Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài

Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài

So sánh người đàn bà hàng chài và vợ nhặt gồm 6 bài văn mẫu siêu hay kèm theo 2 gợi ý cách viết chi tiết. Qua liên hệ người đàn bà hàng chài và vợ nhặt các bạn học sinh có thể lựa chọn cho mình một cách tiếp cận, một giọng điệu văn thích hợp, để sau đó nó trở thành kiến thức tâm đắc của chính mình.

Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài

Văn mẫu lớp 12: So sánh nhân vật người Vợ nhặt và người đàn bà hàng chài

TOP 6 mẫu Liên hệ người đàn bà trong Chiếc thuyền ngoài xa và người vợ nhặt trong Vợ nhặt được viết rất hay với văn phong rõ ràng, dễ hiểu có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, sẽ giúp các em học môn Ngữ văn tốt hơn và có sự chuẩn bị tốt hơn khi học. Ngoài ra để nâng cao kỹ năng viết văn các bạn xem thêm phân tích nhân vật Phùng, phân tích Chiếc thuyền ngoài xa.

So sánh người đàn bà hàng chài và vợ nhặt

    Dàn ý so sánh người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài

    Dàn ý số 1

    I. Mở bài:

    Giới thiệu khái quát về hai nhân vật trong hai tác phẩm:

    + Kim Lân là nhà văn chuyên viết về nông thôn và cuộc sống người dân quê, có sở trường về truyện ngắn. Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc , viết về tình huống “nhặt vợ” độc đáo, qua đó thể hiện niềm tin mãnh liệt vào phẩm chất tốt đẹp của những con người bình dị trong nạn đói thê thảm.

    + Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu thời chống Mỹ, cũng là cây bút tiên phong thời đổi mới. Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn xuất sắc ở thời kì sau, viết về lần giáp mặt của một nghệ sĩ với cuộc sống đầy nghịch lí của một gia đình hàng chài, qua đó thể hiện lòng xót thương, nỗi lo âu đối với con người và những trăn trở về trách nhiệm của người nghệ sĩ.

    II. Thân bài:

    1. Làm rõ đối tượng thứ nhất: Nhân vật người vợ nhặt:

    – Giới thiệu chung: Tuy không miêu tả thật nhiều nhưng nhân vật người vợ nhặt vẫn là một trong ba nhân vật quan trọng của tác phẩm. Nhân vật này được khắc họa sống động, theo lối đối lập giữa bề ngoài và bên trong, ban đầu và về sau.

    – Một số vẻ đẹp khuất lấp tiêu biểu:

    • Phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng là một lòng ham sống mãnh liệt. (dẫn chứng)
    • Phía sau vẻ nhếch nhác, dơ dáng, lại là một người hiểu biết, ý tứ.(dẫn chứng)
    • Bên trong vẻ chao chát, cong cớn, chỏng lỏn lại là một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan. (dẫn chứng)

    2. Làm rõ đối tượng thứ hai: Nhân vật người đàn bà hàng chài

    – Giới thiệu chung: Là nhân vật chính, có vai trò quan trọng với việc thể hiện tư tưởng của tác phẩm. Nhân vật này được khắc họa sắc nét, theo lối tương phản giữa bên ngoài và bên trong, giữa thân phận và phẩm chất.

    – Một số vẻ đẹp khuất lấp tiêu biểu.

    • Bên trong ngoại hình xấu xí, thô kệch là một tấm lòng nhân hậu, vị tha, độ lượng, giàu đức hi sinh. (dẫn chứng)
    • Phía sau vẻ cam chịu, nhẫn nhục vẫn là một người có khát vọng hạnh phúc, can đảm, cứng cỏi. (dẫn chứng)
    • Phía sau vẻ quê mùa, thất học lại là một người phụ nữ thấu hiểu, sâu sắc lẽ đời. (dẫn chứng)

    3. So sánh: Nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình diện nội dung và hình thức nghệ thuật:

    – Tương đồng: Cả hai nhân vật đều là những thân phận bé nhỏ, nạn nhân của hoàn cảnh. Những vẻ đẹp đáng trân trọng của họ đều bị đời sống cơ cực lam lũ làm khuất lấp. Cả hai đều khắc họa bằng những chi tiết chân thực…

    – Khác biệt: Vẻ đẹp được thể hiện ở nhân vật người vợ nhặt chủ yếu là phẩm chất của một nàng dâu mới, hiện lên qua các chi tiết đầy dư vị hóm hỉnh, trong nạn đói thê thảm. Vẻ đẹp được khắc sâu ở nhân vật người đàn bà hàng chài là những phẩm chất của một người mẹ nặng gánh mưu sinh, hiện lên qua các chi tiết đầy kịch tính, trong tình trạng bạo lực gia đình…

    4. Lí giải sự khác biệt:

    + Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt được đặt trong quá trình phát triển, biến đổi từ thấp đến cao (cảm hứng lãng mạn), trong khi đó người đàn bà hàng chài lại tĩnh tại, bất biến như một hiện thực nhức nhối đang tồn tại (cảm hứng thế sự – đời tư trong khuynh hướng nhận thức lại)

    + Sự khác biệt giữa con người giai cấp (Vợ nhặt) với quan niệm con người đa dạng phúc tạp (Chiếc thuyền ngoài xa) đã tạo ra sự khác biệt này.

    III. Kết bài:

    Khái quát những nét giống và khác nhau tiêu biểu và nêu những cảm nghĩ của bản thân

    Dàn ý số 2

    I. Mở bài:

    – Kim Lân là mệnh danh nhà văn của người nông dân. “Vợ nhặt” là một trong những truyện ngắn xuất sắc của ông, thành công rung động người đọc với hình tượng “người vợ nhặt” tha phương nhưng khuất lấp sau đó là nghị lực sống mạnh mẽ

    – Nguyễn Minh Châu- một cây bút tài ba tiên phong trong thời kỳ đổi mới. “Chiếc thuyền ngoài xa” là lần gặp gỡ định mệnh của một người nghệ sĩ với một thế giới đầy nghịch lí và đau thương của số phận một người phụ nữ làng chài

    II. Thân bài: So sánh người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài

    1. Nét tương đồng của hai hình ảnh

    – Số phận lận đận đầy xót xa của phận người phụ nữ: Cả hai tác giả đã xây dựng hoàn cảnh nhân vật đều là những thân phận bé nhỏ, là nạn nhân của những hoàn cảnh trớ trêu đau thương

    – Người vợ nhặt thị

    • Số phận dặt dìu, không rõ tên tuổi quê quán, tình cảnh trôi dạt, nay đây mai đó
    • Vẻ ngoài nhếch nhác, đói khổ do cái đói giày vò
    • Thái độ chao chát, cong cớn, vô phép tắc do bị đẩy đến bước đường cùng, không còn sĩ diện
    • Theo một người lạ về làm vợ chỉ bằng bốn chén bánh đúc chỉ vì mong có cái ăn qua ngày

    – Người đàn bà làng chài

    • Ngoại hình xấu xí, thô kệch như đàn ông do phải dãi dầm nắng mưa làm lụng và bị bạo hành gia đình
    • Cam chịu, nhẫn nhục đến ngu ngốc, từ bỏ cả hạnh phúc của chính bản thân mình
    • Quê mùa, thất học, nghèo khổ, sống phụ thuộc vào kẻ khác

    – Vẻ đẹp tâm hồn khuất lập bởi bão giông cuộc đời

    2. Sự đối lập khi so sánh người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài

    – Vẻ đẹp của nhân vật “người vợ nhặt thị” là phẩm chất đáng quý của một nàng dâu thế hệ mới.

    Nó được thể hiện qua các chi tiết đầy dư vị lạc quan, yêu đời dù bối cảnh là nạn đói thê thảm, khốn cùng.

    – Ngược lại, vẻ đẹp được khắc sâu ở “người đàn bà hàng chài” lại chính là những phẩm chất trân quý của một người mẹ, người vợ tảo tần nặng gánh mưu sinh. Tất cả thể hiện lên qua các chi tiết đầy bất ngờ kịch tính, trong bối cảnh đói khổ nghèo nàn gây nên tình trạng bạo lực gia đình…

    III. Kết bài

    – Khái quát những điểm giống/khác nhau và nêu cảm nhận của bản thân

    Liên hệ người đàn bà hàng chài và người vợ nhặt – Mẫu 1

    Trong kho tàng văn học Việt Nam, đã có rất nhiều nhà văn, nhà thơ dùng ngòi bút của mình để bảo vệ cho những thân phận người phụ nữ bé nhỏ, chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội. Với nhà văn Kim Lân và Nguyễn Minh Châu cũng vậy, ta bắt gặp hình ảnh người vợ nhặt trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân với vẻ bề ngoài rách rưới, người đàn bà hàng chài với vẻ ngoài thô kệch xấu xí nhưng ở họ đều hội tụ những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam.

    Nguyễn Minh Châu là nhà văn mở đường và tinh anh nhất của văn học hiện đại Việt Nam sau 1975. Ông là nhà văn luôn đi tìm “hạt ngọc” ẩn sâu trong tâm hồn con người. Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” được ông sáng tác năm 1987 và là một trong những tác phẩm thể hiện triết lí nhân sinh quan sâu sắc của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Cũng là một trong những nhà văn của nền văn học hiện đại, nhà văn Kim Lân lại có sở trường về truyện ngắn, nổi bật trong những tác phẩm của ông là vẻ đẹp tâm hồn người Việt Nam, những người sống cực nhọc, lam lũ, nghèo khổ nhưng vẫn yêu đời, chất phác và lạc quan. Tác phẩm “Vợ nhặt” là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân và được rút từ tập truyện “Con chó xấu xí”.

    Người vợ nhặt là một nhân vật đặc biệt, nhân vật này không có tên mà được gọi là “thị”, “người đàn bà”, “người con dâu”. Thị chỉ là một trong muôn vàn người đàn bà rơi vào cảnh ngộ đáng thương như thế. Không ai biết gốc tích của chị, chị “ngồi vêu ra ở cửa kho, nhặt hạt rơi, hạt vãi hay ai có việc gì thì làm”. Thị cũng giống như bao kẻ đói khát khác, ngoại hình trông rất tiều tụy, “cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”. Trong lần đầu gặp mặt, khi nghe lời bông đùa của Tràng, thị đã “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng” – một người đàn ông mà chị không hề quen biết và đã đùa giỡn với anh. Lần gặp thứ hai, thị lớn tiếng trách móc anh Tràng vì đã thất hứa “điêu, người thế mà điêu” làm cho Tràng không hiểu chuyện gì. Cái đói, cái khát đã khiến cho thị trở nên trơ trẽn, táo tợn, không cần đến danh dự để có được miếng ăn. Khi được Tràng mời ăn thì “hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên”, “thị ngồi sà xuống, ăn thật”. Liều lĩnh hơn, thị đã chấp nhận theo không Tràng về làm vợ vì một câu nói đùa. Người vợ nhặt biến lời rủ rê thành lời cầu hôn chính thức, biến tất cả sự bông đùa thành sự thật, chị theo người đàn ông lạ về nhà mà không hề biết gia cảnh, tính tình của người ấy.

    Những vẻ đẹp của người vợ nhặt bị cái đói tha hóa, che khuất nhưng trong tâm hồn người phụ nữ ấy vẫn ánh lên những phẩm chất đẹp đẽ của lòng ham sống mãnh liệt, thị khát khao hạnh phúc gia đình, ý tứ hiền hậu đúng mực và lạc quan tin tưởng vào tương lai tốt đẹp. Khi theo Tràng về nhà làm dâu thì người vợ nhặt trở nên nữ tính, dịu dàng, đúng mực. Khi về đến nhà anh Tràng, “thị ngồi mớm ở mép giường” là tư thế e thẹn, ngượng ngùng đầy rụt rè, lo âu của người con gái lần đầu tiên bước về nhà chồng. Thị “hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”, trong đầu là bao suy nghĩ ngổn ngang, lo lắng, e ngại và cả sự xót xa, nỗi tủi nhục cho phận mình. Thế nhưng, người vợ nhặt ấy đã vượt lên trên hoàn cảnh để vun vén cho hạnh phúc mới của mình. Thị chủ động hỏi thăm, trò chuyện với bà cụ Tứ. Sáng hôm sau, thị dậy sớm làm đủ mọi việc như một người vợ hiền tần tảo, đảm đang, thị cùng với bà cụ Tứ dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ. Người phụ nữ này thay đổi đến mức chính Tràng cũng phải ngạc nhiên “Tràng nom thị hôm nay khác lắm”. Người vợ nhặt ấy đã đem lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho mọi người. Đối với người dân xóm ngụ cư thì người vợ nhặt đã đem đến cho họ niềm tin vào sự đổi thay. Đối với bà cụ Tứ, người vợ nhặt chính là niềm an ủi, hạnh phúc lớn lao. Người vợ nhặt đã đem đến niềm hạnh phúc thực sự cho Tràng, mái ấm gia đình đã khiến cho Tràng thay đổi từ một người đàn ông thô kệch vụng về nay bỗng trở thành người có ý thức, có trách nhiệm với gia đình. Chính thị là người đầu tiên kể cho cả nhà nghe truyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang và làm nảy sinh trong Tràng hình ảnh đoàn người đi phá kho thóc với lá cờ đỏ tung bay phấp phới, nó gợi lên trong Tràng niềm khát khao về sự đổi đời.

    Người vợ nhặt được nhà văn khắc họa độc đáo ở việc chú trọng khắc họa những hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để giúp cho người đọc hiểu tâm tâm lí của người phụ nữ. Người vợ nhặt đã góp phần to lớn trong việc thể hiện giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.

    Cùng viết về người phụ nữ, về những mảnh đời cơ cực nhưng nhà văn Nguyễn Minh Châu lại có cách xây dựng nhân vật khác so với nhà văn Kim Lân. Nhân vật người đàn bà hàng chài trong “Chiếc thuyền ngoài xa” là hiện thân cho những mảnh đời tăm tối, cơ cực trong cuộc sống của chúng ta. Người đàn bà hàng chài cũng không có tên gọi giống như người vợ nhặt là dụng ý nghệ thuật của nhà văn, chị cũng giống như bao người đàn bà vùng biển khác đều nhỏ bé, vô danh. Người đàn bà vùng biển ấy có ngoại hình xấu xí, thô kệch, “trạc ngoài bốn mươi” và thường xuyên phải chịu cảnh bạo lực gia đình “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Những trận đòn roi cứ trút lên người chị thật tàn bạo “lão dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”, “hai hàm răng nghiến ken két”. Để tránh những tổn thương cho các con khi chứng kiến cảnh bố đánh mẹ nên chị đã xin chồng đưa lên bờ để đánh, chị đã cố gắng hết sức để che chắn nhưng những đứa con hiểu chuyện cũng biết sự thật, nó đánh bố để bênh vực mẹ. Đối với chị, nỗi đau về tinh thần lớn hơn nỗi đau về thể xác.

    Người đàn bà hàng chài thất học, phải chịu nhiều đau khổ nhưng có lẽ những trận đòn roi hành hạ cả về thể xác lẫn tâm hồn cũng không khiến cho “hạt ngọc” bên trong tâm hồn chị bị khuất lấp. Người đàn bà hàng chài giàu đức hi sinh và yêu thương con vô bờ bến cho nên thị thường xuyên bị chồng đánh nhưng vẫn quyết không bỏ chồng. Chị có một tôn chỉ sống thiêng liêng rằng: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Đây là sự giãi bày thật tình cho thấy nguồn gốc của tất cả sự chịu đựng, hi sinh ở vào hoàn cảnh đông con. Cuộc sống đầy bất chắc, nỗi lo cơm áo đeo đẳng nhưng vì sống cho con nên người đàn bà ấy đã tự nguyện sống với lão chồng thô lỗ. Cả cuộc đời chị vui nhất đó chính là khi “được nhìn thấy đàn con được ăn no”. Có thể thấy, đây là niềm vui giản dị, thiêng liêng bởi chúng được chắt chiu từ nước mắt, từ đau khổ và đắng cay. Khi cảnh bạo lực gia đình bị đứa con phát hiện thì chị cảm thấy vô cùng đau đớn, “miệng mếu máo”, “ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé”, “chắp tay vái lấy vái để” là hành động giống như lời tạ lỗi của một trái tim yêu thương con vô bờ. Khi bị chồng đánh, chị không khóc nhưng khi ôm con chị lại “giỏ xuống những dòng nước mắt” bởi chị cảm thấy có tội khi làm tổn thương tâm hồn trẻ thơ của những đứa nhỏ.

    Người đàn bà hàng chài là người có tấm lòng bao dung, giàu lòng vị tha nên thị hiểu được nguồn gốc cơn giận của chồng. Chị đã chịu đựng “cơn giận như lửa cháy hàng ngày của chồng” và cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng và cũng không tìm cách trốn chạy. Chị biết Phùng và Đẩu là người có tấm lòng tốt nhưng không hiểu được công việc của người làm ăn khó nhọc nên chị đã kể cho hai người biết về người chồng của mình là một người có bản chất lương thiện, hiền lành nhưng cục tính. Chính cuộc sống đói nghèo đã khiến anh trở thành một người chồng vũ phu độc ác, chị hiểu rằng chồng chị đánh chị như một phương án để giải tỏa hồn. Giống như tất cả những người phụ nữ bao dung khác, chị tự nhận lỗi về mình rằng “giá như tôi đẻ ít đi”. Người phụ này không lạnh lùng, vô cảm trước những đau đớn về thể xác, không phải chị không ý thức được quyền sống của mình bị xâm phạm mà chị ý thức được nguyên nhân dẫn đến hành động bạo lực của chồng nên chị đành phải nhẫn nhục để bỏ qua. Khi cái đói chưa được giải quyết thì chị vẫn cam chịu bị chồng đánh, đó là sự bế tắc cùng quẫn đến tuyệt vọng bộc lộc sức chịu đựng phi thường của người phụ nữ.

    Người đàn bà hàng chài còn có nghị lực sống phi thường và rất thấu hiểu lẽ đời. Khi xuất hiện ở Tòa án huyện, lúc đầu người đàn bà tỏ vẻ lúng túng, sợ sệt khi kể lại câu chuyện về cuộc đời mình nhưng thực chất là bảo vệ quan điểm của mình nên người đàn bà ấy đã mất đi vẻ ngoài khúm núm, sợ sệt. Người đàn bà đã khiến cho Phùng và Đẩu thay đổi về cách nhìn nhận cuộc đời từ chỗ thất vọng ngạc nhiên đến thông cảm, sẻ chia. Khi nghe Phùng và Đẩu nói, người đàn bà hiểu ngay hai người đối thoại với mình là tốt cho mình. Chị hiểu được tâm trạng tha hóa của chồng, chồng bị cuộc sống khốn khổ đẩy đến chỗ tha hóa. Câu chuyện của chị đã chứa đựng những nỗi thương cảm, ta thấy người chồng cũng là một người đáng thương và người đọc cũng hiểu được rằng người đàn bà hàng chài chọn như vậy là hợp lí.

    Nhà văn đã xây dựng nhân vật bằng thủ pháp đối lập giữa ngoại hình và nội tâm, giữa số phận bất hạnh và phẩm chất nhân hậu, bao dung, thấu hiểu lẽ đời khiến cho nhân vật hiện ra rất chân thực. Nhân vật người đàn bà hàng chài hiện lên với số phận cay đắng, tủi nhục nhưng cũng rất đáng trân trọng ở vẻ đẹp của tình mẫu tử, ở sự bao dung độ lượng và có nghị lực sống phi thường.

    Cả hai nhân vật đều là hiện thân của những mảnh đời bất hạnh, phải chịu nhiều cơ cực trong cuộc sống. Cũng vì cái đói, cái nghèo đã khiến cho người vợ nhặt không còn quan tâm đến danh dự mà theo không Tràng về làm vợ, người đàn bà hàng chài thì phải gánh chịu những cú đánh từ người chồng vô trách nhiệm. Thế nhưng, dù hoàn cảnh khắc nghiệt, khó khăn nhưng ở hai nhân vật đều ẩn chứa những phẩm chất tốt đẹp và nghị lực sống phi thường đáng được trân trọng.

    Tuy hai nhân vật người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài có những điểm chung nhất định nhưng ở họ vẫn có những nét đẹp riêng biệt thể hiện phong cách sáng tác của mỗi nhà văn. Nhà văn Kim Lân thường tập trung miêu tả vẻ đẹp của những con người lao động xung quanh chúng ta cho nên nhân vật người vợ nhặt chủ yếu được khắc họa ở khía cạnh nàng dâu mới về nhà chồng với những cử chỉ, điệu bộ đúng mực và hóm hỉnh. Còn nhà văn Nguyễn Minh Châu lại đi tìm thứ được gọi là hạt ngọc ẩn chứa bên trong tâm hồn con người nên nhân vật người đàn bà hàng chài được khắc họa nổi bật ở tình yêu thương con và thấu hiểu lẽ đời. Ông đã đặt nhân vật người đàn bà hàng chài vào một tình huống nghịch lí để mang đến cho người đọc những nhận thức ngang trái về thực tế đời sống éo le đáng sợ.

    Nhân vật người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài đã đem lại giá trị nhân đạo sâu sắc cho hai tác phẩm. Mỗi nhà văn đều có phong cách nghệ thuật độc đáo riêng biệt trong việc khắc họa hình tượng nhân vật đã giúp cho người đọc có cái nhìn đồng cảm với những số phận bất hạnh. Hai nhân vật trên đều có những phẩm chất tốt đẹp ẩn chứa bên trong tâm hồn cho dù hoàn cảnh có đẩy họ xuống những cái đáy của sự đau khổ, tuyệt vọng.

    So sánh người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài – Mẫu 2

    Kim Lân là nhà văn viết nhiều và viết khá hay về đời sống nông thôn cũng như những người nông dân hiền lành chất phác. Viết về cuộc sống, số phận, cảnh ngộ của những con người trong những năm xảy ra nạn đói năm Ất Dậu, “Vợ nhặt” là một tác phẩm tiêu biểu cho những khám phá của nhà văn về vẻ đẹp của người nông dân mà nổi bật là hình ảnh người vợ nhặt với khát vọng sống mãnh liệt. Nguyễn Minh Châu là một trong những người mở đường xuất sắc cho công cuộc đổi mới nền văn học Việt Nam sau năm 1975. Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” được kể lại từ điểm nhìn trần thuật của người nghệ sĩ mang tên Phùng – một nghệ sĩ trên hành trình khai phá nghệ thuật đồng thời tác phẩm cũng góp phần thể hiện những khám phá mới mẻ của nhà văn về hiện thực và về con người. Một thành công nổi bật của tác phẩm là những phát hiện về vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài.

    Xuất hiện trong bối cảnh ngày đói quay quắt, ý chí bám lấy sự sống vấn rất mạnh mẽ trong nhân vật (bỏ qua ý thức về danh dự, chấp nhận theo không Tràng).Khi trở thành vợ của Tràng, ở chị không còn vẻ “chao chát”, “chỏng lỏn” mà thay vào đó là sự “hiền hậu đúng mực”, sự “ý tứ” với hành động “ngồi mớm ở mép giường”, “điềm nhiên và vào miệng”, “miếng cám nghẹn bứ, đắng chát”, cách đối xử chân tình với người chồng mới, ý thức tu sửa và dọn dẹp mái ấm gia đình.

    Là một người có khao khát chân chính: mơ ước về tổ ấm gia đình, về hạnh phúc. Nghệ thuật miêu tả nhân vật: đặt nhân vật trong tình huống “nhặt được vợ” vừa lạ vừa tội nghiệp, cùng với khả năng phân tích tâm lí sắc sảo, ngòi bút Kim Lân đã đi sâu khơi tìm đằng sau hiện thực khốn quẫn là vẻ đẹp tâm hồn của con người. Đối lập với vẻ ngoài xấu xí, thô kệch là vẻ đẹp tâm hồn trong trẻo và cao khiết.

    Mọi sự cam chịu đến nhẫn nhục của nhân vật đều xuất phát từ tình yêu thương con tha thiết, từ trái tim hồn hậu, vị tha của một người mẹ. Chị cũng là một người phụ nữ giàu đức hi sinh. Đặc điểm này cũng xuất phát từ tình mẫu tử, lòng yêu con tha thiết. Không những thế, người đàn bà tưởng như “khép nép”, “sợ sệt” lại là một người thấu hiểu lẽ đời, tình người. Trong khi Phùng và Điểu kết tội gã đàn ông là kẻ độc ác nhất thế gian thì chị lại lí giải những trận đòn kia bằng nỗi khổ vật chất đè nặng lên vai người đàn ông. Qua câu chuyện đời tự kể của chị, Phùng và Đẩu mới dần cảm nhận được lẽ đời và nhân tình thế thái một cách chân thực. Sử dụng biện pháp đối lập (giữa hình thức và tâm hồn), đặt nhân vật trong tình huống nhận thức độc đáo, Nguyễn Minh Châu giúp người đọc khám phá “… ẩn giấu” trong “bể sâu tâm hồn” người đàn bà hàng chài.

    Viết về hai người đàn bà trong hai bối cảnh khác nhau nhưng các nhà văn đều dồn tâm sức khai phá vẻ đẹp tiềm ẩn, khó thấy, khuất lấp của người phụ nữ bên cạnh số phận đau khổ, cảnh sống khốn cùng. Người vợ nhặt hay người đàn bà hàng chài đều là những nhân vật không tên tuổi, trở thành những khái quát nghệ thuật đặc sắc. Họ mang những vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam.Khám phá vẻ đẹp của người phụ nữ, cả hai nhà văn đều thể hiện niềm tin vào phẩm chất của con người dù trong hoàn cảnh khốn cùng nhất.

    Đặt nhân vật trong bối cảnh nạn đói nên tâm điểm nghệ thuật của Kim Lân là khát vọng sống mãnh liệt, là những căn tích tốt đẹp bấy lâu bị cái đói làm cho chìm khuất. Nguyễn Minh Châu lại xây dựng hình tượng người đàn bà trong bối cảnh xã hội sau năm 1975, khi chiến tranh đã đi qua nhưng cái nghèo, cái lạc hậu vẫn chưa hết, vì vậy nhân vật của ông được khám phá ở vẻ đẹp của nhận thức của sự thấu trải lẽ đời, tình người.

    So sánh người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài – Mẫu 3

    Kim Lân là nhà văn chuyên viết về người nông dân, viết về cuộc sống ở nông thôn đầy những cơ cực bày ra trước mắt. Vợ nhặt là một truyện ngắn xuất sắc tại đây đã khắc họa thành công tình huống “nhặt vợ” độc đáo. Cùng gặp gỡ số phận người phụ nữ, ta gặp Nguyễn Minh Châu, phía sau con người nghèo khổ ông cũng thể hiện một tấm lòng của mình với nhân vật người phụ nữ. Thị, và người đàn bà hàng chài đã để lại cho ta nhiều ấn tượng khó phai mờ..

    Nhân vật người vợ nhặt xuất thân trong truyện ngắn vợ nhặt và được xây dựng với những tính cách qua ngòi bút góc nhìn của Kim Lân. Tại đây ông đã cho ta thấy một vẻ đẹp tiêu biểu của người phụ nữ, dù có trải qua khốn khổ vẫn đẹp sáng một tâm hồn hướng về cái đẹp, cái thiện.

    Phía sau cảnh tình bị trôi dạt trong đói nghèo là một trái tim ham sống đến mãnh liệt và tột cùng. Người đàn bà ấy đã chỉ vì “cơm trắng mấy giò” vì “4 cái bát bánh đúc” đã theo Tràng về làm vợ. Phía sau cái nhếch nhác và đói khổ lại là một tâm hồn có hiểu biết có ý tứ biết bao. Khi mới về nhà Tràng thị rất ý tứ, chỉ dám ngồi mép giường, những hành động ngại ngùng thật nữ tính.

    Bên trong cái chao chát, chỏn lỏn lúc gặp Tràng, lại là một tâm hồn cực kì hiền lành và hiền hậu, đúng mực biết lo toan cho gia đình. Sáng sớm Tràng thức dậy đã thấy nhà cửa sạch tinh tươm, là cô vợ mới của Tràng đã giúp Tràng đó.

    Còn, đối với người đàn bà hàng chài. Cuộc sống mưu sinh đã nhấn chìm bà thành một con người xấu xí, nghèo đói. Người đàn bà là nhân vật chính trong câu truyện, giữ vai trò quan trọng thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm. Qua nhân vật này ta thấy được sự khắc họa rõ nét và sinh động của nhà văn, theo lối tương phản giữa vẻ bên ngoài và tâm hồn đẹp bên trong. Giữa ngoại hình và phẩm chất của bà.

    Người đàn bà hàng chài có vẻ bề ngoài không mấy ưa nhìn. Khi ngoại hình xấu xí, thô kệch, nhưng lại là một người mẹ hi sinh, nhân hậu và bao dung. Trái tim không khi nào vơi tình yêu dành cho con cái của mình. Chỉ cần nhìn thấy chúng ăn no bà đã thấy hạnh phúc. Phía sau vẻ thất học, quê mùa thì ấy lại là một người hiểu biết sâu sắc lẽ đời.

    Chính bà đã khiến đẩu và Phùng nhận thức lại được hoàn cảnh và cảm thông sâu sắc trân trọng hơn đối với người phụ nữ ấy. Hóa ra đằng sau đó lại là một con người khác hẳn, đẹp đẽ quá, đáng quý đáng trân trọng.

    Cả hai nhân vật đều có nét tương đồng, là những người nhỏ bé, nạn nhân của cuộc sống, nhưng trong họ đều có những vẻ đẹp đáng trân trọng, ngợi ca. Cả hai đều được khắc họa chân thực. Nhưng cũng có khác biệt, vẻ vợ nhặt chủ yếu là hình ảnh của cô con dâu mới. Còn người đàn bà hàng chài được khắc họa chủ yếu thông qua phẩm chất của người mẹ mưu sinh, qua các chi tiết kịch tính, qua nạn bạo lực gia đình.

    Cả hai nhà văn đã làm nổi bật lên vẻ đẹp người phụ nữ, họ sống trong hoàn cảnh khác nhau nhưng đều hiện lên vẻ đẹp và một đời sống tâm hồn đáng quý. Từ đó khẳng định tư tưởng nhân đạo và ngòi bút hiện thực sâu sắc của nhà văn.

    So sánh người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài – Mẫu 4

    Ai đó đã từng nói “Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Phải chăng vì vậy mà ta có thể bắt gặp nhiều nghệ sĩ có phong cách hoàn toàn khác nhau trên cùng một giao lộ của hành trình kiếm tìm và khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người. Kim Lân với truyện ngắn “Vợ nhặt” và Nguyễn Minh Châu với tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trường hợp như vậy. Nếu như với khả năng viết rất hay về nông thôn và cuộc sống của người dân quê, Kim Lân xây dựng thành công nhân vật người vợ nhặt qua tình huống truyện độc đáo thì với phong cách truyện đậm chất tự sự-triết lí, Nguyễn Minh Châu đã khám phá ra những nghịch lí trong cuộc sống của người đàn bà hàng chài. Qua cả hai tác phẩm, các tác giả đều cho ta thấy được vẻ đẹp khuất lấp của người phụ nữ Việt Nam trong những hoàn cảnh khó khăn.

    Có thể nói, trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, nhân vật người vợ nhặt tuy không phải là nhân vật chính nhưng vẫn là một trong ba nhân vật quan trọng của tác phẩm. Tuy là một con người vô danh nhưng nhà văn đã xây dựng cho nhân vật của mình một cá tính đậm nét. Được khắc họa sống động theo lối đối lập giữa bên trong và bên ngoài, ban đầu và về sau, người vợ nhặt hiện lên với đầy đủ những phẩm chất của con người bình dị trong nạn đói thê thảm Từ một cô con gái “ngồi vêu ra ở cửa nhà kho” chao chát, chỏn lỏn đến một nàng dâu hiền hậu, đảm đang, đúng mực là một hành trình đầy bất ngờ với bao biến động trong cuộc đời nhân vật. Nhà văn đã chọn được tình huống truyện thật độc đáo để nhân vật tự bộc lộ giá trị của mình.

    Ở đầu tác phẩm, những vẻ đẹp của người vợ nhặt bị che khuất bởi những con số không tròn trĩnh: không quê quán, không nghề nghiệp, không cả một cái tên, không nhan sắc, không lòng tự trọng. Cuộc sống đói khổ càng tô đậm sự xấu xí của thị: “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, người “gầy sọp”, “trên cái khuôn mặt xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Khi nghe tiếng hò của Tràng, thị “lon ton chạy theo” đẩy xe thóc cùng, hôm sau lại “sầm sập chạy đến”, “cong cớn” đứng trước mặt anh ta để đòi “nợ” rồi “cắm đầu ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc”. Giữa sự lựa chọn nghiệt ngã: hoặc chết đói để giữ sĩ diện hoặc bỏ lòng tự trọng sang một bên để bám víu lấy sự sống, thị đã chọn cách thứ hai.

    Song, qua tiến trình của câu chuyện, con người thực sự của nhân vật người vợ nhặt dần hiện ra dưới ngòi bút truyện tài hoa của Kim Lân. Thị “rón rén, e thẹn, đầu cúi xuống, chân bước díu vào nhau” khi đi qua xóm ngụ cư, trên đường về nhà Tràng. Ở đây, ta chỉ thấy một cô gái hiền hậu, biết ý tứ và ngượng ngùng một cách thật dễ thương chứ không còn cái “cong cớn” vô duyên lúc trước. Buổi sang sau khi về làm vợ Tràng, thị dậy sớm, quét tước, dọn dẹp, nấu cơm và cư xử, nói năng đúng mực khiến ngay cả Tràng cũng ngạc nhiên vì sự thay đổi ấy. Thị đã trở thành người vợ đảm, người con dâu đảm đang biết lo toan việc nhà. Phải chăng đây mới chính là bản chất tốt đẹp của con người vợ nhặt? Ngay cả trong chi tiết theo không Tràng về làm vợ của thị, nếu xét kĩ, ta sẽ thấy hành động ấy thực chất xuất phát từ khao khát tình yêu, hạnh phúc và tổ ấm gia đình cháy bỏng của những người nông dân bình dị. Tóm lại, với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, Kim Lân đã xây dựng thành công nhân vật người vợ nhặt với những vẻ đẹp tâm hồn đáng được trân trọng và ngợi ca.

    Bên cạnh người “vợ nhặt”, nhân vật người đàn bà hàng chài trong “CTNX” cũng để lại ấn tượng sâu sắc. Là nhân vật chính, nhân vật này có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc thể hiện giá trị tư tưởng của tác phẩm. Nguyễn Minh Châu đã khắc họa nhân vật khá sắc nét bằng bút pháp hiện thực theo lối tương phản giữa bên ngoài và bên trong, giữa than phận và phẩm chất. Xuất hiện trong tình huống đầy nghịch lí dưới khám khá của nhân vật Phùng, nhân vật người đàn bà hàng chài hiện lên với những vẻ đẹp khuất lấp khiến ta xót xa, lo âu và không khỏi trăn trở.

    Xuất hiện trước mắt độc giả, người đàn bà hàng chài hiện lên với ngoại hình xấu xí, thô kệch: than hình cao lơn, “khuôn mặt mệt mỏi”, “tái ngắt”, “tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới”. Cuộc sống của chị là một chuỗi những tháng ngày vừa lao động vất vả, vừa phải chịu đòn roi của chồng: “ ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Độc giả có thể thông cảm với hoàn cảnh bất hạnh nhưng rất dễ bất bình với sự nhẫn nhục, cam chịu quá đáng của nhân vật khi im lặng chấp nhận trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình.

    Nhưng phía sau ngoại hình xấu xí và sự nhẫn nhục ấy là cả một tấm lòng vị tha, độ lượng, đức hi sinh cao cả và sự cứng cỏi, can đảm hiếm có của người phụ nữ. Chị chấp nhận cuộc sống ấy bởi lẽ chị yêu thương các con, sẵn sàng hi sinh tất cả để bảo vệ tổ ấm gia đình. Đối với chị thì “đàn bà ở thuyền phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Và dù bị đánh đập, hành hạ bao nhiêu thì người đàn bà ấy vẫn cảm thông với những khó khăn của chồng, vẫn cứ chắt chiu từng giây phút hạnh phúc trong cuộc sống. Phía sau sự thất học, quê mùa, người đàn bà hàng chài vẫn là người phụ nữ sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời. Lí lẽ của chị là lí lẽ của con người từng trải bao sóng gió, khó khăn, không chỉ khiến chánh án Đẩu, nhiếp ảnh gia Phùng mà còn khiến tất cả chúng ta phải ngạc nhiên, cảm phục.

    Có thể thấy, cả hai nhân vật đều là những thân phận nhỏ bé, là nạn nhân của hoàn cảnh nhưng vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp, lương thiện. Vẻ đẹp ấy, trong những lam lũ của đời thường, trong những khoảnh khắc khó khăn của cuộc sống có thể bị che lấp đi nhưng không bao giờ biến mất. Cả Kim Lân và Nguyễn Minh Châu đều thành công ở điểm này, khi miêu tả nhân vật bằng những chi tiết chân thực vô cùng, vừa làm toát lên số phận đau khổ, cảnh sống khốn cùng của họ, vừa khám phá ra vẻ đẹp khuất lấp bên trong những con người ấy.

    Tuy nhiên, giữa hai nhân vật cũng có nhiều điểm khác biệt. Vẻ đẹp của người vợ nhặt được khắc họa qua những phẩm chất của một nàng dâu mới, hiện lên qua các chi tiết đầy dư vị hóm hỉnh trong nạn đói thê thảm. Thị như một luồng gió mới “lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối” của những người dân xóm ngụ cư cũng như gia đình Tràng. Trong khi đó, vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài dưới ngòi bút của Nguyễn Minh Châu lại là phẩm chất của người mẹ nặng gánh mưu sinh, hiện lên qua các chi tiết đầy kịch tính trong tình trạng bạo lực gia đình. Nhân vật này không khỏi khiến ta băn khoăn, trăn trở về cách nhìn nhận con người cũng như mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực cuộc sống. Sở dĩ có sự khác biệt ấy là do phong cách nghệ thuật và thời điểm sáng tác của hai nhà văn. Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt được đặt trong quá trình phát triển biến đổi từ thấp đến cao, mang cảm hứng lãng mạn, tiêu biểu cho văn học thời kì kháng chiến. Trong khi đó nhân vật người đàn bà hàng chài lại tĩnh tại, bất biến như một hiện thực nhức nhối đang tồn tại. Nhân vật này thể hiện rõ cảm hứng thế sự-đời tư trong ngòi bút truyện của Nguyễn Minh Châu sau 1975.

    Tóm lại, người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài là hai nhân vật được xây dựng rất thành công của Kim Lân và Nguyễn Minh Châu. Tuy có nhiều điểm khác nhau trong phong cách nhưng với tinh thần nhân đạo cao cả, hai nhà văn đều khám phá và nâng niu trân trọng những vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Qua hai tác phẩm, các tác giả còn cho chúng ta thêm tin tưởng vào sự bất diệt của những phẩm chất tốt đẹp trong con người dù ở bất cứ hoàn cảnh nào. Với tất cả giá trị về nội dung và nghệ thuật ấy, chắc chắn cả hai nhân vật cũng như tên tuổi của Kim Lân và Nguyễn Minh châu sẽ có sức sống lâu dài trong kho tàng văn học dân tộc.

    So sánh người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài – Mẫu 5

    Chân dung người phụ nữ Việt Nam với phẩm chất vô cùng cao quý đã đi vào biết bao câu văn, vần thơ. Ta không thể quên hình ảnh bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân  (1962). Và người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Họ bước ra với những cuộc đời rất khác nhưng gặp gỡ ở trái tim với tám chữ vàng: kiên cường, bất khuất, trung hậu, đảm đang.

    Kim Lân – người “một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn ngày trước”. Viết về cuộc sống, số phận, cảnh ngộ của những con người trong những năm xảy ra nạn đói năm Ất Dậu, “Vợ nhặt” là một tác phẩm tiêu biểu cho những khám phá của nhà văn với hình ảnh người vợ nhặt với khát vọng sống mãnh liệt. Đến với Nguyễn Minh Châu là đến với người luôn truy tìm “hạt ngọc ẩn dấu trong tâm hồn con người, người mở đường xuất sắc cho công cuộc đổi mới nền văn học Việt Nam sau năm 1975”. Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” được kể lại từ điểm nhìn trần thuật của người nghệ sĩ mang tên Phùng – một nghệ sĩ trên hành trình khai phá mới mẻ của nhà văn về hiện thực và về con người.

    Trước tiên là nhân vật Vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Kim Lân. Dưới ngòi bút của Kim Lân, chân dung Thị hiện lên như một con ma đói, áo quần luộm thuộm, gương mặt lấm lem với “cái ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”, không có nổi cái tên mà vỏn vẹn chữ “Thị”. Cô gái đói đến độ phải nhặt đồ rơi vãi, nghe ba câu hò mà vội chạy đến đẩy xe bò. Thị gặp Tràng nhưng không ăn trầu mà ăn bánh đúc rồi quẹt đũa ngang miệng “chà ngon”. Ta chỉ thấy chân dung Thị chao chát, chỏng lỏn. Vậy nhưng qua ngòi bút đầy tài năng của tác giả, người vợ anh Tràng hiện lên có cong cớn, rất cong cớn nhưng không nanh nọc và tính cách ấy phải chăng do dốt nát, đói nghèo, tăm tối chứ tuyệt nhiên không sinh ra từ cái ác, cái xấu. Nhân vật Thị hiện lên chua xót hơn khi cuộc hôn nhân cả đời người cũng chỉ bắt đầu bằng vài ba câu tầm phào của Tràng mà khiến người đàn bà quên hết sĩ diện, nết na, đức hạnh để xà xuống ăn hết bát bánh đúc, theo Tràng về làm vợ mà không dò hết ngọn ngành nguồn sông. Chính cái đói đã khiến thân phận con người bọt bèo, rẻ mạt đến vậy.

    Khi gặp Tràng thì đanh đá, chỏng lỏn nhưng khi về làm dâu, Thị lại là người vợ đảm đang, con dâu hiếu thảo. Thị theo Tràng về như đến một chốn có thể nương tựa trong cái đói đang rình rập. Trên con đường về nhà Tràng, cô Thị đanh đá bỗng trở nên dịu dàng, e dè, ngượng ngập. Đôi mắt tư lự khi bỡ ngỡ đặt chân đến ngôi nhà mới, dáng điệu khép nép ngồi và câu chào lúng túng…tất cả làm cho Thị có cảm giác của một nàng dâu mới. Từ khi làm vợ, Thị đảm đang và dịu dàng hơn cả, cô cùng mẹ sửa sang cửa nhà, dọn dẹp vườn tược và vui vẻ trong bữa ăn loãng thếch, đắng chát. Thị kể về câu chuyện những người cướp kho thóc Nhật với hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng phấp phới. Chính nó làm lóe lên ánh sáng tia hy vọng về tương lai mới, mở ra con đường đấu tranh đi đến Cách mạng. Rõ ràng, Thị dần dần nhận được đủ đầy cảm xúc từ chữ “tình”, có ý thức về bổn phận và trách nhiệm của mình. Quả đúng, dù trong túng đói tột cùng thì tình cảm vẫn quý hơn manh áo bởi nó khiến con người được sống là chính mình, được nên người.

    Người đàn bà hàng chài coi nỗi khổ vận vào đời mình như một lẽ đương nhiên. Chị chấp nhận để chồng đánh chỉ xin chồng là “đánh ở trên bờ, đừng để các con nhìn thấy”. Ở đây, lẽ đời đã chiến thắng. Nó là chất xúc tác để Phùng và chánh án Đẩu hiểu về lẽ thiệt hơn ở đời. Thức nhận được ở người phụ nữ ấy chứa đựng mẫu tính sâu xa như một bản năng: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”, những lời lẽ ấy của người đàn bà hàng chài được thốt lên từ một niềm tin đơn giản mà vững chắc vào cái thiên chức mà trời đã giao phó cho để cảm nhận hạnh phúc dẫu rất nhỏ nhoi trong cuộc sống đầy khó khăn. Qua nhân vật người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu cũng khẳng định: gian lao không làm mất đi ở người phụ nữ tấm lòng yêu thương, nhân hậu bao dung, vị tha. Và với họ, gia đình hạnh phúc là gia đình trọn vẹn các thành viên cho dù đây đó vẫn có những tính cách chưa hoàn thiện.

    Rõ ràng, hai nhà văn với hai ngòi bút khác nhau, hai cá tính khác nhau nhưng khi viết về hai người đàn bà trong hai bối cảnh khác nhau đều đặt ngòi bút nơi trái tim để tìm, phát hiện và ngợi ca người phụ nữ bên cạnh số phận đau khổ, cảnh sống khốn cùng. Họ là những người không tên tuổi mà trở thành những khái quát nghệ thuật đặc sắc. Từ vẻ đẹp của họ để thể hiện niềm tin vào phẩm chất của con người dù trong hoàn cảnh khốn cùng nhất.

    Leonit Leonop từng nói “Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung”. Quả đúng, mỗi nhà văn đã đặt nhân vật của mình trong những hệ quy chiếu khác nhau thể hiện sự sáng tạo và dấu ấn của riêng mình. Nếu Kim Lân chọn bối cảnh nạn đói là tâm điểm nghệ thuật làm đòn bẩy cho là khát vọng sống mãnh liệt, là những căn tích tốt đẹp bấy lâu bị cái đói làm cho chìm khuất thì Nguyễn Minh Châu lại xây dựng hình tượng người đàn bà trong bối cảnh xã hội sau năm 1975 với vẻ đẹp của nhận thức của sự thấu trải lẽ đời, tình người khi chiến tranh đã đi qua nhưng cái nghèo, cái lạc hậu vẫn chưa hết.

    Như vậy, hai nhà văn đã vô cùng thành công khi xây dựng hình tượng các nhân vật và đặt trái tim nơi ngòi bút để thấu hiểu, chia sẻ và cảm thông cho những số phận bất hạnh trong xã hội. Họ xứng đáng là nhà văn chân chính với những tác phẩm chân chính như Aimatop từng khẳng định “Tác phẩm chân chính không kết thúc ở trang cuối cùng, không bao giờ hết khả năng kể chuyện khi câu chuyện về các nhân vật đã kết thúc. Tác phẩm nhập vào tâm hồn và ý thức của bạn đọc, tiếp tục sống và hành động như một lực lượng nội tâm, như sự dằn vặt và ánh sáng của lương tâm, không bao giờ tàn tạ như thi ca của sự thật.”

    So sánh người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài – Mẫu 6

    Đọc “Vợ nhặt” của Kim Lân và “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu – hai truyện ngắn thật dung dị nhưng đã để lại trong lòng người đọc một ấn tượng sâu sắc về hình ảnh hai người đàn bà: người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài. Họ cũng là những người phụ nữ nghèo khổ, lam lũ nhưng trong học đều ẩn chứa “những vẻ đẹp khuất lấp” tiêu biểu cho vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam.

    Nhìn hình thức bên ngoài mỗi con người chưa chắc đã phản ánh hết những gì khuất lấp bên trong. Có thể cái xấu xa, thấp hèn núp đằng sau vẻ đẹp cao sang, lịch lãm bên ngoài; có thể cái đẹp, cái cao thượng nấp sau vẻ thô kệch, xấu xí, lấm láp bề ngoài… Nguyễn Minh Châu luôn tâm niệm: thiên chức của nhà văn là suốt đời đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn để nâng đỡ, ca ngợi.

    Hình ảnh người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài đã chứa đựng những mâu thuẫn giữa bên ngoài và bên trong như thế. Nếu chỉ nhìn nhận họ với con mắt hời hợt thì không thể thấy được những vẻ đẹp tiềm ẩn, chứa bên trong tâm hồn mỗi con người. Cái đẹp chung của họ đều là những con người vô danh tính, xấu xí, nhạt nhòa trong bao số phận nghèo khổ, thua thiệt, bị cuộc sống dồn đẩy vào những hoàn cảnh trớ trêu, éo le nhưng họ vẫn vẫn luôn giữ được phẩm chất đẹp đẽ mang tính truyền thống của người phụ nữ Việt Nam.

    Chị xuất hiện trước mặt Tràng lần thứ hai với “thân hình gầy sọp, quần áo tả tơi như tổ đỉa, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt”. Chị ăn nói cong cớn, chỏng lỏn, trơ trẽn. Tràng mời ăn giàu, chị không ăn mà nói thẳng: “Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu”. Và chỉ chờ Tràng nói: “Đấy, muốn ăn gì thì ăn”thì mắt chị sáng lên rồi ngồi sà xuống “cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Ăn xong cầm doc chiếc đũa quệt ngang miệng thở: “Hà, ngon!”. Thế rồi Tràng nói đùa: “Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. “Ai ngờ thị về thật”, chấp nhận theo không người đàn ông về làm vợ mà chẳng rõ ngọn ngành. Người đọc có thể dễ dàng cảm nhận thấy, đó là người đàn bà chẳng còn lòng tự trọng, chẳng còn nhân cách.

    Rõ ràng sâu thẳm trong mỗi con người, có biết bao điều đẹp đẽ mà ta mới nhìn không thấy. Nếu đặt chị vợ nhặt vào một hoàn cảnh sung sướng đầy đủ khác, có lẽ chị chẳng thể có những vẻ lấm láp về nhân cách như thế.

    Nhà văn không đặt cho nhân vật của mình một cái tên cụ thể, có lẽ hình ảnh của bà nhạt nhòa trong bao hình ảnh những người phụ nữ cùng cảnh ở vùng biển này: đông con, đói khổ, lam lũ mà còn phải chịu cảnh bạo hành của người chồng vũ phu, độc ác.

    Xuất hiện trước mắt người đọc là hình ảnh một người đàn bà thân hình cao lớn, đường nét thô kệch, rỗ mặt, dàng đi mệt mỏi, chậm chạp như một bà già… Hình ảnh ấy là hiện thân của sự nghèo khổ, vất vả nhưng chưa đủ, bà còn luôn bị người chồng đánh đập tàn bạo bằng thắt lưng da của lính ngụy ngày xưa, cứ ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Vậy mà bà vẫn nhẫn nhục chịu đựng, cam chịu: không kêu la, không chống trả, không tìm cách trốn chạy. Khi được tòa huyện khuyên bỏ người chồng độc ác lên bờ sinh sống thì bà xin: “Con lạy quý tòa. Quý tòa bắt tội con cũng được

    Nhưng đi sâu khám phá mới thấy chiều sâu trong tâm hồn người đàn bà ấy ánh lên vẻ đẹp lấp lánh của đức hi sinh, lòng vị tha của một người vợ, người mẹ. Vì sao mỗi lần bị đánh đau đớn, tàn bạo như vậy mà bà vẫn cam chịu? Chỉ có bà mới thấu được hoàn cảnh của chính mình: đông con, nghèo khó, vất vả lại làm nghề đặc trưng: nghề biển. Con người đã quen với sóng gió, biển cả thì dù có gian lao, nguy hiểm nhưng vẫn phải bám biển để sống. Bà hiểu thiên chức của một người mẹ, sinh con ra phải có trách nhiệm với con, sống cho con chứ không phải sống cho mình. Bà tự trách mình: “Cái lỗi là chính đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật”; “giá mà tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được cái thuyền rộng hơn” thì sẽ đỡ khổ.

    Bà hiểu chồng cảm thông, dung tha cho những hành động tàn độc của lão. Trước kia lão là anh con trai hiền lành, cục tính nhưng chưa đánh vợ bao giờ. Về sau, chỉ vì lão đông con, cuộc sống cơ cực vất vả trút lên đầu lão, lúc nào thấy cơ cực quá thì lão xách vợ ra đánh cho hả giận. Bà hiểu tính khí lão cũng như biển khi giông bão, khi hiền hòa. Bà hiểu bà cũng như bao người phụ nữ trên biển rất cần có người đàn ông để chèo chống phong ba bão táp, dù người đàn ông ấy có đọc ác, tàn bạo thì vẫn phải chấp nhận để cùng nhau nuôi đặng sắp con, vì nhà nào cũng chục đứa. Bà chắt chiu niềm vui bé nhỏ trong cuộc sống để mà sống: lúc vui nhất là lúc nhìn thấy đàn con được ăn no và vợ chồng cũng có lúc vui vẻ, hòa thuận.

    Bà tỏ ra thông cảm với Đẩu- ông Bao Công phố biển phần nào còn “trẻ người non dạ” chưa có kinh nghiệm trong cuộc sống, mà chỉ có lòng tốt và kiến thức sách vở. Bà càng nói, càng “để lộ ra vẻ sắc sảo”, “con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình”. Nhắc đến con bà lại khóc, mỗi lần bị đánh bà lại xin lão chồng đưa lên bờ mà đánh để tránh cho những đứa con khỏi bị tổn thương khi phải chứng kiến cảnh đau lòng ấy, lớn lên rồi chúng sẽ ra sao? Chúng sẽ gặp phải cảnh như mẹ để rồi nhẫn nhục, cam chịu, hay vũ phu như người cha của chúng? “Tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc thấu hiểu cái lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài”.

    Thế ra, nhìn bề ngoài của người đàn bà xấu xí tưởng như dở hơi, đần độn ấy lại chứa chất bao điều uẩn khúc với những đức tính cao đẹp mà nhiều người khác khó có thể có được. Bà đem lại một bài học cho Đẩu và Phùng về cách nhìn đời: không thể nhìn bề ngoài mà đánh giá bên trong, phải biết phát hiện cái thực chất sau cái bề ngoài của hiện tượng. Không thể nhìn sự vật một cách đơn giản, dễ dãi mà phải thâm nhập vào mạch ngầm của cuộc sống để khám phá, phát hiện ra những vẻ đẹp tiềm ẩn bên trong

    Hai nhân vật có những nét riêng trong số phận, có những nét phẩm chất đậm nhạt khác nhau, nhưng ở họ đều toát lên vẻ đẹp của một tâm hồn nhân hậu, hiền thục, bao dung, vị tha. giàu lòng yêu thương và đức hi sinh – biểu hiện cho vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Nhìn ra những vẻ đẹp khuất lấp ấy tiềm ẩn trong tâm hồn của con người lao động bình dị, lam lũ, hai nhà văn đã góp phần tạo nên những giá trị nhân đạo mới mẻ và sâu sắc cho nền văn học Việt Nam hiện đại.

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *