Phân tích nhân vật Tnú trong Rừng Xà Nu gồm 18 bài văn mẫu siêu hay kèm theo 3 gợi ý cách viết chi tiết. Qua phân tích hình tượng nhân vật Tnú các bạn học sinh có thể lựa chọn cho mình một cách tiếp cận, một giọng điệu văn thích hợp, để sau đó nó trở thành kiến thức tâm đắc của chính mình.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 12: Phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu
TOP 18 mẫu phân tích hình tượng nhân vật Tnú được viết rất hay với văn phong rõ ràng, dễ hiểu có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, sẽ giúp các em học môn Ngữ văn tốt hơn và có sự chuẩn bị tốt hơn khi học. Ngoài ra để nâng cao kỹ năng viết văn các bạn xem thêm phân tích hình tượng rừng xà nu.
Phân tích nhân vật Tnú trong Rừng xà nu hay nhất
Dàn ý phân tích nhân vật Tnú
I. Mở bài:
– Sơ lược về tác giả và tác phẩm, giới thiệu nhân vật anh hùng Tnú.
II. Thân bài:
* Lai lịch, xuất thân và số phận đau thương:
– Mồ côi, được sống và lớn lên trong vòng tay bảo bọc, nâng đỡ của dân làng Xô Man, một ngôi làng có truyền thống đánh giặc.
– Tnú được thừa hưởng từ cái nôi truyền thống nhiều phẩm chất tốt đẹp và trở thành một con người mang vẻ đẹp kết tinh của cộng đồng, mà theo lời cụ Mết nói: “Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”.
– Phải tận mắt chứng kiến cái chết thương tâm của người vợ trẻ và đứa con chưa đầy tháng dưới tay giặc.
– Bị giặc bắt, tra tấn, dùng nhựa xà nu đốt cháy mười đầu ngón tay của anh, khiến anh mất đi đôi bàn tay khỏe mạnh, đủ đầy.
=> Thử thách để giúp Tnú trưởng thành trong sự nghiệp cách mạng, cũng như củng cố và làm sáng rõ hơn lý tưởng chiến đấu và hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
* Vẻ đẹp của tinh thần dũng cảm, lòng gan dạ, sự nhanh nhẹn, nhạy bén, không sợ hy sinh và tinh thần giác ngộ cách mạng sớm:
– Khi còn bé đã xung phong làm nhiệm vụ nuôi giấu cán bộ, khi được anh Quyết hỏi có sợ bị bắn không, Tnú rất khảng khái nhắc lại đúng lời cụ Mết rằng: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn núi nước này còn!”, thể hiện tấm lòng kiên trung, sớm giác ngộ cách mạng từ những ngày còn thơ bé của Tnú.
– Quyết tâm học chữ cho thật giỏi để làm cách mạng, có lần vì không nhớ nổi chữ mà Tnú đập vỡ bảng, thậm chí lấy đá đập vào đầu đến chảy máu.
– Gan dạ và mưu trí khi đi liên lạc“Không bao giờ đi đường mòn…leo lên cây cao nhìn quanh một lượt rồi mới xé rừng mà đi, lọt tất cả các vòng vây”, rồi qua sông không chọn chỗ nước êm mà cứ chọn chỗ thác mạnh mà bơi ngang để tránh khỏi tầm mắt của lũ giặc.
– Khi bị giặc bắt, Tnú nhanh trí nuốt luôn cả thư, khi bị bắt giam Tnú cũng tìm cách vượt ngục để trở về buôn làng.
* Vẻ đẹp từ tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng, sự căm thù giặc sâu sắc và ý thức tổ chức kỷ luật cao
– Ngày bé khi đi đưa thư, chúng tra tấn Tnú dã man nhưng anh hề hé răng lấy nửa chữ, sau 3 năm anh vượt ngục rồi trở về lãnh đạo dân làng chuẩn bị vũ khí đánh giặc.
– Khi trưởng thành, Tnú lần nữa bị giặc bắt, châm lửa đốt mười đầu ngón tay, nhưng Tnú vẫn không hề hé răng kêu lấy một tiếng, “người cộng sản không thèm kêu van” .
– Sự khiếm khuyết của đôi bàn tay chính là động lực, là lời nhắc nhở, là ký ức đau thương về những gì kẻ thù đã để lại trong cuộc đời anh. Cũng chính đôi bàn tay ấy trở nên mạnh mẽ, kiên cường dẫu rằng thiếu đi một đốt, nhưng bàn tay ấy vẫn cầm được súng, vẫn bóp được cò, thậm chí Tnú còn chính tay bóp chết được một thằng giặc khỏe mạnh.
* Vẻ đẹp từ tình cảm gắn bó sâu sắc với quê hương, với gia đình:
– Tấm lòng yêu thương mẹ con Mai, cũng như nỗi đau đớn tột cùng khi không thể cứu kịp vợ con, quyết hy sinh thân mình để cứu mẹ con Mai.
– Khi Mai mới sinh con, Tnú đã xé đồ của mình làm đôi để cho làm tấm địu con, đó là tấm lòng hy sinh, lòng yêu thương của một người cha đối với đứa con bé bỏng.
– Có tình cảm sâu sắc với quê hương, anh yêu dân làng, yêu làng, nhớ từng kỷ niệm gắn bó với làng Xô Man, anh đi chiến đấu không chỉ vì mối thù của bản thân mà còn là để bảo vệ làng, bảo vệ mảnh đất quê hương.
III. Kết bài:
Nêu cảm nhận.
………………
Sơ đồ tư duy phân tích nhân vật Tnú
Phân tích nhân vật Tnú đạt điểm cao – Mẫu 1
Tây Nguyên miền đất đỏ ba dan với những văn hóa phi vật thể nổi tiếng, có bản anh hùng sử Đăm Săn. Nơi đây đã chịu bao mất mát bởi sự tàn phá dã man của kẻ thù, nhưng với phẩm chất gan dạ bất khuất họ đã đứng lên từ đau thương để chiến đấu. Trong kháng chiến chống Pháp ta biết đến Núp với những đức tính kiên cường, không sợ nguy hiểm của kẻ thù để chiến đấu. Đến cuộc kháng chiến chống Mĩ thì Nguyễn Trung Thành đã cho ta thấy vẻ đẹp của người dân Tây Nguyên thông qua hình tượng nhân vật Tnú trong tác phẩm “Rừng xà nu” năm 1965. Qua nhân vật này tác giả đã cho ta thấy phẩm chất anh hùng của con người Tây Nguyên nói riêng và Việt Nam nói chung, không chỉ vậy mà còn là nhân vật gửi gắm những lời phát ngôn mang tính tư tưởng sâu sắc.
Đọc “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành người đọc sẽ dễ dàng nhận thấy nhân vật Tnú là trung tâm là linh hồn của truyện ngắn này, nhân vật được nhà văn khắc họa bằng ngòi bút sắc sảo giàu tính sử thi, nghĩa là nhân vật có một đời tư nhưng không được tác giả quan sát miêu tả từ góc nhìn của đời từ mà xuất phát từ vấn đề cộng đồng để phản ánh đời tư của Tnú. Vì vậy vẻ đẹp của nhân vật là vẻ đẹp của cộng đồng, vẻ đẹp người dân bất khuất kiên cường anh hùng trong chiến đấu. Còn nỗi đau của đời anh chính là nỗi đau của người dân Tây Nguyên trong trận chiến đẫm máu của kẻ thù. Tất cả đề được thể hiện qua hai chặng đời của Tnú lúc còn nhỏ và lúc trưởng thành. Qua nhân vật này nhà văn muốn thể hiện tư tưởng:” nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo”. Vì vậy nhân vật Tnú còn gánh vai trò là nhân vật tư tưởng của tác giả.
Mặc dù mồ côi cả cha lẫn mẹ nhưng Tnú được sống trong sự đùm bọc chở che của dân làng. Và từ đây anh được giác ngộ lý tưởng cách mạng và từ đây anh ý thức được cách mạng, sống với một tuổi thơ phi thường đầy ắp những chiến công và kỳ tích. Tuổi thơ của một tiểu anh hùng nhỏ dũng cảm, gan góc và tuyệt đối trung thành với cách mạng.
Thật vậy phẩm chất anh hùng Tây Nguyên như ngấm vào máu của Tnú. Ngay từ khi còn nhỏ Tnú và Mai đã tham gia nuôi dấu cách mạng:” như cây xà nu vươn lên”. Đấy là con đường đầy máu lửa và hy sinh, địch khủng bố dã man những người nuôi dấu cán bộ. Anh Xút bị treo cổ ở cây vả đầu làng, lớp thanh niên bị lộ già làng đi thay bà Nhan cũng bị chặt đầu. Đó chính là hành động man rợ của kẻ thù hòng khuất phục tinh thần ý chí của dân làng xô man. Nhưng với tinh thần dũng cảm và ý chí đấu tranh thì Tnú cũng không sợ mà bước tiếp con đường mà dân làng đã đi. Khi anh Quyết hỏi Tnú:” em không sợ giặc bắt à? Nó giết như anh Sút bà Nhan đó” Tnú đã khẳng khái trả lời:” cụ Mết bảo cán bộ là Đảng, Đảng còn núi nước này còn”.
Mặc dù Tnú chỉ nhắc lại câu nói của cụ Mết nhưng qua đó ta thấy được sự lựa chọn của anh, giữa sinh mệnh của cá nhân và vận mệnh của dân tộc Tnú luôn sẵn sàng quên mình để bảo vệ cho cái chung đó. Như vậy Tnú không phải chỉ là một cậu bé gan góc, dũng cảm mà còn sớm có tinh thần yêu nước, yêu cách mạng. Người anh hùng nhỏ tuổi Tnú không chỉ sống một cuộc đời bình thường mà sống một cuộc sống phi thường. Ngay từ cách học của Tnú, Tnú cũng chọn cách học phi thường. Từ việc học chữ hay quên mà để trừng trị cái tính ấy của mình và thể hiện ý chí quyết tâm Tnú lấy đá đập vào đầu mình khiến cho máu chảy dòng dòng. Lúc giận mình tưởng như phải bỏ cuộc anh Quyết đã khuyên:” không học chữ thì làm sao làm cách mạng được”. Vậy là tinh thần cách mạng đã thôi thúc quyết tâm học chữ của Tnú. Vẻ đẹp của Tnú đặc biệt được thể hiện ở việc làm tiếp tế cho cách mạng. Khác với những đứa trẻ khác, Tnú luôn xe rừng vượt thác mà đi.
Bằng sự thông minh và tài chí đã sớm dạy cho Tnú hiểu những chỗ đi dễ dàng rất dễ gặp phục kích. Và thế là Tnú:” không đi chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt lên trên mặt nước, cưỡi lên như thác băng băng như một con cá kình”. Câu văn giàu hình ảnh so sánh ấy đã cho ta thấy cá tính mạnh mẽ của chàng trai lớn lên từ núi rừng. Trong một lần không may bị giặc bắt:” Tnú nuốt vội lá thư” và khắc sâu lời cụ Mết dạy:” Đảng còn núi nước này còn”. Chúng bắt và tra hỏi anh cộng sản ở đâu? Anh đặt tay lên bụng đầy kiêu hãnh “cộng sản ở đây”. Và lập tức người vằn ngang vằn dọc vết chém của kẻ thù. Dù vậy chúng không thể khuất phục được anh, đói chính là tính cách của người anh hùng “ uy vũ bất năng khuất”.
Cuộc đời của Tnú điển hình cho con đường đấu tranh của nhân dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mĩ. Qua cuộc đời anh ở giai đoạn này để làm sáng tỏ chân lí:” chúng nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo”. Khi trưởng thành là lúc Tnú vượt ngục trở về với dân làng và lãnh đạo dân làng tiếp tục chiến đấu. Khi trở lại làng anh trở thành một chàng trai hoàn hảo. Anh cường tráng như một cây xà nu lớn nồng căng sự sống với hai cánh tay khỏe khoắn, chắc như lim, chứa đầy trong bọ ngực rộng rãi của anh là sức mạnh mênh mông man dại của đại ngàn. Chảy trong huyết quản của anh là dòng máu anh hùng của xứ sở Tây Nguyên truyền lại từ thời Đăm Săn. Tính cách của anh bướng bỉnh kiêu hãnh là tính cách của Tây Nguyên dữ dội, quyết liệt. Anh đã trở thành đội trưởng đội du kích làm cho bọn giặc phải khiếp sợ kinh hoàng:” con cọp đó mà không giết sớm nó làm loạn núi rừng này rồi”.
Bi kịch của Tnú cũng là bi kịch chung của dân làng Xô man khi chưa dùng vũ khí. Sau khi trở về làng Tnú gặp lại Mai, họ đã có mối tình đẹp nên vợ nên chồng. Tnú được sống với người mà mình yêu thương và có đứa con đầu lòng. Tưởng như đó là cái kết tốt đẹp cho những gian khổ mà Tnú phải trải qua, nhưng ai đó đã từng nói:” còn thằng Mĩ sẽ không ai có được hạnh phúc cả”. Cuộc đời của Tnú cũng vậy, nếu như ở đoạn đời trước của anh người đọc cảm phục với sự gan dạ dũng cảm kiên cường, thì đến đây câu chuyện cụ Mết kể cho lũ làng nghe về cuộc đời Tnú khiến chúng ta không khỏi bàng hoàng trước nỗi đau quá lớn mà anh phải chịu. Chuyện bắt đầu từ khi anh Quyết hy sinh Tnú trở thành đội trưởng đội du kích làng Xô man, sức ảnh hưởng của anh đến phong trào cách mạng khiến bọn chúng phải khiếp sợ, chúng đưa quân về bao vây làng nhằm tiêu diệt phong trào nổi dậy. Để truy tìm Tnú chúng đã dùng đến hành vi hèn hạ dã man:” bắt được con cọp cái và cọp con tất dụ được con cọp đực trở về”. Vì thế vợ con anh bị bắt và tra tấn bằng gậy sắt, làm cho người sản phụ mới sinh và đứa con chưa đầy tháng tuổi phải chết gục.
Đau đớn thay tất cả sự việc kia đều diễn ra ngay trước mặt Tnú, anh đúng gần đó và chứng kiến:” anh nấp sau gốc cây vả, tay dứt hàng 10 quả vả mà không hay”. Chứng kiến cảnh vợ con bị đánh cho tới chết, nhưng anh không thể ra bởi nếu anh bị bắt sẽ ảnh hưởng đến cách mạng. Nhưng khi chứng kiến đứa con thét lên một tiếng và chết trong tay mẹ trong anh lúc này chỉ còn lòng hận thù và đau đớn. Nỗi đau ấy đã khiến mắt anh thành:” hai cục lửa lớn”, bởi nỗi đau và lòng căm thù. Anh thét lên dữ dội và lao vào lũ giặc để cứu vợ con.
Nhưng anh cứu làm sao nổi vì anh chỉ có hai bàn tay không.”ừ Tnú không cứu được mẹ con Mai” tác giả đã lặp đi lặp lại câu của cụ Mết về nỗi đau của anh như một điệp khúc đau thương đầy ám ảnh day dứt. Tnu không cứu được vợ con cũng không bảo vệ được chính bản thân mình anh đã bị giặc bắt, chúng dùng nhựa xà nu tẩm vào giẻ:” quấn vào 10 đầu ngón tay của Tnú”, “ một ngón tay Tnú bốc cháy, 2 ngón, 3 ngón. Không có gì đượm bằng nhựa xà nu lửa bắt rất nhanh.
Mười ngón tay đã trở thành 10 ngọn đuốc”. Đây là một hình ảnh vô cùng sáng tạo không dễ sinh ra hai lần trong một cuộc đời viết văn. Hình ảnh bàn tay Tnú bốc cháy tố cáo tội ác dã man của quân giặc, chúng thâm hiểm độc ác đã đốt và mười đầu dây thần kinh nhạy bén của con người. Lửa cháy trên 10 đầu ngón tay của anh lại là nhựa xà nu- thư nhựa xà nu ngọt ngào như đọng nắng quê hương đã trở thành ngọn lửa hủy diệt chính đôi bàn tay đã từng chăm sóc nó. Đồng thời hình ảnh này cũng cho bạn đọc thấy được lòng gan trường dũng cảm của Tnú đối với cách mạng.
Lửa có thể cháy trên 10 đầu ngón tay, nhưng không thể thiêu cháy được ý chí căm thù giặc của Tnú. Anh đang bị cháy ở 10 đầu ngón tay, nhưng:” anh nghe như đang cháy trong lồng ngực, cháy trong bụng”. Mà đau đớn đến mức răng anh cắn nát môi anh. Với bản lĩnh kiên cường bất khuất của người cộng sản, anh không thèm kêu, anh nhớ lời của anh Quyết:” người cộng sản không thèm kêu van”. Anh ngã xuống rồi ngất đi, thét lên tiếng thét căm hờn của núi rừng “giết”.
Vậy là qua bi kịch của Tnú và cả gia đình, nhà văn Nguyễn Trung Thành muốn nêu cho chúng ta đâu là nguyên nhân của những bi kịch ấy: anh đã có tất cả tình yêu của gia đình, tình yêu đất nước, lòng căm thù quân giặc, tinh thần bất khuất kiên cường nhưng tại sao anh lại thất bại? Tác giả đã để cho lịch sử phán truyền qua lời cụ Mết:” Tnú không cứu được mẹ con Mai vì mày chỉ có hai bàn tay trắng” dù có thương Tnú đến đâu thì cụ Mết và dân làng Xô man cũng không thể cứu anh:” tau không nhảy ra cứu mày vì tao cũng chỉ có hai bàn tay không”.
Và từ đó nhà văn cho thấy hậu quả sẽ như thế nào khi kẻ thù đã cầm súng mà mình chưa cầm giáo? Câu chuyện về cuộc đời Tnú chỉ có một mình tay không xông vào giữa kẻ thù thì ngay cả thứ nhựa xà nu thân thiết cũng có thể trở thành ngọn lửa hủy diệt. Cuộc đời Tnú là bằng chứng sống cho quy luật nghiệt ngã đó. Và từ đó cụ Mết cũng ghi tạc chân lí:” chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”. Sau tiếng thét của Tnú đầy căm hờn là tiếng nói của cụ Mết như sấm dậy vang truyền cả núi rừng:”chém, chém hết…thế là bắt đầu rồi.
Đốt lửa lên”. Đó là quy luật tất yếu của lịch sử” có áp bức phải có đấu tranh”. Bằng hình tượng nghệ thuật của mình nhà văn đã cho ta thấy khi chúng ta cầm giáo mác để đứng lên chống lại kẻ thù là súng đạn sẽ phải thay đổi. Lúc này ngọn lửa đã tắt trên 10 đầu ngón tay của Tnú. Những ngọn đuốc xà nu soi xác 10 thằng giặc nằm ngổn ngang và Tnú được cứu sống. Những thằng giặc gian ác cũng phải trả giá bằng tính mạng của mình.
Khi xây dựng hình tượng nhân vật Tnú, nhà văn Nguyễn Trung Thành đã đặc biệt thành công khi đưa chi tiết bàn tay Tnú để làm lên hình tượng nhân vật. Đây là một chi tiết nhỏ nhưng lại có ý nghĩa tư tưởng lớn lao. Từ hình ảnh này ta thấy hiện lên cuộc đời và tính cách của nhân vật. Bàn tay của Tnú khi còn lành lặn là bàn tay trung thực tình nghĩa, bàn tay cầm phấn viết chữ mà anh Quyết dạy cho, bàn tay cầm đá đập vào đầu để trừng phạt thói hay quên khi học, bàn tay đặt lên bụng và nói” cộng sản ở đây này”, nó còn là bàn tay lao động và gây dựng phong trào cách mạng.
Lúc Tnú thoát ngục Kon Tum trở về gặp Mai ở đầu rừng núi vào làng, Mai cầm hai bàn tay Tnú mà giàn giụa nước mắt. Đó là bàn tay của sự yêu thương của tình yêu với những kỉ niệm chân tình. Không chỉ vậy bàn tay ấy đã cầm súng đi bắn giặc, bàn tay chở che cho mẹ con Mai, bàn tay lên núi Ngọc Linh lấy đá. Vẫn hai bàn tay ấy nhưng bị quấn giẻ tẩm nhựa xà nu rồi đốt. Mười ngón tay trở thành mười ngọn đuốc, đã thiêu đốt gan ruột và hệ thần kinh của anh. Mười ngọn đuốc trên mười ngón tay ấy đã châm bùng ngọn lửa cách mạng, ngọn lửa nổi dậy của dân làng Xôman.
Bàn tay của Tnú đã được dập lửa nhưng mỗi ngón chỉ còn hai đốt, ngón tay anh không thể mọc lại. Bàn tay cụt đó như chứng tích đầy căm hờn mà Tnú mang theo suốt cuộc đời, ghi lại những tội ác tàn bạo dã man của kẻ thù. Nhưng bàn tay mỗi ngón còn hai đốt ấy vẫn cầm giáo cầm súng được và Tnú đã lên đường đi tìm những thằng Dục để trả thù. Đế cuối chuyện bàn tay Tnú lại một lần nữa xuất hiện, dùng đôi bàn tay cụt đốt ấy anh đã bóp chết tên chỉ huy đồn địch ngay trong hầm ngầm cố thủ của nó. Soi ánh đèn pin vào mặt nó để nó nhìn rõ đôi bàn tay trừng phạt của anh, đôi bàn tay quả báo. Mặc dù còn hai đốt nhưng đôi bàn tay ấy đã đem lại chiến thắng.
Tác phẩm” Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành đã thành công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật. Trong tác phẩm sử dụng bút pháp sử thi một cách nhuần nhuyễn mang ý nghĩa biểu tượng cho cộng đồng, sức mạnh, vẻ đẹp và những đau thương mất mát của con người Tây Nguyên “sau này tau chết rồi phải kể cho con cháu về Tnú”. Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật nói ít nhưng bộc lộ một cách trực tiếp thẳng thắn. Những hành động trong chuyện thì quyết liệt mạnh mẽ và dứt khoát. Tnú hiện lên qua lời kể của cụ Mết bên cạnh bếp lửa, nó cho ta thấy vẻ đẹp của anh hùng thoại dũng sĩ thời xưa.
Bằng ngòi bút tinh tế và cái nhìn nhạy cảm Nguyễn Trung Thành đã khắc họa thành công nhân vật Tnú vừa mang vẻ đẹp trữ tình và những tư tưởng của tác giả muốn gửi gắm. Không những vậy vẻ đẹp của Tnú còn có tính sử thi và thời đại lúc bấy giờ. Qua nhân vật này tác giả đã thể hiện được thông điệp mang tính cá nhân và cộng đồng.
Phân tích nhân vật Tnú ngắn gọn – Mẫu 2
Nguyễn Trung Thành là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Ông là nhà văn có công đưa mảnh đất Tây Nguyên hoang sơ đến với văn học hiện đại Việt Nam. Truyện ngắn Rừng xà nu là tác phẩm tiêu biểu của ông. Tác phẩm đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tnú, người con kết tinh mọi vẻ đẹp của nhân dân Tây Nguyên trên nền tập thể nhân dân anh hùng và hình tượng rừng xà nu hùng vĩ trong những ngày kháng chiến chống Mĩ gay go, ác liệt.
Rừng xà nu (1965) ra mắt lần đầu tiên trên Tạp chí văn nghệ quân giải phóng miền Trung Trung bộ (số 2- 1965), sau đó được in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, đất nước chia làm hai miền. Kẻ thù phá hoại hiệp định, khủng bố, thảm sát, lê máy chém đi khắp miền Nam. Cách mạng rơi vào thời kì đen tối. Đầu năm 1965, Mĩ đổ quân ồ ạt vào miền Nam và tiến hành đánh phá ác liệt ra miền Bắc. Rừng xà nu được viết vào đúng thời điểm mà cả nước ta trong không khí sục sôi đánh Mĩ. Tác phẩm được hoàn thành ở khu căn cứ của chiến trường miền Trung Trung bộ.Thông qua câu chuyện về những con người anh hùng ở một buôn làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa lớn lao của dân tộc và thời đại: Để cho sự sống của đất nước và nhân dân mãi mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí đứng chống lại kẻ thù tàn ác.
Tnú là nhân vật trung tâm của tác phẩm. Câu chuyện về cuộc đời anh là câu chuyện được sử thi hóa qua lời kể của cụ Mết.Cuộc đời Tnú gắn liền với cuộc đời làng Xô Man. Âm hưởng sử thi chi phối tác giả trong khi xây dựng nhân vật này. Tác giả xuất phát từ vấn đề cộng đồng để phản ánh đời tư của Tnú.Tnú được xây dựng như hình tượng một nhân vật mang tính lí tưởng. Nhà văn lấy nguyên mẫu từ anh Đề, người dân tộc Xơ-đăng, ỏ Tây Nguyên. Năm 1959, anh Đề đã cùng mười chàng trai trong bản giết toàn bộ một tiểu đội lính Diệm và bắt đầu cuộc chiến đấu vũ trang.
Tnú là con của dân làng Xô Man. Dân làng Xô Man nuôi dưỡng, đùm bọc anh, cưu mang anh. “Nó là người Sa Trá mình, cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Chính tình thương yêu của đồng bào đã đem lại cho anh niềm tin yêu cuộc sống, tin vào chính mình, gắn bó sâu sắc với bản làng quê hương, với những gì thân thuộc như tiếng chày giã gạo của những cô gái, con nước mát lạnh đầu bản, những cụ già, những em nhỏ,… sau ba năm đi lực lượng, được về thăm làng, Tnú thấy bồi hồi, xúc động trước cảnh vật thân thuộc quê hương.
Ngay từ nhỏ anh đã là người gan dạ, dám đi tiếp tế lương thực cho cán bộ, làm liên lạc cho cán bộ từ xã lên huyện. Và cũng từ đấy Tnú bộc lộ một trí tuệ hơn người. “Nó không thích lội nước chỗ êm cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi, vượt lên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như con cá kình” bởi theo Tnú “Qua chỗ nước êm tháng Mĩ – Diệm hay phục, qua chỗ nước mạnh nó không ngờ”. Giặc vây các ngả đường thì Tnú leo lên một cây cao, nhìn quanh một lượt rồi xé rừng mà di, lọt qua tất cả các vòng vây. Tnú nghe theo anh Quyết, cố học chữ để sau này thay anh lãnh đạo cách mạng. Quyết tâm học chữ của Tnú thể hiện dứt khoát trong hành động tự đạp hòn đá vào đầu, máu chảy ròng ròng khi cậu thua Mai trong việc nhớ những con chữ. Tnú từ nhỏ đã tâm niệm trong đầu câu nói của cụ Mết: Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn.
Tnú là hiện thân của sự trung thành tuyệt đối với cách mạng, với Đảng, là hiện thân của sự khỏe mạnh với bộ ngực rộng rãi, hai cánh tay khỏe chắc như lim, là sự bất khuất kiên cường đã được thử thách qua tra tấn dã man và sự tù đày của kẻ thù. Tnú cường tráng như một cây xà nu lớn. Tnú không hề biết sợ hãi, không hề biết khuất phục dù tàn bạo có hiện hình trong mũi súng hay lưỡi dao chém ngang dọc trên lưng. Trong một lần chuyển thư của anh Quyết gửi về huyện, Tnú bị giặc bắt. Họng súng chĩa vào tai lạnh ngắt, Tnú kịp nuốt luôn cái thư. Giặc giam cầm, tra khảo Tnú dã man, lưng Tnú dọc ngang vết dao chém nhưng anh quyết không khai một lời. Anh tìm cách vượt ngục về làng và tiếp tục sự nghiệp lãnh đạo dân làng chuẩn bị chiến đấu. Sức mạnh của anh dường như tăng thêm bởi sự hun đúc của một tình yêu lớn với một người con gái luôn luôn hiền dịu, nhượng nhìn, của một gia đình hạnh phúc cùng Mai và đứa con nhỏ.
Vậy mà bằng ấy cái có, Tnú đã không cứu được mẹ con Mai khỏi bị kẻ thù giết hại. Cuộc đời Tnú gắn liền với những đau thương mà không chỉ riêng anh gánh chịu. Cái đau đớn mang trên thân xác Tnú là hiện hữu cái đau thương của dân làng Xô Man trong chiến tranh Mái ấm gia đình từng là mơ ước của biết bao đôi thanh niên ấy bỗng chốc tan nát bởi sự tàn ác của kẻ thù. Mai và con anh bị kẻ thù giết chết ngay trước mắt anh. Tnú không cứu được vợ, được con, đau đớn hơn chính bản thân anh cũng trở thành nạn nhân của sự bạo tàn mà kẻ thù đang sử dụng. Vì Tnú cũng chỉ có tay không giữa quân thù đầy vũ khí. Hình ảnh mười đầu ngón tay rừng rực cháy bởi nhựa xà nu như mười ngọn đuốc không chỉ có ý nghĩa tố cáo tội ác quân thù hay nói lên lòng dũng cảm của người chiến sĩ cách mạng mà còn nói lên một chân lí sâu sắc và tàn nhẫn : khi một Tnú có ý chí mà tay không thì ngay thứ nhựa xà nu thân thiết cái khối chất thơm ngào ngạt và như đọng nắng quê hương kia cũng có thể trở thành ngọn lửa hủy diệt chính những bàn tay vẫn hằng ngày chăm sóc, vun trồng cho nương rẫy.
Tnú không cứu được mẹ con Mai. Không thể chiến đấu với quân thù bằng tay không và lòng căm thù mù quáng. Nhưng Tnú không chìm đắm trong đau thương mất mát, anh biết vượt qua nỗi đau ấy, biến đau thương thành căm hơn và tôi luyện ý chí chiến đấu. Bị giặc bắt sau khi Mai chết, Tnú không nghĩ đến bản thân mà chỉ lo lắng đến việc ai sẽ tiếp tục lãnh đạo dân làng kháng chiến khi Đảng phát lệnh. Chỉ còn cách cầm vũ khí, lúc đó lửa xà nu sẽ tắt trên bàn tay của Tnú. Lửa xà nu chỉ còn soi xác giặc ngổn ngang. Núi rừng Xô Man sẽ ào ào rung động. “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo…”. Đó là một chân lí lớn của cách mạng miền Nam: phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng.
Sau khi được cụ Mết và thanh niên giải thoát bằng chính giáo mác anh và buôn làng mài, Tnú gia nhập lực lượng chính quy. Và có lẽ việc Tnú đi lực lượng cũng bắt nguồn từ lí tưởng đó. Anh đi lực lượng để hiện thực hóa việc “cầm giáo” mà cụ Mết truyền dạy và cũng để có điều kiện chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược. Ra đi để trả thù nước, rửa thù nhà. Dù bàn tay anh mỗi ngón chỉ còn hai đốt, nhưng cử động được có nghĩa là cầm súng được. Anh đi bộ đội, trở thành tấm gương lớn soi sáng cả một thế hệ ở làng Xô Man. Đối với dân làng, Tnú là một biểu tượng cho sức mạnh, niềm tin và ý chí. Bên cạnh cụ Mết, người cha tinh thần, Tnú là hiện thân của những khát vọng vươn lên. Mỗi một việc làm của anh đều đem lại sự nhận thức cho mọi lứa tuổi. Anh về thăm quê, cấp trên cho chỉ có một đêm, mặc dù nhớ làng bản, nhớ người thân nhưng anh vẫn vui vẻ bởi có chấp hành nghiêm túc nội qui quân đội mới là Tnú. Chính những lúc vui vẻ nhất, anh định đùa nhưng những ánh mắt chờ đợi của mọi người anh lại thôi. Bởi ở anh một lời nói, một hành động đều có thể để lại một tầm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống và tinh thần của người dân Xô Man.
Khi xây dựng nhân vật Tnú, Nguyễn Trung Thành đặc biệt dụng công miêu tả đôi bàn tay của anh. Từ đôi bàn tay này, người đọc có thể thấy hiện lên không những cả cuộc đời mà cả những tính cách của nhân vật. Khi còn lành lặn, bàn tay Tnú là bàn tay nghĩa tình, thẳng thắn. Đấy là bàn tay cầm phấn học chữ do cán bộ dạy, bàn tay cầm đá ghè vào đầu để trừng phạt cái tội không nhớ mặt chữ, bàn tay đặt lên bụng để chỉ cộng sản ở đây… Tuy vậy ấn tượng mạnh nhất về đôi bàn tay của Tnú chính là đoạn cao trào của truyện, cũng là đoạn đời bi tráng nhất của nhân vật. Giặc quấn giẻ tẩm dầu xà nu vào mười đầu ngón tay và đốt. “Mười ngón tay anh đã trở thành mười ngọn đuốc”, thiêu cháy cả ruột gan Tnú, anh “nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở trong bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi”. Chứng kiến cảnh kẻ thù dã man đốt hai bàn tay của Tnú, dân làng Xô Man không thể kiềm chế được nữa đã bột phát vùng lên tiêu diệt lũ giặc, mở ra tràn sử đấu tranh mới của dân làng. Từ đây bàn tay của Tnú thành tật nguyền, mỗi ngón chỉ còn hai đốt và như một chứng tích về tội ác của kẻ thù mà Tnú mang theo suốt đời. Đến cuối tác phẩm, bàn tay tật nguyền đấy vẫn tiếp tục cầm súng giết giặc, vẫn có thể giết chết tên chỉ huy đồn địch dù nó cố thủ trong hầm.Như vậy, có thể nói bàn tay Tnú được miêu tả trải dài theo suốt cả câu chuyện. Dường như mọi nét tính cách cũng như số phận và chiến công của Tnú đều gắn liền với hình ảnh hai bàn tay ấy.
Cũng như nhiều nhân vật văn học thời chống Mĩ, Tnú được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn, giàu chất lí tưởng, là kết tinh vẻ đẹp anh hùng của người dân Tây Nguyên. Qua nhân vật này Nguyễn Trung Thành muốn thể hiện một số phận nhất là con đường của nhân dân Tây Nguyên, nhân dân Miền Nam trong quá trình đấu tranh giải phóng: cần phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng.
Phân tích nhân vật Tnú – Mẫu 3
“Rừng Xà Nu” của Nguyễn Trung Thành được xem là một bản anh hùng ca về cuộc đấu tranh hết sức anh dũng của đồng bào Tây Nguyên trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Mỗi một nhân vật được tác giả khai thác một nét đẹp riêng, tiêu biểu cho cốt cách, linh hồn của Tây Nguyên- mảnh đất anh hùng. Trong đó, nổi bật nhất là xây dựng nhân vật Tnú. Cùng phân tích nhân vật Tnú trong truyện “Rừng Xà Nu” để thấy giá trị mà tác giả muốn gửi gắm.
Nhân vật Tnú ngay từ nhỏ đã là một cậu bé thông minh, lanh lợi và hết sức gan dạ. Cậu mồ côi cha mẹ từ nhỏ, nên được dân làng Xô Man đùm bọc, nuôi dạy khôn lớn. Hình ảnh Tnú – người con đầy nghĩa tình với dân làng Xô Man. Chàng trai này đã chứng kiến rất nhiều cảnh đau thương của dân làng nơi đây. Chỉ vì nuôi giấu cán bộ cách mạng mà: “Giặc treo cổ anh Sút lên cây vả đầu làng, chúng giết bà Nhan chặt đầu, cột tóc treo đầu súng”.
Cậu bé Tnú chỉ mới 10 tuổi mà phải thay người lớn vào rừng để tiếp tế cho cán bộ, Tnú đến với cách mạng như một lẽ tự nhiên. Cậu nhớ như in lời cụ Mết nói: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn thì núi nước này còn”. Chi tiết khi đi liên lạc, anh không đi đường mòn mà “cứ xé rừng mà đi lọt qua tất cả các ổ phục kích của giặc. Khi qua sông, Tnú không thích qua chỗ nước êm, cứ chọn chỗ thác mạnh mà bơi ngang, cưỡi trên thác băng băng như một con cá kình” đã đủ thấy bản lĩnh gan dạ của Tnú. Khi làm nhiệm vụ cách mạng, trong 1 lần đi liên lạc không may anh bị giặt bắt giam cầm 3 năm. Trong khoảng thời gian này, mặc dù bị địch tra tấn dã man, thế nhưng Tnú vẫn kiên quyết không khai nửa lời. Để tránh lộ bí mật, khi bị địch bắt giam anh đã nhanh trí nuốt luôn cả lá thư vào bụng rồi chỉ tay lên bụng mình mà nói “cộng sản ở đây này”, thực sự hành động này vô cùng gan dạ và trung thành với cách mạng.
Qua những chi tiết trên, chúng ta thấy rằng: Một Tnú với tâm hồn lớn bên trong cái vẻ ngoài bình thường. Cậu là một con người dũng sĩ với các khí chất, tính cách vốn có của con người Tây Nguyên. Hình ảnh nhân vật Tnú tự như những cây xà nu của núi rừng, cho dù giữa bom đạn nhưng vẫn hiên ngang.
Sau 3 năm, Tnú vượt ngục trở về , lúc này Tnú trưởng thành hơn, những phẩm chất trong con người anh hùng Tnú ngày càng được bộc lộ rõ. Vượt ngục trở về buôn làng, anh chọn người bạn đã từng gắn bó với tuổi thơ của mình để làm vợ. Cứ ngỡ rằng sẽ hạnh phúc với thứ tình yêu mãnh liệt ấy, nhưng không bọn địch dã man đã tàn nhẫn vùi lấp đi hạnh phúc. Bởi, chúng tìm đến bắt vợ, con anh anh để khiến anh phải ra mặt.
Cảm giác chứng kiến cảnh bọn địch đã tra tấn người thân, Tnú đau khổ vô cùng. Lúc mẹ con Mai chết, lòng anh như thắt lại. Có thể thấy rằng, với anh chẳng còn điều gì mất mát, đau đớn hơn là cái chết đến với những người mà mình yêu thương nhất. Điều này thể hiện rõ qua chi tiết: “Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay… Chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn“. Hình ảnh nhân vật Tnú – vừa là người chồng, người cha hết mực yêu thương vợ con.
Chính nỗi đắng cay này đã hóa thành nỗi căm phẫn, chưa dừng lại ở đó. Bọn giặc còn bắt anh hành hạ, dùng dây thừng trói người lại. Sau đó, chúng tẩm nhựa xà xu lên để đốt cháy mười đầu ngón tay anh. Chi tiết này được Nguyễn Trung Thành diễn đạt hết sức nhói lòng: “không cảm thấy cháy ở mười đầu ngón tay mà nghe lửa cháy ở trong lòng ngực, ở bụng“. Mười ngón tay của anh cháy rực như mười ngọn đuốc, đau đớn vậy đấy, nhưng anh chỉ thấy nhói đau trong lòng. Chính sự căm phẫn này đã khiến anh dồn lên trong tiếng hét thét “giết”. Tiếng hét này tựa như một lời hiệu triệu tất cả nhân dân phải đứng lên hành động, phải giết chết hết lũ giặc bạo tàn kia. Chi tiết : “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo“đã thể hiện điều này rất rõ. Đúng vậy, không thể nào để yên cho một lũ ngang ngược hoành hành trên đất của buôn làng, chốn yên bình của núi rừng bạt ngàn, trù phú.
Mặc dù nỗi đau trào dâng lên trong người, tuy nhiên hình ảnh nhân vật Tnú mà Nguyễn Trung Thành xây dựng không kêu van “người cộng sản không hề kêu van”,cho đến chi tiết “trợn mắt nhìn thằng Dục”, …. Với tinh thần quyết chiến quyết thắng, nén nỗi đau lại để đứng lên đánh giặc.
Qua hình tượng nhân vật Tnú ta thấy được tác giả xây dựng nhân vật bằng bút pháp sử thi, với ngôn ngữ kể chuyện đậm màu sắc Tây Nguyên, dùng nhiều chi tiết có giá trị biểu tượng như đôi bàn tay Tnú, cùng với đó là nghệ thuật trần thuật điểm nhìn từ nhân vật cụ Mết, cho đến ngôn ngữ của nhân vật có tính cá thể hóa, từ đó thể hiện được khẩu khí của những người anh hùng. Xét thấy theo hình ảnh nhân vật Tnú trong “Rừng Xà Nu”, tác giả đã xây dựng được một Tnú “hào kiệt”. Tnú đại diện cho tinh thần “vì nước quên mình, thà chết chứ không chịu khuất phục” và truyền thống này được gìn giữ mãi.
Phân tích nhân vật Tnú – Mẫu 4
Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành là một bản anh hùng ca về cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào Tây Nguyên trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Tác phẩm đã thể hiện sự trưởng thành của một thế hệ cách mạng trẻ trung, mưu trí. Kiên cường, mỗi nhân vật mang một vẻ đẹp riêng tiêu biểu cho cốt cách, linh hồn của mảnh đất Tây Nguyên anh hùng. Nổi bật nhất là nhân vật Tnú, nhân vật trung tâm của tác phẩm.
Ngay từ nhỏ Tnú đã là cậu bé thông minh, lanh lợi, gan dạ. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, Tnú được dân làng Xô Man đùm bọc, nuôi dạy lớn khôn. Tnú đã chứng kiến bao cảnh đau thương của dân làng Xô Man: “Giặc treo cổ anh Sút lên cây vả đầu làng, chúng giết bà Nhan chặt đầu, cột tóc treo đầu súng” chỉ vì họ đã dám nuôi giấu cán bộ cách mạng. Tnú đến với cách mạng như một lẽ sống tự nhiên.
Mới 10 tuổi, Tnú đã thay người lớn vào rừng tiếp tế cho cán bộ. Tnú nhớ như in lời cụ Mết: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn thì núi nước này còn”. Khi đi liên lạc, Tnú không đi đường mòn, “cứ xé rừng mà đi lọt qua tất cả các ổ phục kích của giặc. Khi qua sông, Tnú không thích qua chỗ nước êm, cứ chọn chỗ thác mạnh mà bơi ngang, cưỡi trên thác băng băng như một con cá kình”. Trong một lần đi liên lạc, không may Tnú bị giặc bắt giam cầm 3 năm, bị tra tấn dã man song vẫn cương quyết không khai nửa lời.
Khi trốn thoát khỏi ngục trở về với dân làng, Tnú đã trở thành một cán bộ cách mạng, trưởng thành về mọi mặt. Anh trở thành người lãnh đạo của dân làng Xô man. Cùng với dân làng Tnú chuẩn bị giáo mác cho cuộc chiến đấu sắp tới. Tnú cũng gặp lại Mai – cô bạn gái năm xưa cùng đi liên lạc, đi tiếp tế cho cán bộ nay trở thành bạn đời của anh.
Tnú đã phải chịu đựng và vượt qua một bi kịch lớn về tình cảm. Bọn giặc kéo đến làng Xô man lùng bắt Tnú nhưng không được. Chúng bắt Mai và đứa con vừa đầy tháng tuổi ra tra tấn. Bọn giặc dùng một cây sắt tra tấn mẹ con Mai: “ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”.
Tnú đã không kìm nén được lòng mình, anh chồm lên xông vào bọn giặc với một tiếng thét dữ dội. Nhưng Tnú không cứu được mẹ con Mai, không bảo vệ được tình yêu và giọt máu của mình bởi anh chỉ có hai bàn tay trắng. Cả vợ và con đã bị giặc giết hại, Tnú đã phải chịu đựng nỗi đau mất mát lớn lao.
Tnú đã phải chịu đựng và vượt qua sự tra tấn tàn bạo của kẻ thù. Bọn giặc đã quấn giẻ tẩm dầu xà nu đốt 10 ngón tay Tnú để dập tắt cái “mộng cầm giáo mác” của dân làng Xô man. Trong cuộc đối đầu quyết liệt này, phẩm chất kiên cường của Tnú càng tỏa sáng hơn bao giờ hết. “Mười ngón tay anh cháy như 10 ngọn đuốc. Lửa như cháy trong lồng ngực. Máu mặn chát ở đầu lưỡi. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi”.
Nhưng Tnú vẫn không kêu một tiếng “Người Cộng sản không thèm kêu van”. Tnú mở mắt nhìn vào kẻ thù trừng trừng đầy căm hận. Hình ảnh 10 ngón tay Tnú rừng rực cháy như 10 ngọn đuốc đã trở thành biểu tượng của một nỗi đau thương và tinh thần bất khuất của con người và mảnh đất Tây Nguyên anh hùng. Mười ngọn đuốc từ tay Tnú đã châm bùng lên ngọn lửa nổi dậy đấu tranh của dân làng Xô man.
Tnú thét lên một tiếng, chỉ một tiếng thôi nhưng đã vang dội thành nhiều tiếng thét rung chuyển cả núi rừng. Cả làng Xô man đã đứng dậy. “Cả rừng Xô man ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng”. Đau thương và căm thù đã chuyển hóa thành sức mạnh quật cường như một quy luật tất yếu “chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”. Tnú trở thành một anh bộ đội của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam.
Lửa xà nu đã tắt trên 10 đầu ngón tay Tnú. Tay anh mỗi ngón chỉ còn hai đốt như một chứng tích đầy căm hận mà anh mang theo suốt đời. Nhưng “tay còn hai đốt vẫn bắn súng được”. Tnú đi bộ đội lực lượng tham gia chiến đấu. Chính bàn tay có những ngón chỉ “còn hai đốt” ấy sau này đã bóp cổ thằng Dục (thằng ác ôn đã giết mẹ con Mai).
Trong ánh đèn soi vào mặt thằng Dục, Tnú đã cho nó nhìn rõ bàn tay trừng phạt. Đối với anh bây giờ “bọn giặc đứa nào cũng là thằng Dục” bởi mối thù riêng của anh đã hòa vào mối thù chung của Tây Nguyên, của đất nước. Đó cũng là sự trưởng thành về nhận thức mà Tnú đã rút ra được từ nhiều nỗi đau của gia đình, của quê hương trong cuộc chiến khốc liệt này.
Tnú còn là một người có tính kỉ luật rất cao và giàu tình yêu thương. Trong ba năm đi lực lượng vũ trang, xa làng Xô Man, nỗi nhớ về quê hương day dứt trong lòng anh. Nhưng phải được cấp trên cho phép Tnú mới về thăm làng và chỉ được về đúng một đêm. Con người kiên nghị, gan góc, không biết run sợ, khuất phục trước bạo tàn cũng lại là con người rất giàu tình cảm.
Phân tích nhân vật Tnú – Mẫu 5
Nguyễn Trung Thành hay còn có bút danh là Nguyên Ngọc là một trong những nhà thơ nổi tiếng trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ, không chỉ sáng tác văn chương phục vụ cách mạng mà ông còn trực tiếp tham gia chiến đấu ở chiến trường miền Nam, đặc biệt là những năm giặc Mỹ bắn phá ác liệt nhất. Quá trình sống và chiến đấu nhiều năm trên mảnh đất Tây Nguyên đầy nắng và gió, gắn bó cùng với những con người nơi đây đã để lại trong trái tim tác giả nhiều ấn tượng sâu sắc. Điều đó trở thành tiền đề giúp tác giả viết nên nhiều tác phẩm xuất sắc về đề tài “chiến tranh cách mạng – lực lượng vũ trang” dựa trên hình tượng chiến trường Tây Nguyên đầy máu, lửa cùng những người con anh hùng, mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Trong tác phẩm nổi tiếng và xuất sắc nhất của mình – Rừng xà nu, Nguyễn Trung Thành xung quanh việc khắc họa hình ảnh dân làng Xô-man đánh Mỹ và hình tượng cây xà nu kiên cường giữa mưa bom bão đạn, thì nhân vật Tnú chính là điểm sáng rực rỡ mà tác giả tập trung khai thác, khắc họa thông qua nhiều hình thức khác nhau, để làm nổi bật nên những phẩm chất anh hùng của con người Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đầy gian khổ.
Trong Rừng xà nu nhân vật Tnú hiện lên với đầy đủ những phẩm chất và vẻ đẹp của một người anh hùng theo khuynh hướng sử thi, là hình tượng chung, vẻ đẹp tinh thần chung mà cả cộng đồng dân tộc đều hướng tới. Tính sử thi trước hết là bắt nguồn từ lai lịch và số phận của Tnú, anh từ nhỏ đã là đứa trẻ mồ côi, được sống và lớn lên trong vòng tay bảo bọc, nâng đỡ của dân làng Xô Man, một ngôi làng có truyền thống đánh giặc bất khuất từ bao đời nay. Chính vì thế bản thân Tnú từ khi còn đỏ hỏn cho đến khi trưởng thành đều được thừa hưởng từ cái nôi truyền thống nhiều phẩm chất tốt đẹp và trở thành một con người mang vẻ đẹp kết tinh của cộng đồng, mà theo lời cụ Mết nói: “Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Tuy nhiên việc thiếu tình thương của cha mẹ từ nhỏ mới chỉ là một trong những mất mát nhỏ của Tnú, những ký ức đau thương của nhân vật này chủ yếu tập trung vào giai đoạn trưởng thành. Khi lớn lên Tnú yêu và lấy Mai, cô bạn cùng chơi từ thuở tấm bé về làm vợ, những tưởng hai người sẽ có cuộc sống hạnh phúc cùng đứa con mới chào đời, thì tai họa ập đến. Tnú làm cách mạng, trốn trên rừng, giặc bắt Mai và con anh làm mồi nhử, chúng tra tấn hành hạ dã man hai mẹ con đến chết. Tnú không thể cứu kịp vợ, phải tận mắt chứng kiến cái chết thương tâm của người vợ trẻ và đứa con chưa đầy tháng, nó trở thành đả kích và nỗi đau không thể nào nguôi trong lòng người anh hùng này. Không chỉ vậy, sau khi mất vợ, mất con, bi kịch vẫn không buông tha cho Tnú, anh bị giặc bắt, tra tấn, dùng nhựa xà nu đốt cháy mười đầu ngón tay của anh, khiến anh mất đi đôi bàn tay khỏe mạnh, đủ đầy. Như vậy có thể thấy rằng trong một khoảng thời gian ngắn nhân vật này đã phải nhận cả hai nỗi đau mạnh mẽ đả kích cả thể xác lẫn tâm hồn. Đó là số phận bi thương và bất hạnh, đồng thời cũng là những thử thách để giúp Tnú trưởng thành trong sự nghiệp cách mạng, cũng như củng cố và làm sáng rõ hơn lý tưởng chiến đấu và hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bởi lẽ giờ đây trên vai người anh hùng không chỉ mang mối nợ nước, nợ quê hương mà hơn cả đó còn là mối thù nhà sâu sắc, mối thù của cá nhân, nó trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy người anh hùng hoàn thiện bản thân và kiên cường hơn trong công cuộc đấu tranh chống giặc thù.
Bên cạnh những ấn tượng về lai lịch và số phận đầy đau thương thì nhân vật Tnú còn hiện lên với những phẩm chất, tính cách vô cùng tốt đẹp. Đầu tiên đó là tinh thần dũng cảm, lòng gan dạ, sự nhanh nhẹn, nhạy bén, không sợ hy sinh và tinh thần giác ngộ cách mạng sớm. Điều đó bộc lộ ra ngay từ những ngày Tnú còn là một cậu bé, khi các thanh niên trong làng tham gia chống Mỹ bị giặc lùng bắt phải ẩn nấp trong rừng, anh Xút đi nuôi cán bộ bị chúng giết treo cổ trên cây vả, bà Nhan bị chặt đầu cột tóc treo súng ở đầu làng. Thanh niên và người già không thể đi, thì Tnú cùng Mai đã trở thành những chiến sĩ nhỏ tuổi xung phong làm nhiệm vụ nuôi giấu cán bộ, khi được anh Quyết hỏi có sợ bị bắn không, Tnú rất khảng khái nhắc lại đúng lời cụ Mết rằng: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn núi nước này còn!”, thể hiện tấm lòng kiên trung, sớm giác ngộ cách mạng từ những ngày còn thơ bé của Tnú. Không chỉ vậy sự giác ngộ cách mạng của Tnú còn thể hiện ở việc anh quyết tâm học chữ cho thật giỏi để làm cách mạng, có lần vì không nhớ nổi chữ mà Tnú đập vỡ bảng, thậm chí lấy đá đập vào đầu đến chảy máu. Trong việc đi liên lạc, Tnú cũng thể hiện là một người gan dạ và mưu trí khi “Không bao giờ đi đường mòn…leo lên cây cao nhìn quanh một lượt rồi mới xé rừng mà đi, lọt tất cả các vòng vây”, rồi qua sông không chọn chỗ nước êm mà cứ chọn chỗ thác mạnh mà bơi ngang, “cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình” để tránh khỏi tầm mắt của lũ giặc. Khi bị giặc bắt, Tnú nhanh trí nuốt luôn cả thư để tránh là lộ bí mật cách mạng, khi bị bắt giam Tnú cũng tìm cách vượt ngục để trở về buôn làng.
Vẻ đẹp thứ hai của Tnú chính là tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng, sự căm thù giặc sâu sắc và ý thức tổ chức kỷ luật cao. Sự trung thành với cách mạng thể hiện từ việc Tnú bị giặc bắt ngày bé khi đi đưa thư, chúng tra tấn Tnú dã man nhưng anh hề hé răng lấy nửa chữ, sau 3 năm anh vượt ngục rồi trở về lãnh đạo dân làng chuẩn bị vũ khí đánh giặc. Khi trưởng thành, Tnú lần nữa bị giặc bắt khi cố cứu mẹ con Mai, chúng lấy vải quấn quanh mười đầu ngón tay Tnú, tẩm nhựa xà nu rồi châm lửa đốt, dù “nghe lửa cháy rừng rực trong lồng ngực, lửa cháy trong bụng”, dù cắn nát cả đầu lưỡi, nghe thấy vị máu mặn chát, răng đã cắn nát cả môi vì đau đớn thế nhưng Tnú vẫn không hề hé răng kêu lấy một tiếng. Lòng trung thành với cách mạng, lời dạy của anh Quyết “người cộng sản không thèm kêu van” đã ăn vào máu vào tâm hồn Tnú, rèn cho Tnú một ý chí kiên cường, thêm vào đó mối căm thù giặc những kẻ gây nên cái chết của vợ con lại càng khiến Tnú trở nên kiên cường, quyết không chịu nhục nhã, cúi đầu trước bọn giặc tàn ác. Vượt qua tất cả những nỗi đau mất mát đầy bi thương, Tnú đã trưởng thành, lý tưởng sống và chiến đấu càng trở nên mạnh mẽ, anh quyết chiến đấu đến cùng với giặc để trả mối nợ nước thù nhà đang hừng hực cháy trong trái tim từng ngày. Thế nên với Tnú, sự khiếm khuyết của đôi bàn tay chính là động lực, là lời nhắc nhở, là ký ức đau thương về những gì kẻ thù đã để lại trong cuộc đời anh. Cũng chính đôi bàn tay ấy trở nên mạnh mẽ, kiên cường dẫu rằng thiếu đi một đốt, nhưng bàn tay ấy vẫn cầm được súng, vẫn bóp được cò, thậm chí Tnú còn chính tay bóp chết được một thằng giặc khỏe mạnh. Như vậy có thể thấy rằng vẻ đẹp của Tnú không chỉ đơn giản nằm là sự dũng cảm, ý thức giác ngộ cách mạng cao mà đó còn là vẻ đẹp mang khuynh hướng sử thi, vẻ đẹp của sự từng trải, sự trưởng thành trong kháng chiến, vẻ đẹp của người anh hùng bước ra từ những đau thương mất mát, tột cùng, trở thành tượng đài của nền văn học kháng chiến.
Một vẻ đẹp nữa không thể không nhắc đến ở Tnú đó là tình cảm gắn bó sâu sắc với quê hương, với gia đình. Phải nói rằng vẻ đẹp mang khuynh hướng sử thi của người anh hùng Tnú sẽ là thiếu sót nếu không đề cập đến phương diện tình cảm, tình nghĩa của nhân vật này. Nổi bật nhất và thấy rõ nhất đó chính là tình cảm của Tnú dành cho gia đình, tấm lòng yêu thương mẹ con Mai, cũng như nỗi đau đớn tột cùng khi không thể cứu kịp vợ con. Tnú dù lúc ấy biết rõ rằng nếu anh nhảy ra thì sẽ bị giặc bắt, thế nhưng trước sự nguy nan của người thân Tnú không nghĩ được nhiều như thế, anh quyết hy sinh thân mình để cứu mẹ con Mai. Đôi vòng tay vững vàng rắn chắc như lim ấy của Tnú ôm lấy vợ con đang hấp hối, thể hiện tấm lòng yêu thương sâu sắc và trách nhiệm bảo vệ gia đình của một người đàn ông. Một chi tiết nữa cũng thể hiện tình cảm của Tnú với gia đình, ấy là khi Mai mới sinh con, Tnú đã xé đồ của mình làm đôi để cho làm tấm điu con, đó là tấm lòng hy sinh, lòng yêu thương của một người cha đối với đứa con bé bỏng. Bên cạnh tình cảm với gia đình, thì Tnú còn có những tình cảm sâu sắc với quê hương, anh yêu dân làng, yêu làng, nhớ từng kỷ niệm gắn bó với làng Xô Man, anh đi chiến đấu không chỉ vì mối thù của bản thân mà còn là để bảo vệ làng, bảo vệ mảnh đất quê hương nơi đã nuôi anh khôn lớn, cho anh giác ngộ cách mạng.
Phân tích nhân vật Tnú – Mẫu 6
Nguyễn Trung Thành là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ông là nhà văn có công đưa mảnh đất Tây Nguyên hoang sơ đến với văn học hiện đại Việt Nam. Truyện ngắn Rừng xà nu là tác phẩm tiêu biểu của ông. Tác phẩm đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tnú, người con kết tinh mọi vẻ đẹp của nhân dân Tây Nguyên trên nền tập thể nhân dân anh hùng và hình tượng rừng xà nu hùng vĩ trong những ngày kháng chiến chống Mỹ gay go, ác liệt.
Rừng xà nu (1965) ra mắt lần đầu tiên trên Tạp chí văn nghệ quân giải phóng miền Trung Trung bộ (số 2-1965), sau đó được in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, đất nước chia làm hai miền. Kẻ thù phá hoại hiệp định, khủng bố, thảm sát, lê máy chém đi khắp miền Nam. Cách mạng rơi vào thời kì đen tối. Đầu năm 1965, Mỹ đổ quân ồ ạt vào miền Nam và tiến hành đánh phá ác liệt ra miền Bắc. Rừng xà nu được viết vào đúng thời điểm mà cả nước ta trong không khí sục sôi đánh Mỹ. Tác phẩm được hoàn thành ở khu căn cứ của chiến trường miền Trung Trung bộ.Thông qua câu chuyện về những con người anh hùng ở một buôn làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa lớn lao của dân tộc và thời đại: Để cho sự sống của đất nước và nhân dân mãi mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí đứng chống lại kẻ thù tàn ác.
Tnú là nhân vật trung tâm của tác phẩm. Câu chuyện về cuộc đời anh là câu chuyện được sử thi hóa qua lời kể của cụ Mết. Cuộc đời Tnú gắn liền với cuộc đời làng Xô Man. Âm hưởng sử thi chi phối tác giả trong khi xây dựng nhân vật này. Tác giả xuất phát từ vấn đề cộng đồng để phản ánh đời tư của Tnú. Tnú được xây dựng như hình tượng một nhân vật mang tính lý tưởng. Nhà văn lấy nguyên mẫu từ anh Đề, người dân tộc Xơ-đăng, ở Tây Nguyên. Năm 1959, anh Đề đã cùng mười chàng trai trong bản giết toàn bộ một tiểu đội lính Diệm và bắt đầu cuộc chiến đấu vũ trang.
Tnú là con của dân làng Xô Man. Dân làng Xô Man nuôi dưỡng, đùm bọc anh, cưu mang anh. “Nó là người Sa Trá mình, cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Chính tình thương yêu của đồng bào đã đem lại cho anh niềm tin yêu cuộc sống, tin vào chính mình, gắn bó sâu sắc với bản làng quê hương, với những gì thân thuộc như tiếng chày giã gạo của những cô gái, con nước mát lạnh đầu bản, những cụ già, những em nhỏ,… sau ba năm đi lực lượng, được về thăm làng, Tnú thấy bồi hồi, xúc động trước cảnh vật thân thuộc quê hương.
Ngay từ nhỏ anh đã là người gan dạ, dám đi tiếp tế lương thực cho cán bộ, làm liên lạc cho cán bộ từ xã lên huyện. Và cũng từ đấy Tnú bộc lộ một trí tuệ hơn người. “Nó không thích lội nước chỗ êm cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi, vượt lên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như con cá kình” bởi theo Tnú “Qua chỗ nước êm thằng Mĩ – Diệm hay phục, qua chỗ nước mạnh nó không ngờ”. Giặc vây các ngả đường thì Tnú leo lên một cây cao, nhìn quanh một lượt rồi xé rừng mà đi, lọt qua tất cả các vòng vây. Tnú nghe theo anh Quyết, cố học chữ để sau này thay anh lãnh đạo cách mạng. Quyết tâm học chữ của Tnú thể hiện dứt khoát trong hành động tự đạp hòn đá vào đầu, máu chảy ròng ròng khi cậu thua Mai trong việc nhớ những con chữ. Tnú từ nhỏ đã tâm niệm trong đầu câu nói của cụ Mết: Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn.
Tnú là hiện thân của sự trung thành tuyệt đối với cách mạng, với Đảng, là hiện thân của sự khỏe mạnh với bộ ngực rộng rãi, hai cánh tay khỏe chắc như lim, là sự bất khuất kiên cường đã được thử thách qua tra tấn dã man và sự tù đày của kẻ thù. Tnú cường tráng như một cây xà nu lớn. Tnú không hề biết sợ hãi, không hề biết khuất phục dù tàn bạo có hiện hình trong mũi súng hay lưỡi dao chém ngang dọc trên lưng. Trong một lần chuyển thư của anh Quyết gửi về huyện, Tnú bị giặc bắt. Họng súng chĩa vào tai lạnh ngắt, Tnú kịp nuốt luôn cái thư. Giặc giam cầm, tra khảo Tnú dã man, lưng Tnú dọc ngang vết dao chém nhưng anh quyết không khai một lời. Anh tìm cách vượt ngục về làng và tiếp tục sự nghiệp lãnh đạo dân làng chuẩn bị chiến đấu. Sức mạnh của anh dường như tăng thêm bởi sự hun đúc của một tình yêu lớn với một người con gái luôn luôn hiền dịu, nhượng nhìn, của một gia đình hạnh phúc cùng Mai và đứa con nhỏ.
Vậy mà bằng ấy cái có, Tnú đã không cứu được mẹ con Mai khỏi bị kẻ thù giết hại. Cuộc đời Tnú gắn liền với những đau thương mà không chỉ riêng anh gánh chịu. Cái đau đớn mang trên thân xác Tnú là hiện hữu cái đau thương của dân làng Xô Man trong chiến tranh Mái ấm gia đình từng là mơ ước của biết bao đôi thanh niên ấy bỗng chốc tan nát bởi sự tàn ác của kẻ thù. Mai và con anh bị kẻ thù giết chết ngay trước mắt anh. Tnú không cứu được vợ, được con, đau đớn hơn chính bản thân anh cũng trở thành nạn nhân của sự bạo tàn mà kẻ thù đang sử dụng. Vì Tnú cũng chỉ có tay không giữa quân thù đầy vũ khí. Hình ảnh mười đầu ngón tay rừng rực cháy bởi nhựa xà nu như mười ngọn đuốc không chỉ có ý nghĩa tố cáo tội ác quân thù hay nói lên lòng dũng cảm của người chiến sĩ cách mạng mà còn nói lên một chân lý sâu sắc và tàn nhẫn : khi một Tnú có ý chí mà tay không thì ngay thứ nhựa xà nu thân thiết cái khối chất thơm ngào ngạt và như đọng nắng quê hương kia cũng có thể trở thành ngọn lửa hủy diệt chính những bàn tay vẫn hằng ngày chăm sóc, vun trồng cho nương rẫy.
Hình tượng nhân vật Tnú – Mẫu 7
Mỗi nhà thơ, nhà văn đều có cho riêng mình một vùng đất gắn bó thiết tha. Đó là Tô Hoài yêu mến và trân trọng những vẻ đẹp của rừng núi và con người Tây Bắc hay Nguyễn Quang Sáng sống trọn đời mình với vùng đất Nam Bộ bình dị mà thân thương. Đến với Nguyễn Trung Thành, ta bắt gặp một tâm hồn gắn bó máu thịt với vùng đất Tây Nguyên, nơi có những đồi xà nu đại ngàn và những con người anh dũng, kiên trung. “Rừng xà nu” là truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Trung Thành con người và mảnh đất anh hùng ấy. Bằng ngòi bút tài hoa và thấm đẫm yêu thương của mình, tác giả đã xây dựng hệ thống nhân vật vô cùng phong phú, đại điện cho lớp lớp những con người Tây Nguyên kiên cường, bất khuất trong cuộc chiến chống giặc ngoại xâm, trong đó Tnú là hình tượng tiêu biểu nhất.
Sinh ra trong thời buổi đất nước bị giặc ngoại xâm lăng, từ nhỏ Tnú sớm chịu nhiều thiệt thòi khi mô côi cha mẹ, lớn lên trong sự yêu thương và chở che, đùm bọc của dân làng Xô Man. Có lẽ, cũng chính vì vậy mà tình yêu thương, gắn bó với làng quê luôn thường trực trong tâm hồn Tnú. Những ngày được cụ Mết truyền dạy về cách mạng, về Đảng, tuy còn nhỏ nhưng trong lòng luôn sục sôi khát khát ý chí làm cách mạng và đánh giặc cứu nước. Tnú muốn học chữ để giỏi giang, rồi lớn lên sẽ là người cán bộ thay anh Quyết, người cán bộ mà cậu luôn khâm phục. Ngày ngày học chữ, dù học thua Mai nhưng cậu không nản chí, ra suối lấy đá đập lên đầu tự nhắc nhở bản thân phải quyết tâm học hành, Tnú rất ý thức được tầm quan trọng của con chữ với đời sống chính mình và với cách mạng.
Khi còn bé, Tnú cũng rất thông minh, nhạy bén và dũng cảm khi đã giúp cho bao nhiêu cán bộ thoát khỏi tầm ngắm của địch. Khi làm nhiệm vụ, đi qua con suối, Tnú không chọn chỗ nước êm để đi vì tin rằng quân địch sẽ phục sẵn ở đó, cậu bé lựa những nơi có dòng nước thác chảy mạnh, bơi ngang mà tránh giặc. Trong lần bị giặc bắt, Tnú chấp mọi hiểm nguy, nuốt mảnh giấy ghi thông tin vào bụng chứ quyết không đưa cho giặc. Dù bị tra tấn dã man song vẫn không hề khai một mạnh mối nào, đứng hiên ngang chỉ vào bụng mà nói: “Cách mạng ở đây !”. Dường như, bên trong vẻ ngoài bình thường của một cậu bé là một tâm hồn lớn, một con người dũng sĩ với những khí chất, tính cách của con người Tây Nguyên. Cậu như những cây xà nu của núi rừng, giữa bom đạn vẫn hiên ngang, là thế hệ tiếp nối những người đi trước mang theo cả niềm tin và sự tự hào của buôn làng.
Khi trưởng thành những phẩm chất anh hùng trong Tnú ngày càng được bộc lộ rõ nét hơn. Sau khi vượt ngục tìm về với buôn làng, Tnú chọn người bạn tuổi thơ từng gắn bó với mình làm vợ, những tưởng sẽ hạnh phúc bên gia đình nhưng ngờ đâu bọn địch dã man đã tàn nhẫn vùi lấp thứ hạnh phúc ấy. Bọn chúng tìm đến và bắt vợ con anh nhằm khiến anh phải ra mặt, chứng kiến sự dày vò người thân của bọn địch khiến anh đau khổ vô cùng. Khi mẹ con Mai chết, lòng Tnú như thắt lại, chẳng còn điều gì mất mát và đau đớn hơn là cái chết của những người mà mình yêu thương nhất: “Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay… Chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Nỗi đắng cay giờ đây hóa thành nỗi căm phẫn, bọn giặc kia đã phá nát gia đình anh. Giặc bắt Tnú, chúng nhẫn tâm hành hạ anh một lần nữa, dùng dây rừng trói người lại, chúng tẩm nhựa xà nu đốt cháy mười ngón tay anh. Mười ngón tay cháy rực như mười ngọn đuốc kia thực đau đớn biết nhường nào, nhưng Tnú không hề gì mà chỉ thấy nhói đau trong lòng “không cảm thấy cháy ở mười đầu ngón tay mà nghe lửa cháy ở trong lòng ngực, ở bụng”. Bao sóng lòng giờ đây dồn lên trong tiếng thét “giết” như một lời căm phẫn tột cùng, một lời hiệu triệu tất cả nhân dân phải đứng lên hành động, giết chết lũ giặc bạo ngược kia, “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”, không thể để yên cho một lũ ngang ngược hoành hành trên đất của buôn làng, của những ngôi nhà rông yên bình giữa núi rừng bạt ngàn, trù phú.
………..
Tải File tài liệu để xem thêm bài văn phân tích nhân vật Tnú