So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà tuyển chọn 6 bài văn mẫu siêu hay gồm bài phân tích ngắn gọn, đầy đủ, bài làm của học sinh giỏi. Qua đó giúp cho các em học sinh lớp 12 có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng luyện Văn ngày một tốt hơn.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà
Phân tích nhân vật người lái đò trong Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân với nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù để thấy chỗ thống nhất và khác biệt trong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng Tám. Vậy dưới đây là 3 gợi ý cách viết và 6 bài văn mẫu siêu hay mời các bạn cùng đón đọc.
Cảm nhận nhân vật Huấn Cao và Người lái đò Sông Đà
Dàn ý So sánh nhân vật người lái đò và Huấn Cao
Dàn ý chi tiết số 1
I. Mở bài:
Giới thiệu tác giả và tác phẩm
– Sông Đà là tập tùy bút hay nhất của Nguyễn Tuân viết về cảnh và người Tây Bắc. Đó kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958 của nhà văn.
– Phong cảnh Tây Bắc dưới ngòi bút Nguyễn Tuân vừa hùng vĩ uy nghiêm, vừa tuyệt vời, thơ mộng. Trong bài Người lái đò sông Đà rút từ tập tùy bút Sông Đà, nhà thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn hết lời ngợi ca vẻ đẹp của con người Tây Bắc, nhất là những người lái đò trên con sông dữ dội và thơ mộng ấy.
II. Thân bài :
So sánh hai tác phẩm Chữ người tử tù và Người lái đò sông Đà.
1. Phân tích nhân vật người lái đò sông Đà
* Vài nét về hình ảnh con sông Đà
– Hình ảnh sông Đà hiện lên thật hung dữ nhưng cũng không kém phần thơ mộng, trữ tình.
– Hình ảnh sông Đà vừa “hung bạo” vừa “trữ tình” là nền để người lái đò xuất hiện.
* Nhân vật người lái đò sông Đà
Ông lái đò:
– Ông là người anh hùng sông nước.
– Ông lái đò là nghệ sĩ tài hoa.
-> Đúng như nhà văn Nguyễn Tuân nhận xét, ông lái đò là một “tay lái đò tài hoa”.
=> Nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Tuân rất tài hoa. Nhà văn lược bỏ hầu hết các chi tiết về đời tư của ông lái đò để đi sâu vào khắc họa ngoại hình, hành động của nhân vật.
2. So sánh nhân vật người lái đò với nhân vật Huấn Cao
– Nhân vật Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là một con người tài hoa, khí phách hiên ngang bất khuất, “thiên lương” trong sáng.
– Vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao là vẻ đẹp lãng mạn, có sức chinh phục, cảm hóa mãnh liệt đối với những con người có tấm lòng “biệt liên tài”.
=> Từ việc tìm hiểu vài nét về vẻ đẹp hình tượng của nhân vật Huấn Cao chúng ta dễ thấy được những nét chung và điểm khác biệt trong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng Tám.
* Nét chung:
– Nguyễn Tuân tiếp cận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ.
– Vẫn là ngòi bút tài hoa, uyên bác, lịch lãm, vận dụng tri thức tổng hợp của nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật khác nhau trong miêu tả và biểu hiện.
– Vẫn sử dụng vốn ngôn từ hết sức tinh lọc, phong phú, độc đáo. Khả năng tổ chức câu văn đầy giá trị tạo hình, có nhạc điệu trầm bổng, biết co duỗi nhịp nhàng. Các phép tu từ được nhà văn phối hợp vô cùng điêu luyện.
* Khác biệt:
– Chữ người tử tù ca ngợi cái đẹp của tài hoa, khí phách và thiên lương, qua đó phủ nhận thực tại phàm tục của xã hội thực dân phong kiến trước Cách mạng. Người lái đò sông Đà ca ngợi con sông Đà và người lái đò sông Đà, bày tỏ niềm yêu mến thiết tha thiên nhiên đất nước, niềm tin yêu cuộc sống mới, con người mới.
+ Huấn Cao là con người của quá khứ, của lịch sử, nay chỉ còn “vang bóng’’; ông lái đò là con người của hiện tại, của hôm nay.
+ Huấn Cao là người đặ biệt, siêu phàm ; ông lái đò là con người bình thường của cuộc sống thường nhật.
+ Huấn Cao đối lập sâu sắc với xã hội, trở thành kẻ tử tù của xã hội bất công; ông lái đò là một con người đang ngày đêm đem sức lực và trí tuệ xây dựng quê hương, đất nước.
– Về cảm hứng thẩm mĩ:
+ Qua nhân vật Huấn Cao: tài hoa nghệ sĩ chỉ có ở những con người kiệt xuất thuộc quá khứ “vang bóng một thời’’
+ Qua nhân vật ông lái đò: tài hoa nghệ sĩ có cả ở nhân dân đại chúng, thể hiện trong lao động và chiến đấu.
– Về cách tiếp cận con người:
+ Trong Chữ người tử tù: ca ngợi những “con người đặc tuyển, những tính cách phi thường”, ca ngợi cái đẹp và nhấm nháp những cảm giác mới lạ.
+ Trong Người lái đò sông Đà: ca ngợi những nhân vật tài hoa có thể tìm thấy ngay trong cuộc chiến đấu, lao động hàng ngày của nhân dân, ca ngợi cái đẹp gắn với nhân dân lao động, với cuộc sống đang nảy nở sinh sôi đồng thời lên án, tố cáo chế độ cũ, khẳng định bản chất nhân văn của chế độ mới.
III. Kết bài:
– Qua Người lái đò sông Đà và nhân vật người lái đò, ta thấy nổi lên một Nguyễn Tuân tài hoa độc đáo, uyên thâm, tâm huyết, có tấm lòng yêu thương, tự hào da diết về vẻ đẹp của thiên nhiên, con người miền Tây Bắc.
– Hai tác phẩm Người lái đò sông Đà và Chữ người tử tù đã nói lên phần nào đặc điểm phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân với sự ổn định lẫn sự vận động trong phong cách ở hai giai đoạn trước và sau Cách mạng.
Dàn ý chi tiết số 2
1. Hoàn cảnh
* Điểm chung
– Phải đối mặt với một môi trường sống chứa đựng nhiều nguy hiểm, đầy thử thách.
– Môi trường ấy đồng thời cũng là cơ hội để họ bộc lộ trọn vẹn những vẻ đẹp độc đáo trong tâm hồn, tính cách, khả năng của họ.
* Điểm riêng
– Huấn Cao
+ Chế độ phong kiến suy tàn, bắt đầu bộc lộ tính chất xấu xa, đen tối.
+ Vì chống lại triều đình phong kiến mà Huấn Cao đã bị bắt, bị xử án tử hình, bị giam cầm để chờ ngày ra pháp trường chịu án chém. Những ngày cuối cùng của cuộc đời ông phải sống trong buồng giam tử tù, nơi không có chỗ cho sự tồn tại của thiên lương hay cái đẹp. Do đó, Huấn Cao luôn phải chuẩn bị tâm thế cho những trò đốn mạt, cạm bẫy xấu xa của kẻ tiểu nhân.
– Ông lái đò
+ Môi trường lao động đầy nguy hiểm: Con sông Đà hung bạo, độc dữ như kẻ thù số một.
+ Công việc lái đò lại là công việc dễ tổn thọ bởi nó đầy những hiểm nguy, buộc người lái đò phải luôn tay, luôn mắt, luôn gần, luôn tim. Nguy hiểm nhất là những lần vượt thác – nơi dòng sông thể hiện đầy đủ nhất cái uy lực khủng khiếp của nó.
2. Đặc điểm:
Tài năng phi phàm, xuất chúng:
– Huấn Cao:
+ Tài năng trong lĩnh vực nghệ thuật – đòi hỏi sự uyên bác và một tâm hồn phóng khoáng.
+ Tài viết chữ: Nét chữ vuông vắn, tươi tắn, viết nhanh và đẹp. Hồn chữ – điều được kí thác trong từng nét chữ là hoài bão tung hoành của một đời người. Danh tiếng: chữ Huấn Cao nổi tiếng khắp vùng tỉnh Sơn đến kẻ vô danh tiểu tốt cũng biết đến mà ngưỡng mộ. Chữ Huấn Cao là một vật báu ở đời, là niềm ao ước của những ai có sự am hiểu về chữ thánh hiền và cảm nhận được giá trị của cái đẹp. Chữ Huấn Cao có khả năng lay động, chinh phục lòng người.
– Ông lái đò
Tài năng bộc lộ trong lao động với một công việc rất bình thường: lái đò
+ Tay lái ra hoa: Những động tác chèo lái chứa đựng vẻ đẹp. Cái đẹp đời thường, giản dị mà cũng vô cùng độc đáo.
+ Linh hoạt trong từng động tác để ứng phó, hoá giải những đòn đánh, thế tấn công của con sông không chỉ độc dữ mà còn có khả năng quân sự tuyệt vời.
Sông Đà đã phối hợp được sức mạnh của cả đá và nước. Ông lái đò chỉ đứng trên một con thuyền với một mái chèo, một mình đơn độc giữa bao la sóng thác. Đá sông Đà dàn thạch trận với những cửa sinh, cửa tử biến ảo khôn lường. Nước sông Đà có những thế võ và sức mạnh đủ để quật ngã những tay lái non gan và ít kinh nghiệm. mái chèo chỉ là một công cụ bình thường nhưng khi ở trong tay ông lái đò lại như một cây đũa thần, giúp ông ổn định thế trận, hoá giải sức mạnh của mọi đòn tấn công.
Với sự linh hoạt của động tác, ông lái đò đã đưa chiếc thuyền vượt qua thạch trận. Lúc thì đè sấn lên sóng thác mà đi, chặt đôi sóng mà tiến,… Con thuyền dưới sự điều khiển của ông lái đò khi tiến khi thoái, khi công khi thủ. Có lúc nó lao vút như một mũi tên tre, xuyên nhanh qua nước, vừa bơi, vừa tự động lái được, lượn được.
Qua mỗi trùng vi thạch trận, ông lái đò lại đổi tay lái và đổi luôn chiến thuật. Trong trận chiến trên sông, không phải không có lúc người lái đò méo bệch mặt đi vì những vết thương bởi sóng đánh đòn âm, đòn tỉa vào chỗ hiểm. Nhưng chính nhờ sự linh hoạt của động tác, sự biến hoá của chiến thuật đã khiến cho lũ đá nơi ải nước phải tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng. Con thuyền của ông lái đò đã bỏ lại phía sau mình tiếng gieo hò của sóng thác để thanh thản hoà mình vào một không gian mới, không khí mới trên chính con sông vừa mới đây thôi còn là đối thủ trong trận chiến sinh tử.
Khí phách hiên ngang, bất khuất trước những hiểm nguy, thử thách không chịu đầu hàng, lùi bước mà sẵn sàng đối mặt với một tâm thế bình thản, ung dung nhất có thể. Thậm chí, họ còn coi những hiểm nguy như một niềm sinh thú trong cuộc sống của mình.
* Điểm chung: Coi những hiểm nguy như một niềm sinh thú trong cuộc sống của mình.
– Huấn Cao: Quản ngục vì lòng cảm mến Huấn Cao, muốn ông được sống những ngày cuối cùng thoải mái nên đã biệt đãi người tử tù nguy hiểm. Hằng ngày, quản ngục đều sai người mang rượu thịt vào tận buồng giam tử tù. Do chưa biết rõ về con người quản ngục nên trong mắt Huấn Cao, rượu thịt đưa vào là một thứ cạm bẫy. Nhưng ông không hề né tránh mà vẫn đón nhận như một thú bình sinh.
– Ông lái đò: Ông lái đò là người không thích chèo đò ở những quãng sông bằng phẳng bởi nó tạo cho ông cảm giác dại chân, dài tay và dễ buồn ngủ. Ông coi những ghềnh thác hiểm nguy chính là tình cảm đậm đà con sông dành cho nhà đò.
* Điểm riêng: Tình thế phải đối mặt
– Huấn Cao: Cái án tử hình, chốn ngục tù dơ bẩn với những trò tiểu nhân thị oai, với quyền lực xấu xa và cái chết có thể đến bất cứ lúc nào. Đối mặt với tình thế ấy, Huấn Cao luôn giữ thái độ ung dung, bình thản, tự do, tự tại. Trò tiểu nhân thị oai không ngăn cản ông thực hiện ý định của mình. Ông sẵn sàng đối mặt với quyền lực đen tối. Ngay cả cái chết cũng không gợi trong ông dù chỉ một thoáng phân vân. Nếu cái tin ngày mai Huấn Cao bị giải về kinh chịu án chém làm viên quản ngục tái nhợt đi, thầy thơ lại hớt hơ hớt hải thì không khiến Huấn Cao bận tâm chút nào. Nỗi bận tâm của Huấn Cao bấy giờ chỉ là nên hay không nên cho chữ quản ngục.
– Ông lái đò: những trận thuỷ chiến trên sông, hiểm nguy luôn thường trực trong cuộc sống của những người lao động trên sông nước. Thậm chí, cuộc sống của người lái đò là cuộc chiến đấu hằng ngày với thiên nhiên để giành sự sống từ tay nó về tay mình. Bởi con sông Đà mà ông lái đò phải đối mặt hung bạo, độc dữ như một người dì ghẻ, một kẻ thù số một. Vậy mà ông lái đò dám chung sống suốt đời với nghề chèo đò, dám đối mặt tới cùng (cưỡi trên thác sông Đà phải cưỡi đến cùng như cưỡi hổ) với tư thế hiên ngang không chịu đầu hàng, lùi bước, luôn bình tĩnh, tỉnh táo để chỉ huy con thuyền vượt sóng thác.
Tấm lòng, nhân cách đáng quý
Đều đem cái tâm trong sáng, cao quý để đối xử với cuộc sống, con người để vun đắp những mối quan hệ tốt đẹp, để xây dựng những mối tri kỉ, tri âm.
* Huấn Cao
Là người có tài viết chữ nhưng ông không dùng cái tài để mưu lợi cá nhân. Bởi ông biết rằng cái quý của chữ nằm ở giá trị tinh thần của nó. Vì thế, ông chỉ cho nhữ những người tri âm tri kỉ, những con người hiểu được tấm lòng của ông.
Huấn Cao cho chữ viên quản ngục bởi ông nhận ra ở quản ngục một thiên lương trong sáng, một tấm lòng đáng trọng. Trao bức lụa với những nét chữ vuông vắn, tươi tắn vào tay quản ngục là trao cái đẹp vào tay người say mê cái đẹp, là trao tấm lòng cho người có tấm lòng. Hơn thế nữa, từ khi nhận ra con người quản ngục, Huấn Cao đã thể hiện sự trân trọng trong cách xưng hô, lựa chọn không gian, thời gian viết chữ. Niềm mong muốn bảo vệ thiên lương cho con người đáng trọng đó bộc lộ ở lời khuyên chí tình. Chính tấm lòng, nhân cách của Huấn Cao đã lay động sâu sắc đến tình cảm của viên quan coi ngục, khiến quản ngục nghẹn ngào, cúi đầu xin bái lĩnh.
Như vậy, cái đẹp do Huấn Cao sáng tạo ra có thể tồn tại bất tử và có ý nghĩa đối với con người, cuộc đời.
* Ông lái đò
– Gắn bó thuỷ chung với con sông Đà, ông coi sông Đà như một kì phùng địch thủ để thi thố tài năng. Đồng thời, với ông, con sông Đà lắm tài nhiều tật còn là một người tri kỉ tâm giao. Chính sự am hiểu đã giúp ông chinh phục được sông Đà.
– Tấm lòng và trách nhiệm đối với quê hương đất nước
+ Quá khứ: Thời chúa đất ngăn sông cắt bến, kẻ thù lùng sục, không thể trực tiếp chèo đò đưa bộ đội qua sông, những con đò bỏ vắng ven sông cùng với quy ước ngầm của những người lái đò (anh cán bộ nếu không muốn cho địch biết cái bến mình vừa sang thì cứ việc thả cho thuyền trôi dọc sông, người bến dưới bắt được sẽ gửi trả lại người phía trên này) chính là tấm lòng của người lao động với cách mạng, kháng chiến.
+ Hiện tại: Khi đất nước đang trong thời kì dựng xây, ông lái đò lại rất tự hào kể về việc được chở một đoàn chuyên gia ta và chuyên gia Nga đi khảo sát địa hình, chuẩn bị cho việc xây dựng nhà máy thuỷ điện. Đây là một người tự hào chân chính của một người công dân khi được đóng góp công sức vào công cuộc xây dựng đất nước.
3. Đánh giá chung
– Cả hai nhân vật đều được xây dựng bằng biện pháp lí tưởng hoá, xuất phát từ cơ sở của cái nhìn độc đáo về con người của nhà văn Nguyễn Tuân: Nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ để có thể làm nổi bật những vẻ đẹp phi thường trong tài năng, cốt cách của các nhân vật. Nhà văn đã đặt nhân vật vào những tình huống đầy thử thách, những mối quan hệ nhìn bề ngoài là đối nghịch nhưng bên trong là tri kỉ, tri âm để các nhân vật vừa bộc lộ khí phách, nhân cách, tài năng xuất chúng hơn người. Đồng thời, để tạo nên sức thuyết phục của hình tượng nhân vật, Nguyễn Tuân đã huy động kho vốn kiến thức trên nhiều lĩnh vực kết hợp với trí tưởng tượng độc đáo.
*Chữ người tử tù
Sáng tác trước cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân lúc này là một nhà văn lãng mạn, ông đã tìm kiếm sự độc đáo bằng cách xây dựng những nhân vật đặc tuyển – hình mẫu lí tưởng của những con người một thời vang bóng, những anh hùng bất đắc chí, những nho sĩ cuối mùa dù sa cơ thất thế vẫn cương quyết không chịu dung hòa với môi trường đen tối, với xã hội bát nháo, lố lăng.
* Người lái đò sông Đà
Sáng tác vào những năm 60, Nguyễn Tuân lúc này đã trở thành một nhà văn cách mạng. Ông không còn đối lập xưa – nay, cổ – kim, cũng không còn tìm kiếm cái đẹp của một thời vang bóng mà ở ngay cuộc sống hiện tại với những con người bình thường. Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, ông lái đò tuy chỉ là một người lao động bình thường nhưng lại có khí phách của một người anh hùng và tài năng, tấm lòng của một người nghệ sĩ.
– Nếu như khi xây dựng Huấn Cao, Nguyễn Tuân chủ yếu sử dụng tri thức về nghệ thuật thì khi xây dựng nhân vật ông lái đò, nhà văn cần rất nhiều vốn tri thức đời sống. Bởi vậy, những chuyến đi thực tế, sự gắn bó với những người lao động, công phu tìm hiểu cuộc sống, công việc của họ chính là điều kiện cần thiết để ngòi bút nhà văn có thể thăng hoa. Chính điều này giúp ngòi bút Nguyễn Tuân giữ được uy lực của mình, vẫn giữ được tài năng của mình. Những tác phẩm văn chương thống nhất ở tư tưởng nhưng phong phú, sáng tạo trong nghệ thuật biểu hiện.
Dàn ý chi tiết số 3
A. Mở bài
Nguyễn Tuân (1910 – 1987) được mệnh danh là một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp của cuộc đời và viết lên những áng văn hay cho hậu thế. Trước CMT8 năm 1945, quan niệm cái đẹp của Nguyễn Tuân là những thứ chỉ còn xuất hiện trong quá khứ ở những bậc cao nhân tài hoa. Còn sau cách mạng với sự thay đổi của thời đại quan điểm cái đẹp của ông đã thay đổi gắn liền với cuộc sống thường nhật từ những gì dung dị nhất. Thông qua hai nhân vật Huấn Cao trong “Chữ người tử tù” và ông lái đò trong “Người lái đò sông Đà” ta thấy rõ nhất sự chuyển dịch trong cảm hứng sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân.
B. Thân bài
1. Phân tích nhân vật người lái đò sông Đà:
1.1. Vài nét về hình ảnh con sông Đà: Sông Đà hiện lên thật hung dữ nhưng cũng không kém phần thơ mộng, trữ tình là cái nền để người lái đò xuất hiện..
1.2. Nhân vật người lái đò sông Đà:
a. Ông lái đò có ngoại hình và những tố chất khá đặc biệt: tay “lêu nghêu”, chân “khuỳnh khuỳnh”, “giọng ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh”, “nhỡn giới vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó”… Đặc điểm ngoại hình và những tố chất này được tạo nên bởi nét đặc thù của môi trường lao động trên sông nước.
b. Ông lái đò là người tài trí, luôn có phong thái ung dung pha chút nghệ sĩ: ông hiểu biết tường tận về “tính nết” của dòng sông, “nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”, “thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở”, biết rõ từng cửa tử, cửa sinh trên “thạch trận” sông Đà. Đặc biệt, ông chỉ huy các cuộc vượt thác một cách tài tình, khôn ngoan và biết nhìn những thử thách đã qua bằng cái nhìn giản dị mà không thiếu vẻ lãng mạn…
c. Ông lái đò rất mực dũng cảm trong những chuyến vượt thác đầy nguy hiểm: tả xung hữu đột trước “trùng vi thạch trận” của sông Đà, kiên cường nén chịu cái đau thể xác do cuộc vật lộn với sóng thác gây nên, chiến thắng thác dữ bằng những động tác táo bạo mà vô cùng chuẩn xác, mạch lạc (tránh, đè sấn, lái miết một đường chéo, phóng thẳng…).
d. Ông lái đò là một hình tượng đẹp về người lao động mới. Qua hình tượng này, Nguyễn Tuân muốn phát biểu quan niệm: người anh hùng không phải chỉ có trong chiến đấu mà còn có cả trong cuộc sống lao động thường ngày. Ông lái đò chính là một người anh hùng như thế.
2. So sánh với nhân vật Huấn Cao:
2.1. Nhân vật Huấn Cao:
a. Nhân vật Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là một con người tài hoa, khí phách hiên ngang bất khuất, “thiên lương” trong sáng.
b. Vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao là vẻ đẹp lãng mạn, có sức chinh phục, cảm hóa mãnh liệt đối với những con người có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”.
c- Hình tượng ông Huấn Cao là hình tượng điển hình cho vẻ đẹp “vang bóng một thời” nay đã lùi vào quá khứ chỉ còn dư âm trong tâm trạng của những tấm lòng tích cổ thương kim ( Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ – Vũ Đình Liên)
2.2. Từ việc tìm hiểu vài nét về vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao, chúng ta sẽ dễ thấy được chỗ thống nhất và khác biệt trong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng Tám.
a- Nét chung (tính thống nhất):
– Nguyễn Tuân vẫn tiếp cận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ.
– Vẫn là ngòi bút tài hoa, uyên bác, lịch lãm, vận dụng tri thức tổng hợp của nhiều ngành văn hóa nghệ thuật khác nhau trong miêu tả và biểu hiện.
– Vẫn sử dụng vốn ngôn từ hết sức tinh lọc, phong phú, độc đáo. Khả năng tổ chức câu văn xuôi đầy giá trị tạo hình, có nhạc điệu trầm bổng, biết co duỗi nhịp nhàng. Các phép tu từ được nhà văn phối hợp vô cùng điêu luyện.
b- Nét riêng (tính khác biệt):
– Trước Cách mạng tháng Tám, con người Nguyễn Tuân hướng tới và ca ngợi là những “con người đặc tuyển, những tính cách phi thường”. Sau Cách mạng tháng Tám, nhân vật tài hoa nghệ sĩ của Nguyễn Tuân có thể tìm thấy ngay trong cuộc chiến đấu, lao động hàng ngày của nhân dân.
– Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân là một người tài tử, thích chơi “ngông”, mắc cái bệnh ham mê thanh sắc, thích chiêm ngưỡng, chắt chiu cái đẹp và nhấm nháp những cảm giác mới lạ. Sau Cách mạng tháng Tám, nhà văn nhạy cảm với con người mới, cuộc sống mới từ góc độ thẩm mĩ của nó. Nhưng không còn là một Nguyễn Tuân “nghệ thuật vị nghệ thuật” nữa. Ông đã nhìn cái đẹp của con người là cái đẹp gắn với nhân dân lao động, với cuộc sống đang nảy nở sinh sôi, đồng thời lên án, tố cáo chế độ cũ, khẳng định bản chất nhân văn của chế độ mới.
C. Kết bài
– Qua “Người lái đò sông Đà” và nhân vật người lái đò, ta thấy nổi lên một Nguyễn Tuân tài hoa độc đáo, uyên thâm, tâm huyết, có tấm lòng yêu thương, tự hào da diết về vẻ đẹp của thiên nhiên, con người miền Tây Bắc.
– Hai tác phẩm “Người lái đò sông Đà” và “Chữ người tử tù” đã nói lên phần nào đặc điểm phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân với sự ổn định lẫn sự vận động trong phong cách ở hai giai đoạn trước và sau Cách mạng.
Dàn ý chi tiết số 4
1. Mở bài
– Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn, một nghệ sĩ tài hoa suốt đời đi tìm cái đẹp, có cá tính mạnh và phong cách độc đáo.
– Truyện ngắn “Chữ người tử tù” là tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng Tám. Tác phẩm viết về một tử từ tài hoa có thiên lương, khí phách, một quản ngục có sở thích chơi chữ, ngưỡng mộ những con người tài hoa.
– “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm in trong tập tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Tác phẩm là kết quả của chuyến đi gian khổ mà đầy lí thú của Nguyễn Tuân lên miền Tây Bắc kì vĩ. Chuyến đi đã giúp ông khám phá “thứ vàng Mười đã qua thử lửa” trong tâm hồn, tính cách của những người lao động bình thường, giản dị.
– “Chữ người tử tù” và “Người lái đò sông Đà” tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân trước và sau cách mạng tháng Tám.
2. Thân bài
a. Nhân vật Huấn Cao:
– Là nhân vật trung tâm của tác phẩm – một tử tù có khí phách, thiên lương. Phẩm chất nổi bật ở Huấn Cao là khí phách hiên ngang, tài hoa, nghệ sĩ.
– Trong cảnh cho chữ:
- Ta gặp lại một Huấn Cao tài năng với nét chữ vuông tươi tắn trên nền tấm lụa trắng tinh. Ở đây Huấn Cao không còn là một tên tử tù mà là một nghệ sĩ đang say sưa sáng tạo.
- Ta gặp một Huấn Cao có khí phách trong hình ảnh “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng” mà nét chữ vẫn tung hoành, thể hiện hoài bão của một con người, một cuộc đời.
- Vẻ đẹp thiên lương cũng được tỏa sáng: Huấn Cao hiện lên là một con người có tâm hồn tinh tế, tha thiết yêu đời, trải qua bao đọa đầy mà tâm hồn không hề chai sạn (cảm nhận mùi thơm của thoi mực). Huấn Cao – một tên tử tù không nghĩ đến cái chết của bản thân mà nghĩ đến cuộc sống của kẻ khác (khuyên quản ngục về quê, lời khuyên là lời di huấn tinh thần về một lẽ sống cao đẹp)
– Nghệ thuật xây dựng nhân vật: đặt nhân vật trong tình huống hết sức éo le, bút pháp lãng mạng, lí tưởng hóa nhân vật.
b. Nhân vật người lái đò sông Đà:
– Cùng với sông Đà, người lái đò sông Đà là hnhf tượng trung tâm. Là cảm hứng chủ đạo của Nguyễn Tuân trong tùy bút “Người lái đò sống Đà” . Ở người lái đò sông Đà có sự thống nhất, hài hòa giữa sự môc mạc, giản dị và chất tài hoa nghệ sĩ.
– Cuộc chiến đầu sống còn với thác nước sông Đà – kẻ thù số một của con người đã thể hiện phẩm chất tài hoa của nhân vật này. Cuộc chiến đấu cam go quyết liệt trải qua ba chặng:
- Ở trùng vi thạch trận thứ nhất
- Ở trùng vi thạch trận thứ hai
- Ở trùng vi thạch trận thứ ba
Trong cả 3 lần, đối mặt với đá, thác sông Đà, người lái đò đã hiện lên như một anh hùng chiếm trận dũng cảm, gan dạ, mưu trí, thật xứng là “một tay lái ra hoa”. Ông thuộc hết binh pháp của thần sông, thần núi, vượt qua ba lớp trùng vi thạch trận của sông Đà một cách ngoạn mục.
– Khi đã vượt qua ghềnh thác, ông lái đò biết thưởng thức cuộc sống như một người nghệ sĩ: “Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam…”
– Nghệ thuật miêu tả nhân vật: bút pháp lãng mạn, trí tưởng tượng phong phú, ngôn ngữ tài hoa, sắc sảo.
3. Kết bài
– Nguyễn Tuân là người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp: cái đẹp ở thiên nhiên, cái đẹp trong con ngươi, cái đẹp ở truyền thống văn hóa… Nhân vật của Nguyễn Tuân dù ở lĩnh vực nào cũng là những con người tài hoa nghệ sĩ. Kiểu nhân vật tài hoa như Huấn Cao và người lái đò sông Đà được ra đời từ cảm hứng ấy.
– Đều là những nhân vật tài hoa, nghệ sĩ song nếu Huấn Cao là con người trong vang bong một thời, phiêu bạt với đời thì người lái đò sông Đà là con người lao động trông công cuộc xây dựng đất nước, gần gũi, mộc mạc, giản dị. Đó là sự thay đổi trong quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân trước và sau cách mạng tháng Tám.
So sánh hình tượng Người lái đò và Huấn Cao – Mẫu 1
Nguyễn Tuân là một người nghệ sĩ tài hoa, ông có sở trường về tùy bút. Sông Đà là tập tùy bút hay nhất của Nguyễn Tuân viết về cảnh và người Tây Bắc, là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958 của nhà văn. Ở Tây Bắc, ông sống với bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân làm đường và đồng bào các dân tộc ít người. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã mang lại cho Nguyễn Tuân nguồn cảm hứng sáng tạo dồi dào. Phong cảnh Tây Bắc dưới ngòi bút Nguyễn Tuân vừa hùng vĩ uy nghiêm, vừa tuyệt vời, thơ mộng. Trong bài Người lái đò sông Đà rút từ tập tùy bút Sông Đà, nhà thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn hết lời ngợi ca vẻ đẹp của con người Tây Bắc, nhất là những người lái đò trên con sông dữ dội và thơ mộng ấy.
Trong tùy bút, hình ảnh sông Đà hiện lên thật hung dữ: “Lúc này nước sông Đà reo như đun sôi lên một trăm độ muốn hất tưng đi một cái thuyền đang phải đóng vai một cái nắp ấm của một ấm nước sôi khổng lồ. Ngấn mạn thuyền thấp hơn ngấn nước tư vi bên ngoài, cạp mui thuyền cắm ngập dưới ngấn nước đang sôi trắng lên. Mặt sông cũng có ổ gà như mặt đường kạn, đi vào ổ gà sông là thuyền bị giật xuống bị dồn lên. Đã gọi là thác, tức là chỗ khúc sông phức tạp đó nhiều luồng nước. Có luồng nước đi lầm vào thì chết ngay, có luồng nước đi vào đúng luồng rồi nhưng mà không trúng tim luồng thì cũng vẫn có thể là thập tử nhất sinh như thường.. ”.
Những hình ảnh sông Đà hiện lên không kém phần thơ mộng, trữ tình: “Tôi có bay tạt qua sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình một góc độ nhìn một cách nhìn về con Tây Bắc hung bạo và trữ tình.. “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gấm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bừa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng sông Đà là đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phết vào bản đồ…”.
Hình ảnh con sông Đà vừa “hung bạo và trữ tình” là cái nền để người lái đò xuất hiện. Ông lái đò là người anh hùng sông nước: trong cuộc chiến đấu gay go với con sông dữ, ông là người chỉ huy tài ba, trí dũng, can trường, Vượt qua hết các vực xoáy, luồng chết, cửa tử,… để đưa con đò đến nơi sóng yên nước lặng. Về tư thế: “ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình”, về phong thái: “tỉnh táo, tự tin., cố nén vết thương do
sóng nước gây ra”, về hành động: “hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái”, “đánh đòn tỉa”, “đánh đòn âm vào chỗ hiểm”. Sau Khi “phá xong cái trùng vi thạch trận, vòng thứ nhất”, ông không một phút “nghỉ tay nghỉ mắt”, phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn “chiến thuật”. Khi nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông “ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy”. Thế là những luồng tử đã “bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh”. Sau đó, ông bước vào trận chiến với “một trùng vây thứ ba”. Ông liền “phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa” có bọn đá hậu vệ của con thác. Rồi “vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được”. Thế là hết thác. Sóng nước lại thanh bình.
Hơn nữa, ông lái đò còn là nghệ sĩ tài hoa. Trong nghề chèo đò vượt thác, ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở. Ở vòng đầu lũ đá ấy đã mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngọn sông nhưng ông đã thuộc lòng các cửa này. Ở vòng thứ hai, cửa tử tàng lên đê đúng lừa con thuyền của ông vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn nhưng ông vẫn cứ hiểu được điều nguy hiểm ấy. Ông khám phá ra cách chinh phục chúng: cưỡi lên thác sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Khi bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liên xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử, nhờ nhớ mặt bọn này nên đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến, ở trùng vây cuối cùng, mặc dù ít cửa hơn nhưng ông nhận ra rằng ở bên phải bên trái đều là luồng chết cả, lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cho nên, ông dùng đòn “phóng thẳng”. Thế là ông chiến thắng trọn trong cuộc đi qua cửa ải nước đủ tướng dữ, quân tợn vừa rồi. Đúng như nhà văn Nguyễn Tuân nhận xét, ông lái đò là một “tay lái ra hoa”.
Còn cô lái đò là một người phụ nữ Việt Nam yêu nước tha thiết, đảm đang, tháo vát, tâm hồn dạt dào cảm xúc và tràn ngập chất thơ: “..Một buổi chiều Quỳnh Nhai khác, tôi lại tìm đến một cô lái đò đã từng chở đò dọc đưa gạo kháng chiến từ Quỳnh Nhai về thác Tà Hè đổ lên kho quân lương. Cô lái đò châu Quỳnh Nhai giảng cho tôi hiểu biết thêm về ý nghĩa kiến trúc của cái thuyền then vuốt đuôi én trên sông Đà: “Các anh bảo thuyền giống con cá, bảo cái thuyền như một con cá nó quẫy mạnh đuôi trên mặt sông thì cùng được thôi. Chúng em chỉ biết cái đuôi thuyền nó vẫy lên cao như thế để có cái chỗ mà treo cái bu gà. Gà sống này, con nào đẹp lông và gái hay, thì phải mua đến mười đồng bạc mới. Con gà sống là cái đồng hồ của người lái đò sông Đà
đấy. Đi đường xa, qua bờ này bến khác, có tiếng gà gáy đem theo, nó đỡ nhớ nương ruộng bản mường mình. Hai bên bờ sông Đà, ai ai cũng biết hát cả đấy. Đang phát nương, nhìn xuống dòng sông Đà mà thấy thuyền các em đi qua, là người phụ nữ Thái chúng em đều hát gửi xuống một hai câu và có khi hát cả một bài. Hồi Pháp chiếm đóng, tiếng hát của phụ nữ đều lánh xa bờ xa bến. Nhiều tiếng hát chạy xa lên tận đỉnh núi. Nay hòa bình, hết địch rồi tiếng hát mới lại xuống dần tới mặt bến…”.
Nhìn chung, nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Tuân rất tài hoa. Nhà văn lược bỏ hầu hết các chi tiết về đời tư của ông lái đò, cô lái đò để đi sâu khắc họa ngoại hình, hành động của nhân vật.
Chúng ta thử so sánh nhân vật người lái đò với nhân vật Huấn Cao (Chữ người tử tù). Nhân vật Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là một con người tài hoa, khí phách hiên ngang bất khuất, “thiên lương” trong sáng. Huấn Cao viết chữ rất đẹp: “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm(…). Có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời”. Trong thị hiếu thẩm mỹ của cổ nhân, từ Trung Hoa đến Việt Nam, viết chữ đẹp là một thủ pháp nghệ thuật và chơi chữ đẹp là một thú chơi cao khiết, tao nhã. Bởi vậy, qua những băn khoăn, tính toán, mưu mẹo, biệt đãi, nhẫn nhục, đau khổ, hốt hoảng, hi vọng, tuyệt vọng, hồi hộp, lo sợ, thành kính của viên quản ngục thì cái tài hoa quý hiếm của nhân vật Huấn Cao càng được tôn lên đỉnh cao chói lọi.
So sánh hình tượng Người lái đò và Huấn Cao – Mẫu 2
Nguyễn Tuân (1910 – 1987) được mệnh danh là một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp của cuộc đời và viết lên những áng văn hay cho hậu thế. Trước CMT8 năm 1945, quan niệm cái đẹp của Nguyễn Tuân là những thứ chỉ còn xuất hiện trong quá khứ ở những bậc cao nhân tài hoa. Còn sau cách mạng với sự thay đổi của thời đại quan điểm cái đẹp của ông đã thay đổi gắn liền với cuộc sống thường nhật từ những gì dung dị nhất. Thông qua hai nhân vật Huấn Cao trong “Chữ người tử tù” và ông lái đò trong “Người lái đò sông Đà” ta thấy rõ nhất sự chuyển dịch trong cảm hứng sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân.
Có thể nói, “Chữ Người Tử Tù” được xem là truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Tuân trong giai đoạn trước CMT8 năm 1945. Truyện ngắn này được trích ra từ tập “Vang bóng một thời” đây là tập truyện kể về những con người tài hoa giờ đã vang bóng một thời. Nhân vật chính của truyện là Huấn Cao người mang vẻ đẹp của một người nghệ sĩ tài hoa với khả năng viết chữ thư pháp đẹp nức tiếng gần xa. Ngay cả Viên quản ngục của một huyện nhỏ vô danh cũng biết: “Chữ ông đẹp lắm, vuông lắm…có được chữ ông Huấn Cao mà treo trong nhà là có một vật báu ở trên đời”. Cho nên sở nguyện của Viên quản ngục là một ngày kia ngôi nhà của ông sẽ được treo một đôi câu đối do chính tay ông Huấn Cao viết.
Huấn Cao không chỉ có tài viết chữ đẹp mà ông còn có một thiên lương trong sáng. Ông không bao giờ ép mình cho chữ vì tiền hay vì quyền thế. Ông chỉ cho chữ những người biết trân quý cái đẹp cái tài.Cho nên suốt đời Huấn Cao mới chỉ viết hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn mà ông yêu mến.Lúc đầu, ông tỏ ra khinh bạc viên quản ngục vì nghĩ rằng hắn định có âm mưu đen tối gì với mình khi biệt đãi trong phòng giam.Rồi từ từ Huấn Cao mới cảm nhận được tấm lòng “biệt liên tài” của ông quản ngục và viên thơ lại.Họ là những người biết yêu cái đẹp thành tâm xin chữ Huấn Cao. Và để không phụ lòng viên quản ngục ông đã cho chữ ngay trong nhà lao. Nguyễn Tuân đã mô tả cảnh cho chữ là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có.
Nhân vật Huấn Cao không chỉ đẹp ở tài năng mà còn đẹp ở cái tâm và ý chí bất khuất hiên ngang của người quân tử. Ở ông có khí phách của người anh hùng mà không phải ai cũng có thể có được. Thông qua nhân vật Huấn Cao, nhà văn Nguyễn Tuân đã bộc lộ niềm tin bất diệt vào những cái đẹp mang giá trị cao quý ngay cả trong những nơi tối tăm, dơ bẩn nhất vẫn tỏa sáng.
Nếu như Huấn Cao được ví như anh tài xuất chúng được xây dựng trong hoàn cảnh có một không hai thì nhân vật ông lái đò lại có chút bình dị hơn. Trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân nhân vật ông lái đò được xây dựng hết sức chân thật qua công việc ông làm. Ông lái đò là người có ngoại hình rất đặc biệt với hai tay “lêu nghêu”, chân “khuỳnh khuỳnh”, giọng nói thì “ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh”, đôi mắt thì “vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó”…Với đặc điểm ngoại hình như thế chúng ta thấy được rất phù hợp với môi trường lao động trên sông nước của ông.
Ông lái đò được Nguyễn Tuân miêu tả là một người rất tài trí và có phong thái ung dung pha chút nghệ sĩ. Ông là người làm nghề rất có tâm hiểu biết tường tận từng ngóc ngách của con sông cũng như tính nết của nó. Ông nhớ như đóng đanh vào lòng những luồng nước và tất cả những con thác hiểm trở. Nắm bắt được trận đồ binh pháp của thần sông, thần đá. Thuộc làu quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở. Đặc biệt, ông còn chỉ huy được các cuộc vượt tác một cách tài tình biết rõ từng cửa sinh, cửa tử mà vượt qua.
Nguyễn Tuân miêu tả ông lái đò như một vị tướng hiên ngang “tả xung hữu đột” trước muôn trùng sóng nước của sông Đà. Ông là người rất dũng cảm biết chịu cái đau của thể xác do vật lộn với sóng to gió lớn để chiến thắng thác dữ bằng những động tác táo bạo và vô cùng chuẩn xác. Ta thấy ông lái đò được xây dựng như một nghệ sĩ thực thụ chứ không phải là một người lái đò bình thường.
Cả hai nhân vật Huấn Cao và ông lão lái đò đều được xây dựng bằng biện pháp lý tưởng hóa. Xuất phát từ cơ sở cái nhìn độc đáo của nhà văn Nguyễn Tuân. Ông nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ có thể làm nổi bật lên những vẻ đẹp phi thường trong tài năng, cốt cách của họ. Nhà văn đã đặt hai nhân vật vào những tình huống đầy thử thách để giúp họ bộc lộ được phẩm chất đáng quý của mình.
Nếu như khi xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân sử dụng tri thức nghệ thuật thì xây dựng nhân vật ông lái đò nhà văn lại vận dụng nhiều vốn tri thức đời sống.Chính điều này đã khiến cho ngòi bút Nguyễn Tuân thuyết phục được nhiều đối tượng độc giả.Những tác phẩm văn chương của ông không chỉ đẹp về mặt ngôn từ còn có giá trị nghệ thuật rất đặc sắc mà hậu thế phải công nhận.
So sánh hình tượng Người lái đò và Huấn Cao – Mẫu 3
Nguyễn Tuân (1910-1987) là một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp. Trước cách mạng, ông quan niệm cái đẹp chỉ có trong quá khứ “Vang bóng một thời” và tài hoa nghệ sĩ chỉ có ở những con người xuất chúng của thời trước còn vương sót lại. Còn sau cách mạng, ông không đối lập quá khứ với hiện tại và cái đẹp có cả ở quá khứ, hiện tại, đặc biệt là phẩm chất tài hoa có thể có ở cả nhân dân đại chúng. Qua việc phân tích hai nhân vật ông Huấn Cao trong “Chữ người tử tù” và nhân vật ông Lái đò trong “Người lái đò sông Đà”, chúng ta cũng có thể thấy rõ điều đó.
Chữ người tử tù” là một truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Tuân viết trước cách mạng (1940) rút từ tập “Vang bóng một thời” . Đây là truyện ngắn có nội dung tư tưởng sâu sắc và có nhiều thành công về phương diện nghệ thuật. Giá trị tư tưởng và nghệ thuật bộc lộ tập trung trong hình tượng nhân vật Huấn Cao
Cũng như các nhân vật trong “Vang bóng một thời”, vẻ đẹp của Huấn Cao trước hết là vẻ đẹp của con người tài hoa, nghệ sĩ. Phẩm chất tài hoa nghệ sĩ này được biểu hiện rõ nhất là ở cái tài viết chữ đẹp. Một thời Hán học, cha ông ta viết chữ Nho, một loại chữ giàu tính tạo hình. Các nhà Nho xưa viết chữ để bộc lộ cái tâm, cái chí, viết chữ đã trở thành một môn nghệ thuật gọi là thư pháp. Và Huấn Cao là một nghệ sĩ rất mực tài hoa trong nghệ thuật này “Tài viết chữ rất nhanh và đẹp” của ông nổi tiếng khắp cả tỉnh Sơn .Ngay cả viên quản ngục của một huyện nhỏ vô danh cũng biết: “Chữ ông đẹp lắm, vuông lắm…có được chữ ông Huấn Cao mà treo trong nhà là có một vật báu trên đời”. Cho nên “Sở nguyện của viên quản ngục này là có một ngày kia treo ở nhà riêng một câu đối do tay ông Huấn Cao viết”. Để có được chữ của Huấn Cao, viên quản ngục không những phải dụng công, phải nhẫn nhục, mà còn phải liều mạng. Bởi vì biệt đãi Huấn Cao, một kẻ tử tù là một việc làm nguy hiểm, có khi phải trả giá bằng tính mạng của mình.
Huấn Cao còn là con người có thiên lương trong sáng, cao đẹp. Nghĩa là Huấn Cao rất giàu chữ tâm.
Huấn Cao có tài viết chữ, nhưng không phải ai ông cũng cho chữ. Ông không bao giờ ép mình cho chữ vì vàng ngọc, hay quyền thế. Ông chỉ trân trọng những ai biết yêu quý cái đẹp, cái tài. Cho nên, suốt đời Huấn Cao chỉ mới viết hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân mà thôi. Ông tỏ thái độ khinh bạc ra mặt viên quản ngục vì tưởng rằng viên quản ngục có âm mưu đen tối gì, khi thấy viên quan ấy biệt đãi mình. Rồi ông “Cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài” của quản ngục và thơ lại, khi biết họ thành tâm xin chữ. Huấn Cao quyết không phụ tấm lòng của họ nên mới diễn cảnh cho chữ trong nhà lao, được tác giả gọi là “Một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”
Huấn Cao còn đẹp hơn nữa ở phẩm chất bất khuất, hiên ngang
Đẹp ở phẩm chất tài hoa, nghệ sĩ, có thiên lương, chữ tâm trong sáng, cao đẹp, Huấn Cao còn đẹp hơn nữa ở phẩm chất bất khuất, hiên ngang của một bậc anh hùng hào kiệt. Huấn Cao dám chống lại triều đình mà ông căm ghét, khinh bỉ. Dù chí lớn không thành, tư thế Huấn Cao bao giờ cũng hiên ngang, bất khuất. Bị dẫn vào huyện ngục, ông không chút run sợ trước những kẻ đang nắm giữ vận mệnh của mình. Ông lừng lững dẫn sáu đồng chí tù, hiên ngang bước vào nhà lao. Giữa chốn lao tù đầy tử khí, ông vẫn thản nhiên nhắm rượu thịt do thơ lại mang đến coi “Như cái việc ông vẫn làm trong cái hứng bình sinh”. Và ông đã sẵn sàng trả lời viên quản ngục bằng những câu hết sức cao ngạo, dù biết rằng có thể sẽ bị những trận đòn báo thù khủng khiếp. Là một tử tù chỉ đợi ngày ra pháp trường, vậy mà Huấn Cao vẫn hiện lên trong tư thế ung dung, đĩnh đạc đường hoàng, ngang tàng kiêu dũng của một bậc anh hùng “Chọc trời khuấy nước mặc dầu”; “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”. Tuy nhiên đây là một anh hùng thất trận, một tử tù
Nhân vật Huấn Cao bộc lộ lý tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Tuân: Sự thống nhất của cái tài, cái tâm và khí phách anh hùng. Qua nhân vật này, Nguyễn Tuân muốn biểu lộ niềm tin bất diệt vào những giá trị cao quý của con người và sức mạnh kỳ diệu của cái đẹp, đồng thời cũng bày tỏ tấm lòng yêu nước thầm kín của mình. Vì thế, Huấn Cao đã trở thành biểu tượng cho sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái đẹp, cái cao cả đối với cái phàm tục, dơ bẩn, của khí phách hiên ngang đối với thói quen cam chịu nô lệ.
Nhân vật Huấn Cao là một nhân vật của truyện ngắn được xây dựng theo bút pháp lãng mạn: Để làm nổi bật vẻ đẹp Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã đặt nhân vật vào trong một tình huống độc đáo: Cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao và quản ngục. Đó là cuộc gặp gỡ giữa tử tù với quan coi ngục, nhưng cũng là cuộc hội ngộ kỳ lạ giữa những kẻ “Liên tài tri kỉ”
Khắc hoạ hình tượng Huấn Cao, để làm nổi bật sự chiến thắng của cái tài, cái đẹp, cái tâm và khí phách hiên ngang, Nguyễn Tuân sử dụng triệt để sức mạnh của “Nguyên tắc tương phản đối lập của bút pháp lãng mạn”. Ở truyện ngắn này, nhà văn cũng đã thể hiện cái tài dựng cảnh, dựng người với ngôn ngữ cổ kính, trang trọng, tinh tế.
Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của Nguyễn Tuân viết sau Cách mạng, được in trong tập “Sông Đà” (1960). Ở tuỳ bút này, người lái đò sông Đà là một hình tượng độc đáo, hấp dẫn mang rõ dấu ấn phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân
Trước hết ông lái đò là người rất mực tài trí, dũng cảm trong những chuyến vượt thác đầy hiểm nguy
Để làm nổi bật phẩm chất này, Nguyễn Tuân đã có dụng ý nghệ thuật sâu xa là để cho người lái đò xuất hiện trên một hoàn cảnh đầy thử thách khốc liệt. Nguyễn Tuân khẳng định “Ông muốn ghi cái đoạn này cái hình ảnh chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà”. Nguyễn Tuân đã mô tả một cách chân thật vừa trân trọng, vừa yêu thương, vừa cảm phục nhân vật ông lái đò vô cùng hiên ngang, trí dũng trong cuộc chiến đấu với những con sóng, con thác đầy hung dữ, nguy hiểm. Cuộc vượt thác, dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân diễn ra như một trận đánh dữ dội có nhiều hồi, nhiều đợt, mỗi đợt lại có những thử thách ác liệt khác nhau, dòng sông bày ra những thạch trận hiểm hóc khác nhau: “Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục trong lòng sông…để vồ lấy con thuyền. Đá bày ra thạch trận trên sông với những bồng chìm và pháo đài nổi, phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thủy thủ ngay ở chân thác”. Kho từ vựng giàu có và vốn kiến thức văn hoá khoa học phong phú, uyên bác như quân sự, võ thuật, thể dục thể thao, điện ảnh…của Nguyễn Tuân được dịp huy động để miêu tả cuộc thuỷ chiến ác liệt giữa người lái đò và sóng thác sông Đà “Sóng nước thúc gối vào bụng và hông thuyền…có lúc chúng đội cả thuyền lên…sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất”. Có lúc tưởng như ông lái đò sẽ bị con thuỷ quái sông Đà vô cùng hung bạo ấy nuốt chửng. Nhưng ông lái đò vẫn không hề nao núng, trái lại vẫn bình tĩnh chủ động chiến đấu một cách dũng cảm đầy mưu trí như một vị chỉ huy tài trí tuyệt vời, điều khiển con thuyền lần lượt vượt qua các thác ghềnh như “Phá cái trận đồ bát quái của dòng sông hung bạo”…”Dòng nước hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông Đà”. Nhưng người lái đò vẫn “Cưỡi lên thác sông Đà…đến cùng như là cưỡi hổ”.
Người lái đò tài hoa tuyệt vời
Ông lái đò còn là người rất mực tài hoa, có phong thái ung dung, pha chút nghệ sĩ. Sóng, thác sông Đà rất khắc nghiệt, chỉ cần người lái đò một phút thiếu chính xác, một tích tắc thiếu bình tĩnh, nhỡ tay, hoa mắt là có thể phải trả giá bằng cả chính sinh mệnh của mình. Nhưng sóng, thác sông Đà dù có hung dữ đến đâu, cũng bị khuất phục trước người lái đò thời nay. Bởi người lái đò là một nghệ sĩ có nghệ thuật chở đò kỳ diệu. Nghệ thuật ấy được biểu hiện rõ nhất ở khả năng nắm chắc quy luật tất yếu của sông Đà, nhờ thế mà người lái đò trở thành người tự do, người chiến thắng. Ông lái đò đã nắm chắc được binh pháp của thần sông, thần đá, thuộc lòng các luồng sinh, luồng tử mà chủ động trong mọi tình huống. Lúc thì “Ông cưỡi thác nắm lấy bờm sóng mà phóng nhanh qua cửa tử” lúc lại “Ghì cương đè sấn lên mà chặt đôi con thác để mở đường tiến”. Thế là, bằng những động tác nhuần nhuyễn hoàn hảo rất tinh thông trong nghề nghiệp của mình, ông lái đò đã lái con thuyền “như một mũi tên tre xuyên qua hơi nước”, xuyên qua biết bao ghềnh thác hiểm nghèo của dòng sông hung bạo này. Nguyễn Tuân gọi người lái đò của mình có “tay lái ra hoa” là như vậy. Người lái đò trở thành một người nghệ sĩ, một người anh hùng chiến thắng thiên nhiên.
Ngày xưa Nguyễn tuân bị xem là nhà văn có quan điểm duy mỹ. Ngày nay ông hướng ngòi bút của mình đến những con người lao động bình thường đang âm thầm cống hiến cho đất nước. Ông phát hiện ra nét tài hoa nghệ sĩ của họ được thể hiện ngay trong công việc lao động vô cùng nguy hiểm nhưng cũng vô cùng cao cả của mình. Nguyễn Tuân gọi đó là “Cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí con người Tây Bắc”. Qua đây, Nguyễn Tuân muốn phát biểu một quan niệm: người anh hùng không chỉ xuất hiện trong chiến đấu, mà còn xuất hiện trong cuộc sống lao động bình thường.
Tóm lại Huấn Cao là kiểu nhân vật tiêu biểu cho bút pháp lãng mạn của Nguyễn Tuân trước CM tháng tám; Còn người lái đò là kiểu nhân vật tiêu biểu cho phong cách Nguyễn Tuân sau cách mạng. Qua đây, ta thấy Nguyễn Tuân xứng đáng là một nhà văn suốt đời mải mê đi tìm cái đẹp, ca ngợi cái đẹp và không ngừng sáng tạo, bao giờ ông cũng tạo được cho mình một nét phong cách độc đáo hấp dẫn.
So sánh hình tượng Người lái đò và Huấn Cao – Mẫu 4
Nguyễn Tuân được biết đến là “một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn” với cá tính mạnh và ngông. Ông là nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo, là người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Và chính cái nhìn độc đáo về con người như vậy, ông đã xây dựng hình tượng nhân vật của mình ở chất tài hoa nghệ sĩ mà tiêu biểu phải nhắc đến hai nhân vật: Huấn Cao (Chữ người tử tù) và người lái đò (Người lái đò sông Đà). Đây là hai nhân vật được khắc họa trong hai giai đoạn sáng tác khác nhau (trước và sau Cách mạng tháng Tám) của nhà văn. Ở hai nhân vật này đều có sự thống nhất và khác biệt trong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân.
Trước hết, điểm nhất quán đầu tiên ở Huấn Cao và ông lái đò đó là họ đều được tiếp cận ở góc độ văn hóa nghệ thuật, theo tiêu chuẩn tài hoa nghệ sĩ. Nhân vật này đều là những con người nghệ sĩ tài hoa trong nghề nghiệp của mình, họ đều là những anh hùng kiên cường, bất khuất. Và đặc biệt hơn tâm hồn họ luôn trong sáng và cao đẹp. Huấn Cao mang vẻ đẹp thiên lương, nổi loạn không vì tư lợi cá nhân mà vì dân, vì nước, mục đích thể hiện một cái khao khát xây dựng công bằng, xóa sạch mọi bất công, ngang trái trong cuộc đời. Không vì vàng ngọc quyền thế mà ép mình viết chữ và chỉ cho chữ những người tri âm, tri kỉ trong đó có viên quan cai ngục. Khi Huấn Cao nhìn thấy tấm lòng trong sáng viên quản ngục, đã sẵn sàng nhận lỗi và cho chữ “thiếu một chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Huấn Cao quan điểm sống riêng đó là phải sống sao cho xứng đáng với những tấm lòng, phụ tấm lòng của người khác là điều không thể tha thứ. Ông thật sự là một nhân cách cao đẹp kết hợp giữa tâm và tài. Cũng giống như Huấn Cao, ông lái đò cũng được khắc họa chất vàng mười trong tâm hồn nhưng nó là vàng mười của người anh hùng lao động bình thường trên sông nước. Sau khi vượt qua ba chặng thác đầy nguy hiểm, nhưng ông lái đò không bàn tán một lời nào mà chỉ nói về cá anh vũ, cá dầm xanh. Đây chính là vẻ đẹp của người nghệ sĩ lớn, phẩm chất anh hùng lập nên bao chiến công phi thường nhưng lại rất đỗi bình thường. Đó cũng chính là vẻ đẹp của con người thời đại Hồ Chí Minh trong công cuộc xây dựng xã hội mới, con người mới.
Nhưng ngay cả khi miêu tả nét tài hoa, uyên bác của họ thì Nguyễn Tuân vẫn cho thấy sự khác biệt. Đầu tiên trong cách giới thiệu hai nhân vật này, nếu như Nguyễn Tuân giới thiệu gián tiếp về Huấn Cao, nhà văn đứng ngoài cuộc, ông không đưa bất kì lời bình luận nào mà người đọc chỉ biết đến Huấn Cao qua cuộc trò chuyện với viên quan coi ngục và thầy thơ lại, đây là một con người tài hoa trong viết chữ, trong khi đó nhà văn giới thiệu ông lái đò là người “Lai Châu bạn tôi làm nghề chở đò dọc suốt sông Đà đã mười năm liền và thôi làm đò cũng đôi chục năm nay”, một sơ yếu lí lịch đầy đủ nhưng không cụ thể. Khác với Huấn Cao, ông lái đò không có một cái tên riêng. Như vậy, nếu trước Cách mạng, Nguyễn Tuân chỉ tìm thấy những bông hoa lạc lõng còn vương sót lại trong quá khứ thì sau Cách mạng, nhà văn tìm thấy những bông hoa, trong cuộc đời thật của đại bộ phận nhân dân mà tiêu biểu là ông lái đò.
Điểm khác biệt tiếp theo được thể hiện chính trong tài năng của hai nhân vật, có nghĩa là dù nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ nhưng nét tài hoa ở Huấn Cao khác với nét tài hoa ở ông lái đò. Huấn Cao được xây dựng là một người có tài thư pháp, tài viết chữ đẹp siêu phàm. Cái tài đó nức danh, nổi tiếng khắp vùng. Ông viết chữ rất nhanh và rất đẹp. Chữ của ông “vuông lắm, đẹp lắm”, có được chữ ông Huấn treo trên nhà là có được vật báu trên đời. Không xin được chữ thì đó là niềm ân hận suốt đời của viên quan cai ngục. Và tài năng ấy càng được khẳng định qua thái độ biệt đãi Huấn Cao của viên cai ngục, ông nhìn tử tù Huấn Cao bằng con mắt hiền lành, kiêng nể, sai người quét dọn phòng giam, nhẫn nại và dũng cảm để xin được chữ của Huấn Cao, cho dù Huấn Cao đã đuổi đi “người hỏi ta muốn gì ư, ta chỉ muốn nhà ngươi đừng bước chân vào đây nữa”. Tài năng của Huấn Cao được thể hiện ngay trong nét chữ của ông, đó là nét chữ nhưng cũng là nét người, nét chữ ấy không chỉ vuông, tươi tắn mà còn nói lên hoài bão tung hoành của một đời con người. Có thể khẳng định chữ viết của Huấn Cao là những tác phẩm mỹ thuật dành riêng cho những tao nhân mặc khách, những người có khiếu văn hóa thẩm mĩ và biết yêu cái đẹp. Nhưng không chỉ tài hoa với nghề viết chữ, Huấn Cao còn hiện lên là một anh hùng khí phách, hiên ngang và bất khuất. Ông dám một mình đứng lên lãnh đạo chống lại triều đình phong kiến thối nát. Khi dấy binh việc lớn không thành, dù có tài vượt ngục bẻ khóa nhưng ông cũng không chạy trốn ngược lại vẫn mang phong thái ung dung, thanh thản đến giây phút cuối cùng. Nửa tháng trời ở trong buồng giam, vẫn thản nhiên nhận rượu thịt giống như lúc bình sinh. Điều này chứng tỏ ông coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, khinh ghét cái xấu chính vì thế ông coi khinh quan cai ngục. Trước cái chết ngày mai vào kinh, pháp trường lập ở đó nhưng Huấn Cao vẫn ung dung chủ động đón nhận cái chết, dám làm dám chịu và vẫn khai sinh ra cái đẹp trong lòng của cái ác, cái xấu đang ngự trị. Đó thật sự là tính cách của người anh hùng kiên cường, bất khuất.
Khác với Huấn Cao, ông lái đò là người tài hoa, trí dũng trong nghề chở đò của mình. Ông làm nghề chở đò đã suốt mười năm liền và vô cùng am hiểu dòng sông Đà mà ông vẫn chở khách hằng ngày. Để tô đậm vẻ tài hoa trong nghề chèo đò của ông lái đò, Nguyễn Tuân đã miêu tả ba chặng vượt thác đầy thử thách. Trong chặng vượt thác thứ nhất, sóng nước Đà giang hiện lên với tính cách của loài thủy chiến, đưa ra những đòn hiểm độc nhằm “bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”, chúng bày thiên la địa võng hò reo vang trời để uy hiếp tinh thần đối phương. Tuy nhiên, ông lái đò vẫn hiện lên là một con người trí tuệ, tài hoa khi nén cơn đau chống đỡ ngón đòn hiểm độc nhất của dòng sông, kiên cường dũng cảm vượt qua hỗn chiến dù cuộc chiến không cân sức này nhiều lúc làm ông rơi vào tình thế bị động nhưng ông vẫn phá được trùng vi thạch trận thứ nhất. Đến chặng thứ hai khi sóng nước Đà giang trở nên nham hiểm, xảo quyệt hơn, nó hiện lên như một con thú muốn đòi ăn chết con thuyền. Nhưng nhờ kinh nghiệm chèo đò và sự am hiểu về con sông Đà cùng tài năng chở đò của mình, ông đã không hề nao núng, tỉnh táo phóng đúng vào cửa sinh làm cho cái thằng đá tướng phải tiu nghỉu cái mặt. Ông lái đò như dũng sĩ tung hoành trên chiến trận, luôn luôn sáng suốt ứng phó kịp thời thay đổi chiến thuật để chế ngự dòng thác man dại, độc địa, xáo trá đó. Như vậy trong chặng thứ nhất ông lái đò ở thế thủ thì đến chặng thứ hai ông đã ở thế công để rồi đến chặng thứ ba đã làm nên chiến tích của mình, ông đã dành phần thắng trong cuộc chiến, đem lại phần thắng vinh quang cho cuộc đời mình. Đó chính là người anh hùng lao động vất vả trong cuộc sống bình thường. Ở ông lái đò, luôn ánh lên vẻ tài hoa, trí dũng, cái mà Nguyễn Tuân gọi là “chất vàng mười đã qua thử lửa”.
Như vậy qua việc so sánh hai hình tượng nhân vật Huấn Cao và ông lái đò, ta có thể thấy rằng Nguyễn Tuân luôn hướng vào những con người phi thường, khác thường. Đó phải là những con người tài hoa nghệ sĩ, mang cái nhìn văn hóa bền vững trong phong cách tiếp cận con người của Nguyễn Tuân. Nhưng qua đây ta cũng nhìn nhận được điểm khác biệt trong phong cách tiếp cận của nhà văn, nếu trước Cách mạng cái đẹp hiện lên trong sự hoài niệm, hoài cổ, nó đối lập với thực tại nghiệt ngã thì sau Cách mạng cái đẹp được nhìn trong sự hiện hữu của đời thường, trong thực tài và nó hòa nhập vào cuộc sống rộng lớn của nhân dân. Nhưng cho dù có sự khác biệt đi chăng nữa thì cả hai nhân vật Huấn Cao và ông lái đò đều được thể hiện bởi một ngòi bút tài hoa và uyên bác. Tài hoa trong việc dựng người, dựng cảnh, tài hoa trong việc sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật, những so sánh, liên tưởng táo bạo, bất ngờ; uyên bác trong việc vận dụng nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau để làm phong phú và tăng khả năng diễn tả của nghệ thuật văn chương, làm tăng khả năng tổ chức câu văn xuôi giàu tính tạo hình, vốn từ vựng phong phú.
Nhìn chung, qua việc khắc họa hai hình tượng nhân vật Huấn Cao và ông lái đò đã cho thấy sự ổn định, nhất quán trong việc tiếp cận con người của Nguyễn Tuân, đồng thời cũng thấy được sự vận động trong phong cách ở hai giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám. Từ đây, ta thấy được tài năng của người nghệ sĩ tâm huyết với nghề. Đó là một Nguyễn Tuân đầy cá tính, tài hoa, uyên thâm, với tấm lòng tha thiết yêu thương, trân trọng cái đẹp.
So sánh hình tượng Người lái đò và Huấn Cao – Mẫu 5
Nguyễn Tuân là tác giả lớn của văn học hiện đại Việt Nam với những thành tựu xuất sắc ở cả hai giai đoạn trước và sau năm 1945. Sáng tác của Nguyễn Tuân mang phong cách riêng độc đáo trong đó nổi bật chất tài hoa uyên bác. “Người lái đò sông Đà” là bài tùy bút xuất sắc của Nguyễn Tuân được tin trong tập “sông Đà” năm 1960. Đoạn văn “ông đò hai tay giữ mái chèo… Họ nghĩ thế lúc ngừng chèo” đã thể hiện trọn vẹn vẻ đẹp của ông đò. Khi liên tưởng đến nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn “chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân trước cách mạng, ta thấy được sự ổn định và phát triển trong cách tiếp cận con người của tác giả.
Để làm nổi bật vẻ đẹp của ông lái đò, Nguyễn Tuân đặt người lái đò trong một bối cảnh phi thường. Trùng vi thạch trận sông Đà được bố trí bằng hai lực lượng: đá và nước. Đá đã mai phục hàng nghìn năm trở thành thạch tinh, thạch quỷ, hòn nào cũng “nhăn nhìn méo mó”, thái độ thì “ngỗ ngược”. Nước nơi đây reo hò làm thanh viện cho đá, chúng đánh những món đòn hiểm độc nhất. Đó là một bức đại cảnh, trên đó người lái đò hiện lên đẹp vô cùng như một dũng tướng, một người nghệ sĩ với tay lái ra hoa.
Một trong những phẩm chất tiên quyết của người nghệ sĩ là anh ta phải am hiểu công việc mình làm, lĩnh vực mình hoạt động, đối tượng mình khám phá và sáng tạo. Nếu xem người lái đò là người nghệ sĩ thì đó chính là một người nghệ sĩ âm tường. “Ông đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá” và “thuộc quy luật” của dòng sông, thác đá… Bằng những chữ “binh pháp”, “quy luật phục kích” Nguyễn Tuân đã biến sông, đá, nước vô tri thành loài thủy quái, thành lũ tướng dữ quân tợn. Hai chữ “thần sông thần đá”, Nguyễn Tuân lại biến lũ quân hùng tợn ấy thành một thế lực siêu nhiên, siêu hình. Ông đò qua các từ “nắm chắc, thuộc” trở thành người dũng tướng làm chủ một đội quân, một lực lượng hùng hậu.
Ông đò còn hiện lên với vẻ đẹp tài hoa, trí dũng trong trận thủy chiến với sóng thác sông Đà. Vòng vây thứ nhất, sông Đà mở bốn của tử, một cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn… Ông đò hai tay “giữ vững mái chèo”, hai chân “kẹp chặt lấy cuống lái”, mặt ” méo bệch” vì sóng táy vô cùng đau. Tiếng chỉ huy “ngắn gọn, tỉnh táo”. Ông đò hiện lên vô cùng bình tĩnh, cam trường để giúp ông làm chủ con thuyền, làm điểm tựa vững chắc cho các cộng sự của mình bằng sự phòng thủ, chế ngự và ám binh bất động. Đến vòng vây thạch trận thứ hai, sông nước tăng thêm cửa tử, cửa sinh lệch về phía hữu ngạn, dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế sống…Sóng nước, thác nước sông Đà như một loài hoang thú dùng hết tốc độ, sức mạnh trong cuộc truy sát con mồi. Ông đò không chỉ nhận thức sự mạo hiểm khi cưỡi trên sóng nước sông Đà mà còn tỉnh táo chinh phục. Ông ghì cương lái, nắm buồng sóng đúng luồng, phóng nhanh vào luồng sinh. Khi gặp bọn thủy quân, đức ông “tránh, rảo bơi chèo lên”, đứa ông “sấn lên, chặt đôi, mở đường tiến”. Ở vòng này, ông đò tấn công cực kì linh hoạt, có cương có nhu, có công có thủ. Ở vòng vây cuối, sự hiểm ác của thác đá đã được nhà văn miêu tả trong hình ảnh ẩn dụ tài hoa về “cổng đá cánh mở cánh khép”, phải trái đều là luồng chết. Nhiệm vụ của ông đò là “phóng thẳng thuyền, chọc thủng” một luồng sinh duy nhất ở ngay giữa cửa bọn đá hậu vệ trấn giữ. Hình ảnh con thuyền lao vút qua khe hẹp được miêu tả trong những câu văn ngắn cùng với sự kết hợp động từ và danh từ: “vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng…” đã thể hiện sự điêu luyện, khéo léo và sức mạnh của một tay lái “ra hoa”.
Trở về với cuộc sống bình thường, ông đò lại hiện lên với vẻ đẹp ung dung, bình dị. Sau khi chiến thắng thiên nhiên hung bạo, những người lái đò lại “đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh… Chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn”. Thái độ bình thản ấy càng tô đậm tầm vóc lớn lao của những người anh hùng trong cuộc sống đời thường bình dị khi họ coi việc chiến đấu và chiến thắng sông Đà hiểm ác chỉ là chuyện thường ngày.
Ngược dòng thời gian về với văn Nguyễn Tuân trước cách mạng ta thấy thấp thoáng bóng dáng của Huấn Cao trong truyện ngắn “chữ người tử tù”. Đó là một con người tài hoa, khí phách và có thiên lương trong sáng, lành vững. Ông có tài viết chữ nhanh và đẹp, chữ Huấn Cao biến tên Huấn Cao thành thanh danh lẫy lừng, chữ ông Huấn còn trở thành báu vật với quản ngục. Huấn Cao còn đứng đầu đội quân phiến loạn, khí phách tỏa sáng khi nhập lao, khi nhận hung tin. Lời giãi bày với thầy thơ lại và quản ngục còn cho thấy ông Huấn là người có thiên lương trong sáng, lành vững.
Qua hình tượng ông lái đò và Huấn Cao, phong cách của Nguyễn Tuân luôn ổn định trong việc tiếp cận con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Tuy nhiên, nếu trước cách mạng nhà văn tìm thấy vẻ đẹp ở lớp người đặc tuyển, chỉ còn là một thời vang bóng thì sau cách mạng, tác giả trở về với nhân dân đại chúng, hiện hữu trong cuộc sống cần lao bình dị đời thường.
So sánh hình tượng Người lái đò và Huấn Cao – Mẫu 6
Nguyễn Tuân là một hiện tượng của nền văn học việt Nam thế kỷ XX. Tác phẩm của Nguyễn Tuân thể hiện phong cách độc đáo, tài hoa, sự hiểu biết phong phú trong nhiều lĩnh vực và vốn ngôn ngữ giàu có, điêu luyện. Hay nói như Nguyễn Minh Châu: “Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ tài hoa”. Toàn bộ cuộc đời cũng như gần 5000 trang viết của ông đã tạo nên một “huyền sử” – huyền sử của một người ưa lối chơi “độc tấu”. Cung đàn văn chương Nguyễn Tuân được viết trên cùng một khuông nhạc nhưng với thanh âm trầm bổng khác nhau của các nốt nhạc. Phong cách Nguyễn Tuân vì vậy mà có sức hấp dẫn người đọc. Những nét thống nhất và khác biệt ấy thể hiện rõ qua hai tác phẩm “Chữ người tử tù” (1939) và “Người lái đò sông Đà” (1960).
Truyện ngắn “Chữ người tử tù” lúc đầu có tên là “ Dòng chữ cuối cùng” đăng trên tạp chí “Tao đàn” số 29 vào năm 1938, sau đó đã được in trong tập “ Vang bóng một thời” và được đổi tên thành “ Chữ người tử tù”.
Trong truyện ngắn này, Nguyễn Tuân tập trung ca ngợi cái đẹp, cái tài, cái thiên lương. Nhân vật trung tâm mà tác giả tập trung khắc họa đó là Huấn Cao – một tử tù của triều đình nhưng đặc biệt nổi tiếng khắp vùng với biệt tài viết chữ. Đó là một con người trọng nghĩa khí, là hiện thân của cái tài, cái đẹp, cái thiên lương. Không chỉ có nhân vật Huấn Cao mà tấm lòng trong sáng, biết thưởng thức và giữ gìn cái đẹp còn được thể ở nhân vật thầy thơ lại và viên quản ngục. Đặc biệt, tấm lòng của viên quản ngục được Nguyễn Tuân coi là “ một thanh âm trong trẻo chen vào một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ.”
Nếu như trước Cách mạng tháng Tám Nguyễn Tuân thường tìm cái đẹp trong quá khứ thì sau Cách mạng tháng Tám ông say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc sống chiến đấu, lao động của nhân dân. Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông thời kì này là tuỳ bút “Người lái đò sông Đà”.
“Người lái đò sông Đà” được in trong tập tuỳ bút “Sông Đà” (1960), gồm 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo phong phú. Ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vỹ và tuyệt vời thơ mộng, Nguyễn Tuân còn phát hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông gọi là “thứ vàng mười đã được thử lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc” qua hình ảnh người lái đò sông Đà.
Nguyễn Tuân – một nhà văn nổi tiếng của văn học Việt Nam hiện đại. Ông có những sáng tác xoay quanh những nhân vật lí tưởng về tài năng xuất chúng, về cái đẹp tinh thần như “Chiếc ấm đất”, “Chén trà sương”… Và một lần nữa, chúng ta lại bắt gặp chân dung tài hoa trong thiên hạ, đó là Huấn Cao – nhân vật chính trong tác phẩm “Chữ người tử tù”.
Huấn Cao là con người có tài năng khác thường. Nét tài hoa này trước hết là tài viết chữ đẹp. Đó là tài viết chữ Hán- thứ chữ tượng hình- đã được người xưa nâng lên tầm nghệ thuật thư pháp.Tài viết chữ đẹp của Huấn Cao không được thể hiện qua việc miêu tả trực tiếp của tác giả mà thông qua sự nhận xét, đánh giá và thái độ của một nhân vật khác trong truyện là viên quản ngục: “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm…Có được chữ ông Huấn mà treo là có một vật báu trên đời”. Viên quản ngục sẵn sàng chịu nhục, bất chấp nguy hiểm để đạt được mong ước bấy lâu là “có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do chính tay ông Huấn cao viết”. Điều đó có nghĩa là nhân vật này đã đặt chữ ông Huấn cao hơn cả danh dự và tính mạng của mình. Đây là sáng tạo độc đáo của Nguyễn Tuân. Một mặt nó làm cho nhân vật hiện lên khách quan, tránh được mọi sự gò ép, áp đặt. Mặt khác nó cũng có tác dụng như một chiếc đòn bẩy, tôn cái tài, cái đẹp, cùng những phẩm chất đáng quí của Huấn Cao lên nhiều lần. Và như vậy người đọc có cảm giác tại năng của nhân vật Huấn Cao đã đạt đến độ siêu phàm, hiếm có, sống mãi trong sự tôn thờ, ngưỡng mộ của người đời. Điều này cũng phù hợp với quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân.
Chữ của Huấn Cao đẹp đến như vậy thì nhân cách của Huấn Cao cũng thật đáng ca ngợi. Ông là con người tài, tâm vẹn toàn. Huấn Cao có cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Ông đã dám chống lại triều đình mà ông căm ghét để giờ đây khép vào tội “đại nghịch”, chịu án tử hình. Huấn Cao có tấm lòng nhân ái bao la. Ông Huấn thương cho nhân dân vô tội nghèo khổ, lầm than bị áp bức bóc lột bởi giai cấp thống trị tàn bạo thối nát. Ông Huấn rất căm ghét bọn thống trị và thấu hiểu nỗi thống khổ của người dân “thấp cổ bé họng”. Nếu như Huấn Cao phục tùng bọn phong kiến kia thì ông sẽ được hưởng vinh hoa phú quý. Nhưng không, ông Huấn đã lựa chọn con đường khác: con đường đấu tranh chống lại triều đình mục nát, giành quyền sống cho người dân vô tội. Cuộc đấu tranh không thành công, ông bị bọn chúng bắt. Giờ đây phải sống trong cảnh ngục tối chờ ngày xử chém.
Trước khi bị bắt vào ngục, viên quản ngục đã nghe tiếng đồn Huấn Cao rất giỏi võ, ông có tài “bẻ khóa, vượt ngục” chứng tỏ Huấn Cao là một người văn võ toàn tài, quả là một con người hiếm có.
Trong những ngày chờ thi hành án, mặc dù “sa cơ lỡ vận” nhưng Huấn Cao vẫn giữ được khí phách hiên ngang, kiên cường. Tuy bị giam cầm về thể xác nhưng ông Huấn vẫn hoàn toàn tự do bằng hành động “lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái” và lãnh đạm, không thèm chấp sự đe dọa của tên lính áp giải. Dưới mắt ông, bọn kia chỉ là “một lũ tiểu nhân thị oai”. Cho nên, mặc dù chịu sự giam giữ của bọn chúng nhưng ông vẫn tỏ ra “khinh bạc”. Ông đứng đầu gông, ông vẫn mang hình dáng của một vị chủ soái, một vị lãnh đạo. Người anh hùng ấy dù cho thất thế nhưng vẫn giữ được thế lực, uy quyền của mình. Thật đáng khâm phục. Mặc dù ở trong tù, ông vẫn “thản nhiên nhận rượu, thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình”. Huấn Cao hoàn toàn tự do về tinh thần. Khi viên cai ngục hỏi Huấn Cao cần gì thì ông trả lời: “Ngươi hỏi ta cần gì à? Ta chỉ muốn một điều là nhà ngươi đừng bước chân vào đây”.
Cách trả lời ngang tàng, ngạo mạn đầy trịch thượng như vậy là bởi vì Huấn Cao vốn hiên ngang, kiên cường; “đến cái chết chém cũng còn chẳng sợ …”. Ông không thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm. Huấn Cao rất có ý thức được vị trí của mình trong xã hội. Ông biết đặt vị trí của mình lên trên những loại dơ bẩn “cặn bã” của xã hội. “Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”.
Thiên lương của Huấn Cao cũng thật trong sáng, cao đẹp. “Tính ông vốn khoảnh, không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình cho chữ bao giờ”, vì ông không sợ quyền uy, không ham vàng ngọc. Theo ông, chỉ có “thiên lương”, bản chất tốt đẹp của con người mới là đáng quý. Do vậy khi biết được nỗi lòng của viên quản ngục, Huấn Cao không những vui vẻ nhận lời cho chữ mà còn thốt rằng: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Hành động cho chữ viên quản ngục chứng tỏ Huấn Cao là một con người biết quý trọng cái tài, cái đẹp, biết nâng những kẻ tầm thường lên ngang hàng với mình.
Vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ của nhân vật Huấn cao được thể hiện rõ nét trong cảnh Huấn Cao cho chữ . Đó quả là một cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”. Người cho chữ là tử tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” đang “đậm tô từng nét chữ trên vuông lụa bạch trắng tinh” với tư thế ung dung tự tại. Huấn Cao đang dồn hết tài năng, tinh hoa vào từng nét chữ. Đó là những nét chữ cuối cùng của con người tài hoa ấy. Những nét chữ chứa chan tấm lòng của Huấn Cao và thấm đẫm nước mắt thương cảm của người đọc. Viết chữ rất đẹp nhưng cả đời Huấn Cao mới chỉ viết hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân rồi phải vội vã ra đi, để lại biết bao tiếc nuối cho người đọc. Qua đó, Nguyễn Tuân cũng gián tiếp lên án xã hội đương thời đã vùi dập tài hoa con người. Và người tù kia bỗng trở nên có quyền uy trước những người đang chịu trách nhiệm giam giữ mình. Ông Huấn đã khuyên viên quản ngục như một người cha khuyên bảo con: “Tôi bảo thực thầy quản nên về quê ở đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững rồi cũng có ngày nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Vì theo Huấn Cao, cái đẹp không thể nào ở chung với cái xấu được. Con người chỉ thưởng thức được cái đẹp khi có bản chất trong sáng, nhân cách cao thượng mà thôi. Những nét chữ cuối cùng đã cho rồi, những lời nói cuối cùng đã nói rồi. Huấn Cao, người anh hùng tài hoa kia dù đã ra đi mãi mãi nhưng để lại ấn tượng sâu sắc cho những ai đã thấy, đã nghe, đã từng được thưởng thức nét chữ của ông. Sống trên cõi đời này, Huấn Cao đã đứng lên đấu tranh vì lẽ phải, đã xóa tan bóng tối hắc ám của cái ác, cái xấu. Chính vì vậy, hình tượng Huấn Cao đã trở nên bất tử. Huấn Cao sẽ không chết mà bước sang một cõi khác để mang ánh sáng của cái đẹp xua tan bóng tối nơi đó, đem lại hạnh phúc cho mọi người ở mọi nơi.
Ở Huấn Cao ánh lên vẻ đẹp của cái “tài” và cái “tâm”. Trong cái “tài” có cái “tâm”. Và cái “tâm” ở đây chính là nhân cách cao thượng, sáng ngời của một con người tài hoa. Cái đẹp luôn song song “tâm” và “tài” thì cái đẹp đó mới trở nên có ý nghĩa thực sự. Xây dựng hình tượng Huấn Cao, nhà văn Nguyễn Tuân đã thành công trong việc xây dựng nên chân dung nghệ thuật điển hình lí tưởng về thẩm mĩ trong văn học. Dù cho Huấn Cao đã đi đến cõi nào chăng nữa thì ông vẫn sẽ mãi trong lòng người đọc thế hệ hôm nay và mai sau.
Quản ngục là một nhân vật phụ trong tác phẩm Chữ người tử tù. Nhưng nhân vật này cũng góp phần không nhỏ làm nên giá trị độc đáo của thiên truyện. Viên quản ngục không có cái tài hoa của một nghệ sĩ nhưng lại có tâm hồn nghệ sĩ đó là yêu cái đẹp và trân trọng người tài.
Hai chữ quản ngục đã phần nào gợi lên đầy đủ nghề nghiệp về nhân vật đó là cai tù, nghề đại diện cho quyền lực phong kiến, đối lập với những con người tài hoa, khí phách như Huấn Cao, đối lập với cái đẹp. Nghề nghiệp ấy cũng gợi lên một môi trường của gông cùm, xiềng xích, tội ác. Nhân vật ấy hằng ngày phải chứng kiến bao điều tàn nhẫn, lọc lừa, ăn đời ở kiếp với bọn tiểu nhân… Cảnh sống ấy dễ làm cho con người bị chai sạn, dễ bị đẩy vào bùn nhơ của tội lỗi. Nhưng quản ngục vẫn giữ được vẻ đẹp nhân cách đáng quý. Cách ví von của Nguyễn Tuân “Đó là một thanh âm trong trẻo chen giữa vào bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”, là “cái cao khiết giữa một đống cặn bã…” thể hiện sự nhìn nhận, khám phá, đề cao con người mang vẻ đẹp thiên lương nghệ sĩ.
Để làm nổi bật thanh âm trong trẻo, cái cao khiết của viên quản ngục, nhà văn Nguyễn Tuân đã đi vào thể hiện nhân vật quản ngục là con người bị ném vào môi trường cặn bã nhưng vẫn giữ được thiên lương. Điều đó bộc lộ qua thái độ và cách ứng xử của viên quản ngục đối với sáu người tử tù đặc biệt là đối với Huấn Cao. Khi nhận được phiến trát, quản ngục hỏi thầy thơ lại: “Tôi nghe ngờ ngợ. Huấn Cao? Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh rất đẹp đó không?” Câu hỏi là sự thăm dò kín đáo, thận trọng nhưng cũng chính là bộc lộ sự ngưỡng mộ, khâm phục, kính nể của quản ngục đối với tài hoa, danh tiếng và khí phách của Huấn Cao. Khi biết mình nắm trong tay sinh mệnh của Huấn Cao, quản ngục đã phải trải qua một cuộc đấu tranh tư tưởng. Ông ngồi đó với khuôn mặt tư lự và suy nghĩ. Quản ngục hiểu rằng, ông là người hành pháp phải làm việc theo bổn phận và chức trách mà chính quyền giao cho. Ông băn khoăn, trăn trở không biết phải đối xử với Huấn Cao như thế nào. Bởi đó là một con người mà từ lâu quản ngục đã mến mộ. Nguyễn Tuân đã dành những trang văn trang trọng, nên thơ miêu tả khung cảnh đêm tối khi quản ngục suy ngẫm: “Tiếng trống thành phủ gần đấy đã bắt đầu thu không…nâng đỡ lấy một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ”.
Vẻ đẹp nhân cách viên quản ngục được Nguyễn Tuân tô đậm khi nhà văn miêu tả thái độ khác thường của quản ngục lúc tiếp đón sáu người tử tù. Quản ngục đã nhìn Huấn Cao và các bạn tù của ông bằng cặp mắt hiền lành và lòng kiêng nể. Cái nhìn ấy, tấm lòng ấy đã ẩn chứa một thái “độ biệt nhỡn liên tài”. Chính thái độ kiêng nể của quản ngục đã làm cho bọn lính lấy làm lạ, nhắc quản ngục: “Xin thầy để tâm cho…”. Quản ngục đã trả lời với bọn lính: “ Ta biết rồi, việc quan ta đã có phép nước. Các chú chớ nhiều lời”. Như vậy, Nguyễn Tuân đã khai thác yếu tố tương phản, đối lập giữa một bên là bọn lính áp giải hung hăng, với một bên là ánh mắt hiền lành của viên quản ngục để làm nổi bật về viên quản ngục: quản ngục tuy là đại diện cho quyền lực phong kiến nhưng ông không phải là hung đồ với bàn tay vấy máu. Ngược lại sống giữa bùn nhơ nhưng ông không bị hoen ố, không bị vấy bẩn mà thực sự là cái cao khiết giữa một đống cặn bã.
Xây dựng nhân vật viên quản ngục, nhà văn không chỉ thể hiện vẻ đẹp nhân cách mà còn khám phá và thể hiện vẻ đẹp của một con người có tâm hồn của một người nghệ sĩ. Theo cách giới thiệu của nhà văn, viên quản ngục là một nhà nho, biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền và có một khát vọng cháy lòng là xin được con chữ Huấn Cao, coi đó là vật báu. Nghĩa là đằng sau cái con người công cụ của bộ máy trấn áp quyền lực phong kiến, nhân vật viên quản ngục còn là một con người có tâm hồn nghệ sĩ, trân trọng cái đẹp, khao khát thưởng thức cái đẹp.
Từ khi Huấn Cao trở thành người tù nơi trại giam của mình, viên quản ngục khổ tâm nhất đó là có được Huấn Cao ở trong tay mà không biết làm thế nào để tiếp cận được Huấn Cao.Quản ngục luôn tư lự, đăm chiêu, nghĩ ngợi tìm cách xin chữ Huấn Cao cho bằng được. Vì chữ Huấn Cao là báu vật trên đời, nếu không xin được thì quản ngục sẽ ân hận suốt đời. Miêu tả chân dung quản ngục lúc này giọng văn Nguyễn Tuân trở nên chậm rãi, trang trọng: Người ngồi đấy, đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Những đường nhăn nheo của bộ mặt tư lự, bây giờ đã biến mất. Ở đấy, giờ chỉ còn là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ.” Một hôm quản ngục mở khóa cửa buồng kín, tỏ ý biệt đãi Huấn Cao và bị Huấn Cao thể hiện thái độ khinh bạc nhưng quản ngục không hề trả thù. Ngược lại ông còn “Xin lĩnh ý” rất từ tốn và khiêm nhường. Có lẽ, ông đã tự ý thức được khoảng cách xa vời giữa người tử tù Huấn Cao với mình và ông hiểu được để có cái đẹp phải tự nguyện chứ không phải là cưỡng bức bằng những mánh khóe tầm thường.
Cảnh cho chữ là nơi kết đọng vẻ đẹp tâm hồn nghệ sĩ của quản ngục. Khi Huấn Cao viết xong một chữ “viên quản ngục lại vội khúm núm”. Sự khúm núm ấy không phải là nỗi sợ sệt tầm thường mà là cảm kích tột cùng trước một nhân cách lớn, tài năng lớn. Khi nghe những lời khuyên chân thành của Huấn Cao, quản ngục đã cảm động “vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Đây không phải là cái cúi đầu đớn hèn, nhục nhã mà cái cúi đầu này khiến quản ngục trở nên lớn lao, cao cả. Bởi cúi đầu trước cái đẹp thì đó cũng là hành động đẹp của một con người có nhân cách cao đẹp. Phải chăng cái cúi đầu ấy như cái cúi đầu của Cao Bá Quát thuở nào: “Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”. Bên cạnh cái cúi lạy cao cả đó là giọt nước mắt của tâm hồn nghệ sĩ biết yêu, biết trân trọng đến xót xa ngậm ngùi, nuối tiếc cho cái đẹp. Thái độ nhã nhặn và tinh thần phục dịch tận tụy Huấn Cao của viên quản ngục là biểu hiện một thái độ tôn trọng, thành kính trước một nhân cách đẹp. Luôn hướng về cái đẹp, chăm sóc cái đẹp cũng là hành vi trọng nghĩa, một phẩm chất trong sáng cao quý hiếm có của nhân vật này. Yêu cái đẹp đến mức dám phạm đến phép nước, dám bất chấp nguy hiểm là một tâm hồn đẹp đẽ hiếm thấy. Nhân vật viên quản ngục xứng đáng được nêu gương ,ca ngợi.
Làm nghề quản ngục, môi trường làm việc là nhà tù, đối tượng tiếp xúc hằng ngày là tù nhân, tội phạm, nhưng với sự hòa quyện giữa nhân cách cao đẹp và tâm hồn người nghệ sĩ, nhân vật viên quản ngục có thể được ví như một bông sen vươn dậy từ bùn lầy “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Trong một đời cầm bút đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân luôn cảm kích, ngợi ca những con người tài hoa nghệ sĩ trong bất cứ nghề gì và hình tượng viên quản ngục là một nhân vật như thế.
Người lái đò sông Đà hiện lên trước hết là một người lao động từng trải, có nhiều kinh nghiệm đò giang, có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một: “Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quảng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc thuyền nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm, méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này… Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn…”
Trong cuộc chiến đấu với thác dữ, người lái đò thực sự là người nghệ sĩ tài hoa trong nghề chèo đò: hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, mà bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. “Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”, người lái đò “phá luôn vòng vây thứ hai“. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá. Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Trong cuộc chiến không cân sức ấy, người lái đò chỉ có một cán chèo, một con thuyền không có đường lùi còn dòng sông dường như mang sức mạnh siêu nhiên của loài thuỷ quái. Tuy nhiên, kết cục cuối cùng, người lái đò vẫn chiến thắng, khiến cho bọn đá tướng “tiu nghỉu bộ mặt xanh lè vì phải chịu thua một con thuyền nhỏ bé.”
Nhân vật người lái đò trong tác phẩm là một người lao động vô danh, làm lụng âm thầm, giản dị, nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ, trở nên lớn lao, kì vĩ, trở thành đại diện của con người trong công cuộc chinh phục thiên nhiên. Người lao động nhờ ý chí kiên cường, bền bỉ, quyết tâm mà chiến thắng sức mạnh thần thánh của thiên nhiên. Đó chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc.
Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở nhân vật người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong tác phẩm Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.
Quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông không có thác lại dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ. Chung quy lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm không mấy ai tự tán dương về công sức của mình. nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét: “Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ. Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo.” Phải chăng người lái đò anh hùng có lẽ dễ thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa, chỉ có trong trang văn của Nguyễn Tuân.
“Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng tám. Tác phẩm không chỉ ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ thơ mộng của thiên nhiên Tây bắc mà còn ca ngợi vẻ đẹp bình dị, anh hùng mà tài hoa của người dân lao động nơi đây. Qua nhân vật người lái đò, nhà văn Nguyễn Tuân bộc lộ tình yêu đất nước, niềm tự hào hứng khởi, gắn bó tha thiết với nhân dân, đất nước .
Nhân vật Huấn Cao, viên quản ngục trong tác phẩm Chữ người tử tù là những nhân vật lãng mạn. Với những nhân vật này, tác giả đưa người đọc trở về với một thời đã qua nay chỉ còn vang bóng. Để làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục, Nguyễn Tuân đã đặt các nhân vật vào một tình huống truyện độc đáo: cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao với quản ngục và thơ lại. Đó là cuộc gặp gỡ của tử tù với quan coi ngục, nhưng cũng là cuộc hội ngộ của những kẻ “liên tài tri kỉ”.
Vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ của nhân vật Huấn Cao và tâm hồn nghệ sĩ của viên quản ngục còn được Nguyễn Tuân thể hiện qua việc sử dụng sức mạnh của nguyên tắc tương phản, đối lập của bút pháp lãng mạn: đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, giữa cái đẹp, cái cao cả với cái phàm tục, dơ bẩn. Có sự tương phản ở những chi tiết tạo hình được sử dụng để miêu tả không khí của cảnh cho chữ (bóng tối phòng giam, ánh sáng đỏ rực của bó đuốc, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián, tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ…). Có sự đối lập tương phản giữa việc cho chữ (công việc tạo ra cái đẹp nói lên hoài bão tung hoành của một đời con người) với hoàn cảnh cho chữ (nơi hôi hám, bẩn thỉu, nơi giam cầm, cùm trói tự do). Có sự đối lập ở phong thái của người cho chữ (đường hoàng, đĩnh đạc) với tư thế của kẻ nhận chữ (khúm núm, yếu đuối)…
Ngôn ngữ miêu tả nhân vật của Nguyễn Tuân trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” giàu chất tạo hình và mang màu sắc trang trọng, cổ kính. Ông sử dụng nhiều từ Hán – Việt, lời ăn tiếng nói mang khẩu khí của người xưa làm tăng thêm vẻ đẹp của một “thời vang bóng” ở hình tượng Huấn Cao và viên quản ngục.
Nhân vật người lái đò trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là nhân vật hiện thực. Đây là hình ảnh của con người trong chiến đấu, lao động đời thường, đại diện cho những người vô danh, thầm lặng, có mặt trên mọi miền của Tổ quốc. Ông lái đò sinh ra bên bờ sông Đà và gắn bó với nghề sông nước như bao người lái đò khác nơi thượng nguồn sông Đà. Đời sống tâm hồn của người lái đò giản dị: không nói nhiều về chiến công; dù đi đâu cũng luôn nhớ về nương ruộng, bản mường quê hương xứ sở.
Để làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật người lái đò, Nguyễn Tuân sử dụng ngôn ngữ phong phú, sáng tạo, tài hoa; kết hợp kể với tả nhuần nhuyễn và đặc sắc. Nghệ thuật khắc họa nhân vật độc đáo, sáng tạo. Sử dụng kết hợp các biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, liên tưởng, vận dụng tri thức của liên ngành, đa ngành góp phần miêu tả cuộc chiến hào hùng và khẳng định vẻ đẹp tâm hồn nhân vật.
Cũng như các loại hình nghệ thuật khác, tác phẩm văn chương muốn được người đọc đón nhận một cách nồng nhiệt và sống mãi với thời gian thì nhà văn phải không ngừng sáng tạo. Nam Cao đã từng nói rằng: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” (Đời thừa). Trong quá sáng tác, các nhà văn chân chính bằng tài năng và tâm huyết của mình đã không ngừng nỗ lực và sáng tạo để cho ra đời nhiều tác phẩm có giá trị. Nhân loại đã từng ngưỡng mộ và tôn vinh những tài năng lỗi lạc như: A.X. Puskin , R. Ta- Go, A.P. Sê- Khốp, V. Huy- Gô…với những tác phẩm xuất sắc họ để lại cho muôn đời. Nhận thức được sự sáng tạo trong quá trình sáng tác là một yêu cầu tất yếu của văn chương, các nhà văn Việt Nam trong đó có Nguyễn Tuân đã không ngừng tìm tòi, khám phá và đã tạo được cho mình phong cách riêng cùng với những tác phẩm có giá trị.
Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn, nghệ sĩ lớn, suốt đời đi tìm cái đẹp. Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân là nhà văn lãng mạn. Ông thể hiện sự bất mãn, bất lực trước hiện thực bằng cách chỉ tin vào cái đẹp trong quá khứ, về một thời đã qua nay chỉ còn vang bóng.
Sau Cách mạng Tám Nguyễn Tuân đã nhanh chóng trở thành nhà văn cách mạng. Tác phẩm của Nguyễn Tuân thời kì này được khơi nguồn từ cuộc sống lao động sản xuất và chiến đấu của nhân dân nên mang đậm chất hiện thực. Lòng yêu nước và tinh thần dân tộc của nhà văn được phát huy mạnh mẽ, quan niệm về cái đẹp cũng có sự chuyển biến rõ rệt. Ông quan niệm cái đẹp không ở đâu xa mà cái đẹp ở ngay trong hiện thực cuộc sống, trong tâm hồn của những người lao động bình dị đang ngày đêm sản xuất, chiến đấu để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Họ chính là những người nghệ sĩ , những anh hùng vô danh thầm lặng rất đáng được ca ngợi.
Nguyễn Tuân là nhà văn tài năng và giàu sức sáng tạo. Trong cuộc đời cầm bút của mình, ông đã tạo được một phong cách độc đáo, tài hoa, uyên bác. Tìm hiểu sự nhất quán và sáng tạo trong cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Tuân phần nào giúp ta hiểu rõ hơn quan điểm thẩm mĩ, sự đóng góp của ông cho nền văn học nước nhà.