Văn mẫu lớp 12: So sánh phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường

Văn mẫu lớp 12: So sánh phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường

So sánh phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường tuyển chọn 3 bài văn mẫu siêu hay gồm bài phân tích ngắn gọn, đầy đủ, bài làm của học sinh giỏi. Qua đó giúp cho các em học sinh lớp 12 có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng luyện Văn ngày một tốt hơn.

Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 12: So sánh phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường

Văn mẫu lớp 12: So sánh phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường

Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường là 2 nhà văn có những nét giống và khác trong phong cách nghệ thuật đã có những đóng góp không nhỏ để tạo nên sự phong phú, đa dạng mà vẫn thống nhất của nền văn học dân tộc. Người đọc yêu mến, tự hào bởi họ đã góp phần tô điểm cho đất nước bằng những trang văn thật đẹp, thật trữ tình về những dòng sông thi ca. Vậy dưới đây là 3 bài văn mẫu hay nhất mời các bạn cùng theo dõi.

Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường

    Dàn ý phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường

    a. Giới thiệu khái quát về 2 tác phẩm

    • Người lái đò sông Đà: Là tùy bút đặc sắc, in trong tập Sông Đà, Nguyễn Tuân đi tìm chất vàng của thiên nhiên và chất vàng mười đã qua thử lửa trong tâm hồn người lao động miền Tây Bắc.
    • Ai đã đặt tên cho dòng sông? Là bút kí viết về vẻ đẹp của dòng sông Hương, qua đó ca ngợi vẻ đẹp của một vùng văn hóa xứ sở và con người xứ Huế.

    => Đều là thể kí in đậm phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác của hai nhà văn

    b. Giải thích khái niệm phong cách nghệ thuật

    • Là một phạm trù thẩm mĩ, chỉ sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong các sáng tác của nhà văn, trong tác phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học hay văn học dân tộc.
    • Phong cách văn học có dấu hiệu riêng và nổi lên trên bề mặt của tác phẩm như một thực thể hữu hình , mà yếu tố cơ bản là nội dung và hình thức tác phẩm. Chỉ có ở những nhà văn có tài năng, có bản lĩnh mới có được phong cách riêng độc đáo.

    c. Khái quát về phong cách nghệ thuật của hai nhà văn

    • Nguyễn Tuân: uyên bác, tài hoa, không quản nhọc nhằn để cố gắng khai thác kho cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề, nhằm tìm cho ra những chữ nghĩa xác đáng nhất, có khả năng là lay động người đọc nhiều nhất.
    • Hoàng Phủ Ngọc Tường: Có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí. Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích,mê đắm và tài hoa.

    d. Nêu những nét tương đồng trong phong cách nghệ thuật của hai tác giả g thể hiện qua hai tác phẩm:

    – Đều là thể loại tùy bút và đều thấm đẫm chất trữ tình: ghi chép , miêu tả chi tiết cụ thể về vẻ đẹp của đối tượng được đề cập đến trong văn bản, qua đó bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức đánh giá của mình về đối tượng đó. Cụ thể:

    • Người lái đò sông Đà: Miêu tả dòng sông Đà với hai tính cách đối lập nhau, sông Đà sinh thể sống, có tâm trạng, có tính cách, rồi sông Đà như một cố nhân. Bên cạnh đó là người lái đò bình dị mà tài hoa, trí dũng, rất đáng khâm phục và trân trọng.
    • Ai đã đặt tên cho dòng sông? Miêu tả dòng sông Hương thấm đẫm chất thơ: thơ mộng, dịu dàng, chung tình làm mê đắm lòng người bởi có vẻ đẹp của một người thiếu nữ, của một người mẹ phù sa bồi đắp cho một vùng văn hóa xứ sở.

    – Hai cây bút đều tài hoa, uyên bác

    • Người lái đò sông Đà: Nguyễn Tuân sử dụng kiến thức của nhiều ngành khi miêu tả con sông Đà như: địa lí, quân sự, điện ảnh, võ thuật và tài hoa ở cách sử dụng ngôn từ: nhiều từ ngữ độc đáo mới lạ, sử dụng nghệ thuật liên tưởng, tưởng tượng, so sánh, nhân hóa.
    • Ai đã đặt tên cho dòng sông: Hoàng Phủ Ngọc Tường am hiểu về các lĩnh vực địa lí, lịch sử, văn hóa, thi ca và miêu tả dòng sông bằng bút pháp nghệ thuật miêu tả đặc sắc như: liên tưởng, tưởng tượng, so sánh nhân hóa.

    e. Nét khác biệt: Thể hiện cá tính sáng tạo độc đáo:

    • Nguyễn Tuân với Người lái đò sông Đà: Nghiêng về phát hiện và diễn tả những hiện tượng đập mạnh vào giác quan người đọc (Phân tích con sông Đà Hung bạo và cuộc chiến giữa người lái đò với con sông).
    • Hoàng Phủ Ngọc Tường với Ai đã đặt tên cho dòng sông?: Thiên về chất thơ trữ tình dịu ngọt ( Phân tích sông Hương để nhận thấy).

    g. Đánh giá nhận xét.

    • Họ đều là những nhà văn tài năng, tâm huyết với nghề, có tâm với nghề.
    • Có tình yêu quê hương đất nước thiết tha.

    Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường

    Bài làm mẫu 1

    Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường là hai nhà văn có nhiều thiên tùy bút, bút ký mang sắc màu của cái tôi giàu tình yêu quê hương đất nước, con người qua những câu chữ tài hoa. Những trang viết ấy là những điểm nhìn độc đáo về cảnh vật và con người mang hồn sông núi nước Nam ta. “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân và “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường là hai trong số những trang viết tài hoa đó. Cả hai tác phẩm đều bộc lộ cá tính và phong cách nghệ thuật độc đáo bậc nhất của Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Tuân.

    Khi nhắc đến phong cách của nhà văn là chúng ta nhắc đến tài nghệ của người nghệ sĩ ngôn từ trong việc đem đến cho người đọc một cái nhìn mới mẻ chưa từng có về cuộc sống, con người thông qua những hình tượng nghệ thuật độc đáo và những phương thức, phương tiện thể hiện đặc thù in đậm dấu ấn cá nhân của chủ thể sáng tạo. Ở đây, phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường trong việc miêu tả hình tượng sông Hương, sông Đà vừa có nét chung vừa có nét riêng.

    Trước hết là những điểm giống nhau của hai phong cách trong việc dùng ngòi bút của mình để xây dựng hình tượng. Thứ nhất, cả hai nhà văn đều rất tài hoa: luôn nhìn cuộc sống, sự vật, con người ở phương diện, góc độ văn hoá thẩm mĩ nên phát hiện ra nhiều vẻ đẹp của hiện thực cuộc sống.

    Đến với văn chương rất muộn nhưng Nguyễn Tuân lại sớm nổi tiếng qua tập truyện “Vang bóng một thời”. Sau cách mạng, Nguyễn Tuân đến với thể loại tùy bút “như một cuộc tìm kiếm có ý thức” để rồi nhanh chóng thành công với thể loại này. Tùy bút “Người lái đò Sông Đà” ra đời năm 1960 sau chuyến đi thực tế tại Tây Bắc (1958) của Nguyên Tuân.

    Với đôi mắt của nhà văn suốt đời “duy mỹ”, Nguyễn Tuân đã nhìn sông Đà ở góc độ thẩm mĩ để phát hiện ra vẻ đẹp trữ tình của con sông. Dưới ngòi bút ấy, sông Đà được miêu tả với nhiều góc độ.

    Dòng sông ấy được chiêm ngưỡng từ trên cao nhìn xuống. Hình dáng con sông Đà được ví như một “sợi dây thừng ngoằn ngoèo” và dễ thương, đáng yêu làm sao qua phép so sánh, liên tưởng độc đáo: “Sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình mà đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, bung nở hoa ban hoa gạo tháng ba…”. Đó là cái dáng rất mềm mại, nên thơ khác với sự hung bạo ban đầu mà nhà văn đã miêu tả. Sông Đà quả thực như một người đàn bà kiều diễm đang làm duyên trước điệp trùng thiên nhiên Tây Bắc và cũng nhu đang tuôn chảy dưới ngòi bút dào dạt chất thơ của Nguyễn Tuân.

    Chất thơ ấy không chỉ được cảm nhận ở hình dáng, chất thơ còn toát lên từ sắc nước sông Đà. Nhà văn dồn hết bút lực vào việc miêu tả cái màu sắc đó qua những câu văn có cánh: “Qua làn mây mùa xuân tôi nhìn thấy nước sông Đà xanh màu xanh ngọc bích… Qua làn mây mùa thu, nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Yêu làm sao cái màu xanh ngọc bích, sáng trong ngời ngợi giữa bạt ngàn màu xanh của núi rừng Tây Bắc. Yêu làm sao cái màu đỏ thật gợi cảm của làn nước mùa thu trong so sánh “da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Đó đều là những gam màu đẹp trong hội họa thật đẹp, thật lãng mạn.

    Đọc văn của Nguyễn Tuân về sông Đà mà ngỡ như đang xem một bộ phim tài liệu về dòng sông ấy. Hai bên bờ sông, khi đã hết thác ghềnh, có sự gợi cảm rất đặc biệt: Hồng hoang của Sông Đà dường như thuở khai thiên lập địa vẫn còn đây “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Ở đó có chất thơ Đường “yên hoa tam nguyệt há Dương Châu” gợi cho ta nhớ đến thơ Tản Đà “bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”.

    Không chỉ nhìn cảnh vật ở điểm nhìn văn hóa thẩm mỹ, Nguyễn Tuân còn nhìn người lái đò ở góc độ nghệ sĩ để phát hiện ra tài năng trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh :

    Sông Đà hung bạo nhưng người lái đò vẫn tự do đi lại trên sông. Tự do là khi nắm được quy luật tất yếu. Ở đây là qui luật của đá và nước sông Đà. Người lái đò nắm chắc được quy luật tất yếu của đá và nước sông Đà nên trên thác hiên ngang một người lái đò Sông Đà có tự do.

    Để chứng minh tài nghệ của người lái đò, tác giả đã hư cấu một cuộc vượt thác sông Đà: Sông Đà hung bạo bày trùng vi thạch trận hết sức tinh vi, hiểm độc. Nhiều đội quân tinh nhuệ và thiện chiến được bố trí hết sức hùng hậu.

    Trong khi đó, đối lập với sông Đà hung bạo là người lái đò đơn độc, chỉ với một thứ vũ khí thô sơ là mái chèo nhưng đã vượt qua được trùng vi thạch trận của sông Đà với ba vòng liên tiếp, với rất nhiều cửa tử, cửa sinh lập lờ,..- để lại sau lưng tiếng reo hò bất lực của dòng sông. Đó là tài nghệ “tay lái ra hoa” của một người nghệ sĩ có tâm hồn cao thượng, một phong thái ung dung tự tại, một trí thông minh lão luyện và lòng dũng cảm được tôi luyện trong lao động và chiến đấu.

    Với Hoàng Phủ Ngọc Tường thì xứ Huế là máu thịt của ông. Khi ông viết tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông” thì ông đã sống ngót nghét bên dòng sông Hương của Huế gần 40 năm. Có thể nói trong số những tác phẩm viết về Huế như “Ngôi sao trên đỉnh Phù Văn Lâu”, “Rất nhiều ánh lửa”, thì “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là tác phẩm tiêu biểu nhất của Hoàng Phủ Ngọc Tường, ở góc độ văn hóa thẩm mỹ, nhà văn đã phát hiện ra vẻ đẹp của dòng Hương giang với những phẩm chất vừa “phóng khoáng” vừa “dịu dàng, trí tuệ”.

    Lúc ở thượng nguồn Trường Sơn, sông Hương có vẻ đẹp hùng vĩ, hiểm trở với dòng chảy rầm rộ, mãnh liệt “cuộn xoáy như những cơn lốc vào đáy vực bí ẩn”. Với nhà văn, sông Hương giống như “một bản trường ca của rừng già” khi nó đi qua giữa lòng Trường Sơn. Thủ pháp nhân cách hóa làm sông Hương hiện lên như một cô gái Di gan đầy cá tính với bản năng “phóng khoáng và man dại” đã chinh phục rừng già, đã được rừng già ban tặng một “tâm hồn tự do và trong sáng”.

    Có vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ khi sông Hương trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá đất đế đô. Trước đó, nhà văn cũng đã làm nức lòng người qua những câu văn đậm chất thơ văn xuôi để miêu tả tính cách dịu dàng ấy: “có lúc sông Hương dịu dàng say đắm chảy giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Nay, sông Hương đã là “người mẹ phù sa” của Huế. Với con mắt nghệ thuật điêu luyện và tình yêu xứ Huế nặng sâu, nhà văn để cho ngòi bút của mình chở những câu văn đẹp nhất, hoa mĩ nhất để tả dòng chảy ấy. Trước khi về với thành phố tương lai “người tình mong đợi” thì sông Hương quả như người thiếu nữ với “những đường cong thật mềm”, “sông mềm như tấm lụa” gợi cảm và đẹp đến mê hồn. Nhất là có vẻ đẹp biến hoá, hư ảo như phản quang nhiều màu sắc trên nên trời tây nam thành phố “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” đã làm nức lòng bao khách viễn du:

    “Đã bốn lần đến Huế
    Vẫn lạ như lần đầu
    Sông Hương lơ đãng chảy
    Nắng tím vướng chân cầu “

    (Đoàn Thạch Biền)

    Góc độ văn hóa thẩm mỹ của nhà văn còn mang đến cho sông Hương vẻ đẹp trầm mặc khi lặng lẽ chảy dưới chân những rừng thông u tịch với những lăng mộ âm u mà kiêu hãnh của các vua chúa triều Nguyễn. Có vẻ đẹp mang màu sắc triết lí, cổ thi khi đi trong âm hưởng ngân nga của tiếng chuông chùa Thiên Mụ. Có vẻ đẹp vui tươi khi đi qua những bờ bãi xanh biếc vùng ngoại ô Kim Long. Có vẻ đẹp thật đáng yêu với “đường cong ấy thật mềm như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu”. Đó là đoạn sông Hương qua thành phố Huế với điệu chạy “slow” như ngập ngừng muốn đi muốn ở. Có vẻ đẹp mơ màng trong sương khói khi nó rời xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ.

    Điểm chung thứ hai của hai nhà văn đó là tính “Uyên bác”. Uyên bác là sự hiểu biết sâu rộng nhiều lĩnh vực, nhiều ngành và có thể cung cấp, đóng góp, lí giải những kiến thức đó cho người khác.

    Ở Nguyễn Tuân, trong tác phẩm, ông hay vận dụng những tri thức của rất nhiều ngành nghệ thuật, thậm chí cả những ngành không liên quan gì đến nghệ thuật để miêu tả, khám phá, hiện thực. Nó có tác dụng làm cho người đọc nhìn hiện thực ở nhiều góc độ và cung cấp cho người đọc một lượng thông tin hết sức phong phú ngoài văn chương.

    Trong tác phẩm “Người lái đò Sông Đà”, tác giả đã vận dụng tri thức của rất nhiều ngành để miêu tả tính cách hung bạo cũng như vẻ đẹp trữ tình của dòng sông:

    Trước hết là tri thức của những ngành nghệ thuật. Nhà văn huy động vốn kiến thức của ngành điện ảnh khi tác giả miêu tả tính hung bạo của con sông; khi ông tưởng tượng có anh thợ quay phim dũng cam quay cái hút nước. Đó là kiến thức của ngành hội họa khi ông miêu tả màu nước sông Đà. Đó là kiến thức của ngành kiến trúc, điêu khắc khi ông miêu tả sông Đà nhìn từ trên cao; khi miêu tả hình dáng những hòn đá nơi lòng sông bởi thạch đồ trận mà thiên nhiên Tây Bắc trấn yểm trên sông Đà.

    Vẫn chưa thỏa mãn, nhà văn lại vận dụng tri thức của những ngành khác tưởng như không liên quan gì đến nghệ thuật để miêu tả dòng sông. Và quả thật tuy không liên quan đến nghệ thuật nhưng những tri thức và ngôn ngữ ấy đã góp phần làm nên thành công của tác phẩm. Ông sử dụng ngành địa lí, lịch sử. Đó là khi ông nói tới chiều dài con sông; tên gọi sông Đà qua các thời kì lịch sử. Ngành quân sự, võ thuật, thể dục thể thao đã giúp ông thành công trong việc miêu tả cảnh thuỷ chiến trên sông Đà với rất nhiều thuật ngữ của quân sự, võ thuật, thể dục thể thao (thạch trận, boongke chìm và pháo đài đá, hàng tiền vệ…). Ngành khí tượng thuỷ văn giúp ông miêu tả các con thác và sức nước chảy ví như đoạn “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” ở quảng ghềnh Hát Loóng. Sự tài hoa của Nguyễn Tuân là ở chỗ đó.

    Ở Hoàng Phủ Ngọc Tường, ông huy động nguồn tri thức phong phú, thuộc các lĩnh vực địa lí, lịch sử, văn hoá, để xây dựng hình tượng sông Hương, vẻ đẹp thiên nhiên của sông Hương là kết quả của những tri thức địa lí và khả năng quan sát sắc sảo của người trần thuật. Sông Hương được nhà văn miêu tả dựa trên thủy trình của nó. Từ Trường Sơn do cấu trúc địa lý phức tạp nên dòng chảy ấy rất dữ dội, mãnh liệt “cuộn xoáy như cơn lốc vào đáy vực bí ẩn”. Khi ra khỏi Trường Sơn sau khi đã sống nửa cuộc đời thì sông Hương lại chảy về cánh đồng Châu Hóa với những dãy núi trùng điệp Tam Thai, Lựu Bảo, điện Hòn Chén, Ngọc Trản, Lương Quán… nên dòng sông ấy chợt như cũng mềm mại bởi những đường cong uốn khúc. Đường cong ấy giống như một tấm khăn voan mỏng bay giữa trời xứ Huế.

    Sông Hương thuộc về một thành phố duy nhất, thành phố Huế và nó mang trong mình tính cách Huế, như một cô gái Huế duyên dáng, điểm tô cho vẻ đẹp Huế. Với thành phố Huế, sông Hương là một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu là nàng Kiều trong đêm chí tình trở lại tìm Kim Trọng.

    Vẻ đẹp văn hoá của sông Hương là kết quả của những tri thức văn hóa về một thành phố, từng là chốn đế đô. Sông Hương tự bản thân nó đã mang những phẩm chất văn hoá độc đáo. Nhà văn có sự liên tưởng độc đáo khi cho rằng toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước dòng sông này. Sông Hương gắn với quãng đời Nguyễn Du “lênh đênh trên khúc sông này để những bản đàn đi suốt cuộc đời Kiều” và khúc nhạc Tứ đại cảnh “Trong như tiếng hạc bay qua/ Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”. Và hơn hết, dòng sông thi ca và âm nhạc ấy là nguồn cảm hứng bất tận của nghệ thuật. Sông Hương không bao giờ lặp lại trong cảm hứng của các nghệ sĩ.

    Vẻ đẹp lịch sử của sông Hương là kết quả của những tri thức về lịch sử sông Hương gắn với lịch sử anh hùng của xứ Huế, của đất nước… Sông Hương gắn với dòng sông thiêng Linh Giang oai hùng một thuở, gắn với thế kỷ XVIII với người anh hùng áo vải Quang Trung, gắn với cách mạng tháng Tám hào hùng bi tráng, gắn với Mậu Thân rung chuyển cả miền Nam. Thế đấy, sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường không đơn thuần chỉ là một dòng chảy của quê hương, nó còn là dòng sông của lịch sử, của văn hóa, của tình yêu Huế và con người nơi đây.

    Bên cạnh sự giống nhau giữa sông Hương và sông Đà trong phong cách nghệ thuật của hai nhà văn thì ở giữa họ cũng có nhiều điểm khác biệt.

    Ở Nguyễn Tuân, ông có cảm hứng đặc biệt với cái dữ dội và cái tuyệt mĩ, thiên về cảm giác mạnh. Trong “Người lái đò Sông Đà”, nhà văn đã nhìn Sông Đà ở góc độ khắc nghiệt của thiên nhiên để phát hiện ra tính cách hung bạo của con sông.

    Sự dữ dội của sông Đà thể hiện ở đá và nước. Đá thì “Dựng vách thành lúc đúng ngọ mới nhìn thấy mặt trời”, tuy không nguy hiểm nhưng nó tạo cho người ta cái cảm giác sợ hãi, rợn ngợp trước thiên nhiên bao la, hùng vĩ, hiểm trở. Đá dưới lòng sông thì trở thành thạch đồ trận, trùng vi thạch trận. Đá chia thành các vòng, các lớp. Mỗi lớp đá, hòn đá có một nhiệm vụ khác nhau song tất cả đều nhằm mục đích tiêu diệt tất cả những gì đi trên sông, là kẻ thù nguy hiểm và hung bạo nhất. Đó là những boongke chìm và pháo đài đá tinh nhuệ và thiện chiến.

    Đá dữ dội như vậy, nước sông Đà cũng không phải vừa. Nó phơi bày lòng dạ độc ác qua những cái hút nước “giống như cái giếng bê tông thả xuống làm móng câu”. Thác nước thì hung tợn, mới nghe âm thanh thôi cũng đã rợn người “tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên như là oán trách, van xin, khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo; rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Lại có lúc, đá và nước phối hợp với nhau làm nên những con sóng kinh hãi: “Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”.

    Ở Hoàng Phủ Ngọc Tường, ngòi bút của ông đậm chất trữ tình, một hồn thơ thực sự trong văn xuôi. Trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông” ngòi bút ấy đã soi bóng một tâm hồn giàu trí tưởng tượng lãng mạn: Sông Hương trong trí tưởng tượng lãng mạn của Hoàng Phủ Ngọc Tường có lúc như một cô gái Di gan phóng khoáng và man dại; có lúc trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở; có lúc lại là người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại.

    Đặc biệt, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã hình dung tưởng tượng hành trình sông Hương đến với thành phố Huế giống như hành trình của người con gái đi tìm gặp người yêu; và trước khi về biển cả, sông Hương đột ngột đổi dòng, rẻ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ giống như Thuý Kiều trở lại tìm Kim Trọng trong đêm tình tự.

    Cái tôi ấy, thật giàu tình cảm, say mê cái đẹp của cảnh và người xứ Huế: Tất cả những phát hiện về vẻ đẹp của sông Hương, xét đến cùng, bắt nguồn từ tình cảm thiết tha đến đắm say của tác giả đối với cảnh và người xứ Huế. Nếu không có tình yêu đối với xứ Huế thì không thể có những trang văn hay và đẹp đến thế về xứ Huế.

    Như vậy, những dòng sông của quê hương đã chảy về trong tâm tưởng ta qua ngòi bút và tâm hồn của hai nhà văn, giúp ta yêu hơn những dòng sông đất mẹ. Điều mà chúng ta thấy sở dĩ giữa họ có những điểm chung trong việc mang đến hai hình tượng nghệ thuật đặc sắc ấy là: cả hai nhà văn đều là những con người có tài, rất mực tài hoa uyên bác. Đều là những con người có tâm, là những trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Đều là những nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo, do đó đều tìm đến với thể tùy bút, bút kí như một sự thoả mãn với tình yêu lớn mà chỉ có những thể loại ấy mới chuyên chở được tình yêu của họ.

    Tuy nhiên, điểm khác là ở chỗ cả hai đều là những nhà văn có ý thức cá nhân sâu sắc, có cá tính sáng tạo riêng. Nguyễn Tuân thiên về lối viết duy mỹ, cảm giác mạnh. Hoàng Phủ Ngọc Tường thiên về tự sự trữ tình, cảm xúc nồng nàn yêu thương. Đó cũng chính là quy luật tất yếu của sáng tạo nghệ thuật.

    Có thể nói, cả hai nhà văn với những nét giống và khác trong phong cách nghệ thuật đã có những đóng góp không nhỏ để tạo nên sự phong phú, đa dạng mà vẫn thống nhất của nền văn học dân tộc. Người đọc yêu mến, tự hào bởi họ đã góp phần tô điểm cho đất nước bằng những trang văn thật đẹp, thật trữ tình về những dòng sông thi ca bất tận.

    Bài làm mẫu 2

    Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật tức là phải có nét gì đó rất riêng biệt mới lạ thể hiện trong tác phẩm của mình. Phong cách văn học là một yếu tố quan trọng và góp phần không nhỏ trong quá trình định giá tác giả, tác phẩm đó. Bởi thế mỗi nhà văn, nhà thơ phải tạo cho mình một nét riêng không thể trộn lẫn, đem đến cho người đọc một sự mới lạ mà khi nhìn vào những tác phẩm ấy độc giả sẽ biết ngay đó là sản phẩm của tác giả nào. Và Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là hai tiêu biểu cho điều đó mà có lẽ nổi bật nhất trong việc làm nên phong cách của các nhà văn là hai bài Tùy bút “Người Lái Đò Sông Đà” và “Ai đã đặt tên cho dòng sông”.

    Thật vậy, “phong cách là cái còn lại hoặc hạt nhân mà sau khi từ nhà văn chúng ta bóc đi những cái không phải của bản thân anh ta, và tất cả những cái anh ta giống người khác”. Nói cách khác đi, phong cách nghệ thuật của Nhà văn là nét riêng biệt, độc đáo của nhà văn ấy, trong quá trình nhận thức và phản ánh cuộc sống thể hiện trong tất cả các yếu tố nội dung và hình thức của từng tác phẩm cụ thể. Chẳng hạn, đối với người cha để của “Người Lái Đò Sông Đà”, Nguyễn Tuân mang một phong cách uyên bác, tài hoa không quản nhọc nhằn để cố gắng khai thác kho cảm giác và liên tưởng phong phú, bổn bể nhằm tìm ra những chữ nghĩa xác đáng nhất, có khả năng làm lay động lòng người đọc nhất. Ngược lại nét đặc sắc trong tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường lại là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều, được tổng hợp từ cuốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí. Hai nhà văn mang trong mình hai phong cách khác nhau, nhưng tuy nhiên vẫn có những nét chung mà độc giả dễ dàng nhận thấy. Xuyên suốt hay bài “Người Lái Đò Sông Đà” và “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, chúng ta thấy được điểm giống nhau trước hết thể hiện qua chất trí tuệ uyên bác.

    Nếu như Nguyễn Tuân có khả năng vận dụng trí tuệ của nhiều ngành, nhiều nghề khác nhau trong khi miêu tả về đối tượng sáng tác của mình, thì Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng vậy. Điều đó thể hiện qua cảnh con sông Đà hung bạo với những trận thủy chiến của người lái đò, đã được Nguyễn Tuân ghi lại bằng những tri thức về điện ảnh. “Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền”. Cho đến “bị vứt vào một cái cốc pha lê nước, khổng lồ vừa rút lên, cái gậy đánh phên”, về địa lý, về thể dục thể thao “hàng tiền vệ, có hai hòn canh, một cửa đá trông như là sơ hở, nhưng chính hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa…”, về quân sự “vòng đấu vừa rồi nó mở ra năm cửa trận, có 4 cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông…”, về võ thuật “đánh đòn chả đánh đến ầm vào chỗ hiểm”.

    Đến với “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường nhà văn đã cung cấp cho người đọc một lượng kiến thức phong phú, đa dạng về sông Hương. Nhờ đó mà chúng ta có cái nhìn sâu sắc, toàn diện về vẻ đẹp của sông Hương. Dưới góc độ địa lý, tác giả đã cung cấp cho ta những kiến thức cơ bản về thủy trình của dòng sông kéo dài suốt từ “Cung Thượng Lưu, chảy qua thành phố Huế, vòng về hướng Đông Bắc để đi ra biển”. Ở phía thượng nguồn sông Hương mang vẻ đẹp hùng vĩ, “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt, qua những ghềnh khác cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”, “phóng khoáng và man dại” giống như một cô gái Di gan thích nhảy múa, ca hát với một vẻ đẹp tự nhiên và trong sáng, chảy qua rừng núi về đến đồng bằng sông Hương lại trở nên dịu dàng. “Uốn những đường cong dịu dàng”, “dòng sông mềm đi như tấm lụa”, “êm đềm trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành, quách”.

    Và để nhân cách hóa lên nhà văn đã hình dung dòng chảy sông Hương giống như một cuộc hành trình tìm kiếm có ý thức của người con gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa về đến nơi gặp người tình mong đợi và dòng chảy của sông Hương lúc này đã biến thành những đường cong mềm mại, quyến rũ của một người gái đẹp. Khi vào giữa lòng thành phố Huế, dòng sông lại trở nên tĩnh lặng “trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chí là một mặt hồ yên tĩnh”. Điều này đã được Hoàng Phủ Ngọc Tường lý giải một cách độc đáo về dòng chảy của sông Hương dưới góc độ địa lý. Khi vào đến thành phố Huế sông Hương chia thành nhiều nhánh nhỏ, lại bị hai hòn đảo chặn nhanh trên dòng sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước. Khi đang xuôi dần về cồn Hến, nằm mơ màng thì thật bất ngờ khi rời khỏi thành phố Huế sông Hương đã “đột ngột đổi dòng rẽ ngoặt Sang hướng Đông Tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bảo Vinh xưa cổ”.

    Thêm vào đó dòng chảy của sông Hương còn gắn liền với hàng loạt những địa danh quen thuộc của xứ Huế. Như Hòn Chén, Nguyệt Biều, vọng Canh, Tam thai, Lưu Bảo. Khiến cho dòng chảy của sông Hương không hề đơn điệu, tẻ nhạt mà vô cùng sống động. Đồng thời, khẳng định mối quan hệ không thể tách rời giữa sông Hương và Huế. Dưới góc nhìn lịch sử Hoàng Phủ Ngọc Tường lại gọi sông Hương là “trang sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc” đã gợi lên vẻ đẹp của sông Hương. Theo nhà văn trong các dòng sông đẹp trên thế giới chỉ có sông Hương là con sông chảy duy nhất trọn vẹn trong lòng một thành phố và chính dòng chảy đặc biệt đó của sông Hương đã khiến nó trở thành một chứng nhân lịch sử ghi dấu lại toàn bộ lịch sử của xứ Huế. Tác giả đã có cái nhìn tận sâu về quá khứ, để thấy được những đóng góp to lớn của sông Hương trong việc làm nên những trang sử hào hùng của xứ Huế, suốt từ thời các vua Hùng dựng nước, giữ nước, đến tận cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ vĩ đại, và Sông Hương cũng chịu tổn thất không nhỏ trong việc làm nên những trang sử hào hùng đó. Và quả thực sông Hương đã biến đổi mình là một chiến công khi tổ quốc cần, đất nước kêu gọi.

    Nhà văn còn trích dẫn câu chuyện “tháng trước tôi được dịp có mặt trong cuộc tiếp đón ở thành ủy Huế chào mừng đoàn đại biểu hội nghị tổng kết chiến tranh tại thành phố, thay mặt Quân ủy Trung ương đồng chí Đại tướng phát biểu “lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ Quốc. Đồng chí nói đầu cúi xuống ngực hai bàn tay chắp lại trong cử chỉ kính cẩn của người già mắt ngấn lệ và người nghe tất cả đều lặng đi trong cảm xúc đột ngột của một lời thề”, điều đó lại một lần nữa đã khẳng định trong cảm nhận của biết bao con người Việt Nam nói chung, sông Hương giống như một người anh hùng khiến ta tôn kính, ngưỡng mộ nhưng cũng đầy cảm phục, xót xa trước những cống hiến vĩ đại và hi sinh thầm lặng của dòng sông trong việc làm nên lịch sử của xứ Huế nói riêng, lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung. Về văn học tác giả gọi sông Hương là “người mẹ phù sa của một cung văn hóa xứ sở” đã sản sinh, nuôi dưỡng, bồi đắp cho nền văn hóa Huế. Không những thế, sông Hương còn là dòng sông của âm nhạc “người tài nữ đàn lúc đêm khuya” đã gợi lên một nét văn hóa đặc sắc của xứ Huế. Người ta thường tổ chức các buổi trình diễn âm nhạc cổ điển Huế trên dòng sông Hương vào đêm khuya, nhà văn khẳng định “toàn bộ nền âm nhạc Huế được sản sinh trên mặt nước dòng sông này” và hơn thế sông Hương còn là dòng sông của thi ca “có một dòng thi ca về sông hương”, dòng sông không bao giờ tự lập lại trong cảm hứng của các nghệ sĩ.

    Đặc biệt chung thứ 2 trong cách viết bút kí của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường đó là một ngôn ngữ đầy chất thơ, đến với sông Đà người đọc cảm nhận được chất thơ qua con sông đà trữ tình. Thay vì bề mặt hung bạo, dữ tợn trên kia, thì giờ đây sông Đà lại được miêu tả một cách thơ mộng, đậm chất trữ tình, “con sông đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, bung nở hoa ban hoa gạo tháng 2 và cuồn cuộn mây khói núi Mèo đốt Nương Xuân”. Rồi là “mùa xuân đồng xanh ngọc bích như nước sông Đà không xanh màu xanh cánh Hến của sông gấm, Sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt của một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ các màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn, bực bội gì mỗi độ Thu về”. Không chỉ có con sông Đà và Sông Hương cũng hiện lên mang một chất thi qua những hình ảnh nhòe mờ sương khói, đậm chất Huế: “lập lòe trong đêm sương, những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ”. Những câu văn giàu hình ảnh, nhịp điệu trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt, qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”, một loạt hình ảnh so sánh nhân cách hóa Sông Hương, khi lại là con người lãng mạn, trữ tình, lúc lại là cô gái di gan phóng khoáng, man dại, khi lại là người mẹ phù sa với vẻ đẹp dịu dàng, trí tuệ. Ngoài ra chất thơ còn toát lên từ cảnh tác giả điểm xuyết những câu ca dao, lời thơ của Tản Đà, Cao Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan vào trong bài Ký, “dòng sông trắng – lá cây xanh” hay “như kiếm dựng trời xanh”. Và còn thể hiện ngay ở nhan đề đầy bâng khuâng, man mát “Ai đã đặt tên cho dòng sông”.

    Cuối cùng, cả hai tác giả đều tập trung phát huy các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, trường liên tưởng, tưởng tượng phong phú… Khi miêu tả quãng mặt ghềnh hát gióng Nguyễn Tuân đã có sự so sánh, kết hợp nhân hóa thật thú vị khiến cho dòng sông trở thành một kẻ thù chuyên đi đòi nợ suýt, nham hiểm, hung bạo, tráo trở lúc nào cũng đi có thể tước đoạt mạng sống của con người. “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió gầm ghê như lúc nào cũng đòi nợ suýt bất cứ người lái đò nào qua đó”. Hay đoạn miêu tả những hút nước sông Đà, trường liên tưởng của ông vô cùng phong phú. “nước ở đây thở và kêu như cái cửa cống bị sặc”, “nước ặc ặc lên như rót dầu sôi vào”. Đặc biệt nhất là âm thanh của thác nước sông đà, có lúc nó được nhân hóa thành một con người tráo trở, nham hiểm, đang trong cơn giận dữ với nhiều cung bậc, khi oán trách, khi van xin, khi khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Tiếng nước réo lại gần mãi, réo to mãi lên. “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, nối lại như van xin, khiêu khích giọng đàn mà chế nhạo”. Có lúc nó lại được động vật hóa thành tiếng lóng của một ngàn con trâu mộng. Tác giả đã dùng lửa để tả nước – hai sự vật vốn tương khắc nhau, hủy diệt nhau, nhưng dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân lửa lại hiếp sức cho nước, khiến sức nước trở nên dữ dằn vô cùng. “Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vào rừng tre, nứa nuốt lửa, đang phá tuông tường lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Đến với Hoàng Phủ Ngọc Tường nhà văn đã dùng biện pháp nghệ thuật nhân hóa, để nội tâm hóa hình dáng của dòng sông, biến nó thành “nỗi vấn vương”, “cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Nhờ đó ta không chỉ cảm nhận được dòng chảy của sông Hương một cách cụ thể, sống thực mà còn thấy nó hiện lên rất giống con người “mãi mãi chung tình với quê hương, xứ sở”. Đó là một vẻ đẹp huyền ảo, thơ mộng “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”, với những vẻ đẹp như triết lý, như cổ thi của một mảnh đất Cố Đô gắn liền với những lăng tẩm, Thành quách, in bóng giấc ngủ ngàn thu của những vua chúa Nguyễn. Những cách so sánh liên tưởng bất ngờ, sông Hương uốn hình một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến”.

    Nguyễn Tuân, và Hoàng Phủ Ngọc Tường có nhiều nét trong phong cách sáng tác giống nhau như vậy. Tuy nhiên giữa những điểm chung đó, khi bóc hết đi chúng ta lại thấy được cái riêng biệt, độc đáo trong mỗi bài thơ. Dưới con mắt quan sát của Nguyễn Tuân sông Đà không còn là một vật vô tri, vô giác hay một hình tượng thiên nhiên thuần túy, mà hiện lên như một con người với hai nét tính cách trái ngược nhau, vừa hung bạo, vừa trữ tình. Khám phá con người ở góc độ tài hoa, nghệ sĩ, hình tượng người lái đò trong cảm nhận của Nguyễn Tuân một người lái đò bình thường trên sông nước sông Đà, lại được miêu tả như một Dũng tướng tài năng, với một phong thái của người nghệ sĩ. Khác với Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường lại mang trong mình một phong cách viết kí kết hợp với nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều, hệ thống lập luận với các luận điểm, luận cứ được sắp xếp một cách logic, chặt chẽ theo dòng chảy của sông Hương từ phía thượng nguồn cho đến khi rời thành phố Huế, để đi ra biển. Thêm vào đó mỗi khi nói đến vẻ đẹp nào đó của sông Hương, tác giả lại đưa ra những so sánh, những ví dụ, những bằng chứng thuyết phục để làm nổi bật vẻ đẹp của sông Hương. Suy tư đa chiều thể hiện nhiều nhất trong cách ông cảm nhận về sông Hương, dưới nhiều góc độ lịch sử, địa lý, văn hóa để làm nổi bật vẻ đẹp phong phú, đa dạng của sông Hương. Suy tư đa chiều còn thể hiện ngay trong cách so sánh Sông Hương với những hình ảnh như người con gái đẹp, cô gái di gan, người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Tóm lại và dù có những nét tương đồng trong vốn tri thức, cách sử dụng ngôn từ nghệ thuật, nhưng khi bỏ qua tất cả những cái đó độc giả lại cảm nhận thấy những nét riêng biệt không thể trộn lẫn.

    Có những sự khác nhau trên đều bắt nguồn từ các nguyên nhân, mà đầu tiên phải kể đến là do yêu cầu của văn chương, riêng mỗi tác giả có một phong cách tạo nên tên tuổi của tác giả, tác phẩm. Dòng chảy cuộc sống không bao giờ lặp lại, văn học là tấm gương phản chiếu cuộc sống, nên nó không thể không phản chiếu, lý giải, đánh giá, dự báo về những yếu tố mới mẻ đó. Phong cách văn học cũng nảy sinh do nhu cầu sáng tạo văn học, bản chất của văn học là sự sáng tạo sự sáng tạo, là yếu tố làm nên sức hấp dẫn sức sống lâu bền của văn học và phong cách văn học. Ta nhận diện được từng gương mặt tác giả, những điều độc đáo không lập lại ở họ, cũng qua phong cách nghệ thuật mà chúng ta nhận thấy được sự trưởng thành không chỉ của nhà văn, mà còn nhận thức được trình độ phát triển của một trào lưu văn học. Gương mặt chung của văn học dân tộc, trong từng thời đại phát triển và Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là hay minh chứng cho ý nghĩa đó. Thực sự đối với mỗi cá nhân khi đọc hai tác phẩm “Người lái đò sông Đà” và “Ai đã đặt tên cho dòng sông” bất cứ ai khi đã hiểu rõ về hai tác giả kia thì không thể nhầm lẫn, mà đảo lộn ý chí hai tác phẩm với nhau được. Cũng như không thể lấy cái hung bạo của Sông Đà, để miêu tả sông Hương được và ngược lại cũng không thể miêu tả sông Đà dịu dàng man dại, phóng khoáng khi ở những trạng thái hung dữ như sông Hương được.

    Như vậy tất cả các yếu tố và dẫn chứng trên, chúng ta thấy được phong cách viết kí của Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đó đồng thời cũng là sự tài hoa, thẩm mỹ mang đến giá trị độc đáo cho các tác phẩm, qua đây một mặt hiểu thêm về nghệ thuật viết kí của các tác giả, đồng thời mặt khác phải luôn nỗ lực rèn luyện vốn tri thức của bản thân, để hiểu được, cảm nhận được tất cả những gì mà tác giả muốn truyền đạt cho độc giả.

    Bài làm mẫu 3

    Trong thế giới văn chương, dường như phong cách đã trở thành một yếu tố không thể thiếu để khẳng định tên tuổi của mỗi nhà văn. Nhà văn càng tạo được phong cách riêng độc đáo thì dấu ấn mà họ để lại trong lòng độc giả càng sâu sắc điều này lại càng có ý nghĩa to lớn hơn bao giờ hết. Có lẽ vậy mà không ít người đã đặt Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường cùng một cán cân để bình xét và so sánh về phong cách viết kí của họ. So sánh hai bài kí nổi tiếng “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân và “Ai đã đặt tên cho dòng sông“ của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

    Vậy phong cách của một tác giả là gì? và tại sao phong cách lại quan trọng với một tác giả tới vậy? Xin thưa rằng phong cách của một nhà thơ chân chính là nét riêng biệt độc đáo của nhà văn trong quá trình nhận xét và phản ánh cuộc sống thể hiện thông qua tất cả các yếu tố trong tác phẩm từ nội dung đến hình thức. Phong cách riêng rất quan trọng bởi vì cái riêng ấy mới tạo được cái tôi vững chắc của nhà văn trong lòng độc giả không có phong cách sáng tác nhà văn dễ bị quên lãng và hư vô.

    Đặc Biệt, đối với thể kí, phong cách của người cầm bút có phần hơi khác so với các thể loại khác . Bởi ký là trần thuật người thật việc thật. Thế nên việc tác giả sáng tạo hay tạo dấu ấn lại càng trở thành một vấn đề nan giải khi buộc phải đáp ứng được yêu cầu hiện thực này. Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Tuân đã làm xuất sắc điều này, vừa cân bằng được nét đẹp của thế ký vừa phong cách hóa tác phẩm theo cách riêng của mình.

    Trong thể kí, không ai có thể vượt qua Nguyên Tuân. Trong tùy bút Người lái đò sông đà, Nguyễn Tuân giống như một người thợ kim hoàn cẩn trọng đính từng chữ vàng lên dòng sông xanh ngọc.

    Người lái đò sông đà đã phản ánh đúng chất quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Tuân, luôn khám phá vạn vật ở góc độ văn hóa, thẩm mỹ, khám phá con người ở góc độ tài hoa nghệ sĩ. Có thể thấy vào bàn tay nghệ sĩ của Nguyễn Tuân sông Đà không còn chỉ là một dòng chảy vô tri, vô giác mà hiện lên sống động như một sinh thể. Hơn thế nữa trong con mắt của Nguyễn Tuân sông Đà từ bao giờ đã trở thành một con người với đủ mọi cung bậc cảm xúc khác nhau từ vui, buồn, yêu, ghét, đến giận hờn, oán trách, van xin, nhung nhớ, buổi hồi, “tiếng thác nước nghe như là oán trách gì; rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gần mà chế nhạo”.

    Phải vậy chăng, mà kí của Nguyễn Tuân vẫn thực đấy nhưng, vẫn rất nghệ thuật, đậm chất văn chương. Đó là đối với con sông, còn đối với con người ký của Nguyễn Tuân tập trung khai thác ở góc độ tài hoa, nghệ sĩ dễ thấy trong suốt hành trình con người vượt thác sông đà, con người qua ngòi bút của Nguyễn Tuân trở nên vô cùng phi thường, hùng tráng. Đâu phải chỉ có những ai hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật mới làm nghệ thuật được đâu. Người lái đò sông Đà trong tác phẩm cũng ngời ngời vẻ đẹp của một người nghệ sĩ tay lái ra hoa xứng đáng là một nhà nghệ thuật lớn.

    Trong bối cảnh Người lái đò sông đà phải đối diện và chiến đấu với con thủy quái đang điên cuồng gào thét, hồng hộc thế mạnh như hùm beo mà vẫn giữ bình tĩnh, mà không một chút sợ hãi, nao núng thì còn gì tuyệt vời hơn. Khéo léo đặt con người vào tình huống gây cấn, nhà văn đại tài Người lái đò bộc lộ những gì tài hoa nhất, trắc Việt nhất, nghệ thuật nhất trước mắt độc giả. Các phong cách viết kí vừa thấm nhuần người thực, việc thực, vừa chuyển giao nghệ thuật điêu nghệ thế này không của Nguyễn Tuân thì của ai được.

    Phong cách viết của Nguyễn Tuân trong Người lái đò sông Đà còn là tài sử dụng ngôn ngữ rất linh hoạt, khéo léo, đa sắc thái biểu cảm. Phải nói rằng ngôn từ và vị trí của ngôn từ trong Người lái đò sông Đà được tính toán và sắp xếp một cách thần diệu. Mỗi từ, mỗi chữ như đã được Nguyên Tuân đẽo gọt, điêu khắc tỉ mỉ. Nó chuẩn xác tới độ mà ta mường tượng như nếu thay đổi bất cứ một từ nào hay sửa lại một vài câu chữ thì văn phong sẽ kém tinh tế. Chưa hết Nguyễn Tuân có cách thiết lập ngôn ngữ thật đáng nể, kết cấu câu trùng điệp: “nước sô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”, kết hợp với cách miêu tả không trùng lập đã diễn tả xuất thần, từng khung cảnh ấn tượng của giàn thạch trận dưới sông, cũng như tư thế hiên ngang của Người Lái Đò Sông Đà.

    Người ta đã thống kê được khoảng 300 động từ khác nhau trong bài kí này, điều đó cho thấy bút lực phi phàm của nhà văn cũng như sự phong phú, đa dạng về cả ý nghĩa lẫn sắc thái của ngôn từ trong Người lái đò sông Đà. Nói vậy cũng có nghĩa là chính nhờ số lượng khủng và sự chịu khó đầu tư công phu mà người đọc có lẽ khó có thể quên được, khi đọc bài kí này.

    Người lái đò sông Đà còn cho thấy phong cách viết kí vô cùng sắc sảo của Nguyễn Tuân, khi huy động tổng lực kiến thức của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, mà đầu tiên phải kể tới là quân sự . “Một thằng trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thế có giỏi thì tiến gần vào”; rồi về thể thao “nước bám lấy thuyền như đồ vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra”; về lịch sử, địa lý “có vách đá chẹt lòng sông như muốn cái yết hầu”; về điện ảnh “cái thuyền xoay tít những thước phim cũng xoay tít… khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy, cả người quay phim, cả người đang xem”.

    Đọc “Người lái đò sông Đà”, chính bởi phạm trù kiến thức rộng lớn như vậy, nên ta bị cuốn theo mạch ký tới mức không dứt ra được. Hơn thế nữa Nguyễn Tuân đã phá tan mọi giới hạn, mở rộng trường liền tưởng, phong phú liên thông hoàn toàn giữa các lĩnh vực của đời sống, khiến hình dung của độc giả trở nên thông thoáng, phóng khoáng nhưng lại rất đỗi nghệ thuật. Phong cách viết kí của Nguyễn Tuân, một lần nữa chinh phục hoàn toàn bạn đọc.

    Phong cách Nguyễn Tuân đa dạng, độc đáo là thế, vậy làm sao hiểu được chút “ngọt”, chút “thơ” của nghệ thuật. Đọc “Người lái đò sông đà” có những trang văn độc giả như nín thở trước vẻ đẹp thanh nhã, cao khiết, tinh tế của cảnh vật. Nào là sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, bung nở hoa ban, hoa gạo tháng Hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân”. Nào là “tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu Yên hoa tam nguyệt hóa dương châu”, hay như “cỏ xanh đồi núi đang ra những non búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm xương đêm. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích xưa”.

    Ngôn ngữ và văn phong của Nguyễn Tuân có thể mơ mộng, trữ tình tới như vậy. Đọc những câu văn thấm đậm chất thơ, khiến cho tâm hồn thổn thức vấn vương. Qua bàn tay của Nguyễn Tuân, thể kí đâu còn khô khan, nhàm chán. Kí đối với Nguyễn Tuân là vừa ghi nhận thực tế, vừa cảm nhận có một cách rất riêng. Tới đây không thể phủ nhận gì nữa, chất trữ tình quyện hòa trong ngòi bút Nguyễn Tuân làm nên dư vị thật khó quên cho người lái đò sông Đà. Văn phong của Nguyễn Tuân được làm sáng tỏ từ đây, phong cách ấy độc đáo cũng từ đây mà được định hình.

    Ai đã đặt tên cho dòng sông cũng là một bài lí xuất sắc. Tác phẩm quy tụ đầy đủ những tinh hoa trong gòi bút viết kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường từ nội dung đến hình thức nghệ thuật. Trước hết cần khẳng định rằng đây thực là một bài Ký có sự hòa quyện hài hòa giữa chất trí tuệ và chất thơ. Nói “Ai đã đặt tên cho dòng sông” sở hữu vẻ đẹp của trí tuệ, bởi trong suốt những trang văn của bài kí người đọc như lạc vào dòng trí thức miên man của thể loại kí về dòng sông Hương gắn liền với xứ Huế thân thương. Ngòi bút Hoàng Phủ Ngọc Tường có khả năng huy động kiến thức từ nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống, để làm sáng tỏ vẻ đẹp của sông Hương.

    Đọc ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường người đọc rất tự nhiên, được tiếp thêm những thông tin tri thức, khách quan về thủy trình của sông Hương, suốt từ vùng thượng nguồn. “Nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây bạt ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh khác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”, tới khi sông Hương lộ vẻ yêu kiều, thì về đồng bằng sông Hương đã chuyển động một cách liên tục, khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm. Khi vào giữa lòng thành phố Huế, sông Hương bỗng trở nên thẹn thùng đến lạ. Nó “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Nam, Đông Bắc”, sau đó đột ngột đổi dòng rẽ ngoặt sang hướng Đông Tây để gặp lại thành phố ở góc trấn Bảo Vinh cổ xưa”.

    Tri thức trong ký của nhà văn lồng ghép tự nhiên, phù hợp với mạch ký trở nên hài hòa, đậm nét trí tuệ. Chưa hết Hoàng Phủ Ngọc Tường còn cung cấp cho người những tri thức về lịch sử của dòng sông, qua mạch văn rất nhuần nhị. Thì ra Hương không chỉ “nhu mì hiền thục” và còn trở thành một chứng minh lịch sử mang theo khí phách hào hùng của một thời oanh liệt. Đây, chính là nơi đây đã phải chịu biết bao tổn thương suốt những năm tháng kháng chiến, dòng sông quanh co, uốn lượn lai đang oằn mình vì đau thương. Bất giác đọc những trích đoạn như thế này người đọc như cảm nhận, hình dung ra cả một thời lịch sử huy hoàng.

    Thế mới nói chất trí tuệ như đọng trên từng dòng ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nhưng hay là ở chỗ Hoàng Phủ Ngọc Tường đem đến cho “Ai đã đặt tên cho dòng sông” không chỉ là vốn tri thức, mà còn là chất trữ tình miên man trong giọng văn tinh tế hướng nội. Có thể nói ngoại trừ khi miêu tả về dòng sông Hương phía thượng nguồn, thì trong cả bài kí không có một câu nào là vội vã, mãnh liệt, gào thét, giọng điệu của Hoàng Phủ Ngọc Tường thực rất nhẹ nhàng, nho nhã, thanh tao. “Người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng châu hóa đầy hoa dại”. Cũng chính nhờ chút ngọt thanh, thơ mộng này đan xen với vốn hiểu biết phong phú của tác giả, mà ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường tìm được chỗ đứng riêng trong nền văn học Việt Nam.

    Kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường có sự kết hợp hài hòa giữa chất nghị luận sắc bén và chất suy tư đa chiều, để ý sẽ thấy ngay trong suốt bài ký tác giả gọi Sông Hương bằng rất nhiều cái tên như “Bản trường ca của rừng già, cô gái di gan man dại và phóng khoáng, người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở, người tài nữ đánh đàn khúc đêm khuya”, điều đáng nói là cứ sau mỗi lần định nghĩa Hoàng Phủ Ngọc Tường ngay lập tức lý giải nguyên nhân, tại sao khiến luận điểm bài kí được làm sáng tỏ ngay trong quá trình người đọc tiếp nhận tri thức. Chất nghị luận sắc bén là vậy, còn thế nào là suy tư đa chiều cần phải hiểu rằng tác giả “Ai đã đặt tên cho dòng sông” nhìn sông Hương dưới rất nhiều góc độ khác nhau, lịch sử, địa lý, âm nhạc, văn hóa, thi ca trên Sông Hương hiện lên rất cụ thể, sống thực, tỏa sáng ở nhiều khía cạnh. Bởi vậy nhận định “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, là một tác phẩm kí có sự kết hợp tài tình giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều là hoàn toàn đúng đắn.

    Kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường còn hút hồn độc giả bởi chính hình thức nghệ thuật độc đáo, nhờ sử dụng đa dạng các biện pháp nghệ thuật, đặc biệt hai biện pháp nghệ thuật nhân hóa, so sánh được tác giả vận dụng một cách triệt để và kết quả là sông Hương hiện lên giống như một con người hay đúng hơn là một kiều nữ e thẹn, dịu dàng, duyên dáng, “từ đây như đã tìm đúng đường về sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Nam, Đông Bắc”.

    Hay như chi tiết Hoàng Phủ Ngọc Tường so sánh dòng chảy của sông Hương với dòng chảy của sông Phủ để làm nổi bật điểm khác biệt hút hồn rất con người của sông Hương và hàng loạt những yếu tố khác. Câu phức giọng điệu, cách miêu tả trùng lập cũng đóng vai trò không nhỏ trong việc khẳng định chất kí đặc sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

    Nhìn chung, cả Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường khi đặt bút viết kí đều ý tưởng được yêu cầu của thể kí, người thực, việc thực. Thêm vào đó, để gia công thêm cho tác phẩm của mình, cả hai nhà văn đều huy động tổng lực vốn ngôn ngữ đồ số, kết hợp kiến thức của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Chưa hết dù đã viết về hai con sông hoàn toàn khác nhau nhưng cả Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường đều không bỏ qua góc nhìn trữ tình, thơ mộng. Có vẻ như đây là chút rung động đặc thù của người làm nghệ thuật, thấy cảnh sinh tình, thấy đẹp mà si mê, ý vị tình từ dòng chảy của cảm xúc mà ra, làm sao mà ăn cho được.

    Đan xen những biện pháp nghệ thuật được lồng ghép vào hai bài kí một cách khéo léo, tinh vi càng như lôi cuốn hấp dẫn người đọc. Giống nhau đó, nhưng ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Tuân lại không thể gộp chung là một, vì sao vậy? đơn giản vì hai tác giả còn có những điểm sáng riêng được thể hiện theo một cách rất riêng. Nguyễn Tuân lập luận, khai thác nét đẹp của con người bằng phương diện thẩm mỹ nghệ thuật, tác giả khám phá và đặt ở góc độ văn hóa thanh tao khiến cho bài kí hiện lên đẹp đẽ, thấm đẫm văn phong nghệ thuật. Trong bài kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường ,người ta kính phục cái sắc bén của lập luận và cái nhẹ nhàng êm đềm lãng tử. Ai đã đặt tên cho dòng sông có cái chính xác của khoa học lại có cái thơ mộng trữ tình của con tim, có cái phóng khoáng man dại của Phương Tây có nét dịu dàng của Phương Đông. Chính điều này làm cho cả hai nhà văn đều tạo dựng được phong cách riêng không thể lẫn lộn trong lòng bạn đọc biết bao thế hệ qua.

    Như vậy để tạo lập được phong cách cá nhân mỗi tác giả buộc phải lựa chọn cho mình một cách thể hiện mới mẻ, hài hòa về nội dung và hình thức. Đây không còn là một vấn đề mang tính lý luận nữa, mà có thể nói đây là vấn đề sống còn của mỗi cây bút. Nếu muốn tồn tại, làm xuất sắc, hoàn hảo điều này Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường xứng đáng là những bậc thầy của thế kỉ. Quay lại câu hỏi ban đầu bạn nghĩ Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường ai có phong cách viết kí tuyệt vời hơn, có lẽ thật khó để tìm ra được câu trả lời khi mà cả hai đều xuất sắc tới vậy.

    Với “Người lái đò sông Đà” và “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, một lần nữa ta trân trọng những đóng góp mà Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng như Nguyễn Tuân đã cống hiến cho thể ký nói riêng, cho văn học Việt Nam nói chung. Không có họ người đọc chẳng thể nào được thưởng thức những tác phẩm tuyệt vời về cả nội dung lẫn hình thức. Như vậy, đồng thời chính sự thành công này của hai nhà văn đã tạo ra một vấn đề lớn lao. Viết văn nhất định phải có phong cách riêng, sức sáng tạo dồi dào, vốn ngôn từ phong phú, khả năng thụ cảm tinh tế và quan trọng nhất là một trái tim yêu nghệ thuật chân thành.

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *