Văn mẫu lớp 12: Nghị luận xã hội về vấn đề khen và chê (Dàn ý + 7 mẫu)

Văn mẫu lớp 12: Nghị luận xã hội về vấn đề khen và chê (Dàn ý + 7 mẫu)

Nghị luận về khen và chê trong cuộc sống gồm 7 mẫu siêu hay kèm theo gợi ý cách viết trong bài viết dưới đây do Download.vn tổng hợp sẽ giúp các bạn học sinh có thêm nhiều gợi ý tham khảo, trau dồi kiến thức, biết cách viết bài văn nghị luận hay, đủ ý.

Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 12: Nghị luận xã hội về vấn đề khen và chê (Dàn ý + 7 mẫu)

Văn mẫu lớp 12: Nghị luận xã hội về vấn đề khen và chê (Dàn ý + 7 mẫu)

TOP 7 mẫu nghị luận về khen và chê trong cuộc sống dưới đây sẽ là tư liệu hữu ích, giúp các bạn học sinh tự tin không phải lo nghĩ quá nhiều về việc làm sao để viết được bài văn hay. Ngoài ra để nâng cao kỹ năng viết văn nghị luận các bạn xem thêm: nghị luận xã hội về vượt qua nỗi sợ hãi là tiền đề cho sự thành công, nghị luận về phong trào tiếp sức mùa thi của thanh niên.

Nghị luận về khen và chê trong cuộc sống

    Dàn ý nghị luận về khen và chê trong cuộc sống

    1. Mở bài

    Giới thiệu về vấn đề cần nghị luận: sự khen và chê.

    Lưu ý: học sinh tự lựa chọn cách dẫn mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp tùy thuộc vào khả năng của bản thân.

    2. Thân bài

    a. Giải thích

    Khen: là những lời ca ngợi, tán dương con người khi người đó làm được việc tốt hoặc tạo được thành quả cho bản thân, gia đình, xã hội… để khiến cho con người có động lực làm nhiều việc có ý nghĩa hơn nữa.

    Chê: những lời phê phán, chỉ trích, góp ý khi con người làm sai, làm chưa tốt, chưa đúng công việc, nhiệm vụ mình được giao. Đôi khi chê còn mang nghĩa tiêu cực là việc miệt thị người khác.

    b. Phân tích

    • Trong cuộc sống ai rồi cũng sẽ nhận được những lời khen và những lời chê, chúng ta cần biết lắng nghe có chọn lọc và sửa đổi để khiến bản thân mình tiến bộ hơn, tốt đẹp hơn từng ngày.
    • Hãy biến những lời khen và chê thành động lực để vươn lên trong cuộc sống, lấy lời khen làm động lực và lấy lời chê làm bài học.
    • Không phải lời khen nào cũng tốt, không phải lời chê nào cũng xấu, việc mỗi người nhận thức được đâu là tốt cho mình sẽ khiến chúng ta trưởng thành hơn.

    c. Chứng minh

    • Học sinh tự lấy dẫn chứng về khen và chê minh họa cho bài làm văn của mình.
    • Lưu ý: dẫn chứng phải xác thực, nổi bật, tiêu biểu, được nhiều người biết đến.

    d. Mở rộng

    Mỗi con người cần lắng nghe có chọn lọc những lời khen và chê. Học sinh chúng ta cũng cần rèn luyện cho bản thân mình, nói lời khen đúng lúc đúng chỗ để thúc đẩy người khác cũng như chê trách, góp ý cho người khác thẳng thắn và đúng đắn để cùng nhau tiến bộ hơn.

    3. Kết bài

    Khái quát lại vấn đề nghị luận: sự khen và chê; đồng thời rút ra bài học và liên hệ bản thân.

    Nghị luận về vấn đề khen và chê – Mẫu 1

    Cuộc sống bận rộn đôi khi khiến con người mệt mỏi và cần có những lời động viên hay khen ngợi của người khác. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần những lời phê bình để nhận ra những thiếu sót của bản thân từ đó tự sửa đổi để tiến bộ hơn. Thật vậy, lắng nghe những lời đánh giá hay nhận xét của người khác cũng có tác dụng rất lớn trong việc thay đổi và phát triển bản thân của mỗi người.

    Khen và chê là những lời nhận xét hay đánh giá của người khác dành cho bạn về một vấn đề nào đó. Có thể đó là những nhận xét tích cực vì bạn thể hiện khá tốt trong công việc của mình. Và đôi khi là những lời phê bình, những đánh giá chưa tốt về cách xử lý công việc hay thành quả của bạn. Những lời nhận xét có tác động rất lớn đến với người nghe. Nếu chúng ta được khen ngợi sẽ cảm thấy vui vẻ và hạnh phúc. Nhưng khi nhận được lời phê bình chê bai có thể khiến con người không vui, chán nản và tuyệt vọng.

    Con người muốn hoàn thiện và phát triển cần có những lời khen ngợi. Đó chính là động lực để chúng ta cố gắng. Nhưng, lời khen đôi khi lại có mục đích xấu. Có người muốn nịnh bợ ta để đạt được mục đích của họ, họ tâng bốc ta lên như thánh thần trong khi ta chỉ ở mức trung bình. Nếu không tỉnh táo sớm nhận ra mưu đồ của những kẻ môi mép ấy thì chúng ta sẽ trở thành người bị ảo tưởng, mang trong mình cái suy nghĩ mình giỏi giang và rồi không có sự cố gắng nhất định sẽ bị thụt lùi và đánh mất bản thân mình. Cuộc sống rắc rối thị phi ấy không chỉ có những kẻ nịnh bợ mà còn có cả những kẻ vô công dồi nghề tụm năm tụm ba nói xấu sau lưng người khác. Những kẻ rảnh việc chuyên tung những tin đồn sai lệch về người, tất cả là do thói xấu ghen tị không bằng người khác nên muốn kéo người khác xuống cùng đẳng cấp với mình. Đó là những loại người xấu xa mà chúng ta cần phải sớm nhận ra và cảnh giác để không trở thành con rối ảo tưởng trong tay họ.

    Một người nếu muốn hoàn thiện hơn thì cần phải không ngừng học tập và tiếp thu. Và những lời khen ngợi hoặc phê bình sẽ giúp con người học được nhiều điều. Ngược lại khi nhận xét, đánh giá những người xung quanh cũng có nghĩa là mình học được khả năng phân tích và đưa ra ý kiến cá nhân. Khi đánh giá người khác phải đặt trong lập trường khách quan, tránh thái độ cá nhân vì không thích hay có cảm tình mà đánh giá người khác là xấu hay tốt. Cần nhìn nhận người khác một cách toàn diện để đưa ra nhận xét cá nhân. Khi phê bình người khác, cần tránh thái độ gay gắt và không lắng nghe ý kiến hay lời giải thích của người đó vì đó chẳng khác gì tuyên bố với mọi người rằng họ không có tài năng gì, đừng quá tự cao mà đánh giá chê bai người khác trong khi mình cũng chưa hoàn hảo. Tôn trọng người khác khi phát biểu và tôn trọng cả người mình đang nhận xét, dù họ tốt hay chưa tốt cũng cần có thái độ tích cực với họ vì nếu ta không biết cách nhận xét sẽ làm thui chột đi một tài năng đang phát triển, người nghe nhận xét sẽ bị mặc cảm và tổn thương.

    Cuộc sống là không dễ dàng, vì vậy, đôi khi chúng ta không cần quá thành thật trong việc nhận xét người khác. Thay vì nói kết quả người khác làm rất tệ và không thể chấp nhận được hãy nhận xét là họ làm chưa được tốt cho lắm và cần phải cố gắng hơn, bạn đã ghi nhận sự cố gắng này và cần họ phát huy hơn nữa trong công việc lần sau. Lời nói là của bạn nhưng nó lại cứu vớt vấn đề. Thay vì khiến người khác mất đi động lực bạn lại thắp lên cho họ động lực để cố gắng hơn nữa. Việc này hoàn toàn đúng trong việc giáo dục trẻ nhỏ, trẻ nhỏ hay học sinh đều là những đứa trẻ nghịch ngợm và ham chơi vậy nên thay vì nổi cáu và quát mắng hãy khiến cho chúng có động lực với việc học, khen chúng nhiều hơn để chúng có hứng thú với việc học.

    Khen và chê giúp cho mỗi người sống có trách nhiệm hơn với công việc của mình, giúp mọi người nhận thức đúng đắn hơn về bản thân mình, từ đó có hướng phát triển bản thân tốt hơn. Vì vậy, hãy tích cực trong việc khen và chê, lắng nghe và đưa ra nhận xét một cách thực tế nhất. Giúp đỡ người khác cũng là đang giúp đỡ chính mình để sửa đổi bản thân.

    Nghị luận về khen và chê – Mẫu 2

    Trung Hoa là một trong những cái nôi của văn hoá nhân loại. Từ thời cổ đại, người dân Trung Quốc có quyền tự hào về những bậc học giả, về những người thầy lỗi lạc, uyên bác với những triết lí nhân sinh trở thành chân lý cho mọi thời đại. Tuân Tử là một trong số những bậc vĩ đại ấy. Và câu nói của ông: “Người chê ta mà chê phải là thầy ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, những kẻ vuốt ve, nịnh bợ là kẻ thù của ta vậy” đem đến nhiều suy nghĩ.

    Xã hội loài người ngày càng phát triển về kinh tế, về tư tưởng, nhận thức và cũng song hành với phát triển sự phức tạp trong mọi quan hệ đời sống. “Miệng lưỡi thế gian” là điều không thể tránh khỏi. Mỗi con người sống chung trong đồng loại cần phải biết chấp nhận lời chê tiếng khen của mọi người, nhưng để nhận biết sự “thật” – “giả” trong mỗi lời khen tiếng chê, để có ứng xử thích hợp, quả không đơn giản. Câu nói của Tuân Tử đã giúp chúng ta cái kính chiếu yêu” nhận biết đâu là “thầy”, đâu là “bạn”, đâu là “thù” trong cuộc đời đầy phức tạp đó.

    Khi là một con người, kể cả bậc vua chúa, vĩ nhân, trong cuộc sống, thật khó tránh khỏi những sai lầm. Những lúc như thế hẳn chúng ta nhận được những lời nhận xét của mọi người. Tất yêu, mỗi người khác nhau, sẽ có những nhận xét, thái độ khác nhau về ta. Điều quan trọng là ở chính bản thân ta: biết nhận ra cái đúng, cái sai của mình; quan trọng hơn, trong vô số những lời “khen” “chê” đó, ta nhận ra ai là “thầy ta”, ai là “bạn ta”, ai là “kẻ thù” của ta vậy.

    Lời dạy của Tuân Tử thật đúng đắn: “Người chê ta mà chê đúng là thầy ta, người khen ta mà khen đúng là bạn ta”. Mỗi người, khi phạm điều sai, tự mình không dễ gì nhận ra. Người nhận ra cái sai của ta, lại “chê” – tức khẳng định cái sai của ta và chi cho ta biết – hẳn phải là người có tầm tri thức, hiểu biết hơn ta. Người đó xứng đáng là bậc “thầy” của ta về trí tuệ. Hơn thế người thấy và dám chỉ cho ta nhận ra cái sai của mình, để mình có hướng khắc phục, sửa chữa, hẳn đó phải là người có cái tâm thật cao quý: những muôn cho chúng ta nhanh chóng tiến bộ. Chúng ta, về thái độ, tình cảm không thể không tôn trọng người đó là bậc “thầy” về nhân cách để ta học tập. Và người “khen ta mà khen phải” – nghĩa là người đó không những không kỵ, hiềm khích trước những cái tốt, cái mạnh của ta, mà còn “khen”, cùng chung vui, chia ngọt sẻ bùi… Đó hẳn là người bạn tốt, người bạn tri âm, tri kỷ của ta vậy. Cuộc đời mỗi chúng ta, nếu có được nhiều người “thầy”, người “bạn” như thế thì hạnh phúc biết bao nhiêu.

    Tuy nhiên, trong cuộc sống, không phải ai khen hay chê ta đều là “thầy”, là “bạn” của ta. Tuân Tử đã một lần nữa chỉ cho ta biết cách nhận ra ” bộ mặt thật của những “kẻ” hiểm độc đó. Đó là “kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta”, Tuân Tử tỏ thái độ rõ rệt, dứt khoát khi gọi những loại người đó “là kẻ thù của ta vậy”. Nhưng để nhìn ra đâu là bạn “khen ta mà khen đúng” với “những kẻ vuốt ve, nịnh bợ” thì không dễ. Trước hết, kẻ vuốt ve, nịnh bợ, họ khen ta là xuất phát mục đích mong cầu lợi ích riêng của chính họ. Bởi vậy, thành tích của ta chỉ có một, chúng thổi phồng lên ba, bốn hoặc nhiều hơn thế. Thậm chí, có khi chúng còn ngụy biện “phù phép” những khuyết điểm, sai lầm của ta thành “thành tích”. Những kẻ luôn lấy việc “nịnh bợ” để tiến thân, khiến cho người được khen ngày càng tự đánh mất mình, xa rời lẽ phải… Thật đáng tiếc là những kẻ đó thời đại nào cũng có. Sử sách đã ghi lại không biết bao nhiêu bậc vua chúa đã bị những kẻ nịnh thần làm cho u mê, dẫn đến hãm hại trung thần, triều chính đổ nát, xã tắc suy vong. Lời dạy của Tuân Tử lại một lần nhắc nhở mỗi chúng ta cần sáng suốt để nhận ra đâu là “bạn ta” khen ta thật lòng; đâu là “kẻ vuốt ve, nịnh bợ” ta.

    Không chỉ đúng với xã hội xưa, mà ngày nay và với tất cả mọi người, ở trên mọi lĩnh vực, lời dạy của Tuân Tử như một chiếc kính “chiếu yêu” giúp chúng ta nhận ra người tốt, kẻ xấu trong cuộc sống, trong học tập. Khi kinh tế thị trường mở cửa, thì đội ngũ những kẻ chạy theo lợi nhuận, vì danh, vì lợi ngày càng nhiều. Nhân viên nịnh bợ thủ trưởng, cấp dưới luôn luôn vuốt ve, chiều ý cấp trên; các bạn lười học thì xun xoe các bạn học giỏi đế cầu “phao cứu trợ” trong thi cử, kiểm tra… Hành động của những kẻ đó có thể khác nhau, nhưng đều chung một bản chất: mưu cầu lợi ích riêng tư.

    Lời khen và chê đã đem đến những ý nghĩa nhất định trong cuộc sống. Mỗi người hãy sử dụng lời nói của mình sao cho đúng đ

    Nghị luận về khen và chê – Mẫu 3

    Trong cuộc sống của chúng ta, những lời khen là vô cùng cần thiết để khích lệ, động viên hay khen ngợi ai đó. Lời khen giúp họ cảm thấy tự hào về những việc mình đã làm được và cố gắng làm tốt hơn nữa. Tuy nhiên, những lời khen mang tính chất nịnh bợ thì không tốt chút nào. Tuân Tử đã từng nói: “Người chê ta mà chê phải là thầy ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, những kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy.”

    Trong câu nói bao gồm ba đối tượng: “Người chê ta”, “người khen ta”, “kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta” và vai trò của họ đối với cuộc sống mỗi con người. Đầu tiên, “Người chê ta mà chê phải là thầy ta”. Chê, nhưng là chê phải. Đó là những người thấy ta sai và dám chỉ ra cái sai của ta, để từ đó ta rút ra được bài học và sửa chữa sai lầm. Bình thường, chúng ta thường không thích những người chê mình. Tuy nhiên, người khôn ngoan phải là người biết phân biệt đâu là những lời chê có thiện chí. Trong cuộc sống, tất nhiên không thiếu những kẻ ganh ghét, luôn chê bai người khác một cách ác ý. Chúng ta nên biết phân biệt đâu là những lời chê ác ý để bỏ qua, và đâu là những lời chê mang tính góp ý để chúng ta tiến bộ. Một người chỉ khi biết tiếp thu ý kiến của người khác thì mới có thể thành công được. Còn nếu cứ khăng khăng làm theo ý mình, sớm muộn gì người đó cũng sẽ thất bại mà thôi. Chính vì thế, vai trò của những lời “chê phải”, những người dám nói lên những lời chê ấy là vô cùng quan trọng trong cuộc sống của chúng ta. Những người ấy chẳng khác gì thầy ta, giúp ta hiểu ra, học được nhiều điều trong cuộc sống.

    Đối tượng thứ hai, là những người khen ta, nhưng tất nhiên, là “khen phải”. Vậy thế nào là khen phải. Đó là những lời khen chân thành, không nhằm vụ lợi cho bản thân mà tâng bốc đối tượng một cách quá đáng. Mục đích của lời khen ấy chỉ là xuất phát từ việc bày tỏ sự ngưỡng mộ, hay khích lệ người được khen. Con người ta luôn có xu hướng muốn được khen, vì những lời khen thường “dễ nghe” hơn những lời chê. Lời khen là quan trọng, có tác dụng giúp con người ta thấy tự hào vì những thứ được khen, tuy nhiên, chúng ta cần biết được đâu là những lời khen thật, đâu là những lời tâng bốc, xu nịnh. Không nên vì được khen quá nhiều mà dẫn đến suy nghĩ mình đã hoàn hảo, từ đó sẽ dẫn đến tự kiêu, không cố gắng, tất sẽ có ngày gặp thất bại. Những người có thể hiểu, có thể khen thật ta, đó chính là những người bạn của ta.

    Còn đối tượng cuối cùng, cũng liên quan đến những lời khen, nhưng đó lại là “những kẻ vuốt ve, nịnh bợ” ta, như Tuân Tử nói, đó cũng chính là “kẻ thù của ta”. Những kẻ ấy chỉ nói những lời khen nhằm vụ lợi cho bản thân, chứ không xuất phát từ sự chân thành hay sự ngưỡng mộ đối với người được khen. Những lời khen ấy khiến cho người được khen cảm thấy mình thật tốt đẹp, thật quan trọng, thật vĩ đại, từ đó sẽ không cố gắng và dần dần sẽ bị thua kém so với những người xung quanh. Điều ấy thật nguy hiểm. Và những kẻ xu nịnh ta như vậy, giống như kẻ thù của ta vậy. Họ “giết” ta bằng những lời nịnh bợ, dối trá. Điều chúng ta cần làm là tránh xa, hạn chế giao lưu với những đối tượng ấy trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong môi trường học tập, làm việc.

    Câu nói của Tuân Tử, từ xưa đến nay, vẫn luôn là bài học sâu sắc và đáng ghi nhớ cho tất cả mọi người trong cuộc sống. Hãy luôn tỉnh táo, để phân biệt được đâu là bạn, đâu là thù, để có thể có được những lời góp ý, lời khen chân thành nhất từ đó có thể hoàn thiện bản thân mình.

    Nghị luận xã hội về vấn đề khen và chê – Mẫu 4

    Lời nói luôn có những ảnh hưởng đến cuộc sống của con người. Lời khen hay chế cũng vậy. Bởi vậy mà chúng ta cần phải hiểu hơn về hai khái niệm trên.

    Lời khen như một thứ gia vị không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Dù ở bất cứ lứa tuổi hay cương vị nào thì con người cũng thích những lời động viên, khen ngợi từ người khác dành cho mình. Tuy nhiên, lời khen luôn có hai mặt của nó. Nếu là lời khen chân thật, đúng hoàn cảnh thì nó sẽ có tác dụng khích lệ, động viên con người phát triển theo chiều hướng tích cực, còn những lời khen giả dối, lời khen không được sử dụng đúng lúc, đúng chỗ thì nó sẽ phản tác dụng, gây ra những hậu quả khôn lường bởi phía sau những lời khen luôn tiềm ẩn nhiều điều mà ta không thể biết trước được.

    Lời khen là lời ngợi ca, tán thưởng, khâm phục của mọi người dành cho một cá nhân nào đó. Lời khen có hai loại là lời khen tốt và lời khen xấu. Lời khen tốt là lời khen xuất phát từ tận đáy lòng, từ sự chân tình, không vụ lợi, và là động lực để con người phấn đấu vươn lên. Còn lời khen xấu là những lời khen không thật lòng, ẩn chứa nhiều mưu đồ và sự giả dối. Đó chỉ là những lời khen xã giao nhằm mục đích lấy lòng hoặc để đạt được một mục đích nào đó. Lời khen giống như một con dao hai lưỡi, nó có thể là lời khích lệ động viên cũng có thể là cái bẫy đẩy con người tới một việc làm xấu. Bởi vậy, con người cần phải tỉnh táo trước những lời khen của người khác.

    Có người đã từng nói rằng “Người khen ta mà khen phải là bạn ta. Những kẻ vuốt ve nịnh bợ là kẻ thù của ta”. Những lời khen chân thành, đúng lúc, đúng chỗ sẽ giúp người được khen có được niềm vui, niềm hạnh phúc, sự sung sướng và tự tin. Khi chúng ta làm được một việc tốt, một lời khen kịp thời sẽ giúp ta có thêm sức mạnh, niềm tin, khiến niềm vui được lan tỏa đến với mọi người xung quanh. Lời khen tốt là phần thưởng mà con người xứng đáng được nhận sau những cống hiến, hy sinh và sự nỗ lực của bản thân, giúp con người có thêm sức mạnh và ý chí để đi đến thành công. Một lời khen tốt có thể giúp một học sinh học yếu có ý chí phấn đấu. Một lời khen tốt có thể giúp cho người sa ngã muốn hướng thiện có thêm sức mạnh để làm lại cuộc đời. Một lời khen tốt giúp con người vượt qua thử thách…

    Tuy nhiên, không phải lúc nào lời khen cũng mang lại những tác dụng tốt. Lời khen là liều thuốc tốt cho đời sống tinh thần nhưng đôi khi nó trở thành một mối nguy hại vì có biết bao mầm mống của sự ảo tưởng, kiêu ngạo có thể sinh ra từ đó. Những lời khen với mục đích xã giao, không xuất phát từ cái nhìn thực tế thường là những lời khen có cánh, nó tức thì làm lan tỏa xung quanh ta thứ hương thơm ngọt dịu, xây dựng trước mắt ta một lâu đài ảo mộng khiến ta đắm chìm trong giấc mộng ảo đó. Bản chất của con người thường kiêu ngạo, vậy nên khi nghe lời khen giả tạo hay thực chất đó là những lời xu nịnh thì con người dễ trở nên kiêu ngạo hơn là sự khiêm nhường. Có thể cá nhân đó mới đạt được chút thành công bé nhỏ mà họ đã tự xem mình là trung tâm của vũ trụ, xem mình là hơn tất cả, đến khi thất bại dễ trở nên yếu đuối.

    Không chỉ vậy, phía sau những lời khen giả tạo còn là cả một sự áp lực nặng nề cho người được khen. Vì được khen nên cá nhân đó phải gồng mình lên để sống tốt, làm việc tốt, học thật giỏi…. Những cố gắng đó đôi khi khiến con người trở nên căng thẳng vì sợ lúc nào mọi người xung quanh cũng đang theo dõi việc làm của mình. Lời khen giả tạo có thể làm cho con người ngộ nhận, ảo tưởng để rồi phải sống như một con rô bốt, như một con vẹt, chỉ dám nói hành động theo dư luận mà không dám sống là chính mình.

    Tôi đã từng được nghe một câu chuyện kể về một vị tướng tài ba, có tài cầm quân. Ông chỉ huy trận nào là thắng trận đó. Rồi ông trở thành quốc vương của cả một vùng đất rộng lớn. Ông được mọi người tung hô, khen ngợi, nhưng rất ít lời khen thật lòng. Những đại thần thường vây quanh ông, khen ngợi ông hết lời để được ông ban thưởng vàng, lụa. Họ nịnh bợ ông, khẳng định với ông mình sẽ mãi trung thành và dù biết là nịnh bợ nhưng ông lại rất thích và rất tin vào điều đó. Cho đến một ngày, đất nước xảy ra biến cố, ông kêu gọi sự hợp sức của các đại thần nhưng họ đều lần lượt bỏ rơi ông. Đến khi ông nhận ra mình đã tin tưởng một cách mù quáng thì đất nước đã rơi vào tay kẻ khác.

    Còn đối với những lời chê trách thường sẽ đem đến sự tổn thương cho những người xung quanh. Lời chê thường khiến con người cảm thấy buồn bã, chán nản. Nhưng đôi khi lời chê đúng đắn sẽ giúp con người nhận ra sai lầm, để thay đổi bản thân trở nên ngày một tốt đẹp hơn.

    Là một học sinh còn ngồi trên ghế nhà trường, mỗi chúng ta hãy biết tỉnh táo trước mọi lời khen. Chúng ta không nên quá khiêm tốn cũng không nên tự kiêu trước lời khen mà mình nhận được mà hãy luôn trau dồi bản thân để trở thành một công dân có ích cho xã hội.

    Lời khen và chê là một phần không thể thiếu trong cuộc sống, là động lực để chúng ta đi tới những thành công, là bài học để mỗi người trở nên trưởng thành, cứng cáp. Bởi vậy chúng ta hãy sử dụng lời khen và chê đúng lúc, đúng chỗ như một món quà mà cuộc sống ban tặng cho con người.

    Nghị luận xã hội về vấn đề khen và chê – Mẫu 5

    Dường như ai cũng mong muốn mình được nhận những lời khen từ người khác, bất chấp họ biết chúng phản ánh không đúng sự thật, và chỉ là một lời “nịnh hót” không hơn. Đồng thời, họ hiếm khi muốn tiếp nhận những lời chê trách góp ý, dù cho chúng thực sự hữu ích với bản thân họ, hay chỉ do sự ghen ghét, đố kỵ mang lại mà thôi. Thế nên bạn thử nghĩ xem có phải lúc nào lời khen cũng đúng, hay lời chê lúc nào cũng khó được chấp nhận?

    “Người chê ta mà chê phải là thầy ta”, “thầy” ở đây ta có thể hiểu là người giáo dục một cách đúng đắn cho người khác về kiến thức và các quy tắc chuẩn mực đạo đức cần có của một con người. Người thầy là nhân tố không thể thiếu đối với sự tồn tại của xã hội loài người vì họ là những người có trình độ học vấn và có đầy đủ nhân cách, khiến họ luôn được mọi người kính nể và quý trọng. “Bạn” trong “Người khen ta mà khen phải là bạn ta” mang nghĩa thuần tuý là những người có mối quan hệ bằng hữu với nhau, luôn giúp đỡ và chia sẻ lẫn nhau những hiểu biết, kinh nghiệm trong cuộc sống. Vậy “kẻ thù” là ai? “Kẻ thù” chỉ những người luôn đối đầu với người khác, làm cản trở sự phát triển toàn diện của người ấy. Thông thường kẻ thù chỉ mang lại những điều tồi tệ cho mỗi cá nhân nên không ai mong muốn mình có nhiều kẻ thù, dù đôi lúc điều đó là không thể tránh khỏi. Việc đưa ra sự khen chê gắn liền với ba đối tượng ấy của Tuân Tử cho thấy ông đang muốn chuyển tải quan niệm của mình về sự khen chê ở đời và khẳng định những ai xứng đáng là thầy, là bạn mình và những ai là kẻ thù mà mình phải tránh.

    Đôi khi, những điều ấy phải là người có kiến thức và hiểu biết sâu rộng hơn bản thân ta rất nhiều. Họ cũng không ngại ngần góp ý để giúp cho ta hoàn thiện chính mình hơn, chứng tỏ họ xứng đáng là người thầy của ta, bởi chỉ có người thầy mới có thể làm được điều như thế. Quan trọng nhất là qua mỗi lần được khen hoặc chê, bạn phải điều chỉnh được thái độ, hành vi của mình theo hướng tích cực. Từ đó, bạn sẽ nhận ra được những bài học quý báu và cảm ơn người đã đem lại chúng cho bạn, đồng thời phê phán hoặc góp ý những người chỉ luôn mang đến những suy nghĩ, hành động tiêu cực cho người khác bằng những lời nịnh nọt hay vô tình khen một cách thái quá.

    Qua đây, mỗi người có thể rút ra được những kinh nghiệm cho bản thân để khen chê người khác một cách chính xác vì mục đích động viên hoặc giúp họ tiến bộ. Đồng thời, ai cũng có thể tự tìm thấy những người thầy, người bạn thực sự thông qua cách họ góp ý cho mỗi suy nghĩ, hành động của mình.

    Nghị luận xã hội về vấn đề khen và chê – Mẫu 6

    Có ai đó đã từng nói rằng: “Chỉ người biết coi trọng sự phê bình mới có lợi từ lời khen”. Lời khen và chê là những điều mà con người luôn cần trong có trong cuộc sống.
    Khen và chê là khái niệm đối lập nhau, thể hiện thái độ của người nói với người nhận. Lời khen là lời ngợi ca, tán thưởng, khâm phục. Nó thể hiện sự ghi nhận, động viên, khích lệ tinh thần của mọi người khi chúng ta làm được điều gì đó tốt đẹp. Còn lời chê là lời trách móc, thể hiện sự không vừa ý của mọi người khi chúng ta phạm phải sai lầm, hay làm điều gì đó không đúng đắn.

    Tâm lý chung của con người là luôn mong muốn nhận được những lời khen. Bởi đó là nguồn động lực cho tinh thần, giúp chúng ta có thêm sự lạc quan và tin tưởng để tiếp tục cố gắng trong cuộc sống. Một lời khen đúng lúc sẽ giúp tiếp thêm sự tự tin, tự hào cho người khác, để họ biết họ đang đi đúng hướng và nên duy trì, tiếp tục. Ngoài ra, nó còn tăng sự hưng phấn, tiếp thêm động lực để người khác tiếp tục cố gắng và gặt hái nhiều thành công hơn nữa. Lời khen giúp lan tỏa năng lượng tích cực đến con người. Bên cạnh đó không phải lời khen nào cũng mang đem lại sự tích cực. Có những người khi nói ra lời khen chỉ mang mục đích nịnh bợ để đem lại lợi ích cho bản thân. Nó không xuất phát từ thực tế trong cuộc sống, mà mang tính tâng bốc. Lời khen đó sẽ khiến cho con người ảo tưởng về bản thân, dễ trở nên kiêu căng, ngạo mạn. Từ đó người đó rất dễ mắc phải sai lầm trong cuộc sống.

    Còn đối với những lời chê bai sẽ gây ra tổn thương cho những người nhận được. Nó khiến con người cảm thấy tự tin vào bản thân, không dám thực hiện ước mơ, đam mê của chính mình. Thậm chí có những lời chê trách được nói ra khiến cho người nhận được cảm thấy buồn bã, chán nản vì cảm thấy bản thân kém cỏi, không thể làm tốt được việc gì. Từ đó, họ sẽ chỉ chìm đắm trong nỗi thất vọng, không thể bước tiếp mà rơi vào thất bại. Cần phải hiểu rằng, một lời đóng góp chân thành mà tế nhị sẽ tốt hơn nhiều một lời chê bai quá thẳng thắn. Những lời đóng góp tế nhị kèm theo sự động viên sẽ giúp con người nhận ra thiếu sót của bản thân. Từ đó, họ sẽ tự giác thay đổi để hoàn thiện mình trở nên tốt đẹp hơn.

    Một lời khen hay lời chê là những điều cần thiết đối với con người trong cuộc sống. Bởi vậy mà mỗi người hãy sử dụng chúng thật đúng đắn. Ông cha ta đã có câu để nhắc nhở con người về cách giao tiếp trong cuộc sống:

    “Lời nói chẳng mất tiền mua
    Lựa lời và nói cho vừa lòng nhau”

    Với một học sinh còn ngồi trên ghế nhà trường, tôi cảm thấy bản thân cần phải tỉnh táo trước những lời khen và chê. Đồng thời, tôi cũng sẽ tích cực sử dụng những lời khen nhiều hơn, và hạn chế việc chê trách mọi người xung quanh. Điều đó không chỉ giúp mọi người có cảm thấy tích cực hơn, mà bản thân tôi cũng vui vẻ, hạnh phúc hơn.

    Như vậy, lời khen và lời chê rất cần thiết trong cuộc sống của con người. Nhưng chúng ta cần ý thức sử dụng sao cho hợp lý, đúng đắn để đem lại hiệu cao.

    Nghị luận xã hội về vấn đề khen và chê – Mẫu 7

    Tuân Tử đã từng nói rằng: “Người chê ta mà chê phải là thầy ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, những kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy”. Câu nói đã gợi cho mỗi người những suy nghĩ về vấn đề khen và chê trong cuộc sống.

    Đầu tiên, lời khen là lời ngợi ca, tán thưởng, khâm phục của mọi người khi chúng ta làm được điều gì đó tốt đẹp. Còn lời chê là lời trách móc, thể hiện sự không vừa ý của mọi người khi chúng ta phạm phải sai lầm, hay làm điều gì đó không đúng đắn. Khen hay chê thể hiện cách nhìn nhận vấn đề của mọi người xung quanh về hành động của người nhận được. Lời khen thường mang ý nghĩa tích cực. Còn sự chê bai thường mang ý nghĩa tiêu cực.

    Khi một đứa trẻ biết tự giác làm các công việc như vệ sinh cá nhân, chăm chỉ học tập… sẽ nhận được lời khen ngợi của bố mẹ. Điều đó sẽ giúp đứa trẻ cảm thấy vui vẻ khi được bố mẹ công nhận việc làm tốt của mình, từ đó tiếp tục thực hiện điều đó tốt hơn. Có thể khẳng định rằng, lời khen sẽ tạo ra một nguồn động lực to lớn, tiếp thêm sức mạnh để con người tiếp tục cố gắng. Một lời khen đúng lúc đôi khi còn giá trị hơn cả một phần thưởng. Nhưng ngược lại, cũng có lời khen xuất phát từ mục đích xấu. Những lời khen như vậy thường xuất phát từ sự vụ lợi cá nhân. Người nói ra nhằm nịnh bợ, tâng bốc người nhận được. Điều này khiến họ cảm thấy vui vẻ, nhưng lâu dần sẽ dựng thành những ảo tưởng về bản thân. Từ đó, họ dần trở nên kiêu ngạo, coi thường những người xung quanh, hay cho rằng bản thân là giỏi giang, thành công. Những lời khen với mục đích như vậy đều vô cùng đáng sợ.

    Con người luôn mong muốn nhận được lời khen tặng. Chẳng ai thích bị chê bai, chỉ trích. Bởi vậy, lời nói chê bai thường khiến người nhận được cảm thấy buồn bã. Có nhiều lời chê trách còn khiến chúng ta cảm thấy tổn thương, thất vọng. Nếu một lời chê trách đúng đắn được nói ra một cách tế nhị, kèm theo những lời động viên và thấu hiểu, thì ngược lại sẽ giúp cho người nhận ý thức được sai lầm của mình. Nhờ vậy mà họ sẽ tích cực sửa chữa để trở nên ngày càng tốt đẹp hơn. Có lẽ vì ý nghĩa đó mà Tuân Tử mới cho rằng “Người chê mà chê phải là thầy ta”.

    Khen và chê tuy đối lập nhưng lại có mối quan hệ mật thiết. Con người cần biết sử dụng lời khen và lời chê sao cho đúng đắn. Đặc biệt với một học sinh như tôi, khi nhận được lời khen hay chê trách, tôi sẽ nhìn lại bản thân. Từ đó, tôi sẽ có thêm động lực cố gắng học tập, rèn luyện để bản thân ngày một trưởng thành hơn.

    Con người hãy ý thức rằng: “Nghe lời chê bai mà giận là ngồi cho người gièm pha. Nghe câu khen ngợi mà mừng làm mồi cho người nịnh hót”. Trước những lời khen và chê hãy luôn tỉnh táo để đón nhận.

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *