Văn mẫu lớp 12: Liên hệ và so sánh hai tác phẩm Việt Bắc và Từ ấy của Tố Hữu

Văn mẫu lớp 12: Liên hệ và so sánh hai tác phẩm Việt Bắc và Từ ấy của Tố Hữu

Liên hệ và so sánh Việt Bắc và Từ ấy của Tố Hữu gồm 3 bài văn mẫu hay nhất kèm theo gợi ý cách viết chi tiết nhất. Thông qua tài liệu này các bạn lớp 12 có thêm nhiều gợi ý học tập, trau dồi vốn văn chương của mình, hoàn thiện bài văn khi ôn tập, rèn luyện và làm các bài kiểm tra sắp tới đạt kết quả tốt.

Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 12: Liên hệ và so sánh hai tác phẩm Việt Bắc và Từ ấy của Tố Hữu

Với 3 mẫu liên hệ Việt Bắc và Từ ấy dưới đây các em sẽ biết cách làm văn thế nào cho mượt, hay có thể lấy thêm ý văn hay rồi từ đó diễn đạt lại theo lối hành văn của chính mình. Ngoài ra các bạn xem thêm rất nhiều bài văn hay khác tại chuyên mục Văn 12.

So sánh 2 bài thơ Việt bắc và Từ ấy của Tố Hữu

    Dàn ý so sánh bài Việt Bắc và Từ ấy của Tố Hữu

    I. Mở bài

    • Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam hiện đại.
    • Tố Hữu có nhiều tập thơ với nhiều bài thơ có giá trị, trong đó có bài thơ “Việt Bắc”. Đoạn thơ sau thể hiện nỗi nhớ Việt Bắc của người ra đi (trích thơ)
    • Thơ Tố Hữu thể hiện lẽ sống, tình cảm cách mạng của con người Việt Nam nhưng mang đậm chất dân tộc, truyền thống. Vì thế, ngay từ đầu, cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu đã là cái tôi chiến sĩ, càng về sau càng xác định rõ là cái tôi nhân danh Đảng, nhân danh cộng đồng dân tộc. Điều này càng được thể hiện rõ nét hơn qua hai bài thơ của ông là “Từ ấy” và “Việt Bắc”.

    II. Thân bài

    1. Khái quát về bài thơ, đoạn thơ

    • Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc được giải phóng. Tháng 10 năm 1954, các cơ quan Trung ương Đảng và Nhà nước chuyển từ Việt Bắc (thủ đô kháng chiến) về thủ đô Hà Nội. Sự lưu luyến giữa kẻ ở và người ra đi đã khơi nguồn cảm xúc lớn cho nhà thơ sáng tác “Việt Bắc”.
    • Đoạn trích thuộc phần đầu của bài thơ

    2. Cảm nhận về nội dung, nghệ thuật đoạn thơ:

    * Về nội dung:

    – Nêu ý chính toàn đoạn thơ: Khẳng định tấm lòng trước sau như một, nỗi nhớ sâu sắc trào dâng, tình cảm ân tình giữa kẻ đi với người ở. Cảnh sắc thiên nhiên, cuộc sống sinh hoạt, kỉ niệm kháng chiến lần lượt hiện ra sâu sắc, chân thực.

    – Hai dòng đầu:

    • Từ “đây – đó” chỉ vị trí liền kề
    • Cụm từ “đắng cay ngọt bùi” là ẩn dụ, chỉ những gian khổ và niềm vui

    => Hai câu thơ diễn tả sự gắn bó mật thiết giữa người Việt Bắc với người cách mạng, cùng chịu gian khổ, chia sẻ niềm vui.

    – Hai câu tiếp:

    • Hình ảnh “củ sắn lùi, bát cơm, chăn lùi” đi với những từ ngữ “chia, sẻ, cùng” cho thấy sự thiếu thốn, khổ cực của cuộc sống kháng chiến, đắng cay cùng hưởng, ngọt bùi cùng chia
    • Tượng trưng cho một mối tình đậm đà giai cấp

    => Hai câu thơ chứa đựng bao tình nghĩa sâu đậm. Tất cả những khoảnh khắc ấy sáng mãi trong lòng người ra đi, tâm trí người ở lại, ghi dấu ấn không thể xóa nhòa.

    – Hai câu thơ tiếp theo:

    • “Người mẹ nắng cháy lưng”, “địu con” gợi liên tưởng đến sự tần tảo chắt chiu, cần cù lao động của người mẹ chiến sĩ trong kháng chiến.
    • Là hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp, ân tình trong cuộc sống kháng chiến.

    – Bốn câu cuối: nhớ về Việt Bắc là nhớ về cuộc sống sinh hoạt kháng chiến một thời không thể nào quên:

    • Nhớ “lớp học i tờ” xóa mù chữ: Cách mạng đem đến cho nhân dân không chỉ tự do mà còn đem đến ánh sáng của tri thức;
    • Nhớ nhịp sống những “ngày tháng cơ quan”, ”gian nan vẫn ca vang núi đèo” gợi tinh thần lạc quan yêu đời của cán bộ chiến sĩ bất chấp khó khăn;
    • Nhớ những thanh âm đặc trưng của miền núi: tiếng mõ rừng chiều, tiếng chày đêm nện cối, tiếng suối xa. Đó là những hồi ức về cuộc sống bình dị ấm áp mà vui tươi nơi núi rừng Việt Bắc.
    • Điệp cấu trúc “Nhớ sao” 3 lần cùng phép đối lập và cảm hứng lãng mạn

    =>Nỗi nhớ Việt Bắc là nỗi nhớ dạt dào và trùng điệp vang mãi trong tấm lòng mỗi con người kháng chiến.

    * Về nghệ thuật:

    – Bức tranh Việt Bắc hiện lên qua nỗi nhớ của chủ thể trữ tình, trong hoài niệm có ba mảng thống nhất và hòa nhập vào nhau: nỗi nhớ thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc, cuộc sống ở Việt Bắc.

    – Giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, tha thiết

    – Điệp từ “nhớ”, điệp ngữ: nhớ sao….nhớ người… trùng điệp, cùng cách ngắt nhịp của câu thơ tạo nên nét nhạc thơ thật đằm thắm.

    – Hình ảnh chân thực, bình dị, giàu sức gợi cảm.

    3. Liên hệ với bài thơ “Từ ấy”

    * Giải thích: cái tôi trữ tình: là sự bày tỏ cảm xúc riêng của nhà thơ trước các vấn đề của xã hội, trước sự phát triển của lịch sử dân tộc;

    => Tố Hữu quả đúng là nhà thơ của lí tưởng cộng sản vì đời sống cách mạng luôn chi phối toàn diện và sâu sắc sự nghiệp sáng tác thơ của ông.

    * Phân tích, chứng minh, bình luận:

    Quá trình sáng tác của Tố Hữu song hành với hành trình cách mạng: các chặng đường thơ tương ứng với các giai đoạn cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng

    – Bài thơ “Từ ấy”:

    • “Từ ấy” trích trong tập thơ cùng tên, là tập thơ đầu tay của Tố Hữu – có vị trí đặc biệt trên con đường thơ của ông.
    • Bài thơ chứa đựng một cá tính mạnh mẽ, một khí chất say sưa, một quan niệm cá nhân cởi mở giữa những người đồng chí đã làm cho cái tôi nhà thơ được bộc lộ tự do, không hề bị trói buộc bởi bất kỳ công thức, chuẩn mực nào, tạo nên những vần thơ đẹp, xúc động, đầy men say, bay bổng bậc nhất trang thơ ca cách mạng Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX.
    • Bài thơ còn thể hiện niềm vui, niềm hạnh phúc của chàng thanh niên giác ngộ lý tưởng cách mạng.
    • Qua “Từ ấy”, Tố Hữu đã thể hiện một cái tôi cá nhân cảm tính, ở phương diện tích cực, mạnh mẽ một mặt mà thơ mới lãng mạn chưa hề biết đến.

    – Đoạn trích “Việt Bắc” nói riêng, bài thơ nói chung:

    • Cái tôi đã hòa chung với cái Ta của cộng đồng, dân tộc. Mình là ta – Ta là mình – Ta với mình như hòa quyện vào nhau, đan xen nhau. Tố Hữu đã đặt mình vào vị trí của những con người kháng chiến, nói về mình về người để bày tỏ những ân tình, lòng biết ơn sâu sắc đối với những ân tình
    • Qua “Việt Bắc” nói chung và đoạn trích nói riêng, cái tôi trữ tình của Tố Hữu trong chặng đường thơ này là cái tôi nhập vai nhằm làm nổi bật, tôn vinh lên hình tượng những con người kháng chiến, bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình, niềm cảm phục trước sự hy sinh cao cả của người dân kháng chiến.
    • Khẳng định tính đúng đắn của nhận định “Ngay từ đầu, cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu đã là cái tôi chiến sĩ, càng về sau càng xác định rõ là cái tôi nhân danh Đảng, nhân danh cộng đồng dân tộc”.

    III. Kết bài

    • Kết luận về nội dung, nghệ thuật đoạn thơ.
    • Cảm nghĩ của bản thân về cái tôi trong thơ Tố Hữu qua 2 bài thơ.

    So sánh bài thơ Việt Bắc và Từ ấy của Tố Hữu – Mẫu 1

    Nhắc đến Tố Hữu là ta nhớ đến “Cánh chim đầu vào” của thơ ca cách mạng Việt Nam. Là nhà thơ được mệnh danh là hồn thơ của dân tộc, ông khẳng định văn chương của mình trên thi đàn Việt Nam với phong cách thơ trữ tình và chính trị. Là một nhà chiến sĩ trên mặt trận văn hóa văn nghệ, giống như nhà thơ Sóng Hồng đã từng viết: “Dùng ngòi bút làm đòn xoay chế độ, mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền”. Hay Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng:

    “Nay ở trong thơ nên có thép
    Nhà thơ cũng phải biết xung phong”

    Nói đến bài thơ Việt Bắc, tháng 7 năm 1954, khi hiệp định Giơnevơ được kí kết, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng. Tháng 10 năm 1954, những người cán bộ từ Việt Bắc trở về miền xuôi để tiếp quản thủ đô Hà Nội. Nhân sự kiện có tính thời sự lịch sử này, Tố Hữu viết bài thơ Việt Bắc. “Việt Bắc” không chỉ chinh phục người đọc ở một bản tình ca mà ở đó còn có một bản hùng ca về bức tranh ra quân bi tráng, hào hùng trong tác phẩm Việt Bắc.

    “Những đường Việt Bắc của ta
    Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
    Quân đi điệp điệp trùng trùng
    Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
    Dân công đỏ đuốc từng đoàn
    Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
    Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
    Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
    Tin vui chiến thắng trăm miền
    Hòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
    Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
    Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”

    Những đường Việt Bắc là những đường anh bộ đội hành quân ra trận. Cụm từ “của ta” là khát khao được đứng lên, được làm chủ quê hương mình, đất nước mình. Tác giả liên tục sử dụng các từ láy như “đêm đêm” “rầm rập” kết hợp với phụ âm rung và thủ pháp nghệ thuật so sánh. Tác giả tái hiện lại âm hưởng hào hùng của cả một dân tộc hành quân ra trận. Câu thơ trên miêu tả về âm thanh thì câu thơ dưới lại mô tả phần nhiều về hình ảnh.

    Quân đi điệp điệp trùng trùng
    Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

    “Điệp điệp”, “trùng trùng” vốn dĩ là những từ láy để mô tả núi hoặc sóng. Đó là vẻ đẹp của người dân Việt Nam hành quân ra trận, người người lớp lớp đông đảo như sóng cuộn điệp điệp trùng trùng. Đã từng bước vào trang văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh “mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, làn sóng ấy lại vô cùng sôi nổi, nó lướt qua mọi khó khăn thử thách, nó nhấn chìm cả bọn bán nước và bè lũ cướp nước”.

    “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”

    Nếu như ta hiểu theo nghĩa tường minh thì “Ánh sao” ở đây là ánh sao của bầu trời Việt Bắc phản chiếu vào nòng súng thép của anh bộ đội vào trận đánh quân thù. Thế nhưng, nếu ta hiểu theo nghĩa hàm ẩn, thì đây là lí tưởng cách mạng, là Đảng là Bác Hồ soi đường chỉ lối cho anh bộ đội vào trận đánh quân thù. “Bạn cùng mũ nan” đó là những chiếc mũ đồng bào dân tộc miền cao gửi tặng cho người lính để vượt qua bao nắng mưa dãi dầu.

    Dân công đỏ đuốc từng đoàn
    Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay

    Nghệ thuật đảo ngữ “đỏ đuốc”, là vẻ đẹp lực lượng hậu phương vững chắc của anh bộ đội, là những đoàn dân công quang gánh, xe thồ, ngày đêm tải đạn ra tiền tuyến. Và cũng chỉ có trong những bảo tàng lịch sử Việt Nam ta mới nhận thấy, có chiếc xe đạp mà có thể chở được 2 3 tạ đạn lên chiến trường. Thơ ca của nhà thơ Tố Hữu rất đồng điệu với thơ ca của Bác Hồ, khi mà hướng bắt đầu luôn luôn là hiện tại đến tương lai, từ bóng tối đến ánh sáng. Và ở đó là nghệ thuật nói quá và phóng đại làm cho vẻ đẹp của những con người Việt Nam bước ta từ trang sử vẻ vang của dân tộc. Đó là vẻ đẹp của những con người đẹp từ gót chân đến mái tóc, đẹp từ như trong chân lí sinh ra.

    Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
    Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.

    Một bên là “thăm thẳm sương dày” một bên là “đèn pha bật sáng” , ngọn đèn pha ấy đánh tan đi lớp sương dày. Ngọn đèn xe ấy không chỉ đơn thuần là hình ảnh của những chiếc xe mà ta từng bắt gặp trong “Tiểu đội xe không kính”. Mà ở đây, ta có thể thấy rằng đó là những khó khăn thiếu thốn trong những ngày đầu kháng chiến. Chúng ta chỉ có vũ khí là giáo mác thô sơ, nhưng quân ta càng đánh, lực lượng càng mạnh, thế tấn công dễ như chẻ tre. Chúng ta đã có những đoàn xe ra tiền tuyến. Chúng ta đã có những pháo binh ra mặt trận và ở đó là bình minh huy hoàng vẫy gọi toàn thể dân tộc Việt Nam đứng lên kháng chiến.

    Tám câu thơ trên là cảnh ra quân thì 4 câu thơ dưới là vẻ đẹp của khúc ca ăn mừng chiến thắng:

    “Tin vui chiến thắng trăm miền
    Hòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
    Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
    Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”

    Điệp từ “vui” được lặp lại 4 lần, thể hiện tiếng reo vui của hàng triệu trái tim con người Việt Nam. Nghệ thuật liệt kê “Hòa Bình” “Tây Bắc” “Điện Biên”,..chiến thắng sau còn giòn giã hơn chiến thắng trước. Bởi vậy mà ta nhận thấy đó là vẻ đẹp của Việt Bắc, đó là lí do người ta nói rằng: Việt Bắc của Tố Hữu không chỉ thuyết phục người đọc ở một bản tình ca mà ở đó còn là bản hùng ca bi hùng bi tráng về cảnh ra quân, là những giai điệu tự hào trong thơ ca Việt Nam.

    Tiếp đó ta thấy:

    Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
    Mặt trời chân lý chói qua tim
    Hồn tôi là một vườn hoa lá
    Rất đậm hương và rộn tiếng chim…

    Tôi buộc lòng tôi với mọi người
    Để tình trang trải với trăm nơi
    Để hồn tôi với bao hồn khổ
    Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời

    Tôi đã là con của vạn nhà
    Là em của vạn kiếp phôi pha
    Là anh của vạn đầu em nhỏ
    Không áo cơm, cù bất cù bơ…

    Bài “Từ ấy” gồm 3 khổ thơ, mỗi khổ thơ lại là một vẻ đẹp rất riêng. Khổ 1 là niềm vui của tác giả khi được đến với lý tưởng cách mạng. Ông tự ví tâm hồn của mình là một khu vườn đầy hoa lá, kể từ khi có mặt trời chân lí thì bỗng đậm hương và rộn tiếng chim, là một khu vườn bỗng ngập tiếng chim ca, là niềm vui của tác giả, là ánh sáng của vườn hồng đánh bật bóng đêm lụi, là ánh sáng của triết học Mác Lê nin, đó là mặt trời chân lí, là Đảng soi đường chỉ lối. Đến với khổ 2, từ niềm vui ấy dẫn đến ý thức trách nhiệm của người chiến sĩ. Họ phải gần gũi với quần chúng nhân dân, khơi dậy khối đại đoàn kết dân tộc. Cuối cùng, từ sự thay đổi về ý thức trách nhiệm dẫn đến sự thay đổi về tâm tư tình cảm. Liên tục sử dụng các từ “là anh” “là em” “là con”, coi tất cả đồng bào, đồng chí của mình là trong một gia đình. Họ đều là máu mủ của mình. Và nhiệm vụ cuối cùng, nhiệm vụ quan trọng nhất đó là phải xây dựng, thấu hiểu nỗi thống khổ của nhân dân. Đó chính là vẻ đẹp của bài thơ “Từ ấy”.

    Trong văn chương ta nhận thấy, thời thế thay đổi thì cách viết của nhà thơ cũng được đổi thay. Chúng ta đã từng biết đến Nguyễn Minh Châu trước 1975 viết nhiều về con người Việt Nam trong chiến đấu. Sau đó, ta biết đến Nguyễn Minh Châu sau 1975 toàn viết về cuộc sống với những triết lí, những trải nghiệm, những câu chuyện trần trụi và thô ráp nhưng lại đem đến những tuyên ngôn, những nghệ thuật rất sâu sắc. Nhắc đến Nguyễn Tuân trước 1945 và Nguyễn Tuân sau 1945 là hoàn toàn khác. Là “Chữ người tử tù” lại hoàn toàn khác với “Người lái đò sông Đà”.

    Bài thơ Việt Bắc và Từ ấy điểm giống ở đây là sự nhất quán về phong cách sáng tác “trữ tình và chính trị”. Là người cách mạng làm thơ luôn luôn ý thức được ngòi bút của mình phải thực sự là thứ vũ khí trên mặt trận văn hóa văn nghệ. Thơ ca của ông có thể khẳng định đó là cuốn “Nhật kí về lịch sử Việt Nam”, bởi vậy không phải ngẫu nhiên mà ông được mệnh danh là hồn thơ của dân tộc. Còn điểm khác ở đây là về nội dung. Một tác phẩm viết về niềm vui của tác giả khi đến với ánh sáng lí tưởng của cách mạng. Một tác phẩm lại viết về những năm tháng không thể nào quên của dân tộc Việt Nam trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp. Một tác phẩm được viết ở thể thơ lục bát, còn một tác phẩm thì không.

    Tóm lại, dù có là trước cách mạng hay sau cách mạng, dù là “Từ ấy” hay là “Việt Bắc” thì rõ ràng phong cách thơ của Tố Hữu thực sự rất đáng khâm phục. Ông là người thư kí trung thành của thời đại, tác phẩm của ông là những tấm gương xê dịch trên quãng đường đời.

    So sánh bài thơ Việt Bắc và Từ ấy của Tố Hữu – Mẫu 2

    Bài thơ Việt Bắc được nhà thơ Tố Hữu viết vào tháng 10 – 1954, tức sau chiến thắng Điện Biên Phủ (5 – 1954), miền Bắc được giải phóng. Các cơ quan Trung ương của Đảng và Nhà nước chuyển từ Việt Bắc (thủ đô của cuộc kháng chiến) về Hà Nội. Sự lưu luyến kẻ ở người về là nguồn cảm xúc lớn cho Tố Hữu viết nên bài thơ này. Bài thơ Việt Bắc được trích trong tập thơ Việt Bắc (1947 – 1954) của Tố Hữu. Bài thơ đã bộc lộ nỗi nhớ của người cán bộ cách mạng (cũng chính là nhà thơ) đối với chiến khu Việt Bắc khi rời chiến khu về thủ đô Hà Nội.

    Cái tôi hóa thân thành cái ta, hội tụ sức mạnh lớn lao của cả dân tộc. Đoạn thơ vẽ nên bức tranh lịch sử về cả một đội quân nhân dân rầm rầm ra trận được khắc họa hoành tráng trong mỗi câu thơ: Những đường Việt Bắc của ta … Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.

    Những con đường Việt Bắc cụ thể, cũng là những nẻo đường cách mạng của dân tộc đã đến ngày rộng trải thênh thang. Con đường là hình ảnh quen thuộc trong thơ Tố Hữu biểu trưng về đường cách mạng. Khí thế hào hùng được thể hiện qua hàng hoạt các phụ âm rung, các từ láy như đêm đêm, rầm rập, điệp điệp, trùng trùng. Đoạn thơ gợi được không gian rộng lớn (Những đường Việt Bắc) và thời gian đằng đẵng (Đêm đêm) của cuộc kháng chiến vĩ đại, trường kì.

    Câu thơ thứ hai mở ra một bối cảnh khác, đó là ngày kháng chiến chống Pháp, máy bay địch chủ yếu hoạt động ban ngày. Do đó ta phải hành quân đêm xưa là rừng núi là đêm (Tố Hữu). Trên các nẻo đường Việt Bắc đêm nối đêm cứ rầm rập tiến quân ra trận.

    Khí thế xung trận được cảm nhận bằng âm thanh rầm rập – từ láy tượng thanh này không chỉ diễn tả được tiếng động mạnh của bước chân mà còn giúp người đọc hình dung được nhịp độ khẩn trương, gấp gáp của một số lượng người đông đảo cùng hành quân về một hướng, tất cả tạo thành một sức mạnh tổng hợp là rung chuyển cả mặt đất.

    Từ láy rầm rập là một từ tượng thanh rất gợi cảm. Nó diễn tả bước chân đi đầy khí thế hăng say và sức mạnh áp đảo của một tập thể người đông đúc có đội ngũ chỉnh tề. Với từ rầm rập đặc sắc ấy, cuộc ra trận của quân ta bỗng trở thành một cuộc duyệt binh, diễu binh hùng tráng:

    Xuân hãy xem cuộc diễn binh hùng vĩ
    Ba mươi mốt triệu nhân dân
    Tất cả hành quân
    Tất cả thành chiến sĩ.

    Vì thế mà bước chân của đoàn quân ấy đêm đêm như làm rung chuyển cả mặt đất. Hình ảnh thơ mang đậm màu sắc thần thoại. Trên con đường ấy, dường như cả nước cùng ra trận. Tất cả đã khắc họa đoàn quân đông đảo bước đi mạnh mẽ như những đợt sóng dâng trào, đợt này nối tiếp đợt kia tưởng chừng kéo dài đến vô tận.

    Tuy trang bị vật chất còn thiếu thốn (chiến sĩ phải đội mũ nan đan bằng tre lợp vải) nhưng đoàn quân điệp điệp trùng trùng chính là hình ảnh tượng trưng cho sự trưởng thành vượt bậc của quân đội ta, của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến.

    Trong những đêm dài hành quân chiến đấu ấy, ở đầu mũi súng của người lính ngời sáng ánh sao, đó là ánh sao sáng hiện thực trong đêm tối hay là một hình ảnh ẩn dụ: ánh sao của lí tưởng chỉ đường dẫn lối cho người chiến sĩ đánh đuổi kẻ thù bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc. Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan. Câu thơ vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa khái quát tượng trưng sâu xa. Trước hết nó diễn tả đoàn quân đi trong đêm, đầu súng lấp lánh ánh sao trời. Nhưng đó cũng là lấp lánh ánh sao lý tưởng.

    Anh đi bộ đội sao trên mũ
    Mãi mãi là sao sáng dẫn đường

    (Vũ Cao)

    Hình ảnh tươi sáng ấy kết hợp với hình ảnh chiếc mũ nan giản dị trang bị còn thiếu thốn của anh bộ đội, tạo cho anh một vẻ đẹp bình dị mà cao cả, bình thường mà vĩ đại. Nhà thơ Chính Hữu cùng đã có câu thơ rất hay Đầu súng trăng treo trong Đồng chí của Chính Hữu.

    Có điều nếu ánh trăng trong bài Đồng Chí là hình ảnh tượng trưng cho khát vọng hòa bình, cho vẻ đẹp yên ấm của quê hương, thì ánh sao ở bài thơ này lại là biểu tượng của lí tưởng, của niềm lạc quan chiến thắng trong tâm hồn người lính ra trận. Khí thế mạnh mẽ của quân đội nhân dân được tác giả khắc họa bằng lối nói thậm xưng, phóng đại:

    Dân công đỏ đuốc từng đoàn
    Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

    Những bó đuốc đỏ rực soi rọi đường đã làm sáng bừng lên hình ảnh những đoàn dân công tiếp lương tải đạn, kiên cường vượt núi cao đèo dốc đảm bảo sức mạnh vật chất cho bộ đội chiến đấu, chiến thắng. Thành ngữ có câu chân cứng đá mềm, Tố Hữu chuyển thành Bước chân nát đá – hình ảnh cường điệu ấy khẳng định ý chí phi thường, sức mạnh to lớn của nhân dân kháng chiến.

    Cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân, là cuộc chiến tranh toàn nhân dân, nó phát huy cao độ sức mạnh của toàn dân tộc chiến đấu cho sự nghiệp chính nghĩa, vì thế ta nhất định thắng. Ở hai câu thơ này, tác giả sử dụng được nhiều hình ảnh giàu màu sắc tạo hình vừa chân thực, vừa bay bổng.

    Đoàn dân công đi vào chiến dịch mà như thể đi trong đêm hội hoa đăng. Thật đẹp đẽ biết bao mà cũng tự hào biết bao về khí thế và niềm vui ra trận của quân ta. Thật sự Cách mạng là ngày hội của quần chúng (Mác).

    Cái tôi nhân danh Việt Bắc – trung tâm của kháng chiến, đầu não của cách mạng, trái tim của dân tộc với khí thế ra trận hào hùng sôi nổi; với niềm hãnh diện, tự hào, tin tưởng vào chiến thắng… Từ những đêm Việt Bắc đó, một cảm hứng lãng mạn bay bổng về tương lai tươi sáng của dân tộc chói lòa qua những câu thơ:

    Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
    Đèn pha bật sáng như ngày mai lên

    Hai câu thơ tạo ra tương quan đối lập giữa bóng tối và ánh sáng: nếu câu trên khắc họa bóng đêm đen tối thăm thẳm gợi kiếp sống nô lệ của cả dân tộc dưới ách độ hộ của kẻ thù thì câu dưới lại bừng lên ánh sáng của niềm tin vào ngày mai chiến thắng huy hoàng, tương lai tốt đẹp.

    Thực ra trong đoạn thơ trên người ta đều nhận thấy sự đối lập này. Tố Hữu đã sử dụng cả một hệ thống từ chỉ ánh sáng như ánh sao, đỏ đuốc, lửa bay, bật sáng tương phản với một hệ thống chỉ bóng tối như đêm đêm, nghìn đêm, thăm thẳm – với xu thế ánh sáng lấn át bóng tối dường như tác giả có dụng ý nêu bật xu thế của dân tộc ta trước mọi kẻ thù hắc ám, đồng thời khẳng định những ngày tươi sáng, hạnh phúc nhất định sẽ tới với dân tộc ta.

    Qua không gian rộng lớn, thời gian đằng đẵng, khí thế hào hùng ở Việt Bắc có thể thấy rõ cuộc kháng chiến chống Pháp là trường kì, gian khổ nhưng dân tộc Việt Nam không nhụt chí, trái lại vẫn vững vàng, kiên cường, chung sức chung lòng đưa cuộc kháng chiến tới thắng lợi.

    Và đây là một bản đồ vui tỏa rộng khắp đất nước báo tin chiến thắng:

    Tin vui chiến thắng trăm miền
    Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
    Vui từ Đồng Tháp, An Khê
    Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

    Nhịp điệu dồn dập tươi vui, náo nức phấn khởi. Mỗi địa danh là một nốt nhạc vui rộn ràng trong bản hùng ca chiến thắng. Các địa danh không chỉ có ở Tây Bắc mà còn trải dọc trăm miền từ Nam Bộ, Tây Nguyên, cho tới Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên.

    Những từ như vui, vui về, vui từ, vui lên mặc nhiên đã đặt Việt Bắc vào tâm điểm của mọi niềm vui. Từ Việt Bắc niềm vui tỏa đi. Và từ khắp nơi, tin vui bay lại Việt Bắc. Từ đó Tố Hữu mở ra một viễn cảnh mơ ước với bức tranh mang tên Ngày mai…

    Nét chủ đạo trong bức tranh ấy là Việt Bắc sẽ nối liền với miền xuôi và miền ngược – nơi núi rừng hoang vu, heo hút. Tố Hữu cũng mơ ước về một Việt Bắc có giao thông thuận tiện, điện tới mọi nhà, khoáng sản quý được khai thác, phố phường, trường học đua nhau mọc lên, chợ phiên đày ắp hàng hóa của mọi miền đất nước… Những gì là mơ ước của một thời sẽ hiển hiện rạng rỡ giữa cuộc đời.

    Đoạn thơ gợi nhớ về những kỷ niệm kháng chiến hào hùng với nhịp điệu nhanh, chắc gợi không khí khẩn trương sôi sục, cũng như những chiến thắng càng ngày càng lớn, càng ngày càng mạnh. Không khí kháng chiến vui tươi sôi sục, ào ạt của những đoàn ô tô chạy liên tiếp, trùng trùng ra trận, tiếng quân đi rung chuyển đất rừng.

    Đây là hình ảnh khái quát biểu tượng cho cuộc hành quân mang tính lịch sử của dân tộc những năm kháng chiến chống Pháp lại được nhìn bằng đôi mắt thi sĩ lãng mạn, cảm quan lạc quan hướng về tương lai của người chiến sĩ.

    Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng, ông đã sớm giác ngộ lí tưởng cách mạng, chặng đường thơ ông song hành với gián đoạn của cuộc cách mạng. Con người trữ tình trong thơ ông tương ứng với cái đẹp của cuộc sống mới và phản ứng quyết liệt với những hành động xấu xa của quân thù.

    Cái tôi cách mạng của Tố Hữu từ bài thơ Từ ấy đến Việt Bắc đã có sự chuyển biến. Cái tôi trữ tình của Thơ Tố Hữu trong tập Từ ấy‖ là cái tôi mang tính chất chính trị, mang tính chất thời đại.

    Cái tôi trữ tình này được hình thành phát triển trong cuộc đấu tranh, trong mối tương với cuộc đời lớn cả dân tộc bởi cái tôi này không còn là cái tôi cô đơn bé nhỏ không có chỗ đứng trong cuộc sống dân tộc và thời đại, mà là cái tôi phong phú đa dạng, cái tôi gắn với mọi người với quá khứ hiện tại tương lai. Cái tôi đó lần đầu tiên đi vào cái ta chung của xã hội của cách mạng.

    Từ ấy được xem như bản tuyên ngôn về sự giác ngộ cách mạng, thơ ca cách mạng được xem như một tuyên ngôn cho sự ra đời của một kiểu nhà thơ mới: nhà thơ- chiến sĩ. Trong tập Từ ấy là một cuộc đấu tranh cách mạng trong nhà tù cho nên cái cốt cách tâm trạng của người chiến sĩ cộng sản cái tâm tình của nhân vật trữ tình là sự biểu hiện của tâm hồn và khát vọng của một kiểu con người mới trong thời đại mới. Bài thơ Từ ấy là cái tôi tự nguyện gắn bó với quần chúng lao khổ, với cuộc đời rộng lớn, với đất nước, nhân dân…

    Trong quan niệm về lẽ sống, giai cấp tư sản và tiểu tư sản có phần đề cao chủ nghĩa cá nhân (Ta là một, là riêng là thứ nhất Không có ai bè bạn nổi cùng ta). Nhưng từ khi được giác ngộ lý tưởng, Tố Hữu tử nhủ:

    Tôi buộc lòng tôi với mọi người
    Để tình trang trải với trăm nơi

    Đại từ ―tôi được điệp lại góp phần nhấn mạnh ý thức sâu sắc về mục đích và phong cách sống của nhà thơ. Tôi là cái tôi cá nhân; mọi người là cái ta, cái chung mang tính cộng đồng, tính tập thể. Tác giả nói ―Tôi buộc lòng tôi với mọi người, ta có thể hiểu tôi ra lệnh bắt buộc lòng tôi phải đến với mọi người, hòa nhập cùng mọi người.

    Nhưng ta cũng có thể hiểu là tôi tự trói buộc , ràng buộc lòng tôi với mọi người. Dù hiểu theo cách nào thì động từ, kết hợp với cách nói quá, nhà thơ đã khẳng định ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ muốn hòa nhập cái tôi cá nhân với cái ta chung của mọi người.

    Đó còn là cái tôi khát khao được cống hiến hết mình cho lí tưởng, thể hiện ý thức trách nhiệm của người chiến sĩ… Cái tình ở đây là tâm hồn của nhà thơ, là cái tôi cá nhân của nhà thơ.

    Cái tôi ấy trang trải với muôn nơi. Nghĩa là cái tôi ấy không bó hẹp mà mở rộng ra cuộc đời với mọi người ở khắp muôn nơi. Nghệ thuật hoán dụ đã giúp Tố Hữu diễn tả sinh động sự đồng cảm sâu sắc của nhà thơ với từng hoàn cảnh của từng con người cụ thể.

    Là cái tôi nhận thức sâu sắc về sức mạnh của khối đoàn kết… Và không chỉ là sự đồng cảm chung chung mà tác giả đặc biệt quan tâm đến bao hồn khổ những con người cần lao

    Để hồn tôi với bao hồn khổ
    Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời

    Khối đời mà nhà thơ nói đến phải chăng là hình ảnh ẩn dụ cho một khối người đông đảo cùng chung cảnh ngộ, đoàn kết chặt chẽ để cùng phấn đấu cho một mục đích chung. Qua hình ảnh thơ này, nhà thơ đã nhận thức sâu sắc rằng khi cái tôi chan hòa với cái ta, khi cá nhân hòa mình trong một tập thể cùng chung lý tưởng thì sức mạnh đó sẽ được nhân gấp bội. Như vậy, Tố Hữu đã đặt mình giữa dòng đời và trong môi trường rộng lớn của quần chúng lao khổ, để rồi ở đó .

    Đến tập thơ Việt Bắc, nghệ thuật thơ Tố Hữu đã bước sang một giai đoạn mới hòa nhập vào bước đi của cuộc cách mạng, giai đoạn này thơ Tố Hữu được mở rộng cả về cảm hứng, lí tưởng, đối tượng miêu tả. Sự mở rộng không gian và thời gian tạo cho Việt Bắc một khuôn mặt nghệ thuật mới.

    Tập thơ Việt Bắc đậm đà bản sắc dân tộc, có những câu thơ phản ánh sức mạnh của toàn dân tộc trong cuộc kháng chiến. Trong nghệ thuật miêu tả quan hệ xã hội mới Tố Hữu là người đầu tiên phát hiện ra tình quân dân được ví như tình cá nước đó là một nét đẹp trong truyền thống của ta.

    Có thể nói, lí tưởng cách mạng từ Từ ấy đến Việt Bắc đã được nâng lên một bước. Cuộc kháng chiến càng lớn bao nhiêu thì lí tưởng càng đẹp đẽ, rạng rỡ bấy nhiêu.

    Cho đến thời kì này, hầu như tất cả mọi người không chỉ được giác ngộ cách mạng mà đã biết đi theo con đường cách mạng. Từ em bé Lượm đến các anh vệ quốc, anh cán bộ…đều chung một lí tưởng và gặp nhau trên đường ra mặt trận.

    Hình ảnh chú bé liên lạc Lượm ở đây không những mang trong mình một lí tưởng cách mạng mà hình ảnh em cũng là lí tưởng, cái lí tưởng ấy là tiêu biểu cho những em bé liên lạc của Việt Nam hồi kháng chiến chống Pháp, tiêu biểu của cái vui tươi, hồn nhiên và dũng cảm.

    Qua đây ta thấy, lúc đầu lí tưởng cộng sản đến với Tố Hữu giống như một luồng ánh sáng mãnh liệt và mới lạ. Trong tâm hồn sôi nổi của nhà thơ trẻ, nó trở thành một năng lượng thẩm mỹ tự phát sóng, tự tỏa hương ra thế giới bên ngoài.

    Và đặc sắc chủ yếu trong thời kì Từ ấy không phải là những khám phá phong phú về đời sống hiện thực mà là sự biểu hiện một cách chân thực cái tôi hết sức trong sáng, hồn nhiên của một thanh niên khao khát lí tưởng, tự ca hát niềm vui lớn của mình khi bắt gặp lí tưởng cộng sản và chiến đấu hy sinh cho lí tưởng ấy. Nhưng cho đến Việt Bắc thì lí tưởng không phải là đối tượng miêu tả trực tiếp. Nó được vận dụng như là một quan điểm tiếp cận, đánh giá và khái quát hiện thực (Nguyễn Đăng Mạnh).

    Có thể nói, lí tưởng thời kì này đã biến thành đời sống hàng ngày mà quần chúng đã thực hiện, đã sống với lí tưởng đó một cách bình dị:

    Cái đẹp của lí tưởng, của ước mơ đã biến thành cái đẹp của quần chúng kháng chiến, cái đẹp của con người và quần chúng thực (Trần Đình Sử).

    Khuynh hướng sử thi đòi hỏi người cầm bút nhìn con người và cuộc đời không chỉ bằng con mắt của cá nhân mình mà chủ yếu là bằng con mắt có tầm bao quát của lịch sử, dân tộc và thời đại. Cảm hứng lãng mạn chủ yếu được thể hiện trong việc khẳng định phương diện lý tưởng của cuộc sống mới và vẻ đẹp của con người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Tất cả đã hội tụ trong Việt Bắc góp phần xây dựng hình tượng đất nước, con người Việt Nam vươn lên trong thử thách để có được ngày chiến thắng. Đó là kết quả của quá trình trải nghiệm trong thực tế sống, chiến đấu và gắn bó với cách mạng của người chiến sĩ.

    So sánh Việt Bắc và Từ ấy của Tố Hữu – Mẫu 3

    Đặng Thai Mai đã từng có những lời nhận xét như sau: “Với Tố Hữu, thơ là vũ khí đấu tranh cách mạng. Ðó chính là đặc sắc và cũng là bí quyết độc đáo của Tố Hữu trong thơ ca”.

    Có thể nói, cả cuộc đời thơ của Tố Hữu đều có sự gắn bó mật thiết với con đường cách mạng đầy gian khổ nhưng cũng không thiếu những chiến thắng vang dội lịch sử dân tộc. Vì thế mà, tất cả các tác phẩm của ông đều mang khuynh hướng trữ tình chính trị kết hợp cùng chất liệu dân tộc theo một cách rất riêng biệt, rất độc đáo.

    Thơ Tố Hữu là thơ có giọng điệu dạt dào tình cảm, nhẹ nhàng nhưng đầy nhiệt huyết, cổ vũ tinh thần cách mạng của quân và dân trong thời chiến gian nan.

    Trong đó, Từ Ấy và Việt Bắc là hai tác phẩm nổi bật nhất. Hai tác phẩm này được sáng tác vào hai giai đoạn khác nhau của cách mạng, vì thế mà nó cũng mang sự vận động, dịch chuyển trong cái tôi trữ từ qua hai giai đoạn lịch sử của đất nước.

    Cái tôi trữ tình có thể được hiểu là những suy nghĩ, cảm nhận riêng biệt nhất của mỗi tác giả về cuộc đời, về xã hội và đất nước. Nó được thể hiện rõ nét qua các tác phẩm văn học trong từng giai đoạn lịch sử với những hoàn cảnh khác biệt.

    Với Tố Hữu, cái tôi trữ tình của ông gắn liền với chặng đường cách mạng đầy khó khăn gian khổ, nhưng cũng không thiếu đi nét vẻ vang trong thắng lợi của đất nước, của nhân dân. Đặc biệt, đó là một cái tôi được đặt trong vòng tay của dân, của Đảng và của nhà nước.

    Thơ của ông vì thế mà vui những niềm vui chung, đau những nỗi đau thời đại, nó góp phần thúc đẩy những cảm hứng chung. Và dù cho là cái tôi cá nhân, nhưng cái tôi của ông trong thơ lại chẳng hề mang tính cá nhân, biệt lập trong dòng suy nghĩ riêng.

    Trong các tác phẩm của Tố Hữu, cái tôi trữ tình của nhà thơ luôn hiện lên với vẻ đẹp tươi sáng của người chiến sĩ cách mạng khát khao được hòa mình với cộng đồng. Đặc biệt, trong tập thơ đầu tay của mình – Từ Ấy – ông đã thể hiện khát vọng cháy bỏng đó qua những vần thơ nhẹ nhàng và sâu lắng:

    “Tôi buộc lòng tôi với mọi người
    Để tình trang trải với trăm nơi
    Để hồn tôi với bao hồn khổ
    Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
    Tôi đã là con của vạn nhà
    Là em của vạn kiếp phôi pha
    Là anh của vạn đầu em nhỏ
    Không áo cơm, cù bất cù bơ…”

    Càng về sau, càng đi chung với những người cùng chí hướng trên chặng đường cách mạng gian nan, khó nhọc thì cái tôi trữ tình của ông lại càng thêm sâu sắc. Cái tôi chiến sĩ đó đã hóa thành cái tôi lớn, là cái tôi nhân danh Đảng, nhân danh nhân dân.

    Cũng vì thế mà những vần thơ được ông viết lên lại càng mặn mà, sâu lắng tình cách mạng. Từ đó, cái tôi trữ tình gắn liền với cách mạng đó, một mặt giữ mãi những sơ tâm thuở đầu, một mặt trưởng thành và chuyển mình thành hồn thơ nguyện trọn vẹn với cách mạng, nghệ thuật và tình yêu.

    Người đọc có thể dễ dàng nhận thấy sự chuyển mình của cái tôi trữ tình ấy trước hết qua cơ sở ra đời của hai tác phẩm. Với Tố Hữu, mỗi tác phẩm của ông đều mang ý nghĩa và đánh dấu những cột mốc quan trọng đối với cách mạng và sự nghiệp lâu dài của dân tộc.

    Trong đó, Từ ấy là bài thơ được ông sáng tác vào những ngày cách mạng nước nhà đang dần có những đường lối rõ ràng. Vào tháng 7/1938, Tố Hữu – một người thanh niên Huế luôn tích cực tham gia các phong trào thanh niên – được vinh dự đứng trong hàng ngũ của Đảng.

    Đối với chàng thanh niên trẻ mới vừa tròn 18 tuổi ấy, đây là một niềm hạnh phúc mãnh liệt, là một cột mốc sáng chói trong cuộc đời thơ ca và sự nghiệp cách mạng của ông.

    Nếu như Từ ấy là một tác phẩm được sáng tác từ niềm hân hoan riêng của tác giả, thì đến Việt Bắc, cảm hứng chủ đạo cho bài thơ chính là niềm hân hân chung của cả dân tộc.

    Bài thơ Việt Bắc được Tố Hữu viết sau sự kiện chiến thắng Điện Biên Phủ (7/1954), hiệp định Giơ ne vơ được ký kết đã đem lại sự độc lập cho miền Bắc. Từ đó, một trang sử mới của dân tộc đã được mở ra.

    Tuy nhiên, bên cạnh niềm vui như muốn vỡ òa ấy, việc phải rời xa chiến khu Việt Bắc để trở về thủ đô đã khiến người chiến sĩ chìm trong những nỗi niềm xúc động khó tả, xen lẫn chút tiếc nuối nhớ thương. Cũng chính từ những cung bậc cảm xúc đó, Việt Bắc đã ra đời và ghi một dấu ấn khó phai trong sự nghiệp văn chương của Tố Hữu.

    Sự vận động cái tôi trữ Tình của Tố Hữu có thể nhìn thấy trong sự thay đổi về hoàn cảnh lịch sử. Bên cạnh đó, dựa trên nền tảng lịch sử, nội dung của tác phẩm cũng có sự thay đổi. Và dĩ nhiên, cái tôi trữ tình ấy đã có một sự vận động để trưởng thành hơn.

    Tuy nhiên, dẫu mọi thứ có thay đổi như thế nào, thì lý tưởng cách mạng cùng tình yêu đất nước của ông vẫn mãi nguyên vẹn, chẳng hề sờn đi theo năm tháng. Có thể nói, sự chuyển mình của cái tôi đó chính là sự tự hoàn thiện của thi nhân, cũng là sự phát triển của cách mạng dân tộc từ non trẻ đến khi trưởng thành.

    Ở Từ ấy, ta như nhìn thấy niềm vui sướng, hạnh phúc của chàng thiếu niên mười tám tuổi được giác ngộ lý tưởng cách mạng tràn ngập trong lời thơ:

    Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
    Mặt trời chân lý chói qua tim.”

    Giọng thơ nghe thật bay bổng nhưng cũng không kém phần nhiệt huyết với nỗi niềm khao khát mãnh liệt được hòa mình vào cuộc đời, vào nhân dân, được cống hiến sức trẻ cho sự nghiệp chung của tổ quốc. Lúc này, cái tôi cá nhân của Tố Hữu đã được thể hiện với tràn ngập năng lực tích cực.

    Mỗi một dòng thơ đều cho ta sự nhiệt huyết và khí thế của một chàng trai đang kích động vui sướng trong khúc hát quân hành. Đọc tác phẩm, ta như thấy được cái tôi trữ tình của một hồn thơ cởi mở, sẵn sàng đón nhận, sẵn sàng hòa nhập, sẵn sàng hợp thể với cái tôi chung của cộng đồng.

    Việt Bắc ra đời vào đúng mười sáu năm sau. Trong một hoàn cảnh mới, được sự tôi luyện của chiến trường khắc nghiệt cùng cuộc sống gian khổ mà cũng không kém phần vẻ vang, Tố Hữu đã chẳng còn là một chàng thanh niên vừa mới bước chân vào con đường cách mạng. Tiếng súng đạn đã dạy ông trở thành một người chiến sĩ nòng cốt, quả cảm và anh dũng. Vì thế mà, những cảm nhận của ông cũng đã có sự chuyển mình, đổi mới.

    Ở Việt Bắc, ta chẳng còn nhìn thấy khát khao và cảm xúc được bộc lộ trực tiếp mà thấy sự ấm áp cùng những suy tư chan chứa ân tình thủy chung. Việt Bắc không chỉ là một bài thơ, nó còn là một bức tranh hồi tưởng về tháng ngày kháng chiến trường kỳ khắc nghiệt, là lời giãi bày nỗi nhớ nhung của người đi với kẻ ở, là ca khúc mang những giai điệu bùi ngùi, xúc động. Đặc biệt, ở bài thơ này, cái tôi trữ tình đã nhập với cái ta chung của dân tộc.

    Lời người đi nói với người ở lại, lời người ở lại dành cho người đi cứ thế luân phiên thay đổi với danh xưng “ta với mình”, “mình với ta”. Phải chăng, Việt Bắc chính là tiếng nói đại diện cho tình cảm của bao chiến sĩ đã cùng đồng cam cộng khổ, đã cùng chiến đấu và gắn bó với nhau tại núi rừng Tây Bắc, để rồi họ thổ lộ tình cảm của mình với đồng bào, với cảnh thiên nhiên núi rừng nơi đây.

    Cả bài thơ Việt Bắc đều sáng lên lòng biết ơn sâu sắc cùng những lời gợi nhắc đến ân tình sâu sắc, thủy chung. Dẫu đó là những cảm xúc khó tả, là sự xúc động, bịn rịn giữa người ra đi – kẻ ở lại, nhưng nó tuyệt nhiên không phải là nỗi buồn bã ủy mị. Bởi lẽ, ai cũng sẽ hiểu rằng, quá khứ dù đẹp mấy rồi cũng sẽ qua đi, thay vì cứ mãi đau buồn sống trong đó, sao không đón chờ tương lai tươi đẹp hơn ở phía trước.

    Hơn cả thế, sự chia tay ngày hôm nay lại chính là tiền đề cho sự thống nhất đất nước ngày mai.

    “Mình về mình có nhớ ta
    Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
    Mình về mình có nhớ không?
    Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”

    Sự vận động cái tôi trữ tình thể hiện qua phong cách viết. Cùng với đó, sự vận động của cái tôi trữ tình còn được thể hiện rõ nét từ phong cách viết thơ của Tố Hữu. Nếu như trong Từ Ấy, ông chọn cho mình thể thơ tự do với những vần thơ bay bổng để đẩy cảm xúc lên cao trào, thì Việt Bắc lại được ông truyền đạt với thể thơ lục bát – một thể thơ truyền thống của dân tộc.
    Chính điều này cũng khẳng định sự phát triển, trưởng thành trong chính hồn thơ Tố Hữu. Ông đã chuyển từ khuynh hướng trữ tình chính trị sang dòng thơ mang khuynh hướng trữ tình chính trị kết hợp cùng chất liệu truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc.

    Như vậy, có thể chứng minh rằng, cái tôi trữ tình của Tố Hữu đang có sự vận động và dịch chuyển để tiến gần đến nhân dân, gắn bó với nhân dân. Sự vận động cái tôi trữ tình của Tố Hữu được đánh giá là có mối quan hệ chặt chẽ và gắn với hoàn cảnh lịch sử cũng như sự phát triển của phong trào cách mạng dân tộc.

    Tố Hữu, từ một hồn thơ trẻ trung, bay bổng trong những suy nghĩ của cái tôi mạnh mẽ, đã dần chuyển mình để trưởng thành hơn. Nhưng rồi, dẫu cho thời gian có làm người ta thay đổi đến đâu, thì hồn thơ ấy vẫn luôn giữ nguyên vẹn những tình cảm sơ tâm buổi ban đầu với cách mạng, với sự nghiệp chung của đất nước.

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *