Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt

Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt

Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt trong Vợ nhặt của Kim Lân tuyển chọn 6 bài văn mẫu siêu hay gồm bài phân tích ngắn gọn, đầy đủ, bài làm của học sinh giỏi. Qua đó giúp cho các em học sinh lớp 12 có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng luyện Văn ngày một tốt hơn.

Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt

Văn mẫu lớp 12: Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt

TOP 6 bài vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt cực hay dưới đây các em có thể lựa chọn cho mình một cách tiếp cận, một giọng điệu văn thích hợp, để sau đó nó trở thành kiến thức tâm đắc của chính mình. Hi vọng tài liệu này sẽ là người bạn tốt đồng hành cùng bạn trong suốt quá trình học và ôn thi THPT Quốc gia sắp tới. Bên cạnh đó để nâng cao kỹ năng viết văn các em xem thêm: phân tích nhâ vật A Phủ, phân tích bà cụ Tứ, phân tích cảnh vượt thác sông Đà, phân tích hình tượng người lái đò.

Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt cực hay

    Dàn ý phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt

    1. Mở bài

    – Giới thiệu khái quát về tác giả Kim Lân, truyện ngắn Vợ nhặt.

    – Giới thiệu về nhân vật người vợ nhặt với vẻ đẹp khuất lấp.

    2. Thân bài

    a. Giới thiệu chung nhân vật

    – Là một trong ba nhân vật chính trong tác phẩm.

    – Được khắc họa với những nét đối lập giữa ngoại hình tính cách, từ đó nổi bật lên là vẻ đẹp khuất lấp.

    b. Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt

    – Tình cảnh sống nghèo khổ, thảm hại nhưng có lòng ham sống mãnh liệt.

    – Tuy vẻ ngoài ngếch nhác, nhưng thực chất lại là người hiểu biết, ý tự và đúng mực.

    – Tính cách chỏng lỏn nhưng thực chất là một người phụ nữ hiền hậu, biết vun vén cho gia đình.

    3. Kết bài

    – Đánh giá về vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt.

    – Cảm nhận về nhân vật người vợ nhặt.

    Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt cực hay – Mẫu 1

    Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ/ Như đám mây ngũ sắc ngủ trong đầu” – có những tác phẩm chẳng thể hấp dẫn ta đọc đến trang cuối cùng, nhưng có những tác phẩm đọc đến trang cuối cùng vẫn còn đọng lại biết bao dư âm sâu lắng, ám ảnh khôn nguôi. Dư âm ấy khi như men say, mật ngọt khiến ta cảm nhận từng dòng chảy hân hoan, hạnh phúc trong tâm hồn, khi lại như móng vuốt sắc nhọn của một con vật nào đó chạm nhẹ trái tim ta, khiến ta thổn thức, nhói đau. Sức truyền cảm của một tác phẩm thực sự, bao giờ cũng lắng sâu như thế. “Vợ nhặt” của Kim Lân là một tác phẩm mang đến nhiều dư âm trong lòng người đọc. Đúng như Hà Minh Đức trong Nhà văn nói về tác phẩm đã viết: “Kim Lân là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Kim Lân đã tạo được cách viết độc đáo. Phải nói rằng Kim Lân viết không nhiều, nhưng sáng tác của ông đã gây ấn tượng với bạn đọc”. Trong đó phải kể đến tài năng miêu tả vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt trong hiện thực thảm khốc của cái đói.

    Truyện ngắn “Vợ nhặt”viết về nạn đói năm 1945. Bối cảnh của truyện là không gian năm đói ở một xóm ngụ cư. Bóng dáng của sự chết chóc đè nặng trong cuộc sống của người dân nơi đây. Người chết như ngả rạ, người sống thì như những bóng ma, sự sống của con người rất mong manh, họ đang kề cận cái chết. Không gian thì hoang dại với những đàn quạ gào lên từng hồi thê thiết và vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người. Trong hoàn cảnh thê thảm như thế nhưng nhà văn Kim Lân vẫn nhìn thấy vẻ đẹp của con người lấp lánh trong từng sự việc của đời sống. Nhân vật người vợ nhặt xuất hiện trong tác phẩm vừa là hiện thân cho số phận khốn khổ của người dân trong nạn đói, vừa ánh lên nhiều vẻ đẹp đáng quý của người phụ nữ Việt Nam.

    Trước hết, người “vợ nhặt” là nạn nhân của nạn đói với cuộc sống trôi nổi, bấp bênh. Dưới ngòi bút của Kim Lân, người vợ nhặt là người phụ nữ vô danh, không tên không tuổi, không quê hương, không quá khứ. Không phải là nhà văn nghèo ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho thị một cái tên mà bởi vì thị là cánh bèo nổi trôi trong nạn đói, là người đàn bà vô danh. Từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật này chỉ được gọi là “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”, nhưng lại là một nhân vật có vai trò đặc biệt quan trọng trong tác phẩm. Việc không đặt tên cho nhân vật là một dụng ý của tác giả làm tăng thêm tính khái quát cho hình tượng. Lần đầu thị xuất hiện là hình ảnh: ngồi lẫn trong đám con gái chờ nhặt hạt rơi hạt vãi trước cổng chợ tỉnh. Khi nghe Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc “Muốn ăn cơm trắng mấy giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh”, thị “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng…cười tít mắt”. Thị đẩy xe với hi vọng được ăn nên cũng rất nhiệt tình và chẳng cần ý tứ. Lần thứ hai, thị xuất hiện với ngoại hình kém hấp dẫn: “người phụ nữ gầy vêu vao”, “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai con mắt trũng hoáy”. Cái đói không chỉ tàn hại dung nhan của thị mà còn tàn hại cả tính cách, nhân phẩm. Cái đói khiến thị quên cả việc phải giữ ý tứ, lòng tự trọng của người con gái. Thị cứ thế mà đòi ăn. Được cho ăn, thị sẵn sàng “sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Thị đã đặt sự tồn tại của mình, đặt miếng ăn lên trên nhân cách. Vì đói mà thị trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong cớn”, “sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện. Miếng ăn ngày đói đã khiến con người thành ra vẻ rẻ rúng bèo bọt và đáng thương đến vậy.

    Nhưng phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, người “vợ nhặt” lại có một lòng ham sống mãnh liệt. Thị đồng ý theo Tràng là vì để được sống chứ không phải là loại người lẳng lơ. Nghe những lời nói đùa của Tràng, thị đã tưởng thật hay cố tình tưởng thật mà theo không Tràng về làm vợ. Thị đồng ý, đồng ý mà không hề do dự, phân vân. Trong khi đó, Tràng là ai, tốt xấu như thế nào? Gốc tích ra sao? Thị nào hay nào biết. Chỉ vì mấy bát bánh đúc là thị có thể theo ngay Tràng. Phải chăng thị theo Tràng chỉ vì miếng ăn? Thị dễ dàng, hời hợt thế ư? Thực ra tất cả hành động cử chỉ và lời nói của thị đều xuất phát từ bản năng sinh tồn, khao khát sống vốn có của mỗi người. Khi cái chết và cái đói đang cần kề người ta không còn để ý gì đến danh dự của mình nữa. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Thị chấp nhận theo không Tràng. Đó là ý thức bám lấy sự sống. Cận kề bên cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, thị vẫn vượt lên trên cái thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình. Niềm lạc quan yêu sống của thị chính là một phẩm chất rất đáng quý. Nói như Kim Lân: “Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”.

    Phía sau vẻ nhếch nhác, chao chát, người “vợ nhặt” lại là một người phụ nữ rất ý tứ, tế nhị, biết điều. Kim Lân đã cố ý đưa vào lời nói của thị một từ mang hàm ý độc đáo “Đã thật thì đẩy chứ sợ gì”, “Ừ ăn thì ăn sợ gì”. Qua những lời nói đó người đọc cảm nhận được sự ngượng ngùng xấu hổ của cô gái, chị như đang cố gắng che giấu đi sự ngượng ngùng ấy trong cách nói tưởng như bạo dạn và chỏng lỏn. Hai tiếng “sợ gì” góp phần cho người đọc thấy rõ hơn tình thế khốn khổ của cô gái đồng thời cho ta cảm nhận được chút lòng tự trọng đáng thương của cô. Trên đường về nhà chồng, tâm trạng của thị có sự thay đổi rõ nét. Nếu như anh cu Tràng sung sướng, tự mãn, cái mặt vênh lên tự đắc với mình thì người đàn bà lại cảm thấy xấu hổ. Trước cái nhìn “săm soi”, chọc ghẹo của người dân ngụ cư thị ngượng nghịu “chân nọ bước díu cả vào chân kia”, “đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”. Về đến nhà chồng, nhìn thấy “ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, thị “nén một tiếng thở dài”. Đây là tiếng thở dài ngao ngán, thất vọng nhưng cũng là sự chấp nhận. Ai ngờ cái phao mà thị vừa bám vào lại là một chiếc phao rách. Trong tiếng thở dài đó vừa có sự lo lắng cho tương lai ngày mai, vừa có cả những lo toan và trách nhiệm của thị về gia cảnh nhà chồng. Đó phải chăng là thị đã ý thức được trách của mình đối với việc cùng chồng chung tay gây dựng gia đình. Tấm lòng của thị thật đáng quý biết bao. Vào trong nhà, thị e thẹn, dè dặt “ngồi mớm” vào mép giường “Ngồi mớm” là thế ngồi bấp bênh, không ổn định nhưng cũng rất ý tứ. Chi tiết cho ta thấy sự ngượng ngùng pha lẫn tâm trạng lo lắng, thấp thỏm của cô gái. Khi bà cụ Tứ về thị cung kính, lễ phép chào bà cụ Tứ (chào đến hai lần). Đây là hình ảnh đẹp của người con dâu rất mực thước trong quan hệ với mẹ chồng. Khi Tràng thưa chuyện với mẹ, thị chỉ biết “đứng vân vê tà áo đã rách bợt”.

    Bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn, người vợ nhặt lại là một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan. Sáng hôm sau đêm tân hôn, người phụ nữ ấy có sự thay đổi hoàn toàn về tâm trạng và tính cách. Thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu vén nhà cửa. Sự thay đổi ấy người đọc cũng dễ nhận ra: nếu hôm qua thị chua ngoa, đanh đá bao nhiêu thì hôm nay thị lại hiền lành bấy nhiêu. Hơn ai hết, Tràng cảm nhận đầy đủ sự thay đổi tuyệt vời ấy: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Câu văn này đã ghi lại cảm xúc chân thật của Tràng trước sự đổi thay tích cực của vợ. Phải chăng tình yêu đích thực với sức nhiệm màu diệu kì đã có sức cảm hóa với thị. Trong bữa cơm đầu tiên tại gia đình chồng, dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn”. Khi đón bát cháo cám của bà cụ Tứ, hai con mắt thì tối lại nhưng chị vẫn “điềm nhiên và vào miệng”. Hành động của thị không làm cho mọi người phải khó xử, nó là kết quả của một nhận thức chín chắn, sâu sắc và một nhân cách đáng trân trọng. Thị xác định phải đồng cam cộng khổ với mọi người trong gia đình cùng nương tựa vào nhau để vượt qua cơn đói khổ. Không chỉ vậy, thị còn đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy”. Sự hiểu biết này của thị như đã giúp Tràng giác ngộ về con đường cách mạng phía trước mà anh sẽ lựa chọn “trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…”.

    Xây dựng nhân vật người vợ nhặt, nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống truyện độc đáo. Bút pháp tả thực khắc họa chân dung nhân vật một cách chân thực sinh động. Xây dựng nhân vật thông qua những chi tiết ngoại hình, ngôn ngữ, cử chỉ, hành động đặc biệt là tâm lý nội tâm nhân vật. Ngôn ngữ trần thật sinh động, hấp dẫn gần với lời ăn tiếng nói của người dân lao động. Vẻ đẹp của người vợ nhặt được khắc họa qua những phẩm chất của một nàng dâu mới, hiện lên qua các chi tiết đầy dư vị hóm hỉnh trong nạn đói thê thảm. Thị như một luồng gió mới “lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối” của những người dân xóm ngụ cư cũng như gia đình Tràng. Trong khi đó, vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài dưới ngòi bút của Nguyễn Minh Châu lại là phẩm chất của người mẹ nặng gánh mưu sinh, hiện lên qua các chi tiết đầy kịch tính trong tình trạng bạo lực gia đình. Nhân vật này không khỏi khiến ta băn khoăn, trăn trở về cách nhìn nhận con người cũng như mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực cuộc sống. Sở dĩ có sự khác biệt ấy là do phong cách nghệ thuật và thời điểm sáng tác của hai nhà văn. Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt được đặt trong quá trình phát triển biến đổi từ thấp đến cao, mang cảm hứng lãng mạn, tiêu biểu cho văn học thời kì kháng chiến. Trong khi đó nhân vật người đàn bà hàng chài lại tĩnh tại, bất biến như một hiện thực nhức nhối đang tồn tại. Nhân vật này thể hiện rõ cảm hứng thế sự-đời tư trong ngòi bút truyện của Nguyễn Minh Châu sau 1975.

    ​Qua truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã khắc họa nhân vật người phụ nữ vợ nhặt rất thành công. Tác giả chú trọng khắc họa hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc hiểu được tâm lí của người phụ nữ. Nhà văn lựa chọn được những chi tiết rất phù hợp để bộc lộ số phận cũng như vẻ đẹp của nhân vật. Nhân vật vợ nhặt nắm giữ vai trò khá quan trọng trong việc làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm đồng thời có vai trò quyết định trong việc hình thành nên tình huống truyện .Người đàn bà ấy đã sống với bản chất tốt đẹp vốn có của mình, của một người phụ nữ Việt Nam.

    Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt – Mẫu 2

    “Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Kim Lân. Truyện đã miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Đồng thời tác giả còn thể hiện được bản chất tốt đẹp và sức sống kỳ diệu của họ. Điều đó được thể hiện qua vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt.

    Người vợ nhặt hiện lên với vẻ ngoài xấu xí, thê thảm. Thị là nạn nhân của xã hội đói nghèo, cơ cực bị cuộc sống mưu sinh vắt kiệt sự sống. Tuy không được miêu tả nhiều nhưng vẫn hiện lên với những vẻ đẹp đáng trân trọng. Với tài năng miêu tả bậc thầy, Kim Lân đã xây dựng nhân vật đầy sống động, gây bất ngờ với những thay đổi ban đầu và về sau, trong cái đối lập giữa vẻ bề ngoài với những giá trị bên trong.

    Thị là nạn nhân của nạn đói, đứng trên ranh giới của sự sống và cái chết, chị ta sống lang bạt, vất vưởng. Đây cũng là cơ duyên để chị ta gặp gỡ và nên vợ nên chồng với anh Tràng. Tuy nhiên đối lập với cảnh trôi dạt, vất vưởng ấy lại là lòng ham sống mãnh liệt. Chỉ vì bốn bát bánh đúc, chị ta chấp nhận theo không anh Tràng – một người đàn ông xấu xí, nghèo khổ về làm vợ vừa là con đường chạy trốn với cái đói, cái chết vừa thể hiện khát khao hạnh phúc mãnh liệt ở người đàn bà ấy. Nếu đặt trong hoàn cảnh bình thường, có lẽ thị sẽ không theo Tràng về làm vợ. Giống như lời bà cụ Tứ thầm nghĩ: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…”. Thế mới thấy được khao khát sống mãnh liệt của người vợ nhặt.

    Tiếp đến, Kim Lân đã khắc họa hình ảnh người vợ nhặt hiện lên thật thê thảm, rách rưới. Lần thứ hai gặp lại Tràng, thị trở nên khác hẳn: “Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Chỉ với vài nét miêu tả thôi, nhưng ta đã thấy được tình cảnh thảm hại của thị. Nhưng không chỉ xấu xí, rách rưới mà ấn tượng đầu tiên chị ta mang đến cho độc giả là sự chao chát, chỏng lỏn. Một người phụ nữ lại có thể lớn tiếng mắng mỏ và đòi trả công bằng bữa ăn với người đàn ông mà mình chỉ mới gặp trước đây vài ngày: “Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt”. Rồi thị còn cong cớn với Tràng khi anh ta mời ăn trầu: “Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu”. Để rồi khi anh cu Tràng nói “Muốn ăn gì thì ăn”, thì đã chẳng ngại ngần gì mà “mắt còn sáng lên”, đon đả nói “ăn thì ăn thật chứ sợ gì”, “sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn chiếc bánh đúc”, khi ăn xong còn cầm lấy đũa quẹt ngang miệng. Tuy nhiên, ẩn chứa bên trong vẻ ngoài nhếch nhác, chỏng lỏn ấy lại là người đàn bà biết điều, một người phụ nữ hiền hậu, một người vợ đúng mực. Khi theo anh Tràng về nhà, trước sự bàn tán của người dân xóm ngụ cư chị ta dù không thoải mái nhưng cũng chỉ dám lầm bầm trong miệng. Về đến nhà, thị cũng chỉ dám“ngồi mớm ở mép giường”, rồi cất tiếng chào bà cụ Tứ thật nhẹ nhàng: “U đã về đấy ạ”. Nhìn thấy hình ảnh ngôi nhà lụp xụp của mẹ con anh Tràng, mặc dù cảm thấy thất vọng nhưng chị ta cũng không bỏ đi hay mắng chửi anh Tràng như trước đó mà chỉ cố nén tiếng thở dài, ánh mắt tối lại. Khi bà cụ Tứ về, người đàn bà ấy đã chủ động làm quen. Đến buổi sáng đầu tiên về nhà, chị ta cũng chủ động dậy sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, chuẩn bị mâm cơm gia đình. Thị bỗng hóa thân thành một nàng dâu hiền thảo, một cô Tấm giữa đời thực. Khi mẹ chồng bưng ra mời cô con dâu mới nồi cháo cám, thị cũng không hề có những phản ứng thô thiển như lúc trước mà chỉ lặng lẽ và miếng cháo chát nghẹn vào miệng. Rồi thị kể cho Tràng và mẹ nghe những câu chuyện về những người đi phá kho thóc, gieo vào lòng họ những niềm tin về một tương lai tươi sáng. Như vậy, ấn tượng về người vợ nhặt hoàn toàn thay đổi khi chị ta theo anh Tràng về làm vợ, đó chính là vẻ đẹp tâm hồn, bản chất đáng quý bên trong cái xù xì, xấu xí bên ngoài.

    Người vợ nhặt hiện lên dưới ngòi bút của nhà văn Kim Lân với những vẻ đẹp khuất lấp của một nàng dâu mới. Thị chính là đại diện cho những người phụ nữ trong nạn đói năm 1945 với những vẻ đẹp đáng trân trọng.

    Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt – Mẫu 3

    Kim Lân là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Một trong những tác phẩm nổi bật của ông là Vợ nhặt. Truyện đã khắc họa hình ảnh nhân vật người vợ nhặt với những vẻ đẹp khuất lấp đáng trân trọng.

    Truyện kể về Tràng – một người dân nghèo khổ sống cùng với mẹ già ở xóm ngụ cư. Một ngày nọ, trên đường kéo xe bò vào dốc tỉnh, Tràng tình cờ gặp gỡ với Thị. Chỉ với câu đùa và bốn bát bánh đúc, Thị đã đồng ý theo làm vợ và theo Tràng về nhà. Khi về đến nhà, bà mẹ của Tràng ban đầu rất ngạc nhiên, sau đó là đón nhận người đàn bà khốn khổ ấy làm con dâu với một sự thương cảm sâu sắc. Sáng hôm sau, Tràng bỗng cảm thấy mình đổi khác. Anh cảm thấy mình có trách nhiệm hơn. Bữa cơm đầu tiên của nàng dâu mới chỉ có vài món ăn đơn giản và một nồi cháo cám mà bà mẹ nói đùa đó là chè khoán. Miếng cám chát, nghẹn cổ nhưng Tràng vẫn cùng vợ hướng về một cuộc sống đổi khác. Cuộc trò chuyện về tiếng trống thúc thuế kết thúc và trong óc Tràng hiện ra đám người đói phá kho thóc và lá cờ đỏ bay phấp phới.

    Nhân vật người vợ nhặt được khắc họa trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Kim Lân không được ưu ái về ngoại hình, xuất thân. Thậm chí đến cái “tên” cũng không có, chỉ được nhà văn gọi là “thị”. Đặc biệt là những nét tính cách được Kim Lân khắc họa. Trước đó, Tràng chỉ hò bông đùa có một câu nhưng ai ngờ thị lại chạy ra đẩy xe bò cho anh ta thật. Sau đó mấy hôm, thị xuất hiện nhưng đã hoàn toàn thay đổi khiến Tràng không nhận ra: “thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Chỉ với vài nét miêu tả Kim Lân đã khắc họa lên hình ảnh thảm hại của người phụ nữ xóm ngụ cư. Nhưng không chỉ có vật, người vợ nhặt còn hiện lên với sự chao chát, chỏng lỏn khi đòi trả công bằng bữa ăn với người đàn ông mà mình từng đẩy xe bò hộ. Khi được Tràng mời ăn bánh đúc thì thị cúi đầu ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc. Đến khi ăn xong còn cầm đôi đũa quẹt ngang miệng và chép miệng khen ngon. Lúc này, ở thị không có sự khéo léo, tinh tế của người phụ nữ. Ta chỉ thấy hình ảnh một người đàn bà có phần vô duyên. Đặc biệt là khi Tràng ngỏ ý muốn người phụ nữ về làm vợ. Không đợi Tràng phải mở lời lần thứ hai thị đã gật đầu cái rụp rồi theo Tràng về nhà đồng ý làm vợ anh. Nhưng qua chi tiết này, Kim Lân lại cho thấy một vẻ đẹp khuất lấp bên trong người vợ nhặt. Đó là lòng ham sống mãnh liệt.

    Đến khi theo Tràng về nhà, thị lại trở nên khéo léo, tinh tế. Thị lại biết thẹn thùng khi theo Tràng về nhà, biết ý tứ ngồi mớm ở mép giường. Biết gia cảnh nhà Tràng, thị cũng chỉ nén một tiếng thở dài chứ không sừng sộ, bỏ đi. Thị còn rụt rè, lo sợ khi gặp mẹ chồng, rồi lễ phép chào hỏi. Sáng hôm sau, thị dậy thật sớm cùng mẹ dọn dẹp nhà cửa, phát quang ruộng vườn, chuẩn bị bữa ăn gia đình. Người vợ nhặt lúc này đã trở thành một người phụ nữ hiền hậu, một người vợ đúng mực. Khi mẹ chồng bưng ra mời cô con dâu mới nồi cháo cám, thị cũng không có những lời lẽ chê trách mà chỉ lặng lẽ và miếng cháo chát nghẹn vào miệng. Rồi thị kể cho Tràng và mẹ nghe những câu chuyện về những người đi phá kho thóc, gieo vào lòng họ những niềm tin về một tương lai tươi sáng.

    Qua phân tích trên, nhân vật người vợ nhặt hiện lên tuy vẻ bề ngoài xấu xí, thô kệch, nhưng ẩn sâu bên trong lại là những nét đẹp khuất lấp đáng trân trọng. Nhân vật đã thể hiện được trọn vẹn những dụng ý mà nhà văn muốn gửi gắm.

    Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt – Mẫu 4

    Truyện ngắn Vợ nhặt là tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Kim Lân. Với tác phẩm này, nhà văn đã khắc họa hình ảnh người vợ nhặt với những nét đẹp khuất lấp đằng sau vẻ bề ngoài xấu xí, thảm hại.

    Vợ nhặt là câu chuyện xoay quanh nhân vật Tràng sống cùng người mẹ già ở xóm ngụ cư. Một ngày nọ, trên đường kéo xe bò vào dốc tỉnh, Tràng tình cờ gặp gỡ với Thị. Chỉ với câu đùa và bốn bát bánh đúc, Thị đã đồng ý theo làm vợ và theo Tràng về nhà. Khi về đến nhà, bà mẹ của Tràng ban đầu rất ngạc nhiên, sau đó là đón nhận người đàn bà khốn khổ ấy làm con dâu với một sự thương cảm sâu sắc. Sáng hôm sau, Tràng bỗng cảm thấy mình đổi khác. Anh cảm thấy mình có trách nhiệm hơn. Bữa cơm đầu tiên của nàng dâu mới chỉ có vài món ăn đơn giản và một nồi cháo cám mà bà mẹ nói đùa đó là chè khoán. Miếng cám chát, nghẹn cổ nhưng Tràng vẫn cùng vợ hướng về một cuộc sống đổi khác. Cuộc trò chuyện về tiếng trống thúc thuế kết thúc và trong óc Tràng hiện ra đám người đói phá kho thóc và lá cờ đỏ bay phấp phới.

    Nổi bật lên trong tác phẩm là cô vợ nhặt. Thị xuất hiện trong tác phẩm nhưng không có tên tuổi, quê quán hay người thân. Cô chỉ được nhà văn gọi là “thị” – mang tính phiếm chỉ. Thị đại diện cho rất nhiều người phụ nữ Việt Nam trong những năm 1945 – khi nạn đói hoành hành. Kim Lân đã miêu tả người vợ nhặt với một ngoại hình xấu xí: “khuôn mặt lưỡi cày gầy xám xịt”, “áo quần rách như tổ đỉa”, “cái ngực gầy lép nhô lên”. Nhưng không chỉ dừng lại ở ngoại hình, cái ấn tượng của người đọc về thị còn ở cái hành động “lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng” – một người đàn ông không hề quen biết. Rồi đến lần thứ hai gặp lại, thị lại cong cớn đòi Tràng trả công. Khi được mời ăn cũng chẳng kiêng dè mà ăn một chặp hết bốn bát bánh đúc, ăn xong còn cầm lấy đũa quẹt ngang miệng.

    Nhưng ẩn sau cái ngoại hình xấu xí, cái dáng vẻ cô duyên ấy của người vợ nhặt chính là vẻ đẹp của người phụ nữ đảm đang, hiền hậu đúng mực và giàu lòng nhân hậu. Vẻ đẹp ấy của người vợ nhặt được thể hiện khi trên đường thị theo Tràng về nhà. Lời nhận xét của dân làng xóm ngụ cư “trông chị ta thèn thẹn hay đáo để” cùng hành động “chân nọ bước díu vào chân kia” của nhân vật thị đã cho thấy sự e thẹn, ngượng nghịu có cái gì đó xấu hổ của thị khi quyết định theo Tràng về làm vợ. Đặc biệt khi về đến nhà, sự ngại ngùng ấy còn bộc lộ qua hành động “ngồi mém ở mép giường”. Đó là một cách ngồi rất ý tứ khi lần đầu tiên bước tới nhà chồng, nó cho thấy vẻ đẹp e dè, kín đáo vốn có của người phụ nữ. Rồi thị “lẳng lặng theo Tràng vào trong nhà”, đảo mắt nhìn xung quanh ngôi nhà rồi “nén một tiếng thở dài, nhếch mép cười nhạt nhẽo”. Những tưởng theo Tràng về làm vợ sẽ thoát khỏi cuộc sống đói nghèo, nhưng đến khi về nhà thị mới nhận ra cảnh ngộ của Tràng cũng không khá hơn. Tuy nhiên không vì thế mà thị bỏ đi, thị chỉ là nén tiếng thở dài. Đó chính là sự ý tứ và kín đáo của nhân vật. Đặc biệt là sự thay đổi của người vợ nhặt vào buổi sáng hôm sau. Ta không thể ngờ được người vợ nhặt trước đó khi trở thành nàng dâu mới lại đảm đang, hiền hậu. Thị đã dậy sớm, thu dọn nhà cửa, vườn tược cùng mẹ chồng. Giờ đây, ở đó, không còn một thi chao chát, chỏng lót nữa mà chỉ còn lại “một người đàn bà hiền hậu đúng mực”, khiến cho cuộc sống của Tràng đang thay đổi theo chiều hướng tích cực, tốt đẹp hơn. Thị đã khiến Tràng trưởng thành hơn, biết chăm lo và mong ước về một tương lai tốt đẹp.

    Như vậy, Kim Lân đã thật thành công khi khắc họa hình ảnh người vợ nhặt. Ẩn sâu bên trong vẻ bên ngoài xấu xí là một người phụ nữ luôn khao khát được sống, được hạnh phúc.

    Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt – Mẫu 5

    Đất nước Việt Nam – đất nước của những câu hát ru ngọt ngào một thuở, đất nước của cánh cò trắng bay, đất nước của bàn tay mẹ tảo tần qua bao năm tháng… và từ trong nguồn mạch dạt dào ấy, người phụ nữ kết tinh của non nước ngàn năm, là đề tài chưa bao giờ vơi cạn trên ngọn bút của người nghệ sĩ, qua nhiều thời đại khác nhau. Nếu chị Dậu của Ngô Tất Tố là điển hình cho người phụ nữ Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Một người phụ nữ mẫu mực, không gục ngã trước thử thách, là chỗ dựa cho cả gia đình ở thế cùng quẫn. Thì thị của Kim Lân dường như chỉ còn lại sự bé nhỏ, nổi trôi, bất hạnh và khổ sở không biết đi đâu về đâu. Nhưng chính trong những con người ấy lại ẩn chứa những “hạt ngọc”, và chính “hạt ngọc” ấy đã góp phần làm nên giá trị nhân đạo của tác phẩm “Vợ nhặt”.

    Có lẽ bạn đọc biết đến Kim Lân qua những trang văn viết về về người lao động, về nông thôn Việt Nam trước Cách mạng với cuộc sống bình dị, nghèo khó, một cuộc sống cùng cực nhưng vẫn chan chứa biết bao tình. “Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm như thế. Tiền thân của nó từ tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” song vì kháng chiến mà bảo thảo đã bị thất lạc và rơi rớt nhiều. Cho đến năm 1954, khi hòa bình lập lại Kim Lân đã viết tác phẩm này dựa trên những hình dung, tưởng tượng về nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ có hai triệu đồng bào chết đói. Về sau “Vợ nhặt” được in vào tập “Con chó xấu xí” năm 1962 và trở thành tác phẩm thành công viết về nạn đói theo một góc nhìn rất khác.

    Trong “Vợ nhặt”, thị hiện lên là một người đàn bà vô danh – một số không tròn trĩnh – không tên, không tuổi, không quê quán, không nghề nghiệp, không tài sản. Cái đói đã cướp đi tất cả. Thị chỉ còn biết ngồi vêu ở xó tỉnh để nhặt hạt rơi, hạt vãi. Và Kim Lân đã cho thị và Tràng gặp nhau trong tình cảnh hết sức éo le, trớ trêu. Tràng xuất hiện với câu hò mùi mẫn “Muốn ăn cơm trắng với giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh”, thị đã ton chạy lại giúp anh nhưng nào ngờ đó chỉ là lời bông đùa của Tràng. Đến lần sau, thị gặp lại Tràng trong bộ dạng gây ám ảnh kinh hoàng trong tâm trí người đọc: “tay vân vê tà áo đã rách bợt”, thân hình tiều tụy, khổ sở “thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Dưới chân thị là vực thẳm, là chết đói thị tức tối đứng trước Tràng mà sưng sỉa, cong cớn cho rằng Tràng là kẻ thất hứa. Tất cả chỉ vì miếng ăn mà thành ra như vậy. Sau khi được Tràng đãi một chầu bánh đúc, thị lại bám vào lời nói đùa của Tràng để theo không hắn. Vì đói, vì khát, người đàn bà này buộc phải bỏ qua danh dự và nhân phẩm của mình. Từ đây chúng ta biết đến thị với cái tên “vợ nhặt” đầy thương xót.

    Nhưng Kim Lân không dừng lại ở nỗi khốn cùng của người dân lao động, điều mà Kim Lân hướng đến không phải là cái đói, cái chết mà dùng nó để làm đòn bẩy khẳng định sự sống trong họ, khẳng định dù trong hoàn cảnh cơ cực, con người vẫn vươn lên để sống và khao khát. Kim Lân viết “Vợ nhặt” không chỉ bằng con mắt hiện thực sắc lạnh mà còn bằng cả trái tim chan chứa yêu thương và trân trọng con người. Qua đó nhà văn phát hiện những tia sáng về đạo đức, danh dự, đằng sau những số phận bi kịch là vẻ đẹp tâm hồn, là những khát khao bản năng của con người. Với tấm lòng rất mực nhân hậu, Kim Lân đã nhìn thấy ngay ở hành động theo không Tràng – một người đàn ông xa lạ về làm vợ, nhìn bề ngoài là sự mất giá đến thảm hại của người phụ nữ. Nhưng sâu thẳm bên trong người đàn bà khốn khổ ấy là một lòng ham sống mãnh liệt. Hành động thị theo không Tràng mà không cần cưới treo, bên ngoài là bản năng sinh tồn, bấu víu vào sự sống. Nhưng sâu hơn, đó cũng là hành động biểu thị khao khát chính đáng, cơ bản của con người. Kim Lân còn thấy cả sau vẻ ngoài nhếch nhác và tiều tụy là một người biết điều, ý tứ. “Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén và e thẹn.” Khi nhận thấy cái nhìn tò mò của mọi người xung quanh “thị càng ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia”. Linh cảm của một người phụ nữ đã mách bảo cho thị, thị ý thức được thân phận nghèo hèn của mình, thị xấu hổ vì cảnh ngộ theo không của mình. Bởi thị vẫn còn lòng tự trọng. Nhưng bên cạnh đó, phải chăng thị đang mang vẻ ngượng ngùng của cô gái ngày đầu về làm vợ, làm dâu. Cái vẻ ngượng ngùng, e thẹn của người phụ nữ đi bên chồng khi bắt gặp ánh mắt săm soi của người dân xóm ngụ cư.

    Cái dáng vẻ đanh đá, chỏng lỏn, chao chát ngoài chợ tỉnh đi đâu mất khi thị bước chân theo Tràng về đến nhà, thấy cảnh tượng xơ xác của gia đình nhà chồng, thị chỉ nén một tiếng thở dài cam chịu, tuy thất vọng mà không hề kêu than. Đây là một trong những chi tiết thể hiện sự tinh tế trong tính cách của nhân vật. Trước ngôi nhà rúm ró mọc lổm ngổm những búi cỏ dại, thị đã phần nào nghĩ được về tương lai phía trước của mình. Dường như giờ đây trong thị tràn đầy sự khiêm nhường, ý tứ, e dè của một nàng dâu mới: chỉ dám “ngồi mớm ở mép giường” không hết ngượng nghịu, “tay ôm khư khư cái thúng”. Thế ngồi của thị khi mới về nhà chồng là thế ngồi chênh vênh, không vững chắc, thế ngồi nửa vời. Đó cũng chính là tâm thế của thị lúc bấy giờ, một tư thế đầy mặc cảm, cảm giác chông chênh, hụt hẫng, lo lắng,… nỗi buồn tủi đến giây phút này tự nhiên dâng ngập trong lòng người vợ nhặt. Thế nhưng, thị không để nỗi đau trào ra mà nén tất cả nước mắt vào trong, vì tủi nhưng không thể khóc được, vì thất vọng, hụt hẫng mà không thể sẻ chia thế nên tâm trạng của người đàn bà lúc này đang rối bời đến bội phần. Chưa gặp bà cụ Tứ, thị rất băn khoăn lo lắng “mặt bần thần”. Thị sợ rằng liệu người mẹ ấy có chấp nhận sự xuất hiện của thị trong ngôi nhà này không. Rồi tương lai của thị sẽ đi đâu về đâu. Đứng trước mặt mẹ chồng, trông thị rất đáng thương: “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt”. Dường như thị đang mong chờ một quyết định quan trọng, nó như là một bước ngoặt trong cuộc đời thị. Nó quyết định thị sẽ có một mái ấm hay rồi lại “vất vơ” nhặt thóc, nhặt gạo sống qua ngày. Nhưng khi nghe bà cụ Tứ nói: “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân” thị “vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ”. Đó là tâm trạng của một người con gái lấy chồng không một quả cau, một lá trầu, không cưới. Tủi cho cảnh ngộ. Tủi cho duyên số. Thật đáng thương bao. Nhưng đó cũng chính là sự khép nép, ngượng nghịu của người con dâu lần đầu về gặp mẹ chồng. Cũng có thể thấy, nhân vật này đã có sự thay đổi khi chủ động chào người mẹ nghèo hai lần vì sợ bà không nghẽ rõ, mọi cư xử với mẹ đều rất lễ phép, đúng mực. Điều này cũng giúp người đọc càng thêm trân trọng vẻ đẹp phẩm chất của một người đàn bà đã vừa trải qua những giây phút bán rẻ đi lòng tự trọng của mình. Đêm tân hôn hôm ấy đã nhen nhóm lên khao khát hạnh phúc trong thị để rồi nhân vật này đã có những thay đổi đầy bất ngờ tiếp theo.

    Sáng hôm sau thị đã trở thành một người vợ, một người con dâu đúng mực. Thị dậy sớm cùng mẹ chồng quét tước, thu dọn nhà cửa sạch sẽ gọn gàng, xây đắp tổ ấm hạnh phúc bé nhỏ của mình. Tiếng chổi quét sân của thị “kêu sàn sạt trên mặt đất” tưởng như niềm vui đang xôn xao trong lòng thị? Nghe lời mẹ chồng, thị “lẳng lặng” đi vào bếp dọn bữa ăn sáng. Trong bữa cơm đón nàng dâu mới, cả nhà được bà cụ Tứ đãi món “chè khoán”, theo bà cụ Tứ thì nó “ngon đáo để” mà khối nhà trong xóm không có mà ăn. Thị nén cảm xúc của mình lại dù món “chè khoán” thực chất là món cháo cám rất đắng, chát, khó ăn. Thị nuốt thẳng miếng cháo cám vì sợ mẹ phiền lòng. Qua đây cũng cho thấy thị là một người chịu cam chịu khổ và đặc biệt thị rất yêu thương mẹ chồng mình. Đó cũng là chi tiết đắt giá thể hiện sự chấp nhận của thị trước gia cảnh gieo neo, khốn khó của nhà chồng. Thị đã sẵn sàng trở thành một phần trong gia đình nhỏ này, cùng chồng, cùng mẹ chồng của mình gánh vác những khó khăn phía trước. Khao khát hạnh phúc dường như đã tiếp thêm cho con người ta một sức mạnh lớn lao đến thế. Có thể thấy rằng, gia đình Tràng được tiếp thêm sinh khí khi có thị. Thị hướng tới một tương lai tươi sáng khi người phụ nữ này chính là người nói nhiều nhất về đoàn người đi phá kho thóc của Nhật. Thị đã khai sáng cho Tràng và bà cụ Tứ để rồi hình ảnh đoàn người đi phá kho thóc và lá cờ đỏ sao vàng cứ xuất hiện mãi trong tâm trí của Tràng, mở ra những hứa hẹn về tương lai tươi sáng hơn cho tất cả các nhân vật.

    Với những nét vẽ đơn giản, Kim Lân đã xây dựng thành công người vợ nhặt. Một người phụ nữ với hình hài khốn khổ, tội nghiệp thế nhưng trong tâm hồn lại ẩn chứa sự nhạy cảm, tinh tế, sức sống tiềm tàng mãnh liệt và khát vọng hạnh phúc khi đang ở bên bờ vực thẳm. Thị đã nói lên một sự thật ờ đời. Trong đói khổ hoạn nạn, kề bên cái chết, nhân dần ta vẫn khao khát được sống ấm no, hạnh phúc. Bên cạnh đó, thị còn là “hóa thân” thành hình ảnh người vợ, người con dâu với những trách nhiệm, công việc đè nặng lên đôi vai. Những người vợ vẫn luôn quán xuyến, lo toan một cách chu toàn cho gia đình bé nhỏ của mình. Những con người nghèo khổ đã biết dựa vào nhau, san sẻ vật chất và tình thương cho nhau để vượt qua thử thách khắc nghiệt, vươn tới ấm no hạnh phúc và sự đổi đời với niềm tin: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”… Thị cũng chính là nhân vật thể hiện rõ những vẻ đẹp khuất lấp của người phụ nữ Việt Nam giai đoạn trước cách mạng. Trong tận cùng của cuộc đời, người ta vẫn muốn được sống, sống cho ra một con người.

    Qua hình tượng nhân vật người vợ nhặt ta càng thấy rõ giá trị nhân đạo tác phẩm. Chính giá trị nhân đạo ấy khiến Kim Lân và “Vợ nhặt” sống mãi trong lòng bạn đọc mặc cho lớp bụi thời gian có phủ kín. Với trái tim ấm nóng và tấm lòng nhân hậu Kim Lân thể hiện sự đồng cảm, trân trọng và nâng niu với những số kiếp bé nhỏ. Đó là thị – một số không tròn trĩnh, một người tưởng như đánh mất cả lòng tự trọng chỉ vì miếng ăn nhưng phía sau là “hạt ngọc” đang được ẩn giấu. Một tấm lòng ham sống, khao khát hạnh phúc đời thường. Cái đói khiến thị trở thành nên chao chát, chỏng lỏn và cong cớn nhưng đó không phải con người của thị. Trong đôi mắt của Kim Lân, thị ý tứ, dịu hiền, đảm đang của một người vợ, một người con dâu mới về nhà chồng. Ngòi bút của Kim Lân còn tố cáo chế độ thực dân Pháp, phát xít Nhật đã khiến đời sống nhân dân ta lâm vào cảnh khốn cùng, cả dân tộc đứng trước thảm diệt vong, người chết như ngả rạ, người sống thì vất vưởng như những bóng ma. Nhưng vượt lên trên tất cả Kim Lân không để cho nhân vật của mình phải chết trong đau đớn, quằn quại như “Chí Phèo” hay “Lão Hạc” của Nam Cao. Kim Lân đã hé mờ cho nhân vật của mình một lối đi, một lối đi hướng về tương lai, hướng về sự sống khi để hình ảnh lá cờ bay phấp phới trong tâm trí Tràng.

    Với cách dựng truyện tự nhiên, đơn giản nhưng chặt chẽ. Kim Lân đã khéo léo làm nổi bật sự đối lập giữa hoàn cảnh và nhân vật. Không những thế giọng văn còn mộc mạc, giản dị gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân lao động. Tất cả làm nên tên tuổi “Vợ nhặt” một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện một xã hội nghèo khổ, cùng cực, nhưng vẫn sáng lên tình người và những tia hi vọng trong tư tưởng của người nông dân trước cách mạng.

    Một nhà văn “nguyện một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn” như Kim Lân đã thực sự thành công với hình tượng người vợ nhặt. Một người phụ nữ với biết bao vẻ đẹp bị khuất lấp sau bức chân dung được vẽ bằng những đường nét nguệch ngoạc. Sau cùng đó là một tấm lòng hết mực yêu thương, trân trọng vẻ đẹp, khát vọng của con người. Có điều gì quý giá và đáng trân trọng hơn thế. Tình người, tình đời thêm một lần nữa thấm đẫm trong những trang sách Kim Lân.

    Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt – Mẫu 6

    Nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử nước ta năm 1945 đã được tái hiện qua ngòi bút của Kim Lân trong tác phẩm “Vợ nhặt”. Nạn đói ấy không chỉ “vắt kiệt” sự sống của con người, đặt con người ta trước ranh giới mỏng manh của sự sống và cái chết mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến tính cách, cuộc đời và số phận của họ. Cái đói đã đẩy con người đến bước đường cùng, khiến họ phải từ bỏ lòng tự trọng và danh dự của mình để có được miếng ăn. Người vợ nhặt đi theo Tràng hiện lên như minh chứng cho hiện thực khốc liệt và thê thảm ấy, tuy nhiên khuất lấp bên trong một con người chao chát, chỏng lỏn như thị lại là những vẻ đẹp phẩm chất sáng ngời.

    Người vợ nhặt hiện lên với ngoại hình không còn gì tiều tụy hơn “áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi…”, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Chị ta là nạn nhân đáng thương của nạn đói, sự xuất hiện của thị trong câu chuyện cũng thật đặc biệt: “chị ta cùng mấy chị con gái nữa đang ngồi vêu ra ở ngoài đường” nghĩa là chị ta không có nhà để ở, ngồi đấy chờ ai có việc gì gọi đến thì làm. Chị ta không có công việc ổn định, lại đang trong tình cảnh thất nghiệp nên chỉ chờ xem ai có hạt rơi hạt vải gì thì nhặt, vậy mới thấy rằng chị ta ngay cả miếng ăn cũng không có. Ngay cả cái tên, một sự sở hữu tối thiểu của một con người chị ta cũng không có, người đàn bà ấy xuất hiện với một con số “0” tròn trĩnh (không tên, không nhà cửa, không việc làm, không miếng ăn), chị ta đang ở bên bờ vực của cái chết, hay nói cách khác, cảnh ngộ của người vợ nhặt là khốn cùng và đáng thương. Tuy nhiên, ẩn sâu trong hình hài tiều tụy ấy là một khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và ý thức vươn lên mạnh mẽ của người đàn bà.

    Lời nói và cử chỉ của người đàn bà ấy thể hiện rất rõ sự bạo dạn qua hai lần gặp Tràng ở chợ tỉnh. Lần đầu gặp mặt, chị ta đáp lại câu hò của Tràng một cách cong cớn và gọi Tràng là “nhà tôi” sau đó còn ton ton chạy đến đẩy xe cho Tràng, lại còn liếc mắt cười tít và gọi Tràng là “đằng ấy”. Đó là những lời lẽ và cử chỉ đầy thân mật và vồ vập. Lần hai, chị ta xuất hiện trước mắt Tràng trong trạng thái tức giận, chị ta chạy đến và nói một cách sưng sỉa, trách Tràng hứa hẹn, điều đó chứng tỏ rằng chị ta đã chờ đợi cuộc hẹn với Tràng và vô cùng thất vọng khi bị lỡ hẹn. Vì quá đói mà thị đã gợi ý Tràng để được mời ăn, khi Tràng mời chị ta ăn giàu chỉ để làm quen nhưng chị ta lại muốn ăn thứ khác để được no. Và khi được đồng ý thì “hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị ngồi sà xuống ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì,…” Trong hành động ăn của người đàn bà ấy có sự đấu tranh, giành giật sự sống từ tay tử thần. Vì đã quá đói mà chị ta phải ăn để được no và để được ăn thì chị ta đã phải bỏ qua lòng tự trọng. Chưa dừng lại ở bữa ăn, điều chị ta cần không chỉ là một bữa no mà là sự sống, muốn vậy phải có chỗ dựa, vì thế sau khi ăn một chặp bốn bát bánh đúc, trước lời bông đùa của anh Tràng, chị đã đã chấp nhận theo không một người đàn ông về làm vợ. Hành động này đã thể hiện sự rẻ rúng, đáng thương của một con người, người đàn bà ấy không chỉ bỏ qua lòng tự trọng mà còn phải bỏ qua cả phẩm giá của một người con gái. Nhưng trong hoàn cảnh này, Thị đã bất chấp tất cả chỉ để được sống và chị ta đã có một gia đình, đã có một cuộc đời khác. Trái ngược với dáng vẻ đanh đá, có phần trơ trẽn, vô duyên ở chợ huyện. Khi theo Tràng về nhà, chị ta trở nên rất ý nhị, đúng mực. Trước những lời bàn tán, chỉ trỏ của người dân xóm Ngụ Cư, dù khó chịu nhưng thị cũng chỉ lầm bầm trong miệng. Khi về đến nhà, gia cảnh nghèo khó của anh Tràng bày ra trước mắt khiến thị thất vọng. Thế nhưng người đàn bà ấy vẫn cố gắng giấu sự thất vọng ấy đi trong tiếng thở dài cố nén và ánh mắt tối lại. Khi gặp mặt bà cụ Tứ, người vợ nhặt đã chủ động chào hỏi, làm thân với người mẹ chồng, một thái độ rất đúng mực của người con dâu mới.

    Sự thay đổi rõ nhất chính là người vợ nhặt trong buổi sáng hôm sau. Khi đã làm vợ người khác, có một gia đình, ở người đàn bà ấy thức dậy thiên chức chăm sóc của người phụ nữ. Chị ta chăm chỉ quét tước nhà cửa cho gọn gàng sạch sẽ, đó là bàn tay vun vén, là sự lo toan chu tất của người phụ nữ trong gia đình. Lời lẽ của chị ta cũng trở nên hiền hậu, đúng mực, như vậy gia đình không chỉ đem đến cho người vợ nhặt một chỗ dựa mà còn dành cho chị ta cả hơi ấm của tình người, chính những điều tốt đẹp đó đã giúp người đàn bà được thay đổi. Chị ta đã có một câu nói rất quan trọng trong bữa cơm buổi sáng hôm sau “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy”. Câu nói ấy chứng tỏ chị ta đã có hiểu biết về phong trào Việt Minh và biết sử dụng hiểu biết đó để giác ngộ người khác. Nhân vật người đàn bà ấy không chỉ đem đến cho mẹ con Tràng một hạnh phúc gia đình mà còn giúp Tràng được giác ngộ, giúp Tràng bước sang một trang đời mới, bản thân chị ta cũng được thay đổi cuộc đời.

    Qua ngòi bút của Kim Lân, những con người đói khát đến mức gần kề cái chết như người vợ nhặt vẫn khao khát hạnh phúc, tổ ấm gia đình. Rộng hơn là mọi người trong hoàn cảnh đó vẫn cưu mang, đùm bọc và chia sẻ lẫn nhau. Ở họ chỉ đói ăn đói mặc chứ không bao giờ cạn kiệt niềm tin vào tương lai, hi vọng vào một ngày mai tươi sáng với những viễn cảnh hạnh phúc.

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *