Văn mẫu lớp 12: Phân tích cơ sở thực tế bản Tuyên ngôn độc lập

Văn mẫu lớp 12: Phân tích cơ sở thực tế bản Tuyên ngôn độc lập

Phân tích cơ sở thực tế bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh gồm 5 bài văn mẫu kèm theo gợi ý cách viết ngắn gọn, đầy đủ, bài làm của học sinh giỏi. Qua đó giúp cho các em học sinh lớp 12 có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng luyện Văn ngày một tốt hơn.

Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 12: Phân tích cơ sở thực tế bản Tuyên ngôn độc lập

Văn mẫu lớp 12: Phân tích cơ sở thực tế bản Tuyên ngôn độc lập

TOP 5 mẫu Cơ sở thực tiễn của bản Tuyên ngôn độc lập siêu hay dưới đây các em có thể lựa chọn cho mình một cách tiếp cận, một giọng điệu văn thích hợp, để sau đó nó trở thành kiến thức tâm đắc của chính các em. Hi vọng tài liệu này sẽ là người bạn tốt đồng hành cùng bạn trong suốt quá trình học và ôn thi THPT Quốc gia sắp tới. Bên cạnh đó các bạn xem thêm mở bài Tuyên ngôn độc lập.

Phân tích cơ sở thực tế bản Tuyên ngôn độc lập hay nhất

    Dàn ý phân tích cơ sở thực tế bản Tuyên ngôn độc lập

    I. Mở bài:

    – Giới thiệu bản “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh.

    II. Thân bài:

    – Hồ Chí Minh đã tố cáo những tội ác của thực dân Pháp:

    • Tội ác diệt chủng, giết chết hơn hai triệu đồng bào ta vì nạn đói.
    • Trong năm năm chúng bán nước ta hai lần cho Nhật.
    • Phản bội quân đồng minh, dâng Đông Dương hai lần cho Nhật.
    • Khi trốn chạy còn tàn sát các chiến sĩ cách mạng của ta ở trong tù.

    – Hồ Chí Minh khẳng định truyền thống đấu tranh của dân tộc:

    • Tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp.
    • Xóa bỏ tất cả hiệp ước Pháp đã ký về Việt Nam.
    • Xóa bỏ đặc quyền của Pháp trên đất nước ta.
    • Người khẳng định tinh thần đoàn kết của nhân dân ta trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù.
    • Bác đưa ra những lí lẽ, yêu cầu để các nước trên thế giới phải công nhận nền độc lập của Việt Nam.

    – Nghệ thuật: Giọng điệu hùng hồn, đanh thép; lí luận sắc bén, thuyết phục.

    III. Kết bài:

    – Khẳng định nước ta có quyền được hưởng tự do, độc lập.

    Cơ sở thực tiễn bản Tuyên ngôn độc lập – Mẫu 1

    Vị lãnh tụ vĩ đại của nước Việt Nam ta không ai khác ngoài Bác Hồ. Người là danh nhân văn hóa thế giới khiến ai ai cũng phải nghiêng mình. Người đã để lại cho nền văn học nước nhà một kho tàng tác phẩm giá trị. Và bản tuyên ngôn độc lập là một trong số đó.Tác phẩm được soạn thảo vào ngày 26 tháng 8 năm 1945 tại số nhà 48 Hàng Ngang. Ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại quảng trường Ba Đình, bác đọc tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bản tuyên ngôn có kết cấu ba phần: cơ sở pháp lý – cơ sở thực tế – khẳng định.

    Cơ sở thực tế của bản tuyên ngôn không gì khác ngoài tội ác của bọn thực dân và lập trường chính nghĩa của ta. Để tố cáo bộ mặt thối nát của thực dân Pháp, Bác dùng một câu vừa khẳng định, phủ định. Bác đã lật ngược lại vấn đề: “thế mà hơn 80 năm nay”. Bác đã vạch trần luận điệu xảo trá của thực dân Pháp, giáng đòn phủ đầu về phía chúng. Tội ác của bọn thực dân được vạch trần trên các khía cạnh: chính trị-văn hóa, kinh tế. “Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào. Chúng thi hành những luật pháp dã man, lập ra ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc, chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học, chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta.

    Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu; thi hành chính sách ngu dân; dùng rượu cồn thuốc phiện để làm cho nòi giống ta suy nhược. Thực dân Pháp nói đến An Nam để khai hóa, văn minh, tự do, bình đẳng, bác ái nhưng ngược lại. Tất cả những tội ác trên đã cho thấy sự bịp bợm, dối trá của bọn chúng. Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến dân ta nghèo nàn thiếu thốn, nước ta xơ xác tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu. Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.

    Chúng đã đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng. Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn. Để thấy được tội ác chồng chất của bọn chúng, Người đã sử dụng phương pháp lặp cấu trúc cú pháp kết hợp liệt kê. Lời văn đanh thép của Người thể hiện rõ sự căm hờn khiến cho người đọc, người nghe dấy lên lòng căm thù ghê gớm. Đặc biệt là hình ảnh “tắm cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”. Hình ảnh này có sức gợi hình gợi cảm hết sức mạnh mẽ.

    Nhưng tội ác của chúng chưa phải là hết. Trong năm năm chúng bán nước ta hai lần cho Nhật. Mùa thu năm 1940, Nhật vào Đông Dương, Pháp đã “quỳ gối đầu hàng”. Từ đó nhân dân ta lại chịu hai tầng xiềng xích Pháp – Nhật khiến từ Quảng Trị tới Bắc Kỳ hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. Chúng còn thẳng tay đàn áp, khủng bố Việt Minh ta. Tội ác của chúng đã khiến dân ta khốn khổ cùng cực. Ta có lập trường chính nghĩa của ta. Đồng bào ta vẫn giữ một thái độ nhân đạo và khoan hồng. Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật. Khi Nhật đầu hàng Đồng minh thì nhân dân ta cả nước nổi dậy giành chính quyền. Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị, dân ta đã đánh đổ mấy tầng xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Với giọng điệu nhanh dồn dập, sử dụng nhiều từ khẳng định: “sự thật là…”, Người đã thành công trong việc khẳng định ta chính nghĩa, Pháp phi nghĩa, ta có độc lập tự do là tất yếu.

    Tuyên ngôn Độc lập trước hết là một văn kiện lịch sử. Nó là bản văn quan trọng bậc nhất của nước ta. Để có được Tuyên ngôn Độc lập, biết bao đồng bào, đồng chí đã hy sinh trong suốt 80 năm chống Pháp. Tuyên ngôn Độc lập là một cột mốc lịch sử, nó chấm dứt giai đoạn mất nước, giai đoạn nhân dân ta sống kiếp ngựa trâu, nô lệ của dân tộc, nó mở đầu một kỉ nguyên mới: kỉ nguyên Độc lập tự do.

    Phân tích cơ sở thực tiễn bản Tuyên ngôn độc lập – Mẫu 2

    Ngày 2.9.1945 là một sự kiện lớn, một dấu ấn không phai mờ trong lịch sử dân tộc, trong tâm trí của người dân Việt Nam. Hơn tám mươi năm đã trôi qua nhưng mỗi khi xem lại những thước phim tư liệu chúng ta lại hồi hồi như đang đứng giữa Quảng trường Ba Đình năm ấy và lại rưng rưng cảm giác xúc động vui sướng, tự hào khi nghe giọng Bác trầm ấm “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?” khi đọc Bản Tuyên ngôn độc lập – mội văn kiện lịch sử đặc biệt – một áng văn chính luận bất hủ. Toàn văn bản tuyên ngôn độc lập không dài, chỉ gói gọn trong khoảng chưa đầy một ngàn chữ những vô cùng chặt chẽ và súc tích. Bản Tuyên ngôn chia làm ba phần rõ rệt, mỗi phần một ý, liền mạch với nhau theo một bố cục chặt chẽ mạch lạc.

    Sau phần thứ nhất, mở rộng hơn, phần thứ hai liệt kê ngắn gọn và đầy đủ những tội ác mà thực dân Pháp đã gây ra trên đất nước ta trong suốt gần một trăm năm đô hộ. Trước tiên, chúng tước đoạt tự do chính trị, “tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào”. Kế đó là “chúng thi hành những luật pháp dã man, ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết…” Cả đoạn dày đặc những câu liệt kê định tội rắn rỏi, tố cáo toàn diện tội ác của bọn cướp nước. Từng câu, từng chữ đã nêu bật bản chất bọn xâm lược. Thực dân Pháp đã thi hành chính sách ngu dân, tiêu diệt văn hoá, chính là muốn diệt trừ tận gốc bản sắc dân tộc, ý thức lịch sử và truyền thống dân tộc bằng cách “lập ra nhà tù nhiều hơn trường học”.

    Chúng đàn áp thẳng tay và dã man những người yêu nước, “tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”, cướp đoạt trắng trợn và bất công quyền thiêng liêng nhất của con người: quyền được sống. Đó là thực chất khai hóa, cái gọi là đem văn minh đến cho người bản xứ mông muội. Chúng còn “bóc lột dân la đến xương tuỷ… cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu… đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta trở nên tin cùng… chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn”. Hành động của chúng thật hết sức vô nhân đạo và chánh nghĩa. Hơn nữa, khi bị Nhật tước khí giới, chúng đã bỏ chạy, đầu hàng, bán nước hai lần cho Nhật. Đó là thực chất bảo hộ của chúng, sự thật lịch sử đã tố cáo bản chất dối trá, hèn nhát của bọn xâm lược.

    Chỉ trong một đoạn ngắn hai mươi mốt câu, tác giả đã xé toang chiêu bài “khai hoá, bảo hộ” giả dối bịp bợm mà bấy lâu chúng dùng để che đậy những việc làm xấu xa độc ác. Tác giả dùng liên tiếp những sắc thái từ cao độ: hắn, tuyệt đối không cho, dã man, thẳng tay chém giết, tắm… trong những bể máu, bóc lột đến tận xương tuỷ…. ngôn ngữ linh hoạt, sắc bén, đầy hình ảnh cụ thể, chính xác, gợi tả, tỏ thái độ căm giận sâu sắc trước những tội ác man rợ đó. Điệp từ chúng xuất hiện dày đặc, lồng trong những câu song hành, đồng nghĩa, như những nhát búa đập thẳng vào lớp vỏ bọc hoa mĩ bọn thực dân vẫn tuôn ra bấy lâu, tạo những âm vang sóng dội, nhấn mạnh và trở đi trở lại, như khắc sâu ghi nhớ, như kết án luận tội đồng thời tỏ ra sức mạnh của chúng ta, sức mạnh của chính nghĩa. Đối lập với những hành động phi nhân đó của thực dân Pháp cuộc đấu tranh đầy nhân đạo chính nghĩa của nhân dân ta.

    Từ những hành động tàn nhẫn của thực dân Pháp như khủng bố Việt Minh, giết chính trị phạm, tác giả dẫn dắt chúng ta đến những hành động nhân đạo, khoan hồng của quân và dân ta: giúp nhiều người Pháp chạy qua biên thuỳ, cứu nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật, bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ. Điệp ngữ Sự thật là… đã khẳng định chiến thắng của ta: ta đã lấy lại đất nước từ trong tay Nhật, đất nước mà thực dân Pháp đã cướp lấy rồi bán cho phát xít Nhật. Chúng ta chiến đấu chống phát xít, đứng về phía mặt trận dân chủ chống phát xít, có vai trò và vị trí xứng đáng trước thế giới chính do sức mạnh tự chủ tự thân của dân tộc.

    Như vậy các nước tiến bộ trên thế giới phải đồng tình ủng hộ quyền được hưởng tự do độc lập một cách chính đáng của dân tộc ta. Câu tuyên bố “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị” ngắn gọn và súc tích, nghe như một lời reo vui. Câu này cũng có thể làm một ví dụ tiêu biểu cho văn phong Hồ Chí Minh là ngắn gọn chuẩn xác mà đầy uy lực, giàu ý nghĩa. Tuyên bố với thế giới về việc thành lập của một đất nước mới nhưng đã phải chịu nhiều đau thương, tác giả đã rất đanh thép và triệt để khi dùng những cụm từ thoát li hẳn, xoá bỏ hết, Xóa bỏ tất cả để nhấn mạnh sự phủ định tuyệt đối mọi quan hệ lệ thuộc với Pháp, chặt nốt những mắt xích cuối cùng ràng buộc Việt Nam, để đất nước này đứng lên trong tự do hoàn toàn, xây dựng một chế độ mới.

    Tự do vừa giành được thật vô giá. Để có được nó, nhân dân ta đã phải đánh đổi bằng bao nhiêu hi sinh, bao nhiêu xương máu và tâm huyết. Thế mà vẫn còn bao nhiêu thù trong giặc ngoài lúc bây giờ đang lăm le bóp chết sự sống mới hình thành của nước Việt Nam non trẻ. Hiểu được điều đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt nhân dân nêu lên lời tuyên bố trịnh trọng và quyết liệt “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Đó chính là tinh thần của cả một dân tộc anh hùng quyết hi sinh tất cả để giữ lấy độc lập, tự do. Cụm từ tự do và độc lập được lặp lại ba lần, như khắc sâu vào tâm trí muôn triệu người dân Việt, vang lên mạnh mẽ và rung động như tiếng kèn xung trận hào hùng. Lời tuyên bố nghe như một lời thề sắt đá và thiêng liêng, vừa khích lệ nhân dân ta vừa cảnh báo kẻ thù.

    Đây là bản Tuyên ngôn độc lập lần đầu tiên tuyên bố với thế giới về sự ra đời của một nhà nước mới, đánh dấu một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên độc lập tự do cho một dân tộc bất khuất kiên cường. Nó đánh dấu thắng lợi đầu tiên của một nước ở châu Á. Mặt khác, bản Tuyên ngôn còn là một áng văn chính luận mẫu mực, đanh thép và lôi cuốn ở lí lẽ và lập luận chặt chẽ, ở từ ngữ, hình ảnh dễ cảm, chính xác, mạnh mẽ. Ở câu văn gọn mà sắc, giản dị mà hùng hồn, đã vừa cảnh cáo, vạch mặt kẻ thù, vừa khích lệ, động viên tinh thần nhân dân và tranh thủ sự đồng tình quốc tế. Có thể khẳng định rằng, Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa kế thừa được những chân lí của lịch sử dân tộc và thế giới vừa mang tính thời đại. Bản tuyên ngôn còn đồng thời mang tính tính lịch sử và mang tính văn chương. Bởi thế nó mãi mãi là áng văn bất hủ, là niềm tự hào của mỗi người Việt Nam yêu nước.

    Phân tích cơ sở thực tế bản Tuyên ngôn độc lập – Mẫu 3

    Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được khai sinh khi Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” ngày 2/ 9/1945 tại quảng trường Ba Đình trước hàng triệu đồng bào. Nếu ở phần đầu tác phẩm Hồ Chí Minh đưa ra bản “Tuyên ngôn độc lập” của Mĩ và “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của Pháp để làm cơ sở pháp lý thì đến phần hai Người đã nêu lên cơ sở thực tế của bản tuyên ngôn.

    Cơ sở ấy bắt nguồn từ việc Hồ Chí Minh tố cáo những tội ác của thực dân Pháp. Người đã liệt kê ra những hành động mà chúng đã thực hiện đối với dân tộc ta. Những việc chúng làm luôn đi ngược lại với chính nghĩa và lòng nhân đạo. Thực dân Pháp đã lợi dụng “lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái” để áp bức nhân dân ta, xâm chiếm lãnh thổ đất nước ta trong suốt hơn tám mươi năm nay. Những chính sách cai trị của chúng vô cùng hà khắc và tàn bạo.

    Về chính trị, chúng “tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào”, những nhà tù được chúng lập ra nhiều hơn cả trường học”. Chúng “thẳng tay chém giết” những người con yêu nước của dân tộc. Chúng “thi hành chính sách ngu dân”, làm giống nòi ta suy nhược bằng thuốc phiện và rượu cồn. Thực dân Pháp có dã tâm lớn khi lập ra ba chế độ chính trị khác nhau ở ba miền để ngăn không cho nước ta thống nhất và chia cách sự đoàn kết của nhân dân ta.

    Về kinh tế, chúng “bóc lột nhân dân ta đến xương tủy”, “cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu”, đặt ra vô số thứ thuế vô lý khiến dân ta lâm vào tình cảnh khốn đốn, bần cùng. Độc ác nhất là chúng gây ra nạn đói năm 1945 giết chết hơn hai triệu đồng bào ta. Những thủ đoạn của chúng vô cùng tàn nhẫn bộc lộ bản chất vô nhân đạo. Đó là tội ác diệt chủng. Chúng muốn xóa bỏ nước ta trên bản đồ thế giới, muốn tiêu diệt hết nòi giống ta để chúng dễ bề xâm chiếm và cai trị. Chỉ trong vòng năm năm mà “chúng bán nước ta hai lần cho Nhật” vậy mà chúng còn kể công “bảo hộ”, “khai hóa”. Hơn thế nữa, chúng còn khẳng định Đông Dương là thuộc địa của mình trong khi sự thực thì chúng đã đầu hàng Nhật, Đông Dương trở thành thuộc địa của Nhật và nhân dân ta đã giành lại quyền tự do, độc lập từ tay phát xít Nhật chứ không phải từ tay thực dân Pháp. Chúng thẳng tay khủng bố Việt Minh, “thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”. Thủ đoạn của chúng không chỉ tàn nhẫn mà nhân cách của chúng còn đê tiện, tráo trở. Tuy vậy, bằng lòng nhân đạo của mình, “sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ”. Nhân dân ta luôn dương cao lá cờ chính nghĩa và “vẫn giữ thái độ khoan hồng” với chính kẻ thù của mình. Còn thực dân Pháp thì tàn ác, vô nhân đạo, cuộc chiến tranh mà chúng gây ra cho dân tộc ta là một cuộc chiến tranh phi nghĩa. Chúng đã phản bội phe Đồng minh, bắt tay thông đồng với bọn phát xít để chúng mở rộng công cuộc xâm chiếm thuộc địa. Những từ ngữ “tuyệt đối không cho”, “dã man”, “thẳng tay chém giết”, “tắm”, “bể máu”, “bóc lột đến tận xương tủy”,…đã thể hiện thái độ căm phẫn của tác giả trước những tội ác của chúng.

    Qua việc vạch trần bản chất của thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã khẳng định tinh thần chiến đấu và truyền thống đoàn kết của dân tộc. Người tuyên bố “thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”. Chúng ta đã “lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải. Như vậy, nước ta không còn mối liên quan nào đến thực dân Pháp nữa. Chúng ta “một lòng kiên quyết chống lại âm mưu của chúng” và chúng ta cũng một lòng quyết chiến quyết thắng để giành lại nền độc lập, tự do cho dân tộc. Với những dẫn chứng, lý lẽ thuyết phục ấy các nước Đồng minh không thể không công nhận nền độc lập của dân tộc ta. Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập”! Từ cơ sở thực tiễn là những tội ác của thực dân Pháp, Người đã tuyên bố với toàn thể thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vùng quyền tự do, độc lập ấy”.

    Với giọng điệu hùng hồn, đanh thép cùng những bằng chứng xác thực và cách lập luận chặt chẽ, cơ sở thực tế của bản tuyên ngôn nói riêng và toàn bộ bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh nói chung đã khẳng định nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, tự do. Đồng thời tác phẩm này cũng thể hiện phong cách chính luận của Người một cách rõ rệt.

    Phân tích cơ sở thực tế bản Tuyên ngôn độc lập – Mẫu 4

    Trong lịch sử văn học cũng như lịch sử dựng nước, giữ nước, chúng ta đã có ba bản tuyên ngôn độc lập: “Nam quốc sơn hà” (lý Thường Kiệt), “Đại cáo bình Ngô” (Nguyễn Trãi) và đặc biệt là “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh. Đánh giá về giá trị của tác phẩm, các ý kiến đều thống nhất khi nhận định “Tuyên ngôn độc lập” vừa là một văn kiện lịch sử vô giá, vừa là một mẫu mực của văn chính luận. Phần nêu cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn cho bản tuyên ngôn là minh chứng tiêu biểu cho mẫu mực của nghệ thuật lập luận đó.

    Ở phần mở đầu của bản tuyên ngôn, Hồ Chí Minh đã nêu những cơ sở pháp lý cho bản tuyên ngôn. Cụ thể, Người đã trích dẫn hai bản tuyên ngôn của Mỹ và Pháp để làm căn cứ khẳng định quyền tự do, độc lập của dân tộc. Bản tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ viết: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Sau này bản “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp” năm 1791 cũng nói: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi”.

    Cả hai bản tuyên ngôn này đều khẳng định lẽ phải về quyền con người. Đó là hai bản tuyên ngôn nổi tiếng thế giới thế kỉ XVIII – di sản tư tưởng của nhân loại. Từ lẽ phải về quyền con người, Hồ Chí Minh nâng lên thành quyền dân tộc: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.

    Tác giả đã giúp thế giới hiểu rằng các dân tộc dù da đen hay da trắng, da đỏ hay da vàng đều bình đẳng như nhau vì tất cả họ đều là con người. Cách lập luận của Hồ Chí Minh thật khôn khéo vì tác giả đã sử dụng thủ pháp “gậy ông đập lưng ông” khi dùng lời của Pháp và Mỹ để nói với chính họ. Trong tranh luận không gì thú vị bằng dùng chính lời của đối phương để bác bỏ đối phương khiến họ rơi vào tình trạng “há miệng mắc quai”. Bác đã dùng cây gậy độc lập để đánh vào lưng những kẻ chuyên đi xâm lược, làm đổ máu và nước mắt của đồng loại mà cứ rêu rao về quyền tự do, bình đẳng.

    Dẫn lời của Mỹ và Pháp lên đầu bản tuyên ngôn, người viết tỏ ra trân trọng, đề cao những tuyên ngôn thuộc về lẽ phải… vì thế tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân trên thế giới, đặc biệt là dư luận tiến bộ ở Pháp và Mỹ. Mặt khác, Hồ Chí Minh đã gián tiếp đặt ba bản tuyên ngôn ngang hàng nhau, ba nền độc lập ngang tầm nhau nhằm thể hiện niềm tự hào dân tộc. Cách lập luận ấy còn rất kiên quyết bởi mượn lời của Pháp và Mỹ, Bác đã ngầm cảnh cáo với bọn đế quốc thực dân rằng: Nếu chúng tiếp tục xâm lược Việt Nam có nghĩa là chúng đã phản bội lại truyền thống tư tưởng tốt đẹp của dân tộc, vấy bẩn lên lá cờ tự do bình đẳng bác ái mà cha ông họ đã từng giương cao. Hành động phi nghĩa ấy sẽ là nguyên nhân đẩy chúng vào kết cục bi thảm. Cách lập luận ở phần mở đầu của bản tuyên ngôn độc lập thật chặt chẽ, thuyết phục và sáng tạo. Đoạn văn mở đầu hết sức ngắn gọn, súc tích: chỉ có hai câu trích dẫn, một lời bình luận suy rộng ra, một lời khẳng định: “đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” đã làm nổi bật cơ sở pháp lý vững chắc về quyền sống, quyền tự do dân tộc, tiêu biểu cho vẻ đẹp mẫu mực của văn chính luận Hồ Chí Minh. Nó như phát súng thổi bùng lên phong trào đấu tranh ở các nước thuộc địa trên thế giới.

    Phần hai của bản tuyên ngôn lại làm nổi bật những cơ sở thực tiễn cho lời tuyên bố độc lập. Trước hết, Người đã lập ra một bản cáo trạng những tội ác của thực dân Pháp để phủ nhận công lao “khai hóa”, “bảo hộ” của chúng. Pháp nêu chiêu bài có công “khai hóa” ở Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng để hợp thức hóa việc quay trở lại Đông Dương và Việt Nam.

    Hồ Chí Minh đã tố cáo tội ác về cả chính trị và kinh tế để đập tan luận điệu xảo trá, bịp bợm ấy: “Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào. Chúng thi hành những luật pháp dã man… làm nòi giống ta suy nhược”. Còn về kinh tế, chúng đã “bóc lột dân ta đến tận xương tủy… bóc lột công nhân một cách vô cùng tàn nhẫn”.

    Pháp nêu chiêu bài có công “bảo hộ” Việt Nam, thì Hồ Chí Minh đã tố cáo những tội ác về quân sự để bác bỏ “công lao” đó của chúng: đó là khi phát xít Nhật xâm lăng Đông Dương, thực dân Pháp đã “quỳ gối đầu hàng mở cửa nước ta rước Nhật” và chỉ trong hai năm, Pháp đã bán nước ta hai lần cho Nhật. Khi thua trận, bị tước khí giới bởi Nhật, chúng còn nhẫn tâm giết hết số đông tù chính trị tại Cao Bằng. Bằng những lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, dẫn chứng thực xác thực, ta có cảm giác Hồ Chí Minh đang lật lại bánh xe lịch sử để quay lại những tư liệu hết sức chân thực mà kẻ thù không thể chối cãi trong suốt 80 năm đô hộ Việt Nam. Tội ác ấy đã khiến cho hai triệu đồng bào ta chết đói, 95% dân số mù chữ,…

    Ngôn ngữ và những hình tượng nghệ thuật được Người sử dụng vừa chính xác vừa truyền cảm: “chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”. Câu văn cho thấy tội ác dã man của giặc, hành động đàn áp được diễn đạt bằng động từ “tắm” đã cho thấy bộ mặt thật của bọn thực dân khát máu, tàn bạo, đồng thời diễn tả được nỗi đau thê thảm của người dân mất nước đang quằn quại trong những “bể máu” đau thương. Thủ pháp điệp từ, điệp kiểu câu cũng được sử dụng vô cùng đắc địa. Những câu văn mở đầu bằng từ “chúng” nặng như búa tạ giáng xuống đầu kẻ thù và gợi trong tim ta nỗi đau xót nhức nhối. Nghệ thuật liệt kê kết hợp với những động từ mạnh đã hệ thống hàng loạt những tội ác chồng chất mà thực dân Pháp đã gây ra cho mọi tầng lớp từ dân cày đến dân buôn, công nhân đến các nhà tư sản. Đó là tội ác mà “Trúc Lam Sơn không ghi hết tội/ Nước Đông Hải không rửa sạch mùi” (Nguyễn Trãi).

    Không chỉ có thế, bản tuyên ngôn còn phản ánh quá trình đấu tranh giành độc lập, khẳng định tư thế chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Dân tộc Việt Nam không những có quyền hưởng tự do độc lập mà thực tế đã giành được quyền tự do độc lập. Trước hết, nhân dân Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập. Trong bao nhiêu năm qua, Việt Nam đã là dân tộc chịu nỗi đau xâm lược, còn Pháp là kẻ thù đi xâm lược. Nếu thực dân Pháp đã hèn hạ phản bội lại Đồng Minh, dâng Đông Dương cho Nhật thì nhân dân ta đã anh dũng đứng về phía Đồng Minh chống phát xít. Nếu thực dân Pháp hèn nhát, phản động, vô nhân đạo thì chúng ta luôn giữ thái độ khoan hồng, nhân đạo: “giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ”. Đó là những việc làm cao thượng, những cử chỉ nhân nghĩa xứng đáng với truyền thống cao đẹp của dân tộc:

    “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
    Lấy chí nhân để thay cường bạo”

    (Bình Ngô đại cáo).

    Không chỉ có vậy, Việt Nam đã thực sự giành được quyền tự do, độc lập. Việt Nam đã không còn là thuộc địa của Pháp vì Pháp đã bán rẻ chúng ta cho Nhật. Và sau đó, nhân dân ta trong cuộc Cách mạng tháng tám đã giành chính quyền từ tay Nhật, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đó là kết quả tất yếu của quá trình đấu tranh bền bỉ với những hy sinh xương máu. Câu văn “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị…” đã cho thấy ba kẻ thù bị đánh bại: thực dân, phát xít và phong kiến. Chín chữ ngắn gọn đã khái quát được gần một nghìn năm lịch sử với những sự kiện trọng yếu của dân tộc. Pháp hoảng hốt bỏ chạy, Nhật quỳ gối đầu hàng, Bảo Đại thì hai tay run rẩy trao ấn kiếm cho chính quyền Cách mạng, tất cả rác rưởi đã được quét dọn cho một quốc gia mới ra đời. Để khẳng định quyền dân tộc, Người đã sử dụng rất nhiều thủ pháp: điệp ngữ, điệp cấu trúc (những câu văn bắt đầu bằng cấu trúc “sự thật là…”) vang lên một cách dõng dạc vừa khẳng định sự thực, vừa khẳng định chân lý. Hàng loạt các dẫn chứng xác thực không thể chối cãi được như tái hiện trước mắt chúng ta những chặng đường bi thương hào hùng của dân tộc.

    Việc nêu những cơ sở pháp lý cũng như thực tiễn làm cơ sở cho lời tuyên ngôn độc lập là một công việc khó khăn nhất, rất khó để làm được một cách khôn khéo, thuyết phục nhưng Hồ Chí Minh đã xử lý một cách khéo léo bằng những lập luận trí tuệ, sắc sảo, đầy sức thuyết phục. Cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn của bản tuyên ngôn đã chứng minh “Tuyên ngôn độc lập” là áng văn chính luận mẫu mực, thể hiện được tài năng của người con ưu tú của dân tộc Việt Nam – chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.

    Phân tích cơ sở thực tế bản Tuyên ngôn độc lập – Mẫu 5

    Chủ tịch Hồ Chí Minh – Người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất, nhà tư tưởng lỗi lạc. Bản Tuyên ngôn độc lập do Người soạn thảo và công bố trước toàn thể đồng bào và toàn thế giới vào ngày 02/9/1945 là một tác phẩm có giá trị lý luận và thực tiễn vô cùng to lớn trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Bản Tuyên ngôn độc lập ngắn gọn nhưng chứa đựng những nội dung bất hủ, có cơ sở thực tế.

    Cơ sở thực tế: Xác định thời điểm lịch sử, vạch rõ sự phi nghĩa của thực dân Pháp (chính trị: thâm độc; kinh tế: dã man; bản chất: đè tiện); nêu cao chính nghĩa của dân tộc Việt Nam (chiến đấu dũng cảm, bản chất nhân đạo). Sự thật lịch sử: Kết quả của Cách mạng tháng Tám -1945 là thực tế độc lập của nước Việt Nam khẳng định thực tế độc lập.

    (…) Ở thời điểm lịch sử khi bản Tuyên ngôn ra đời, chủ quyền độc lập của dân tộc Việt Nam đang bị đe dọa bởi nguy cơ xâm lược của đế quốc Mỹ và thực dân Pháp. Đẩy lùi nguy cơ ấy phải là một cuộc chiến đấu vũ trang của toàn dân tộc nhưng cuộc chiến đấu ấy cần có thời gian chuẩn bị lực lượng, cần có sự đồng tình ủng hộ của nhân loại tiến bộ. Do đó chỉ xác lập cơ sở pháp lí chưa đủ, cần phải bằng thực tế hiển nhiên vạch rõ sự phi nghĩa của thực dân và nêu cao sự chính nghĩa của dân tộc Việt Nam.

    Trước hết qua những chứng cứ cụ thể, xác thực, bản Tuyên ngôn đã vạch trần những việc làm trái hẳn với nhân đạo và trái với chính nghĩa của thực dân Pháp. Chúng đã lợi dụng danh nghĩa của người đi “khai hóa”, “bảo hộ” và núp dưới lá cờ “Tự do – bình đẳng – bác ái” để cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Về chính trị, thực dân Pháp dùng những thủ đoạn thâm độc để tiêu diệt ý chí chiến đấu của người Việt Nam: chúng không cho nhân dân ta được hưởng tự do dân chủ, chúng chia cắt ba miền bằng ba chế độ chính trị khác nhau nhằm phá vỡ tinh thần đoàn kết thống nhất của nhân dân ta, chúng thi hành chính sách ngu dân, dùng rượu cồn, thuốc phiện để đầu độc nhân dân ta. về kinh tế, chúng dùng nhiều biện pháp dã man để tiêu diệt sức mạnh chiến đấu của người Việt Nam, chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu, chúng giữ độc quyền xuất cảng, nhập cảng, độc quyền in giấy bạc, chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lí để có thể vơ vét tiền bạc, của cải. Tất cả dẫn đến thảm cảnh 2 triệu đồng bào ta chết đói. về bản chất, thực dân Pháp là những kẻ đê tiện, vô nhân đạo bởi vì chúng đã không “bảo hộ” được nước ta mà trái lại chỉ trong 5 năm (1940 – 1945), chúng đã hai lần dâng nước ta cho Nhật, tồi tệ hơn chúng đã không hưởng ứng lời kêu gọi của Việt Minh hợp tác chống Nhật mà chúng còn quay lại khủng bố Việt Minh, giết hại tù chính trị và những người yêu nước của nhân dân ta.

    Bằng nghệ thuật so sánh tương phản đầy sức thuyết phục, bản Tuyên ngôn nêu rõ lẽ phải và chính nghĩa hoàn toàn thuộc về dân tộc Việt Nam. Nếu thực dân Pháp có tội phản bội Đồng minh và đã hai lần dâng Đông Dương cho Nhật, tiếp tay, tiếp sức để bọn phát xít mở rộng chiến tranh thì dân tộc Việt Nam, đại diện là Việt Minh đã dũng cảm chiến đấu chống phát xít Nhật và cuối cùng giành được chủ quyền độc lập cho dân tộc. Nếu thực dân Pháp tỏ rõ bản chất dã man, vô nhân đạo thì dân tộc Việt Nam đã thể hiện sự khoan hồng và nhân đạo ngay với kẻ thù đã bị thất thế “Sau cuộc biến động ngày 9-3, Việt Minh đã giúp cho người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật, bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ”.

    Từ tất cả những điều đó, bản Tuyên ngôn đi tới những sự thật lịch sử quan trọng. Trước hết, có thể thấy từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật chứ không phải của Pháp; khi Nhật đầu hàng Đồng minh, nhân dân ta đã giành chính quyền từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. Điều đó có ý nghĩa bác bỏ chủ quyền của Pháp với Việt Nam đồng thời cho thay dân tộc ta đã khẳng định chủ quyền độc lập không chỉ bằng cơ sở pháp lí vững chắc mà còn bằng hành động cụ thể trong Cách mạng tháng Tám. Một sự thật hiển nhiên nữa là bọn thực dân, phát xít, phong kiến đều hết thời, độc lập đã là một thực tế ở Việt Nam, dân tộc ta đã có một chính thể mới để bảo vệ nền độc lập của mình: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiểng xích gần 100 năm nay dễ gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ trong mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa”. (…)

    Tuyên ngôn độc lập đã thực tỉnh, lay động, cỗ vũ tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, khẳng định tính chính nghĩa của cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, tinh thần đoàn kết của dân tộc tạo nên sức mạnh vô địch bảo vệ vững chắc nền độc lập dân dân tộc, quyền tự do của nhân dân.

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *