Phân tích bi kịch tha hóa của hai nhân vật Chí Phèo và hồn Trương Ba trong Hồn Trương Ba, da hàng thịt tổng hợp 4 mẫu cực hay kèm gợi ý cách viết, được biên soạn nhằm giúp cho các em học sinh có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng viết văn ngày một tiến bộ hơn.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 12: Phân tích bi kịch của nhân vật Chí Phèo và Hồn Trương Ba (Dàn ý + 4 mẫu)
Liên hệ hồn Trương Ba da hàng thịt với Chí Phèo siêu hay dưới đây sẽ là người bạn đồng hành hỗ trợ cho các em trau dồi kiến thức của mình và hoàn thiện bài khi ôn tập, rèn luyện và làm các bài kiểm tra. Đồng thời hiểu được bi kịch tha hóa của hai nhân vật Chí Phèo và hồn Trương Ba. Ngoài ra các bạn xem thêm: phân tích màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt, phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt.
Phân tích bi kịch của nhân vật Chí Phèo và Hồn Trương Ba
Dàn ý phân tích bi kịch của Chí Phèo và Hồn Trương Ba
A. Mở bài
– Giới thiệu đôi nét về nhà viết kịch Lưu Quang Vũ và vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”; giới thiệu ngắn gọn bi kịch của nhân vật Trương Ba; nêu ra được vấn đề của đề yêu cầu là cách giải quyết bi kịch của nhân vật hồn Trương Ba: kiên quyết từ chối nhập vào xác cu Tị và chọn cái chết để trả lại thân xác cho anh hàng thịt.
– Từ vấn đề trên: gợi cho em liên hệ tới cách giải quyết bi kịch của nhân vật Chí Phèo: đâm chết Bá Kiến và tự kết liễu đời mình trong truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao để thấy được quan niệm của 2 tác giả về giá trị sống đích thực của con người.
B. Thân Bài: Triển khai vấn đề
1. Yêu cầu cơ bản: cảm nhận về cách giải quyết bi kịch của nhân vật hồn Trương Ba: kiên quyết từ chối nhập vào xác cu Tị và chọn cái chết để trả lại thân xác cho anh hàng thịt.
a. HS tóm tắt được hoàn cảnh bi kịch Trương Ba từ đầu dẫn đến chọn lựa cuối cùng: kiên quyết nhập vào xác cu Tị và chọn cái chết để trả lại thân xác cho anh hàng thịt.
Đoạn trích có thể gọi là “Thoát ra nghịch cảnh” là cảnh cuối, đúng vào lúc xung đột trung tâm của vở kịch lên đến đỉnh điểm. Sau mấy tháng sống trong tình trạng “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, nhân vật hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với bạn bè, người thân trong gia đình và tự chán ghét chính mình.
Hồn Trương Ba cảm thấy không thể sống trong “da” anh hàng thịt, không thế kéo dài “nghịch cảnh” mãi được. Hồn muốn tách ra khỏi cái thân xác kềnh càng, thô lỗ. Trong tình trạng ấy; nhà văn đã sáng tạo khi dựng lên đoạn đối thoại giữa hồn và xác để rồi trước sự giễu cợt, mỉa mai của xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba càng trở nên đau khổ, bế tắc.
Thái độ cư xử của người thân trong gia đình (với người vợ, với cái Gái, với chị con dâu) càng khiến ông tuyệt vọng. Hồn Trương Ba đã châm hương gọi Đế Thích, hai bên đang đối thoại, thì cu Tị nhà hàng xóm chết.
Đế Thích gợi ý để hồn rời xác anh hàng thịt sang xác cu Tị. Nhưng hồn Trương Ba, sau một “quãng đời” vô cùng thấm thía đã qua, hình dung ra những “nghịch cảnh” khác khi phải sống trong thân xác một đứa bé đã quyết định xin cho cu Tị được sống và mình được chết hẳn.
b. HS nêu cảm nhận về hành động này của Trương Ba:
– Đây là hành động tất yếu khi Trương Ba thấm thía vô cùng vì quãng đời “phức tạp” vừa trải qua của mình khi nhập vào xác người khác (anh hàng thịt); và giờ này lại nhập vào xác một đứa trẻ con.
Theo Đế Thích thì ông với anh hàng thịt là hai người xa lạ, còn ông với cu Tị đã từng “quấn quýt mến nhau”, “ông sống trong thân thể thằng bé chắc sẽ ổn…”. Sau khi suy nghĩ một lát Trương Ba nhận thấy: ông già gần 60, cu Tị thì còn chưa bắt đầu cuộc đời, còn đang tuổi ăn tuổi lớn; rồi ông sẽ giải thích sao với chị Lụa rằng ông không phải là con chị ấy; rồi vợ con ông sẽ nghĩ ngợi ra sao khi chồng mình, bố mình mang thân một thằng bé lên 10; rồi cái Gái cháu ông sẽ nghĩ thế nào; rồi còn hàng xóm, lí trưởng, trương tuần….
Cái chết của cu Tị khiến cho những dằn vặt, day dứt trong ông bị dồn nén vào thế phải quyết định càng nhanh càng tốt trong tình trạng bi kịch. Cái chết của cu Tị đẩy nhanh hơn diễn biến của hành động kịch, buộc ông phải lựa chọn; một là nhập vào xác cu Tị ngay khi vừa chết, hai là ông để hồn cu Tị có chỗ trở lại nhập xác.
Không thể làm theo lời đề nghị của Đế Thích vì ông “lường trước bao sự không ổn”; ông không tham lam cuộc sống khi biết rằng tiếp tục vẫn là bi kịch. Trái tim nhân hậu của ông đã cầu xin mong mỏi Đế Thích “Ông hãy cứu nó”; hãy gọi hồn cu Tị nhập vào xác của nó và ông chọn cái chết để trả lại thân xác cho anh hàng thịt.
Ông mong muốn: “Tôi không muốn nhập vào hình thù ai nữa! Tôi đã chết rôi, hãy để tôi chết hẳn!”, để không còn sự tồn tại của “con vật quái gở” mang tên “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Bi kịch tâm hồn ông đã được giải quyết.
– Xây dựng tình huống và giải quyết xung đột như vậy, Lưu Quang Vũ đã gửi gắm một triết lí sâu sắc về lẽ sống, lẽ làm người: cuộc sống thật đáng quý, nhưng không phải sống thế nào cũng được.
– Nếu sống vay mượn, sống chắp vá, không có sự hài hòa giữa vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách và nhu cầu vật chất thì con người chỉ gặp bi kịch mà thôi. Cuộc sống của mỗi con người chỉ thực sự hạnh phúc, chỉ có giá trị khi được sống đúng là mình, được sống tự nhiên trong một thể thống nhất. Đó là chủ đề tư tưởng chính của vở kịch.
– Qua đây chúng ta cũng thấy được phẩm chất đáng quý, nhân hậu, trung thực và tình cảm đầy nhân văn của ông Trương Ba. Quả đúng vậy, sau khi hồn Trương Ba thoát khỏi xác anh hàng thịt, ông không vĩnh viễn mất đi như lời của Đế Thích nói. Ông trở lại nguyên vẹn trong tâm trí, tình yêu của vợ con và người thân (đoạn kết).
2. Yêu cầu phân hóa: Từ đó, liên hệ tới cách giải quyết bi kịch của nhân vật Chí Phèo: đâm chết Bá Kiến và tự kết liễu đời mình trong truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao để thấy được quan niệm của 2 tác giả về giá trị sống đích thực của con người.
a. HS chỉ ra được điểm giống nhau trong cách giải quyết bi kịch của 2 tác giả để thấy được quan niệm của 2 tác giả về giá trị sống đích thực của con người.
– Truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao và vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ tuy ra đời trong những hoàn cảnh xã hội – lịch sử khác nhau nhưng tất thảy đều đề cập đến những bi kịch của con người, trong đó có bi kịch tha hóa.
Qua 2 bi kịch và cách kết thúc của 2 tác phẩm, ta thấy giá trị phê phán tố cáo xã hội sâu sắc. Nỗi khốn khổ của Trương Ba và Chí Phèo đều do kẻ thống trị gây nên. Bá Kiến nhẫn tâm đẩy Chí Phèo vào tù 7,8 năm.
Tiếp thu sự giáo dục của nhà tù thực dân Chí Phèo đã trở thành kẻ côn đồ hung hãn, hắn vùng lên liều mạng để trả thù. Nhưng hắn đã gặp kẻ thống trị nham hiểm, xảo quyệt và bị biến thành công cụ cho kẻ thù của mình.
Ông Trương Ba từ hiền hậu tử tế, tốt bụng còn đang rất khỏe mạnh, mặc dầu chưa tận số đã phải chết thay cho một tên bạc ác bất nhân, dối trá tham tàn bởi cung cách làm việc luộm thuộm, thiếu trách nhiệm, muốn xong việc nhanh của Nam Tào…
– Cả 2 tác giả đều để nhân vật của mình rơi vào hoàn cảnh bi kịch trớ trêu: nếu Trương Ba là hoàn cảnh bi kịch “không thể bên ngoài một đằng bên trong một nẻo” mãi, còn Chí Phèo lại là bi kịch từ con người lương thiện “bị cự tuyệt quyền làm người”; bi kịch bần cùng hóa dẫn đến lưu manh hóa của người nông dân trước cách mạng. Và cả 2 nhân vật đều lựa chọn cái chết để thể hiện phẩm chất đáng quý của mình như:
- Thoát khỏi nỗi tuyệt vọng, bế tắc của bản thân: Trương Ba nói nếu Đế Thích không giúp ông cũng sẽ “nhảy xuống sông hay đâm một nhát dao vào cổ”; Chí Phèo thì sau khi chứng kiến Thị Nở “bắc lên cây cầu” giúp Chí quay lại với thế giới con người hoàn lương thì giờ thị lại rút cây cầu đó, rồi những ý kiến của bà cô Thị Nở là những định kiến xã hội… thì chỉ có cái chết mới giúp Chí thoát khỏi nghịch cảnh của mình. Bi kịch đau đớn của Chí là hắn chưa được xã hội ấy công nhận, hắn chết “trên ngưỡng của của sự quay lại làm người”.
- Khát khao được sống trọn vẹn, nhân văn: Cái chết của Trương Ba là sự hòa hợp giữa tâm hồn và thể xác, muốn được cu Tị sống lại vì nó còn có cả “một cuộc đời phía trước”, ông hiểu vai trò của “đứa con đối với người mẹ” là như thế nào; còn Chí Phèo là sự khát khao hoàn lương từ con người bị đẩy vào tăm tối, cùng đường, Chí không chịu chấp nhận cuộc sống quỷ dữ nữa…
- + Cùng nhận ra cái chết có thể còn hơn cuộc sống lạc loài, vô nghĩa: Ông Trương Ba nhận thấy nếu mình sống đồng nghĩa mình phải giả tạo trong hình hài người khác, lạc lõng giữa đám hậu sinh thì thà chết còn hơn…; Chí Phèo cũng nhận ra nếu mình sống tiếp sẽ bị cả cái xã hội loài người xa lánh và coi mình là quỷ dữ thì chỉ có cái chết mới kết thúc tất cả. Do vậy giết Bá Kiến – trả thù xong; Chí cũng tự vẫn ngay, vì xã hội ấy không có chỗ cho con người như Chí tồn tại nữa.
=> Qua cái chết của Trương Ba và Chí Phèo, ta thấy được quan niệm của 2 tác giả về giá trị sống đích thực của con người: đó là quan niệm được sống làm người rất quan trọng, nhưng sống đúng là mình, trọn vẹn với những giá trị mình có mình theo đuổi, được sống trong lương thiện, được người khác trân trọng mới quý giá hơn nhiều. Con người phải luôn biết đấu tranh với nghịch cảnh để hoàn thiện nhân cách; vươn tới giá trị làm CON NGƯỜI cao quý theo đúng nghĩa.
b. HS chỉ ra được sự khác giống nhau trong cách giải quyết bi kịch của 2 tác giả:
– Trong tác phẩm “Chí Phèo”, khác với các nhà văn hiện thực phê phán đương thời Nam Cao không đi sâu miêu tả quá trình đói cơm, rách áo bần cùng khốn khổ của người nông dân- dù trong thực tế đó cũng là một hiện thực phổ biến.
Nhà văn trăn trở nhiều hơn về một hiện thực còn thảm khốc hơn đó là sự tha hóa… Cũng như Chí Phèo, Trương Ba trước đây là con người hoàn toàn khác. Trương Ba là người nông dân chăm chỉ, khéo léo,yêu thương vợ con, chiều quý các cháu, tốt bụng với hàng xóm láng giềng, yêu cây cỏ…
Từ khi sống trong xác anh hàng thịt, Trương Ba đã bị xác hàng thịt điều khiển, chi phối: trở nên vụng về, thô tục, thô bạo, vô tình; thích bán thịt, ham uống rượu, những nước cờ không còn phóng khoáng mà tủn mủn, vô hồn… Nếu Chí Phèo tha hóa mà không biết mình tha hóa, thì Trương Ba lại nhận thấy rất rõ tình trạng khốn khổ của mình.
– Hành động cuối cùng Chí Phèo giết Bá Kiến rồi tự sát nó là hành động mang tính chất manh động và cùng đường tuyệt vọng. Đến cuối cùng Chí mới hiểu bi kịch – tội ác cuộc đời của mình là do đâu.
Nam Cao xây dựng mối quan hệ Bá Kiến – Chí Phèo trở nên hết sức gay gắt, mối tình dang dở với Thị Nở cũng là cách đưa thêm dầu vào lửa, biến cơn say, cơn buồn, cơn thất tình ở Chí Phèo thành lòng căm hận, tức tối, quyết đến nhà Thị Nở để trả thù.
Quy luật lại không phải thế, quy luật đã kéo Chí đi nhưng là đến nhà Bá Kiến, chứ không phải ai khác. Kẻ đáng giết là Bá Kiến. Với cái kết thúc bất ngờ dữ dội của thiên truyện ngắn, Nam Cao đã cho chúng ta thấy kết quả tất yếu sẽ xảy ra, điều đó không thể tránh khỏi. Còn với Trương Ba ông có sự sáng suốt, sâu sắc trong sự lựa chọn cuộc sống – cái chết một cách rõ ràng hơn.
– Nếu bi kịch của Chí Phèo là bi kịch cùng đường, bi kịch bần cùng hóa dẫn đến lưu manh hóa của người nông dân bị áp bức trước cách mạng, nhưng bi kịch của Trương Ba còn gọi ra những suy tư về mối quan hệ giữa hồn và xác, giữa ý thức và bản năng trong một con người: có ai là toàn vẹn hoàn hảo không? những đòi hỏi của thân xác có phải tội lỗi đáng ghê tởm không…?
Do vậy, cách kết thúc của Vở kịch mà Lưu Quang Vũ xây dựng sẽ vừa có ý nghĩa xã hội vừa mang tính triết lí sâu xa và mang tính thời đại.
=> Qua lựa chọn thể cái chết có phần khác nhau như trên của Trương Ba và Chí Phèo, ta thấy được quan niệm của 2 tác giả về giá trị sống đích thực của con người. Nam Cao với “Chí Phèo” muốn chỉ ra quan niệm về giá trị sống đích thực của con người trong xã hội với mối xung đột, mâu thuẫn giai cấp ở nông dân – địa chủ, nhất là nông dân đã chín muồi, đã đến mức sâu sắc và không gì có thể xoa dịu (trước cách mạng).
Còn hành động kiên quyết từ chối nhập vào xác cu Tị và chọn cái chết để trả lại thân xác cho anh hàng thịt của ông Trương Ba trong vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” lại đưa đến vấn đề giá trị sống đích thực của con người hiện đại. Nó cũng gợi mở lối sống đúng đắn để đem lại hạnh phúc và sự thanh thản của tâm hồn con người.
C. Kết bài:
– Khẳng định lại giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo của vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt, liên hệ thực tế.
Liên hệ hồn Trương Ba với Chí Phèo – Mẫu 1
Bi kịch, phải chăng đã có nhiều người băn khoăn tự hỏi nó là gì, nó có ý nghĩa gì mà tác động to lớn đến đời sống con người, đến tâm hồn người nghệ sĩ và văn chương đến vậy. Trong hằng hà sa số những bi kịch của con người, bi kịch tha hóa được rất nhiều cây bút xuất sắc của Việt Nam nhiều thời quan tâm và thể hiện rất tốt qua tác phẩm của mình, từ đó gửi gắm nỗi lòng, những bức thông điệp sâu sắc. Trong “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ, nhân vật Trương Ba đã phải đón nhận rất nhiều bi kịch, trong đó có bi kịch tha hóa. Cảm nhận về nó khiến ta liên tưởng đến bi kịch tha hóa của Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao và từ đó mà hiểu hơn sự độc đáo của mỗi nhà văn trong việc khám phá số phận con người.
Nói đến cái tên Lưu Quang Vũ, người ta nghĩ ngay đến một nhà viết kịch Việt Nam nổi tiếng, tài ba của thế kỉ XX. Gia tài văn chương của ông là một kho đồ sộ những vở kịch xuất sắc, để lại tiếng vang lớn trên sân khấu kịch trường và rung động mạnh mẽ, suy ngẫm sâu xa trong tâm hồn những con người yêu nghệ thuật. Tác phẩm tiêu biểu của Lưu Quang Vũ có thể kể đến như “Sống mãi tuổi 17”, “Nàng Xita”, “Mùa hè cuối cùng” hay “Tôi và chúng ta”…Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được bắt đầu viết năm 1981 nhưng đến tận năm 1984 mới ra mắt với công chúng. Tác phẩm dựa trên một cốt truyện dân gian nhưng với cái tài của mình, tác giả đã sáng tạo thành công những tình tiết truyện hấp dẫn, tạo dựng thành công nhân vật để qua đó gửi những thông điệp sâu cay, thấm thía. Đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” thuộc cảnh VII – đoạn kết của vở kịch diễn là nỗi dằn vặt, đau khổ đến tột cùng của Hồn Trương Ba cùng với quyết định vô cùng cao thượng của ông: chọn cái chết, xin cho cu Tị được sống và trả xác cho hàng thịt.
Đọc “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, nhân vật Trương Ba được xây dựng với hình ảnh một người làm vườn lành thiện và cao cờ. Chính bởi sự tắc trách của Nam Tào, Bắc Đẩu mà ông chết oan. Đế Thích tình cờ biết chuyện và đã cho hồn Trương Ba nhập vào xác hàng thịt. Sau nhiều ngày trú trong cái thân xác kềnh càng, thô lỗ của anh hàng thịt thì dường như hồn Trương Ba cũng dần bị nhập nhiễm những thói quen tật xấu của hắn. Từ cảm xúc chán ngán, Trương Ba bắt đầu thấy sợ và muốn rời xa cái thân xác ấy, rồi cuối cùng ông bị tha hóa. Khi xác hàng thịt khẳng định chắc chắn rằng hồn Trương Ba không thể rời nó được, hồn Trương Ba còn kinh thường và lăng mạ xác hàng thịt rằng nó không có tiếng nói, âm u, đui mù, thấp kém và chẳng khác nào một con thú. Trái lại, xác hàng thịt lại ngang nhiên thừa nhận rằng mình có sự sống, có sức mạnh nhiều khi “át” cả tâm hồn cao khiết của hồn Trương Ba. Tiếp đó, xác hàng thịt không ngần ngại mà vạch mặt, chỉ tên những dục lạc tầm thường như tiết canh, khổ hũ, khấu đuôi và cả đàn bà. Những thứ có lẽ chẳng bao giờ Trương Ba khi sống quan tâm đến nhưng giờ lại khác.
Trong cuộc trò chuyện giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt, xác hàng thịt không ngừng mỉa mai, chế giễu sự khuất lụy, yếu đuối chiều theo hoàn cảnh của hồn Trương Ba – một sự mỏng manh về bản lĩnh chưa từng xuất hiện ở con người Trương Ba trước đó. Xác hàng thịt tiếp tục tố cáo thói vũ phu, thô bạo, sự vô ơn, vong bội, thói giáo điều và đấu tranh, đòi hỏi được hồn Trương Ba tôn trọng. Lúc bắt đầu cuộc trò chuyện, Trương Ba ở thế chủ động nhưng càng về cuối lại càng đuối lý. Về xưng hô, nếu như lúc đầu đầy cao ngạo xưng “ta”, gọi xác hàng thịt là “mi”, “mày” thì đến cuối câu chuyện đã chuyển sang xưng “tôi” gọi “anh”. Sự chủ động lúc ban đầu giờ đã bị thay thế bằng thế bị động. Ngôi vị từ thế thượng phong đã chuyển xuống hạ đẳng. Rõ ràng, bi kịch của hồn Trương Ba là muốn thoát khỏi nhưng không thoát được và dần bị tha hóa, biến chất. Từ bi kịch tha hóa của Trương Ba, dường như Lưu Quang Vũ muốn dùng câu chuyện, nhân vật, ngôn từ nghệ thuật của mình để gửi gắm một bức thông điệp sâu sắc: con người chúng ta, dẫu không thể thoát khỏi hoàn cảnh thì cũng không được để hoàn cảnh chi phối. Nếu như yếu đuối chấp nhận thỏa hiệp, thì cái nhận lại chỉ là một bi kịch, với những rối bời trong cảm xúc, hành xử mà thôi.
Đọc “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, bi kịch tha hóa của hồn Trương Ba bỗng gợi nhắc ta nhớ đến bi kịch tha hóa của Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao. Chí Phèo vốn là một người nông dân lành thiện như bao người nông dân khác của làng Vũ Đại. Vì sự lẳng lơ của mợ Ba và thói ghen tuông vớ vẩn của Bá Kiến, Chí Phèo đã bị tống vào tù và trở thành một nạn nhân của cường quyền, bạo lực thời đó. Những ngày tháng trong tù đã tác động làm biến đổi một phần con người Chí. Từ một người lương thiện, hắn bỗng trở thành một tên côn đồ, lưu manh với diện mạo dữ tợn, làm khiếp sợ dân làng và bị họ xa lánh. Những ngày tháng sau khi ra tù quả thực khó khăn với Chí Phèo khi bị dân làng Vũ Đại coi là tên quỷ dữ, không ai quan tâm, không ai công nhận. Dần dần, chính chế độ thống trị bạo tàn, vô nhân tính, chính định kiến của người làng Vũ Đại ngày ấy đã đẩy Chí Phèo vào con đường đối mặt với bi kịch tha hóa, từ nhân hình đến nhân tính. Chí Phèo đâm thuê, chém mướn, gây ra những tội ác và cuối cùng trả giá cho nó bằng cái chết, một lựa chọn đớn đau để kết thúc bi kịch cuộc đời mình.
Nam Cao và Lưu Quang Vũ, hai cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam, với cái nhìn tinh tế và ngòi bút tài hoa của mình, đã tái hiện và thể hiện chân thực, sống động bi kịch tha hóa của con người, từ đó tác động mạnh đến suy nghĩ, cảm xúc của mỗi người đọc. Dẫu cùng viết về bi kịch tha hóa, mỗi nhà văn lại có những khám phá riêng về số phận con người. Về bản chất tha hóa, với Nam Cao bi kịch tha hóa đã đẩy con người từ lương thiện đến trở thành quỷ dữ. Còn Lưu Quang Vũ lại cho rằng bi kịch ấy đã biến một người lương thiện trở nên thô bạo, giáo điều, vô ơn, hèn nhát và từ đó đánh mất những giá trị sống tốt đẹp. Nhà văn Nam Cao đã phác họa ra một bi kịch dữ dội, kinh động cả xóm làng nhưng Lưu Quang Vũ lại xây dựng bi kịch diễn ra âm thầm, dai dẳng trong thẳm sâu tâm hồn con người. Cái gì cũng có nguyên nhân của nó, dù là tốt hay xấu, bi kịch cũng vậy. Nguyên dân dẫn đến bi kịch của Chí Phèo là do tác động xấu của phong kiến và thực dân. Còn Lưu Quang Vũ lại để hoàn cảnh, số phận trớ trêu tạo ra một bi kịch cuộc đời. Những cách nhìn nhận, cách thể hiện khác nhau đã giúp hai tác giả tạo được dấu ấn riêng trong dòng chảy văn học Việt Nam, đồng thời cũng khiến cho người đọc thêm tin yêu sức sống những tác phẩm nghệ thuật họ tâm huyết xây dựng hơn.
“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ đã cho người đọc những cảm xúc, suy nghĩ mới về bi kịch tha hóa của con người, đưa liên tưởng của họ nghĩ về bi kịch tha hóa của Chí Phèo. Những điểm giống và khác trong bi kịch tha hóa của hai nhân vật này đã giúp ta khám phá ra những nét độc đáo trong việc khám phá số phận con người của Nam Cao và Lưu Quang Vũ.
Phân tích bi kịch của Chí Phèo và Hồn Trương Ba – Mẫu 2
Nam Cao là nhà văn lớn, có những đóng góp quan trọng cho văn học dân tộc. Nếu chọn ra ba tác giả văn xuôi nổi tiếng nhất thế kỷ XX của người Việt thì chắc chắn không thể vắng ông – nhà văn của những trí thức, những nông dân nghèo khổ, khốn cùng. Và nếu phải chọn ra ba kiệt tác của Nam Cao thì không thể không có “Chí Phèo”. Trong một số câu chữ không quá nhiều, nhà văn đã chuyển tải được những thông điệp có ý nghĩa rất lớn với con người. Còn Lưu Quang Vũ lại được xem như một nhà soạn kịch tài năng nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Ông là tác giả của gần 50 vở kịch trong đó có những vở gây chấn động dư luận như “Lời thề thứ 9”, “Tôi và chúng ta”, “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”… Kịch của Lưu Quang Vũ đã phản ánh được những vấn đề bức thiết của thời đại, đồng thời mang tính triết lí sâu sắc. Truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao và vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ tuy ra đời trong những hoàn cảnh xã hội – lịch sử khác nhau nhưng tất thảy đều đề cập đến những bi kịch của con người, trong đó có bi kịch tha hóa.
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về bi kịch. Thông thường, người ta cho rằng bi kịch là trạng thái đau khổ về tinh thần khi con người đứng trước những mâu thuẫn không thể hóa giải, khi mong muốn khát vọng và thực tiễn hoàn toàn trái ngược… Còn “tha hóa” theo nhiều nhà nghiên cứu, vốn có xuất xứ từ trong triết học của Hêghen. Giờ đây, nó đã biến đổi về nghĩa rất nhiều so với ban đầu. Tha hóa được hiểu là đánh mất giá trị, bản chất thông thường vốn có. Chúng ta vẫn quen dùng hai chữ ấy để chỉ những gì thuộc về con người và các hoạt động của con người, liên quan đến chủ thể con người, theo hướng chẳng tốt đẹp gì. Do những nguyên nhân khác nhau, cả Chí Phèo và Trương Ba, hai nhân vật trung tâm trong hai tác phẩm đều rơi vào bi kịch tha hóa đau đớn.
Trong tác phẩm “Chí Phèo”, khác với các nhà văn hiện thực phê phán đương thời Nam Cao không đi sâu miêu tả quá trình đói cơm, rách áo bần cùng khốn khổ của người nông dân, mặc dù trong thực tế, đó cũng là một hiện thực phổ biến. Nhà văn trăn trở băn khoăn suy ngẫm nhiều hơn về một hiện thực còn thảm khốc hơn cả đói rét bần cùng. Đó là sự tha hóa…
Tác phẩm được mở đầu bằng tiếng chửi ngoa ngoắt, thách thức của Chí. Hắn chửi trời, chửi đời, chửi làng Vũ Đại, chửi những ai không chửi nhau với hắn và cuối cùng chửi người đã sinh ra hắn.Đây là tiếng chửi của một tên say rượu, một tiếng chửi vô thức. Nhưng đôi khi trong vô thức, con người lại thể hiện chính mình nhiều hơn khi tỉnh.Qua tiếng chửi của Chí Phèo, người đọc cảm thấy như đang đối diện với một con “người- vật” quái gở, đang ở tận cùng của khổ đau, đang trút lên cuộc đời tiếng nói hằn học, phẫn uất, đầy đau khổ của mình.Cũng qua tiếng chửi của Chí, người đọc nhận ra ba thái độ khác nhau: thái độ hằn học, thù địch đau khổ của Chí, thái độ khinh miệt dửng dưng của người đời, thái độ phẫn uất thương cảm của tác giả. Tiếng nói nhân ái của nhà văn đã đánh thức tấm lòng người đọc. Qua cách dẫn dắt của người kể chuyện, người đọc hiểu rằng trước kia Chí vốn hiền lành lương thiện, tự trọng.Hắn đã từng mơ ước được sống bằng hai bàn tay lao động của mình với “một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải..”. Làm canh điền cho lí Kiến bị bà ba lợi dụng xúc phạm Chí cảm thấy rất nhục. Chỉ sau khi ở tù về, hắn mới hóa thành một kẻ khác hẳn “Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn…”. Cái mặt hắn cũng trở nên dị biệt “không trẻ cũng không già, nó không còn phải là mặt người, nó là mặt một con vật lạ..”. Sau khi ở tù về, hắn đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Những cơn say triền miên đã cướp đi ngày tháng của hắn “Hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu chửi bới rạch mặt ăn vạ trong lúc say..”. Trong cơn say, hắn đã phá nát bao cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Chí Phèo đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Nhưng hắn chưa bao giờ nhận ra sự thật nghiệt ngã ấy. Thậm chí còn tự đắc “Anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”. Sự tha hóa hằn in trong bộ dạng trong ngôn ngữ trong hành động và cả trong những ngộ nhận của nhân vật về mình. Chí đã rơi vào tình trạng đáng lo ngại mà không biết.
Bị đối xử tàn bạo Chí đã phản kháng bằng sự bạo tàn. Đó là sự “phẫn nộ tối tăm” như Lênin đã từng nói. Trong “Chí Phèo”, Nam Cao đã chỉ ra rằng, Chí Phèo không phải một ngoại lệ. Bên cạnh hắn còn có Binh Chức, Năm Thọ… Đó là kết quả tất yếu của một lô-gic: một khi đã có Bá Kiến, Lí Cường, Đội Tảo… thì tất sẽ có Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức…Đó không chỉ là sản phẩm của sự thống trị mà còn là một phương tiện thống trị “Không có những thằng đầu bò thì lấy ai trị những thằng đầu bò”. Xã hội không chỉ đẻ ra Chí Phèo mà còn tiếp tục nuôi dưỡng Chí Phèo, biến những con người như Chí Phèo thành công cụ thống trị xã hội.
Cũng như Chí Phèo, Trương Ba trước đây là con người hoàn toàn khác. Trương Ba là người nông dân chăm chỉ, khéo léo, yêu thương vợ con, chiều quý các cháu, tốt bụng với hàng xóm láng giềng, yêu cây cỏ… Từ khi sống trong xác anh hàng thịt, Trương Ba trở nên vụng về, thô tục, thô bạo, vô tình… Trương Ba thích bán thịt, ham uống rượu, những nước cờ không còn phóng khoáng mà tủn mủn, vô hồn… Trương Ba đã bị xác hàng thịt điều khiển, chi phối. Nếu Chí Phèo tha hóa mà không biết mình tha hóa, thì Trương Ba lại nhận thấy rất rõ tình trạng khốn khổ của mình. Cho dù không muốn thừa nhận, cho dù muốn bám víu vào trò chơi tâm hồn thì Trương Ba vẫn không thể phủ nhận sự thật là ông đang đánh mất mình “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta a, mày đã tìm đủ mọi cách để lấn át ta”. Cuộc đối thoại thẳng thắn giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt đã đã diễn tả khá sâu sắc nỗi hoang mang hoài nghi, sự bất lực của con người. Mọi lí lẽ của Trương Ba không thể lung lay thứ lập luận lấm láp bụi trần nhưng hùng hồn thuyết phục của xác hàng thịt “Hai ta đã hòa vào nhau làm một rồi”. Dù khinh bỉ xác hàng thịt, Trương Ba vẫn phải quay trở lại xác hàng thịt. Sự thay đổi của hồn Trương Ba trong thời gian trú ngụ ở xác hàng thịt càng ngày càng rõ nét.
Lưu Quang Vũ đã khéo léo mượn lời các nhân vật khác – những người thân trong gia đình Trương Ba để chỉ ra điều ấy. Hồn Trương Ba bây giờ đâu còn là người làm vườn chăm chỉ, hết lòng yêu thương vợ con như trước. Ông cũng chẳng quan tâm dến chuyện của bà con làng xóm. Hồn Trương Ba thô lỗ phũ phàng không còn nhẹ nhàng khéo léo khi chữa diều, chăm sóc cây cối như trước nữa. Ngày cả chị con dâu người thông cảm cho tình cảnh của hồn Trương Ba, cũng xót xa ngỡ ngàng bởi không thấy hình ảnh con người “hiền hậu, vui vẻ tốt lành” của Trương Ba trước đây. Những lời thoại sau đó của hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức sâu sắc, thấm thía về tình cảnh trớ trêu của mình: “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết”.
Nỗi khốn khổ của Trương Ba và Chí Phèo đều do kẻ thống trị gây nên. Bá Kiến nhẫn tâm đẩy Chí Phèo vào tù 7, 8 năm. Tiếp thu sự giáo dục của nhà tù thực dân Chí Phèo đã trở thành kẻ côn đồ hung hãn. Hắn vùng lên liều mạng để trả thù. Nhưng hắn đã gặp kẻ thống trị nham hiểm, xảo quyệt và bị biến thành công cụ cho kẻ thù của mình. Ông Trương Ba hiền hậu tử tế, tốt bụng còn đang rất khỏe mạnh,mặc dầu chưa tận số đã phải chết thay cho một tên bạc ác bất nhân, lừa thầy phản bạn, dối trá tham tàn bởi cung cách làm việc luộm thuộm, thiếu trách nhiệm, muốn xong việc nhanh của Nam Tào. Nếu cứ để Trương Ba chết đi thì tác phẩm chỉ là tiếng nói tố cáo sự cẩu thả vô trách nhiệm của Nam Tào. Nhưng Đế Thích đã sửa chữa sai lầm của Nam Tào bằng cách để cho hồn Trương Ba sống lại trong thân xác hàng thịt. Không chỉ Nam Tào mà Đế Thích cũng mắc phải sai lầm. Đâu phải cứ làm điều tốt cho người khác là mang lại hạnh phúc cho họ. Ở địa vị cao, mà không thận trọng với những quyết định của mình, con người dễ gây ra những sai lầm không thể sửa chữa. Bi kịch tha hóa của hồn Trương Ba có nguyên nhân trực tiếp từ sự tắc trách, quan liêu của quan nhà trời. Nhưng còn nguyên nhân gián tiếp? Ấy là định kiến của con người về xác hàng thịt. Đối với những người thân của Trương Ba và ngay cả Trương Ba, xác hàng thịt là hiện thân cho những gì tầm thường phàm tục nhất. Song đó lại là những nhu cầu thiết thực cho mọi sự sống: được ăn, được mặc, được thỏa mãn những nhục cảm cá nhân… Phủ nhận những nhu cầu ấy là phủ nhận phần bản năng trong mỗi người. Vậy thì đâu chỉ có Trương Ba bất hạnh. Xác hàng thịt cũng thật đáng thương!
Chí Phèo tha hóa đã gây ra bao thảm cảnh cho dân làng. Còn hồn Trương Ba đã trở thành tâm điểm của sự rối ren. Không chỉ riêng hồn Trương Ba hay gia đình ông khốn đốn mà còn bao gia đình khác, bao nhiêu cuộc sống khác chao đảo, chịu hệ lụy. Lỗi lầm bắt đầu từ tiên thánh, những kẻ nắm vận mệnh con người và sau đó con người với sự vô sỉ, thỏa hiệp cùng cái xấu đã đẩy tất cả đến chỗ rối ren hơn.
Tái hiện sống động và rõ nét bi kịch tha hóa của Chí Phèo, Nam Cao đã bộc lộ một cái nhìn hiện thực sắc sảo đồng thời nói lên sự gắn bó đồng cảm thấu hiểu sâu sắc cuộc sống của người nông dân. Ông đã đem đến cho những trang viết của mình sức mạnh của sự khám phá phát hiện. Trước Nam Cao, các nhà văn hiện thực chỉ mới chú ý tới tình trạng bần cùng hóa. Trước Nam Cao, Nguyên Hồng mới chỉ phản ánh và miêu tả loại nhân vật lưu manh thành thị. Hiện tượng tha hóa, lưu manh ở nông thôn với những đặc điểm riêng, với ý nghĩa quan trọng của nó lần đầu tiên được Nam Cao quan tâm và miêu tả tập trung, rõ nét. Ông đã đem đến cho văn học hiện thực 1930-1945 một điển hình về người nông dân, phơi bày bản chất của nông thôn đen tối trước Cách mạng. Với Lưu Quang Vũ, sự tha hóa của hồn Trương Ba cũng là một hiện thực nhức nhối trong xã hội. Con người “muốn nuôi sống xác thân/ Đem làm thịt linh hồn” (Chế Lan Viên). Nhưng bi kịch của Trương Ba còn gợi ra những suy tư về mối quan hệ giữa hồn và xác, giữa ý thức và bản năng… Có ai là toàn vẹn hoàn hảo không? Những đòi hỏi của thân xác có phải tội lỗi đáng ghê tởm không? Vở kịch do vậy vừa có ý nghĩa xã hội vừa mang tính triết lí sâu xa.
Những điều mà hai nhà văn muốn nói qua tấn bi kịch tha hóa không chỉ có thế. Người đọc có thể sẽ nhớ đến một ý kiến rất sâu sắc của Nguyễn Minh Châu: Có một số khá đông con người bây giờ đang sống trong một cái thế rất chông chênh giữa một câu nói lịch sử và một câu nói gắt bẳn (…). Và trong từng con người luôn luôn có tiếng gọi thì thầm “Đừng nói thế, đừng làm thế!” Rồi lại một lời thúc giục khác: “Cứ nói bừa đi! Cứ làm bừa đi!”. Nam Cao, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Minh Châu đã rung chuông thức tỉnh mỗi con người chúng ta. Bởi nhiều khi chúng ta vừa là nạn nhân vừa là thủ phạm nhưng ít khi chúng ta thành quan tòa của chính mình. Trong một cơn say, Tự Lãng đã hỏi Chí Phèo: “Con người ta đứng lên bằng cái gì”. Lời giải đáp tùy thuộc vào bản lĩnh và hoàn cảnh của mỗi con người. Có điều, ngã xuống ở đâu thì nên đứng lên ở đó!
Phân tích bi kịch của Chí Phèo và Hồn Trương Ba – Mẫu 3
Sinh ra trong thời đại và bối cảnh lịch sử khác nhau, cách nhìn nhận về cách vấn đề trong xã hội của Nam Cao và Lưu Quang Vũ cũng rất khác nhau. Nếu như bản thân Nam Cao giai đoạn trước cách mạng thường tập trung khai đề tài người nông dân và trí thức nghèo với ánh mắt và giọng văn lạnh lùng, nhưng đau đớn xót xa. Nam Cao vạch rõ hiện thực xã hội trước cách mạng, cũng như những bi kịch của con người bất hạnh như Chí Phèo kể về sự tha hóa của họ do sự chèn ép tối tăm, tàn ác của chế độ. Thì bản thân Lưu Quang Vũ cầm bút lúc cách mạng đã thành công, đất nước đang trong giai đoạn chuyển mình từ chiến tranh, và bản thân tác giả lại cũng có những góc nhìn mới về con người và xã hội lúc bấy giờ. Sự tha hóa không còn do hiện thực xã hội tàn khốc, mà sự đổ đốn đến từ chính sự tham lam, gục ngã của con người trước những giá trị phàm tục, tầm thường thông qua nhân vật hồn Trương Ba. Có thể thấy rằng tuy đối tượng, chủ đề, và thể loại khai khác nhau nhưng cuối cùng cả Nam Cao và Lưu Quang Vũ vẫn luôn hướng về một tư tưởng “nghệ thuật vị nhân sinh” chung nhất, với bi kịch phổ biến của con người – bi kịch tha hóa nhân cách.
Điểm chung của Chí Phèo và hồn Trương Ba đều nằm ở việc bị tha hóa nhân cách từ tốt đẹp, lương thiện sang xấu xa, ghê gớm, rồi cuối cùng bị mọi người, bị xã hội chối bỏ một cách đau đớn. Và cuối cùng đối với bi kịch tha hóa của bản thân họ đã chiến thắng, giành lại được cho mình bản chất thiên lương, nhưng cái giá phải trả đều quá đắt đỏ. Khi Chí Phèo quyết định giết Bá Kiến để trả thù cho những đau khổ của mình và tự sát, thì bản thân hồn Trương Ba lại chọn rời bỏ xác anh hàng thịt, từ chối nhập hồn vào cu Tị và vĩnh viễn chết đi. Có thể nói rằng hành trình tiến tới bi kịch tha hóa của cả hai nhân vật này dẫu có khác nhau về nhiều điểm, nhưng cách họ giải quyết vấn đề dẫu cực đoan, nhưng để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc, bởi những bi kịch ấy không còn con đường lựa chọn nào khác ngoài các kết thúc cuộc đời.
Bi kịch của Chí Phèo có lẽ đã bắt đầu từ lúc hắn ra đời, một đứa trẻ bị bỏ rơi ở cái lò gạch cũ, được cả làng Vũ Đại chuyền tay nhau nuôi nấng, rồi thoáng chốc 20 trôi qua, đứa trẻ đỏ hỏn cũng trở thành một thanh niên khôi ngô, hiền lành, lương thiện lại chăm chỉ làm ăn. Nhưng có lẽ chính cái vẻ trẻ trung sức vóc, cùng với sự lương thiện ấy đã khiến Chí Phèo phải gánh chịu bi kịch, cái xã hội này dường như không cho kẻ nghèo hèn được sống tử tế. Sự lẳng lơ của bà ba, cùng với cái óc ghen tuông độc ác của Bá Kiến đã đẩy Chí Phèo vào cái nhà tù thực dân thối nát – cái nhà tù đi vào là người nhưng đi ra là quỷ. 7, 8 năm qua đi, Chí Phèo trở về với bộ dạng bặm trợn gớm ghiếc “trông đặc như thằng sắng cá! Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! … Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!”. Đấy, người ta nhấn đi nhấn lại mấy chữ “trông gớm chết” để bộc lộ sự thảng thốt, ngờ vực về một kẻ chẳng biết có phải anh Chí hiền lành năm xưa không. Đó mới chỉ là sự tha hóa về ngoại hình, sự tha hóa về nhân phẩm của Chí Phèo mới đáng để người ta ngẫm ngợi về cái nhà tù thực dân ghê gớm ấy, gần chục năm nó đã trả lại cho làng Vũ Đại một thằng lưu manh chính hiệu, vừa ra tù đã trót ra chợ chè chén rượu mận thịt chó suốt từ trưa tới chiều. Và càng đáng sợ hơn khi Chí Phèo say rồi thì hắn lại đến nhà Bá Kiến ăn vạ, thoạt đầu hắn chửi, nhưng thảm hại thay người ta chỉ tò mò chứ chẳng ai dám ra đối đáp với hắn thành ra “chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu!”. Sau hắn chửi không được thì hắn đánh nhau với Lý Cường, chán chê hắn quyết nằm ăn vạ. Nhưng người ta có tưởng tượng được cảnh Chí Phèo ăn vạ ghê gớm thế nào không, hắn đập nát chai rượu không rồi lấy mảnh sành rạch mặt, máu me be bét. Còn đâu nữa một anh Chí hiền lành, chăm chỉ, mà chỉ còn một Chí Phèo lưu manh, đánh mất hết liêm sỉ ở cái nhà tù thực dân khốn nạn, trở thành một kẻ tha hóa cả về nhân hình lẫn nhân phẩm. Và rồi sự độc ác, mưu mẹo đê tiện của Bá Kiến đã dễ dàng dỗ được Chí Phèo trở thành tay sai cho hắn, Chí Phèo bước trên con đường đâm thuê chém mướn cho người ta, bán rẻ linh hồn để đổi lấy vài đồng cắc uống rượu. Hắn ngày càng lún sâu vào bi kịch tha hóa, trượt dài trên con đường tội lỗi, cùng những cơn say triền miên hết năm này đến tháng nọ không hồi tỉnh. Và cứ say là hắn lại làm bất kể việc gì mà người ta giao. Chí Phèo giờ đây không phải là tên lưu manh thích uống rượu ăn thịt chó, rạch mặt ăn vạ nữa mà trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Chút thiên lương của hắn còn sót lại sau khi ra tù đã bị rượu chè và bè lũ phong kiến tay sai chà đạp, giết chết tự thuở nào rồi. Từ bi kịch tha hóa, Chí Phèo tiếp tục bị đẩy vào bi kịch đau đớn nhất cuộc đời mình, hắn bị từ chối quyền làm người. Khi tình yêu với Thị Nở trở thành sợi dây hy vọng duy nhất nối hắn với thế giới loài người, là cơ hội duy nhất để hắn quay về với hai chữ “lương thiện”. Nhưng ai cho hắn “lương thiện” khi hắn phải nhận lại những lời cay đắng nghiệt ngã của bà cô, thốt ra từ bằng sự dở hơi, bực bội của Thị Nở: “Đàn ông đã chết hết hay sao mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy chồng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ”. Cuối cùng thì sự khao khát lương thiện, khao khát được “làm hòa” với mọi người của Chí Phèo đã vỡ tan như một loại bong bóng xà phòng, đẹp nhưng không thể chịu nổi một cái chạm nhẹ của xã hội. Hắn nhận ra cuộc đời hắn đi qua 40 năm cuộc đời, trong đó có 20 năm trượt dài trong rượu chè, đâm chém thực sự đã khiến hắn không thể quay trở lại như cái thời hắn 20 tuổi được nữa. Cả làng Vũ Đại này đã từ bỏ hắn, đã không còn xem hắn là một con người cần được sống cần được yêu thương, thông cảm nữa. Lúc này đây đối với Chí Phèo không còn gì tốt hơn ngoài việc lựa chọn cái chết để giải thoát, thế nhưng trước lúc ấy hắn phải trả thù cái kẻ đã gây ra cho hắn tất cả mọi đau đớn – Bá Kiến. Rồi làng Vũ Đại trước cái chết của Chí Phèo – Bá Kiến, họ cũng chỉ dửng dưng “Thằng nào chứ hai thằng ấy chết thì không ai tiếc!”. Đau đớn thay cho một kiếp người bị đày đọa.
Không lạnh lùng, đau đớn như giọng văn của Nam Cao, cũng không khủng khiếp như cuộc đời đầy bi kịch của Chí Phèo, thế nhưng Hồn Trương Ba da hàng thịt của Lưu Quang Vũ lại đem đến cho ta những cái nhìn đầy triết lý về cuộc đời của một con người. Con người ta vốn có một tâm hồn thanh sạch, cao quý, nhưng đứng trước cám dỗ, trước những ham muốn tầm thường thì không ít người bị tha hóa, sự tha hóa đổ đốn ấy nó diễn tiến một cách chậm rãi, từ từ, nó không ghê gớm dồn dập như Chí Phèo, thế nhưng lại tựa như căn bệnh ung thư quái ác, giai đoạn cuối mới để chủ nhân phát hiện, muốn cứu chữa e thật khó!
Trương Ba vốn là người làm vườn, thiện lương có tâm hồn thanh cao, đẹp đẽ, rất biết yêu thương vợ con và được mọi người kính trọng. Chuyện sẽ chẳng có gì đáng nói nếu như không có việc một viên quan cai quản chuyện sống chết của nhân gian là Nam Tào vì vội đi dự tiệc mà gạch nhầm tên của Trương Ba trong sổ trời, khiến ông phải chết oan ức. Đế Thích thân là một thần tiên, cũng là bạn cờ chí cốt với Trương Ba, thấy bạn chết oan, bản thân lại mất đi một người đối cờ hợp ý, thế nên Đế Thích đã khuyên nhủ Nam Tào, Bắc Đẩu cho Trương Ba sống lại bằng cách gửi hồn Trương Ba vào xác anh hàng thịt mới chết. Sự ích kỷ của Đế Thích cùng với sự sai càng thêm sai của hai viên quan nhà trời đã đẩy Trương Ba vào một tình huống vô cùng khó đỡ: Hồn Trương Ba nhưng xác lại là của anh hàng thịt. Sự “sống” lại kỳ dị của hồn Trương Ba đã khiến cho cả hai gia đình lâm vào thế khó xử, trong khi đó bản thân Trương Ba lại càng đau khổ hơn khi không được sống đúng với bản thân mình.
So với Chí Phèo, sự tha hóa của nhân vật được chính bản thân nhân vật nhận ra. Hồn Trương Ba bắt đầu nhận ra sau một thời gian chung đụng với cái xác thô lỗ, dường như ông ngày càng trở nên giống nó, ông ham uống rượu, thích ăn thịt, lại cũng chẳng mấy mặn mà với trò đánh cờ vốn trước đây là cả một niềm say mê,… Đặc biệt là sau chuyện người hàng xóm phê phán ông dạo này đổi tính, đổi nết, con trai ông hư hỏng hơn, cháu gái trở nên xa lánh mình, Trương Ba lại càng đau khổ. Điều ông muốn ngay lúc đó chính là được thoát ra khỏi cái xác “âm u, đui mù” của hàng thịt ngay lập tức, dù chỉ một chút thôi cũng được. Bi kịch tha hóa của Trương Ba tiếp tục được làm rõ thông qua cuộc đối thoại gay gắt giữa hồn và xác, xác với giọng điệu mỉa mai, ghê gớm dường như đã lấn át hết những lý lẽ yếu đuối, sự chỉ trích trong tức giận của hồn Trương Ba. Trong khi bản thân Trương Ba vẫn luôn cho rằng mình có một tâm hồn cao khiết, thánh thiện, chỉ tại những khao khát ham muốn tầm thường của cái xác khiến ông thay đổi. Thì xác lại rất mạnh mẽ vạch trần sự tha hóa của hồn Trương Ba trong thân xác hàng thịt: Truyện ham ăn ngon, thích uống rượu, cả những ham muốn nhục dục tầm thường với vợ anh hàng thịt cũng bị cái xác bóc mẽ. Vì đó là sự thật khiến Trương Ba vô cùng đau khổ và hổ thẹn, ông chỉ muốn cái xác im miệng ngay, ông không muốn nghe những lời vạch trần ghê tởm như thế nữa, hay là chính bản thân ông không chịu chấp nhận rằng mình đã đổ đốn ra như thế. Nhưng có một sự thật rằng hồn Trương Ba đã thực sự chiều theo cái xác nhiều điều, hồng Trương Ba ưa sĩ diện và luôn cho rằng mình có một tâm hồn “nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn” và nhất quyết đổ cho xác hàng thịt cái lỗi khiến ông phải tham gia vào cả những ham muốn, khao khát tầm thường của nó, để bản thân mình được “thanh thản”. Những lý lẽ sắc bén, trần trụi của cái xác đang dần khiến cho những lý lẽ về sự cao khiết, thanh sạch của ông bị chặn lại, Trương Ba nhận ra rằng cái xác nói đúng, nhưng bản thân ông vẫn không thể nào chấp nhận được chuyện một đời người 60 năm trong sạch, thanh cao cuối cùng lại đổ đốn chỉ vì vài tháng chung đụng với cái xác thịt “âm u, đui mù” kia.
Tiếp nối bi kịch tha hóa, chính là bi kịch Trương Ba bị những người thân ruột thịt chối bỏ, bi kịch ấy không gay gắt, kinh khủng như Chí Phèo, nhưng nó lại khiến một người như Trương Ba đau khổ tột cùng, một nỗi đau dần dà gặm nhấm âm ỉ trong tâm hồn. Suốt cả cuộc đời luôn được mọi người yêu quý kính trọng, thế mà giờ đây sự yêu quý kính trọng ấy thay bằng sự ghê sợ, xa lánh, khởi đầu với ý muốn rời bỏ ngôi nhà của người vợ, sau đó là chuyện anh con trai muốn bán khu vườn ông yêu quý để mở cửa hàng thịt, rồi đến chuyện đứa cháu gái hét lên “tôi không phải là cháu ông”, rồi nó vạch ra tất cả những gì vụng về, thô lỗ của ông trong suốt thời gian qua. Có thể nói rằng đó là những diễn tiến không thể ngờ được đối với hồn Trương Ba, là một đòn giáng chí mạng, khiến ông không thể nào chối cãi được về sự tha hóa khốn nạn của mình. Sự trở về kỳ dị và cả sự đổ đốn của ông đã khiến cho một gia đình vốn đang ấm êm hạnh phúc bỗng trở nên lộn xộn, bung bét, ai cũng sống trong đau khổ dằn vặt. Cuối cùng trước những tâm sự, bộc bạch của cô con dâu, một người không cùng máu mủ ruột già, nhưng lại rất thấu hiểu nỗi khổ của ông, cũng như nỗi khổ của toàn gia đình lúc này, hồn Trương Ba mới thực sự tỉnh ngộ. Việc hồn một đằng, xác một nẻo vĩnh viễn không thể chung sống với nhau mãi được, sự chi phối của cái xác đã khiến ông và gia đình ông đau khổ tột cùng. Còn gì đau đớn hơn khi người ta không được sống với đúng bản chất thực sự của mình, mà như Trương Ba nói với Đế Thích “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Biết nỗi khốn khổ của hồn Trương Ba, nhưng Đế Thích vẫn không tỉnh ngộ mà lại tiếp tục đề nghị ông nhập vào xác của cu Tị, một đứa trẻ lên mười, để hồn Trương Ba tiếp tục được sống nhưng là sống những ngày tháng không toàn vẹn lần nữa. Nhưng lần này Trương Ba từ chối, ông nói “Tôi đã chết rồi, hãy để cho tôi chết hẳn”, ông quyết tâm rời bỏ thế gian, để giữ lại cái hồn thanh sạch cao khiết của mình, chứ nhất quyết không muốn sống một cuộc đời bị chi phối bởi xác thịt nữa. Đồng thời nhân vật cũng đua ra một chân lý rất đắt “Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm”, và ông chính là minh chứng rõ nét nhất, phải chăng ông chết hẳn đi, thì có lẽ gia đình bây giờ đã quay trở lại những ngày tháng bình yên và họ sẽ vẫn tiếc nhớ, kính trọng ông như ngày ông còn sống, chứ không phải là cảnh xa lánh, ghê sợ như này.
Dù Chí Phèo và hồn Trương Ba có hai kiểu tha hóa khác nhau, nhưng điểm chung nhất đó là họ vẫn luôn tỉnh ngộ và nhận ra được sự tha hóa của bản thân, đồng thời cố gắng đấu tranh một cách mạnh mẽ để được trở lại với những giá trị nhân văn nguyên bản, giữ lại cho mình bản chất thiên lương cao đẹp. Chí Phèo vì sự chèn ép của xã hội phong kiến tàn ác mà tha hóa thành quỷ dữ, nên quyết chết để thoát khỏi số phận đầy bi kịch, hắn không muốn sống tiếp cái kiếp khốn khổ, đọa đày và cô độc ấy nữa. Còn bản thân hồn Trương Ba vì sự tắc trách của những kẻ trên mà phải chịu cảnh hồn một đằng xác một nẻo, phải gánh chịu sự đau khổ, day dứt, sự xa lánh của người thân, nên cũng quyết rời bỏ nhân thế để giữ lại cho mình một tâm hồn cao khiết, thanh sạch. Cuối cùng thì con người ở thời đại nào, hoàn cảnh nào cũng luôn đấu tranh cho chữ “thiện”, đó là niềm tin và tư tưởng mà Nam Cao cùng Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm trong tác phẩm của mình.
Bi kịch tha hóa của hai nhân vật Chí phèo và Trương Ba – Mẫu 4
Lưu Quang Vũ được xem là nhà soạn kịch tài năng nhất của văn học Việt Nam hiện đại với gần năm mươi vở kịch lớn nhỏ, trong đó không thể không nói đến vở “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Kịch của ông phản ánh vấn đề của thời đại, đồng thời mang triết lí sâu sắc. Còn Nam Cao là nhà văn lớn, có những đóng góp tích cực cho văn học Việt Nam, nếu chọn ra tác giả văn xuôi nổi tiếng thế kỉ XX thì không thể thiếu ông – nhà văn tri thức viết về người nông dân khốn cùng, cực khổ được thể hiện qua tác phẩm “Chí Phèo”. Tuy hai tác phẩm không ra đời cùng hoàn cảnh xã hội nhưng vẫn đề cập đến bi kịch con người bị tha hoá.
Người ta cho rằng bi kịch là tâm trạng đau khổ về tinh thần khi con người đứng trước những mâu thuẫn không thể hoá giải, còn tha hoá theo một cách dễ hiểu đó là đánh mất giá trị, bản chất vốn có. Do những nguyên nhân khác nhau nhưng Trương Ba và Chí Phèo đều rơi vào bi kịch tha hoá.
Trương Ba – người nông dân có đạo đức, hiền lành, tâm hồn trong sáng, yêu cái đẹp không may phải lìa đời và sống lại trong thân xác người hàng thịt. Từ đó trở nên thô lỗ, cộc cằn, lượm thượm. Ông gặp nhiều rắc rối vì không làm chủ được bản thân. Nhận ra mình không thể sống một cách bị tha hoá nên quyết định chết để trả xác cho hàng thịt.Trương Ba được toại nguyện vì không cần mượn xác của ai để ở bên vợ con, người thân nữa. “Vườn cây rung rinh ánh sáng” nơi ấy từng là không gian quen thuộc với con người Trương Ba, nơi ông chăm sóc cho từng mầm sống.
“Ở một góc nhà đó hiện lên hình ảnh Cu Tị đang nằm ôm chầm lấy mẹ, chị Lụa quấn quít vuốt ve con…”. Sự ra đi của Trương Ba mang lại sự sống mới cho Cu Tị, trong giây phút mong manh nào đó ông đã có ý định sẽ sống trong thân xác Cu Tị, nhưng rồi quyết định của ông thật thiêng liêng.
“Tôi ở đây bà ạ. Tôi vẫn ở liền ngay bên bà đây, ngay trên bậc cửa nhà ta. Trong ánh lửa bà nấu cơm, cầu ao bà vo gạo, con dao bà giẫy cỏ, cái cơi bà đựng trầu,..không phải mượn thân xác ai cả, tôi vẫn ở đây trong vườn cây nhà ta, những điều tốt lành của cuộc đời, mỗi trái cây cái gái nâng niu”.
Lời thủ thỉ của Trương Ba nói lên chân lí cuộc đời rằng sống không chỉ là tồn tại sinh học, sống là hoà hợp giữa tâm hồn và thể xác. Giờ đây tuy Trương Ba không thể tự tay chăm sóc vườn cây, không thể tâm tình trò chuyện với người thân, nhưng ông vẫn hạnh phúc khi chết, vì tâm hồn là bất diệt, ông chỉ là ông, một Trương Ba trọn vẹn. Trái tim nhân hậu của Trương Ba gieo lên mầm non cho con cháu, cái gái nâng niu từng quả na ông trồng.
Nó lấy hạt vùi xuống đất và nói: “Cây na này…mãi mãi..”. Nếu lúc trước cái gái không chấp nhanh ông trong thân xác của hàng thịt thì giờ đây khi Trương Ba chết nó chấp nhận những gì Trương Ba để lại. Một lần nữa tác giả nhấn mạnh chỉ khi được sống là chính mình cuộc sống mới có ý nghĩa.
Với tình huống kịch phát triển tự nhiên hợp lí, mâu thuẫn giữa hồn và xác được đẩy tới đỉnh cao, cần phải giải quyết. Sự kết hợp giữa diễn biến hành động bên ngoài và bên trong thể hiện cuộc đối thoại giữa hồn và xác. Tác giả đã đưa ngôn ngữ giàu chất triết lí từ lời nhân vật với những câu, những đoạn là những châm ngôn mang tính triết lí, có ý nghĩa như chân lí: “Không thể bên một đằng, bên một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”, “Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù lại bằng một việc đúng khác”.
Khác với Trương Ba, Chí Phèo không hề nhận ra rằng mình bị tha hoá. Qua cách dẫn dắt của người kể ta thấy rằng Chí Phèo trước kia vốn hiền lành, tự trọng. Mơ về cuộc sống bằng chính hai bàn tay lao động với một gia đình nho nhỏ, sau khi làm canh điền và bị bà ba lợi dụng, Bá Kiến đẩy vào tù bảy, tám năm thì thay đổi hẳn:
“Cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng trơn,…Cái mặt hắn cũng trở nên dị biệt…”. Cứ tưởng sau khi ra tù cuộc sống lại bình thường, ấm áp với bát cháo hành bốc khói, với người đàn bà quê mùa lương thiện, nhưng vừa tỉnh lại sau cơn say rượu hắn nhận thêm sự thật đau lòng khác, đó là bị cự tuyệt khỏi tình yêu. Nỗi đau ấy dẫn dắt hắn đến nhà Bá Kiến: “Tao muốn làm người lương thiện” Chí Phèo la to dõng dạc, nhưng cho dù trở nên lương thiện thế nào thì người dân làng Vũ Đại vẫn chỉ nhìn hắn với hình ảnh một con quỷ dữ. Điều đó không thể thay đổi được nữa. Hắn kết liễu Bá Kiến và tự kết liễu đời mình. Hình ảnh Chí Phèo giãy đành đạch trong vũng máu tươi là hình ảnh người nông dân bị tha hoá đến cùng cực.
Cái tài của Nam Cao là khi chuyển từ hình ảnh con người hung tợn, giận dữ sáng cái chết thương tâm, điềm tĩnh mà không chút gượng ép: “Đột nhiên chị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người qua lại…”
Ở cuối bài Thị Nở chợt nghĩ đến cái lò gạch – nơi Chí được sinh ra, thì giờ đây khi Chí chết điều đó lại tiếp diễn. Tác giả sử dụng kết cấu vòng tròn nói lên cuộc sống của người nông dân trước Cách Mạng Tháng Tám khốn cùng, không lối thoát.
Qua cả hai tác phẩm “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” và “Chí Phèo” ta thấy Lưu Quang Vũ hướng đến cái kết đẹp, có hậu, pha chút màu truyện cổ tích. Trái lại Nam Cao vào thời kì trước Cách Mạng Tháng Tám nên chưa tìm được lối thoát cho nhân vật, thể hiện một cái kết buồn, không có hậu.