Phân tích tình huống éo le của Trương Ba trong xác anh hàng thịt gồm dàn ý chi tiết kèm theo 4 bài văn mẫu hay. Qua đó giúp các bạn lớp 12 có thêm nhiều tư liệu tham khảo, rèn luyện kỹ năng viết văn ngày một hay hơn.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 12: Phân tích tình huống éo le của Trương Ba trong xác anh hàng thịt
Có thể nói Hồn Trương Ba da hàng thịt là một vở kịch đặc sắc của nhà văn Lưu Quang Vũ. Sau đây để hiểu rõ hơn về tác phẩm, mời các bạn cùng tham khảo dàn ý chi tiết và 4 bài văn mẫu Phân tích tình huống éo le của nhân vật Trương Ba trong xác anh hàng thịt.
Tình huống éo le của Trương Ba trong xác anh hàng thịt
Đề bài: Trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt, có một lời thoại quan trọng: “Không thể bên trong một đằng bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Anh chị hãy phân tích tình huống éo le của nhân vật Hồn Trương Ba trong xác anh hàng thịt để làm sáng tỏ lời thoại trên.
Dàn ý phân tích tình huống éo le của nhân vật Trương Ba
I. Mở bài:
– Giới thiệu tác giả (con người và phong cách)
– Giới thiệu tác phẩm (giá trị của tác phẩm)
– Tác phẩm có rất nhiều lời thoại mang tính triết lý, trong đó lời nói của Trương Ba “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi trọn vẹn” đã gợi lên tình huống éo le của nhân vật.
II. Thân bài:
* Giới thiệu chung:
– Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những truyện hay trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam. Lưu Quang Vũ đã dựa vào cốt truyện này để viết thành vở kịch nói cùng tên vào năm 1981 và được trình diễn lần đầu tiên vào năm 1984.
– Vở kịch đặt ra vấn đề, đó là bi kịch sống nhờ của Hồn Trương Ba trong xác anh hàng thịt.
– Lời thoại trên là lời của Hồn Trương Ba nói với Đế Thích, có ý nghĩa triết lý về sự thống nhất, hài hòa giữa hồn và xác trong một con người.
* Phân tích tình huống éo le của nhân vật Hồn Trương Ba trong xác anh hàng thịt:
+ Tình huống éo le, bi đát
– Nguyên nhân dẫn đến tình huống éo le: việc gạch tên chết người vô trách nhiệm của quan nhà trời và “thiện ý sửa sai” của Đế Thích.
– Nỗi khổ của Hồn Trương Ba khi phải sống nhờ vào xác anh hàng thịt: vợ con nghi ngờ, xa lánh ; do sự xui khiến của thân xác hàng thịt, Hồn Trương Ba có những hành vi, cử chỉ thô lỗ, vụng về.
– Hồn Trương Ba cương quyết không sống trong xác anh hàng thịt. Khát vọng giải thoát khỏi thân xác người khác khiến Hồn Trương Ba gọi Đế Thích lên để nói rõ bi kịch sống nhờ, sống không đúng mình.
+ Ý nghĩa của lời thoại
– Lời thoại này thể hiện rõ quan niệm về hạnh phúc của nhà viết kịch. Hồn Trương Ba đã có một thân xác để tồn tại, để tiếp tục sống, ngỡ đó là hạnh phúc. Nhưng hóa ra hạnh phúc ở đời không phải là được sống mà sống như thế nào.
– Bức thông điệp mà Lưu Quang Vũ muốn nhắn gửi qua bi kịch của Trương Ba: con người phải được sống như chính mình, sống hòa hợp giữa hồn và xác – tâm hồn trong sạch như thân xác được khỏe mạnh. “Tôi muốn là tôi toàn vẹn”, đấy mới là hạnh phúc.
* Đánh giá:
– Tình huống éo le của vở kịch là nét đặc sắc tạo nên sự khác biệt giữa truyện dân gian và vở kịch.
– Thông qua lời thoại của nhân vật, Lưu Quang Vũ đã thể hiện quan niệm sống giàu giá trị nhân văn.
– Nhà văn đã dựng lên được những kịch tính thông qua cử chỉ, hành động, đặc biệt là lời thoại của nhân vật sinh động có tầm khái quát cao.
III. Kết bài:
– Lời thoại của Trương Ba “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi trọn vẹn” là một câu nói giàu tính triết lý, cũng lại là bi kịch cho số phận của một con người.
– Khẳng định tài năng của Lưu Quang Vũ và sức sống của tác phẩm.
Phân tích tình huống éo le của nhân vật Trương Ba – Mẫu 1
Cuộc sống luôn tồn tại hai mặt: tốt và xấu. Con người cũng có mặt hoàn thiện và mặt chưa hoàn thiện. Vì thế, trong cuộc sống con người không ngừng đấu tranh vươn lên để hoàn thiện nhân cách của mình. Câu nói của Trương Ba trong vở kịch nổi tiếng “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” đã phần nào nói lên được nội dung ấy: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”.
“Bên trong” là tất cả những gì không thể nhìn thấy được, đó là suy nghĩ, tư tưởng, khát vọng,… “Bên ngoài” là tất cả những gì có thể thấy được, cảm nhận được, đó là hành động, cách hành xử, ứng xử…“Toàn vẹn” – con người là thể thống nhất có sự hòa hợp giữa thể xác và tâm hồn, giữa ý chí và hành động.
Sống “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo” nghĩa là sống không thực với con người của mình. Con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác, chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ biết hưởng thụ, thoả mãn nhu cầu của bản thân. Con người vốn là một thể thống nhất giữa tinh thần và thể xác, và nếu không sống thật với chính mình, con người sẽ gây ra đau khổ, tai hoạ cho gia đình, cho những người xung quanh, làm cho chính mình bị tổn thương. Như vậy thì làm sao có thể mang đến hạnh phúc cho những người thương yêu xung quanh. Ví dụ như Trương Ba, phải sống nhờ thân xác kẻ khác nên tâm hồn bị tha hóa, bị vấy bẩn phải chạy theo những dục vọng thấp hèn. Hay nhiều sinh viên nghèo tỉnh lẻ lên học đại học ở thành phố, vì sĩ diện với bạn bè nên bề ngoài thể hiện sự khá giả, ăn chơi bằng cách lừa dối bố mẹ: xin tiền học phí để lấy tiền đi chơi. Một thầy giáo ở Quảng Ngãi, ban ngày đi dạy học, ban đêm là đại ca của một băng cướp…Hiệu trưởng Sầm Đức Xương mua dâm nữ sinh…là những hiện tượng xã hội gây nhức nhối trong thời gian gần đây.
Người có lối sống như vậy là người không đáng tin cậy. Bởi vì bản thân những người đó đều là những kẻ sống không thành thực, những người gian dối, cần cảnh giác!
“Tôi muốn được là tôi toàn vẹn” là một người hoàn thiện, một người có suy nghĩ và hành động đồng nhất. Trong ngữ cảnh này, một người toàn vẹn là một người sống thật với bản thân mình, chấp nhận sự thật về bản thân mình. Sống mà không làm hại đến người khác, sống không lừa lọc, sống không dối trá, giả tạo, hai mặt.
Mỗi một người khi được sinh ra trong đời đều được tạo hóa ban cho thể xác và linh hồn riêng. Thể xác và linh hồn là hai phần tuy khác nhau nhưng hợp nhất với nhau và cùng nhau tồn tại hình thành nên con người. Vì vậy hãy sống là chính mình, đừng bao giờ lừa dối bản thân hay người khác, cũng đừng sống chia đôi mình ra để rồi lời nói, hành động không khớp với nhau. Hãy là một cái tôi toàn vẹn. Không nên sống nhờ vả vào người khác. Bởi tạo hóa sinh ra chúng ta, cuộc sống này là của chúng ta, vì vậy phải do chính ta quyết định. Không ai có thể quyết định nên số phận cho ta, chính chúng ta phải làm nên số phận của chính bản thân mình. Đúng vậy không bạn ?
Cần làm gì để để thật sự là một con người toàn vẹn, ngay từ khi còn trên ghế nhà trường, bạn hãy luyện tập thói quen sống có cùng một suy nghĩ và hành động, phải hài hòa giữa suy nghĩ và hành động. Hãy sống thành thật với cộng đồng sống phải thành thật với chính bản thân mình!
Không chỉ có ý nghĩa triết lí về nhân sinh, về hạnh phúc con người, câu nói của Lưu Quang Vũ còn muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ: Thứ nhất, con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích hưởng thụ đến nỗi trở nên phàm phu, thô thiển. Thứ hai, lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn. Cách sống trên là cực đoan, đáng phê phán. Ngoài ra , câu nói còn đề cập đến một vấn đề cũng không kém phần bức xúc, đó là tình trạng con người phải sống giả, không dám và cũng không được sống là bản thân mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi.
Phân tích tình huống éo le của nhân vật Trương Ba – Mẫu 2
Lưu Quang Vũ là một nhà thơ khá nổi tiếng trong những năm sáu mươi của thế kỉ XX, được nhiều bạn đọc yêu mến. Đến đầu những năm tám mươi thì Lưu Quang Vũ chuyển hẳn sang lĩnh vực sân khấu. Chỉ trong bảy, tám năm, ông đã sáng tác khoảng năm mươi kịch bản và hầu hết đều được dàn dựng. Kịch của Lưu Quang Vũ thể hiện khát vọng về cái đẹp, cái thiện, về sự hoàn thiện nhân cách con người, đấu tranh khá quyết liệt với cái ác, cái xấu, nhất là đấu tranh chống tiêu cực để làm cho cuộc sống trong sạch hơn, tốt đẹp hơn. Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt, mà đặc biệt là trong lời thoại sau đây giữa Hồn Trương Ba với tiên Đế Thích đã cho ta thấy cái khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp của Lưu Quang Vũ: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn…. sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhìn tôi sống như thế nào thì ông chẳng cần biết.
Lời thoại này chính là những lời Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết. Như chúng ta đã biết Hồn Trương Ba, da hàng thịt được Lưu Quang Vũ sáng tác theo hướng khai thác, cốt truyện dân gian để gửi gắm những suy ngẫm về nhân sinh, về hạnh phúc, thể hiện một triết lý sâu sắc về lẽ sống, lẽ làm người, kết hợp phê phán một số tiêu cực trong cuộc sống hiện thời. Tuy khai thác đề tài từ cốt truyện dân gian, nhưng trong vở kịch này Lưu Quang Vũ có một sự sáng tạo rất độc đáo: trong truyện dân gian thì khi Hồn Trương Ba được tiên Đế Thích cho nhập vào xác anh hàng thịt, Hồn Trương Ba vẫn sống bình thản, còn trong vở kịch này thì Hồn Trương Ba sống quay quắt, luôn có những xung đột nội tâm rất căng thẳng. Hồn Trương Ba đã phải trải qua những cuộc đấu tranh gay gắt với chính thể xác mà mình trú ngụ – thể xác đầy ham muốn bản năng của anh hàng thịt. Và Lưu Quang Vũ đã đẩy kịch tính lên tới điểm đỉnh là khi Hồn Trương Ba sắp ngã vào tay chị vợ anh hàng thịt, suýt chút nữa sự thanh sạch của Hồn Trương Ba bị thân xác lấn át, công với sự xa lánh của những người thân trong gia đình khiến Hồn Trương Ba càng đau đớn, xót xa.
Để gỡ nút thắt của tình huống kịch này, Lưu Quang Vũ đã để cho Hồn Trương Ba đi đến một quyết định dứt khoát là không thể kéo dài mãi cuộc sống như thế nữa: “Không thế bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Lời thoại này đã nói lên tấn bi kịch, sự trớ trêu trong Hồn Trương Ba, đó là sự mâu thuẫn giữa một tâm hồn đẹp với một thân xác thô lỗ, phàm phu tục tử. Lời thoại này đã cho ta thấy rõ quan điểm, triết lí về nhân sinh của Lưu Quang Vũ. Lưu Quang Vũ cho rằng: cuộc sống của con người là một thể thống nhất giữa hồn và xác. Hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối hoàn toàn bởi những nhu cầu bản năng của thân xác, nghĩa là những nhu cầu vật chất chi phối hoàn toàn đời sống tinh thần thì không thể có một tâm hồn thanh cao trong sáng được.
Nói như thế, ở đây Lưu Quang Vũ không phải phủ nhận hoàn toàn nhu cầu về đời sống vật chất, mà chỉ muốn trong cuộc sống chúng ta phải biết kết hợp hài hòa giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Nếu chúng ta chỉ quan tâm đến đời sống tinh thần mà không lo đến đời sống vật chất thì cuộc sống của chúng ta cũng chẳng mấy tốt đẹp, chúng ta sẽ sống trong ảo tưởng bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Vì vậy chúng ta đừng bao giờ để đời sống vật chất làm sa ngã đời sống tinh thần. Và trong lời thoại tiếp theo, Lưu Quang Vũ lại tiếp tục trình bày quan điểm của mình về cuộc sống:“Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”.
Lời thoại này chứng tỏ Hồn Trương Ba đã ý thức rõ về hoàn cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình. Hồn Trương Ba đã thấm thía nỗi đau khổ vì nhận ra tình trạng ngày càng chênh lệch giữa hồn và xác. Sự chênh lệch này đã được thể hiện ngay từ khi Hồn Trương Ba nhập vào xác của anh hàng thịt, hình dạng biến đổi, hành động biến đổi và những người thân trong gia đình ngày càng xa lánh, Trương Ba bây giờ đâu còn là Trương Ba như ngày trước nữa: “đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa” (lời vợ Trương Ba), “Tôi không phải là cháu của ông”, “ông nội tôi chết rồi”, “bàn tay giết lợn của ông làm gãy tiệt cái chồi non, chân ông to bè như cái xẻng, giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm! Ông nội tôi đời nào thô lỗ phũ phàng như vậy!”, “Ông xấu lắm, ác lắm! cút đi! Lão đồ tể, cút đi” (lời của cái Gái)…
Hồn Trương Ba không thể sống mãi trong sự đau khổ, dằn vặt như thế nữa; nên đã phản kháng, không chấp nhận việc tiên Đế Thích cho mình sống nhờ vào thân xác anh hàng thịt. Lời phản kháng này chuẩn bị cho hành động quyết liệt, dứt khoát của Hồn Trương Ba là chọn cái chết, trả xác cho anh hàng thịt, để tâm hồn thanh thoát, không còn dằn vặt khổ đau.Qua lời thoại này, Lưu Quang Vũ muốn bày tỏ quan điểm của mình về cuộc sống, đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: thế nào là một cuộc sống thật sự có ý nghĩa? Theo ông, sống thực sự cho ra con người không phải dễ dàng, đơn giản. Cuộc sống thật sự có ý nghĩa là cuộc sống do chính bàn tay, khối óc mình tạo lập ra, sống cho chính mình, một cuộc sống thật sự có ích cho gia đình và xã hội. Nếu sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, sống không được là mình thì cuộc sống ấy vô nghĩa, không đáng sống, thà chết còn hơn.
Tóm lại, hai lời thoại trên của Hồn Trương Ba với tiên Đế Thích đã bộc lộ quan điểm rất đúng đắn của Lưu Quang Vũ về cuộc sống. Đó cũng chính là sự suy ngẫm về nhân sinh, về hạnh phúc, là sự phê phán một số mặt tiêu cực trong lối sống của một số người trong xã hội đương thời của Lưu Quang Vũ. Thực tế trong cuộc sống hôm nay không ít những con người sống nhờ vào thân thể, uy quyền của kẻ khác, sống bằng luồn cúi, nịnh bợ để được thăng quan tiến chức, sống bằng đồng tiền không phải do năng lực của mình làm ra mà đó là những đồng tiền từ mồ hôi, nước mắt, xương máu của nhân dân, của đồng chí, đồng đội, làm băng hoại cuộc sống xã hội, sống như thế là một cuộc sống thật xấu xa, đê tiện, đáng lên án và phỉ nhổ. Lưu Quang Vũ đã thể hiện nỗi băn khoăn, trăn trở của mình về điều này qua những khổ đau, trăn trở của Hồn Trương Ba khi phải sống nhờ vào xác anh hàng thịt. Chính điều này đã lay động trái tim người đọc và người xem vở kịch này.
Phân tích tình huống éo le của nhân vật Trương Ba- Mẫu 3
Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những tác phẩm thành công nhất của nhà soạn kịch Lưu Quang Vũ. Mượn cốt truyện dân gian, tác giả đã khám phá, thể hiện được nhiều vấn đề cấp thiết của con người trong xã hội hiện đại. Để lại ấn tượng sâu sắc nhất với tôi có lẽ là khát vọng về một cuộc sống thực sự được tác giả gửi gắm qua lời nhân vật hồn Trương Ba: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”.
Đó là lời giải thích của hồn Trương Ba với Đế Thích khi chối từ cuộc sống vay mượn trong thân xác kẻ khác. Trước đó, vị tiên cờ đã làm phép cho hồn Trương Ba sống lại trong thân xác của anh hàng thịt. Linh hồn thanh sạch của người làm vườn, người chơi cờ đã không thể hoà hợp được với thân xác phàm tục của anh hàng thịt thô lỗ, tham lam. Sự trái ngược giữa hồn và xác không chỉ khiến hồn Trương Ba mà cả những người thân của ông phải thất vọng, đau khổ… Cuối cùng, ông đã lựa chọn cái chết để không đánh mất mình. Câu nói của hồn Trương Ba trước khi chết đã gợi nên nhiều suy ngẫm sâu xa về con người và cuộc sống.
Trước hết, phải nói đến sự phú định dứt khoát lối sống “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”. Bên trong là thế giới của tâm hồn với những suy nghĩ, tình cảm, tư tưởng; cũng là bản ngã riêng của mỗi con người. Bên ngoài là lời lẽ, hành động, cách ứng xử của con người với thế giới xung quanh. Bên trong – bên ngoài còn là hai phương diện linh hồn và thể xác, tinh thần và vật chất trong cuộc sống của con người. Khi bên trong và bên ngoài trái ngược nhau nghĩa là con người phải sống một cách chấp vá, mâu thuẫn với chính mình; phái giả dối, không được là mình. Cuộc sống đó đẩy con người vào những đau khổ, day dứt, hổ thẹn triền miên. Giống như tâm hồn trong sạch, nhân hậu, bao dung của Trương Ba lại phải trú ngụ trong hình hài thô kệch, vụng về của anh hàng thịt. Linh hồn ấy ghê sợ những ham muốn dung tục và thói thô bạo của thân xác. Trong khi thân xác kia lại khinh bỉ, chế giễu, giày vò linh hồn…
Tình trạng sống chắp vá đó hiện diện trong thực tế đời sống với nhiều dạng thức và bắt nguồn từ những nguyên nhân khác nhau. Có thể do quan niệm hẹp hòi của một thời, một xã hội, do sự ràng buộc của các mối quan hệ; cũng có khi do sự yếu đuối, hèn nhát của bản thân mà con người không dám sống thật với bản ngã của mình. Chẳng hạn, trong thâm tâm, ta coi thường, khinh ghét một người nào đó nhưng buộc phải nói cười, vồn vã, tay bắt mặt mừng. Có khi bản tính mình sôi nổi, tinh nghịch nhưng buộc phải “đóng vai” hiền hậu, nết na; mình muốn trở thành một nhiếp ảnh gia nhưng lại bị cha mẹ bắt thi vào Đại học Luật… Hoặc khi đứng trước một sự việc, một hiện tượng mình có cách nhìn nhận, đánh giá khác hẳn mọi người nhưng ngại va chạm này nọ nên đành tỏ thái độ đồng tình. Có khi cần phải lên tiếng đấu tranh với cái xấu, cái ác nhưng vì một lẽ gì đó ta lặng im để rồi mãi ân hận, hổ thẹn. Mà nói như Nam Cao, thì trên đời này “Còn gì buồn hơn chính mình lại chán mình?” (Đời thừa)…
Cũng có những con người cố tình lựa chọn kiểu sống “hai mặt” này. Họ có thể nói rất hay về tình thương, lẽ phải, về tinh thần vị tha… nhưng bản chất lại tham lam, ích kỷ, tàn nhẫn… Dù thụ động hay chủ động thì kiểu sống “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo” ấy không thể mang đến cho con người sự bình yên, hạnh phúc. Trái lại, họ sẽ phải sống trong sự hối hận, sự day dứt, giằng xé của lương tâm hoặc trong sự khinh ghét của đồng loại. Nhà thơ Chế Lan Viên từng diễn tả bi kịch đó bằng một hình tượng thơ độc đáo: “Anh là tháp Bay-on bốn mặt – Giấu đi ba, còn lại ấy là anh – Chỉ mặt đó mà nghìn trò cười, khóc – Làm đau ba mặt kia trong cõi ẩn hình” (Tháp Bay-on bốn mặt). Kết quả của lối sống vay mượn, giả dối ấy là con người sẽ đánh mất mình hoặc rơi vào cái chết tinh thần đau đớn. Sự xuất hiện và tồn tại của nhiều cá nhân như thế cũng sẽ tạo nên một xã hội không lành mạnh, làm tha hoá con người.
Bị giằng xé giữa hồn và xác, nhân vật hồn Trương Ba của Lưu Quang Vũ thấm thía hơn ai hết nỗi thống khổ của cuộc sống chắp vá kia nên đã đánh đổi cả sinh mạng để “được là tôi toàn vẹn”. Đó cũng là khát vọng sống chính đáng, đẹp đẽ của con người; là cuộc sống cần có, nên có cho con người. Con người sẽ chỉ có hạnh phúc khi được sống trong sự hài hoà giữa linh hồn và thể xác; sống bằng con người thật của chính mình. Để thực hiện được khát vọng sống ấy, cần có cả những điều kiện khách quan và chủ quan. Đó là môi trường xã hội lành mạnh, công bằng, tôn trọng sự thật, thừa nhận quyền được sống “một cách toàn vẹn” của con người. Sống trong một môi trường như thế, con người sẽ không phải sợ hãi, không phải tìm cách giấu mình. Bản thân mỗi chúng ta cũng cần có “dũng khí” để dám sống bằng con người thực của mình. Khi nào con người biết nhận thức được về mình một cách trung thực, biết khao khát lối sống chân thật thì sẽ dám nói lên sự thật, dám bộc lộ bản thân mình.
Bản thân tôi, ở một mức độ nào đó, cũng từng nếm trải nỗi khổ khi phải sống “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”. Tôi có năng khiếu văn nghệ, thích được khẳng định mình nhưng lại sợ bạn bè cho là “chơi trội” nên cố gắng để chìm vào số đông. Có lúc, ngồi nhìn một chương trình biểu diễn của lớp bị thất bại, trong khi mình có đủ khả năng làm tốt hơn, tôi bứt rứt, tiếc nuối, ân hận… Phải trải qua nhiều lần bị dằn vặt như thế, tôi mới dám đứng lên nói rằng tôi muốn và có thể làm tốt công việc này. Tôi đã “đạo diễn” thành công nhiều tiết mục văn nghệ cho lớp, cho trường và cảm nhận niềm hạnh phúc được là mình, được phát huy những điều tốt đẹp trong bản thân mình. Bản tính tôi sôi nổi, thích nói cười, thích nghịch ngợm nhưng mẹ muốn tôi phải nhỏ nhẹ, dịu hiền… Tôi không muốn mẹ buồn nhưng cũng không thể “biến hoá” con người mình theo mong ước của mẹ. Mỗi lúc phải “tỏ ra” hiền lành, lặng lẽ, tôi thấy mình lúng túng, mất tự nhiên, mất luôn cả niềm vui. May mắn là cuối cùng mẹ cũng “chấp nhận” cho tôi được là tôi, tất nhiên vẫn kèm theo lời nhắc nhở: không được vui vẻ, hồn nhiên thái quá thành vô tâm, vô duyên!
Khi lựa chọn nghề nghiệp, tôi cũng phải cố gắng thuyết phục gia đình để được làm công việc mình yêu thích. Tôi yêu nghề sư phạm và muốn trở thành cô giáo dạy nhạc nhưng bố mẹ tôi ngăn cản vì sợ ra trường khó có thể vào được biên chế hoặc phải đi công tác ở vùng xa. Tôi biết là có không ít khó khăn nhưng sẽ quyết tâm theo đuổi mơ ước của mình bởi “tôi muốn được là tôi toàn vẹn”… Trong các mối quan hệ xã hội, nhiều lúc tôi làm mất lòng không ít bạn bè, người thân vì lời nói thật nhưng cuối cùng hầu hết mọi người đều hiểu và không giận tôi. Và điều quan trọng là khi có thể sống thực với con người bên trong của mình, tôi thấy thật nhẹ nhõm, thanh thản. Nó cho tôi cả sức mạnh để thẳng thắn nhìn nhận và vượt qua những hạn chế của bản thân…
Không chấp nhận lối sống giả dối, vay mượn; khát khao cuộc sống hài hoà, toàn vẹn cho con người – những vấn đề mà Lưu Quang Vũ gửi gắm trong lời nhân vật hồn Trương Ba vẫn còn nguyên vẹn ý nghĩa thời sự. Tôi đã học được ở đó cách nhìn nhận con người và chính bản thân mình; cách lựa chọn một thái độ sống để có thể trở thành người hữu ích và hạnh phúc.
Phân tích tình huống éo le của nhân vật Trương Ba – Mẫu 4
Lưu Quang Vũ được coi là một trong những hiện tượng đáng chú ý của nền văn học dân tộc trong những năm 80 của thế kỉ XX. Không chỉ ghi dấu ấn của mình với thơ, ông còn khẳng định vị thế của mình trong thể loại kịch với số lượng vở kịch được dàn dựng hầu hết thu hút công chúng đến từ mọi miền đất nước. Kịch của Lưu Quang Vũ viết về nhiều đề tài, giàu tính triết lí và “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” cũng là một vở kịch như thế. Ở đây ta dễ dàng bắt gặp tính triết lí ấy hiển hiện ngay trên lời thoại của nhân vật trong đó câu nói “Không thể sống bên trong một đằng bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn” đã thể hiện tình huống éo le của nhân vật Trương Ba.
Câu nói trên là lời nói của nhân vật Hồn Trương Ba với Đế Thích,mang đậm tính triết lí, ấy là sự hài hòa, thống nhất giữa hồn và xác trong một con người. Nó thể hiện khát vọng sống khi nhân vật ý thức được bi kịch từ cuộc sống của chính mình- phải sống gán gửi, tạm bợ trên thân xác của anh hàng thịt. Nói như thế, có nghĩa là nhân vật muốn thoát ra khỏi thực tại, mong muốn được sống là chính mình mà không bị sự điều khiển, chịu sự chi phối của thân xác vốn không phải là của mình.
Tình huống éo le của nhân vật xuất phát từ việc sai sót của Nam Tào, Bắc Đẩu khiến ông Trương Ba chết đi và Đế Thích rất có thiện ý muốn sửa sai. Đế Thích đã để ông Trương Ba sống lại trên xác anh hàng thịt vừa mới chết được một ngày. Tưởng đâu được sống lại là hạnh phúc nhưng không ông Trương Ba luôn phải sống trong đau khổ trên thân xác anh hàng thịt. Ông bị người vợ nghi ngờ vì những ham muốn, những dục vọng đối với vợ anh hàng thịt. Rồi bị cái Gái xa lánh vì cái thân xác nặng nề vốn nâng niu cây cối mà làm gãy cả chồi non, chân giẫm nát cả cây sâm mới ươm, làm hỏng cả cái diều của cu Tị. Đến người con dâu cũng nhận thấy sự xa lạ của một ông Trương Ba trước kia với bây giờ dần dà cô cũng có lúc “không nhận ra thầy nữa”.
Nhận thấy bi kịch của mình, Hồn Trương Ba thể hiện khát vọng muốn được là mình toàn vẹn giống như trước kia. Nhân vật đã nói chuyện với Đế Thích giãi bày bi kịch sống nhờ, sống không đúng là mình : “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!” và từ chối cơ hội được sống quý giá của mình. Ngay cả khi Đế Thích đề cập tới việc sống trên thân xác cu Tị trong cơn thập tử nhất sinh, ông cũng nhất mực từ chối vì ông cho rằng một ông già nhập vào xác một đứa trẻ “chưa bắt đầu cuộc đời, còn đang tuổi ăn, tuổi lớn, chạy nhảy vô tư” là không phù hợp, không tương thích.
Có thể nói, lời thoại trên của nhân vật Hồn Trương Ba đã thể hiện quan niệm của mình về hạnh phúc, về lẽ sống : Hạnh phúc không phải chỉ đơn giản là được sống mà quan trọng hơn đó là sống như thế nào. Bức thông điệp này được nhà viết kịch Lưu Quang Vũ gửi gắm thông qua bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba : Đó là con người phải được sống là chính mình, sống hòa hợp giữa hồn và xác – tâm hồn lương thiện, trong sạch và thân xác khỏe mạnh ấy mới chính là sống hạnh phúc.
Xây dựng được tình huống éo le của nhân vật trong vở kịch, Lưu Quang Vũ đã phát triển và sáng tạo cốt truyện dân gian. Chính tình huống éo le của nhân vật đã tạo nên nên khác biệt giữa cốt truyện dân gian và kịch bản của Lưu Quang Vũ. Nếu như cốt truyện dân gian hướng tới một kết thúc có hậu đó là khi Hồn Trương Ba sống trên xác anh hàng thịt hạnh phúc bên gia đình và người thân thì ở kịch của Lưu Quang Vũ, sự việc ấy lại làm nảy sinh bi kịch, những nỗi đau khổ của nhân vật. Bên cạnh đó, Lưu Quang Vũ còn dựng lên những kịch tích thông qua hành động, cử chỉ của nhân vật đặc biệt là lời nói của nhân vật vừa đậm triết lí vừa mang tầm khái quát cao.
Lời thoại trên của nhân vật đã thể hiện một quan niệm sống giàu giá trị nhân văn, không chỉ phản ánh đúng qua đời sống của nhân vật Trương Ba mà còn rất đúng đắn khi mỗi con người, mỗi cá nhân soi chiếu vào đời sống cụ thể của mình. Giờ đây, ta đã hiểu vì sao mà kịch của Lưu Quang Vũ có sức sống lâu bền, thu hút công chúng đến như vậy và chắc chắn vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” nói riêng và kịch Lưu Quang Vũ nói riêng sẽ vẫn sống mãi với thời gian.