tay bằng giẻ tấm nhựa xà nu. Là con người bằng xương bằng thịt, Tnú cũng đau đớn đến cháy ruột cháy gan, nhưng anh không thèm kêu. Anh đã giữ vững dũng khí của một người cách mạng, để người dân Xô Man nhìn vào anh mà hiểu rằng, kẻ thù dù tàn bạo đến đâu cũng không thể dập tắt tinh thần quật cường của họ.
Con người dũng cảm, cứng cỏi như sắt đá ấy cũng là một người rất giàu tình cảm. Tình cảm phong phú, đẹp đẽ của Tnú được thể hiện trước hết trong quan hệ với Mai. Từ nhỏ, Tnú và Mai đã bên nhau trong lúc vui cũng như lúc buồn, từng cùng nhau mang gạo ra rừng tiếp tế cho cán bộ, từng chụm đầu bên nhau để học những con chữ đầu đời. Vượt ngục trở về, người mà Tnú gặp đầu tiên lại cũng là Mai. Tình yêu trong sáng, thắm thiết giữa đôi trai gái tự do, phóng khoáng của núi rừng Tây Nguyên đã cho kết quả là một gia đình hạnh phúc với đứa con trai đầu lòng. Tình cảm của Tnú đối với Mai và con đã trải qua những thử thách ghê gớm. Đó là lúc Tnú phải chứng kiến cảnh Mai và con bị đánh bằng roi sắt hết sức dã man, để rồi anh phải nhảy xổ ra giữa lũ giặc khi trong tay không một tấc sắt. Đó là đêm về thăm làng, bên bếp lửa xà nu tại nhà cụ Mết, hình ảnh Mai lại hiện lên rõ nét trong tâm trí anh, đến mức, thoạt nhìn thấy Dít, anh ngỡ đó là Mai.
Tình cảm riêng tư của Tnú hoà quyện đẹp đẽ với tình yêu quê hương. Đi chiến đấu ở chiến trường xa, anh xin về dù chỉ một đêm thôi để được nhìn thấy những khuôn mặt thân thương, để được sống trong không khí ấm áp, để được nghe lại câu chuyện huyền thoại của làng mình.
Như vậy, A Phủ và Tnú, bên cạnh những nét tương đồng, mỗi nhân vật còn có những nét cá biệt, thể hiện tài năng sáng tạo của hai nhà văn. Nhờ đó, nền văn xuôi của chúng ta vừa có sự thống nhất, vừa có sự phong phú.