Download.vn muốn giới thiệu Bài văn mẫu lớp 6: Kể lại một truyện cổ tích, thuộc sách Chân trời sáng tạo.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 6: Kể lại một truyện cổ tích
Tài liệu bao gồm 2 dàn ý và 12 bài văn mẫu lớp 6. Hãy cùng theo dõi nội dung chi tiết được đăng tải ngay sau đây.
Đề bài: Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một truyện cổ tích.
Kể lại một truyện cổ tích
Sơ đồ tư duy
Dàn ý kể lại một truyện cổ tích
Dàn ý ngắn gọn
1. Mở bài
Giới thiệu về truyện cổ tích được kể: tên truyện, lý do muốn kể chuyện.
2. Thân bài
– Trình bày về các nhân vật, hoàn cảnh xảy ra câu chuyện.
– Kể lại các sự việc theo trình tự thời gian:
- Sự việc 1:
- Sự việc 2
- Sự việc 3
- Sự việc 4:
…
3. Kết bài
Nêu cảm nghĩ về truyện vừa kể.
Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
Dẫn dắt, giới thiệu về truyện cổ tích mà em sẽ kể.
Gợi ý: Kho tàng truyện cổ tích có rất nhiều truyện đặc sắc. Một trong những câu chuyện hay, là truyện cổ tích Sọ Dừa.
2. Thân bài
Kể lại diễn biến của câu chuyện với các sự việc lần lượt xảy ra như sau:
Gợi ý:
– Ở làng nọ, có hai vợ chồng đi ở cho nhà phú ông. Họ tốt bụng, chăm chỉ nhưng ngoài năm mươi vẫn chưa có con.
– Một hôm, bà vợ vào rừng lấy củi, khát quá mà không tìm thấy suối. Bà nhìn thấy cái sọ dừa bên gốc cây đựng đầy nước mưa liền bưng lên uống.
– Về nhà bà có mang. Chẳng bao lâu người chồng qua đời. Bà sinh ra một đứa bé không chân không tay tròn như một quả dừa. Bà toan vứt đi thì đứa con bảo mình là người. Thương con, bà giữ lại nuôi và đặt tên nó là Sọ Dừa.
– Lớn lên, Sọ Dừa chẳng khác gì lúc nhỏ. Thấy mẹ than phiền chẳng giúp được việc gì, Sọ Dừa liền xin đi chăn bò thuê ở nhà phú ông.
– Đến mùa gặt, tôi tớ ra đồng làm cả. Ba cô con gái nhà phú ông thay phiên nhau đưa cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị tỏ ra coi thường, chỉ có cô em út là đối đãi tử tế với Sọ Dừa.
– Cuối mùa ở, Sọ Dừa xin mẹ đem sính lễ sang hỏi cưới con gái phú ông.
– Phú ông thách cưới rất nặng, bà mẹ về nói với con, nghĩ con sẽ thôi hẳn việc đòi lấy vợ. Nhưng Sọ Dừa dặn mẹ cứ yên tâm.
– Đúng ngày hẹn, bà mẹ vô cùng ngạc nhiên khi trong nhà có đầy đủ lễ vật mà phú ông yêu cầu.
– Trong đám cưới, mọi người không thấy Sọ Dừa đâu. Một chàng trai khôi ngô tuấn tú xuất hiện. Ai nấy đều sửng sốt và mừng rỡ, còn hai cô chị thì vừa tiếc nuối vừa ghen tức.
– Sọ Dừa và vợ sống rất hạnh phúc. Nhờ học hành chăm chỉ, chàng đỗ trạng nguyên và được vua cử đi sứ.
– Trước khi chia tay, Sọ Dừa đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, dặn phải luôn mang trong người phòng khi cần dùng đến.
– Nhân cơ hội, họ bày mưu, rủ em gái chèo thuyền ra biển chơi, rồi đẩy em xuống nước. Nhờ có những vật mà Sọ Dừa đưa cho, cô út thoát chết, sống trên đảo hoang.
– Hai vợ chồng Sọ Dừa gặp lại nhau, trở về sống hạnh phúc. Còn hai cô chị thì trốn đi biệt sứ.
3. Kết bài
Khẳng định lại ý nghĩa của truyện cổ tích vừa kể.
Gợi ý: Truyện Sọ Dừa đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về một chàng Sọ Dừa thông minh, tốt bụng. Qua đó, truyện còn thể hiện tấm lòng nhân ái với những con người hiền lành, tốt bụng và niềm thương cảm với những con người bất hạnh.
Kể lại một truyện cổ tích – Sọ Dừa
Bài văn mẫu số 1
Kho tàng truyện cổ tích có rất nhiều truyện đặc sắc. Một trong những câu chuyện hay, là truyện cổ tích Sọ Dừa.
Ngày xưa, có hai vợ chồng nông dân nghèo đi ở cho phú ông. Họ chăm chỉ, hiền lành mà ngoài năm mươi vẫn chưa có một mụn con. Một hôm, người vợ vào trong rừng hái củi. Trời nắng to, khát nước quá mà bà chẳng tìm thấy con suối nào. Bỗng nhìn thấy một cái sọ dừa đầy nước mưa bên gốc cây to, bà vội uống cho đỡ khát. Về nhà, bà có mang.
Chẳng bao lâu, người chồng mất. Bà sinh ra một đứa con không có chân tay, mình mẩy cứ tròn lông lốc như quả dừa. Bà buồn quá, định vứt nó đi thì đứa bé lên tiếng bảo:
– Mẹ ơi! Con là người đấy! Mẹ đừng vứt con mà tội nghiệp.
Vì thương con, bà để con lại nuôi, đặt cho cái tên là Sọ Dừa. Lớn lên, Sọ Dừa vẫn như lúc nhỏ, lăn lông lốc trong nhà. Bà mẹ buồn phiền nói với con:
– Con nhà người ta báy tám tuổi đã đi ở chăn bò, còn mày chẳng được tích sự gì.
Sọ Dừa nói với mẹ:
– Chuyện gì chứ chăn bò con cũng làm được. Mẹ cứ xin phú ông cho con đi chăn bò.
Nghe con nói, bà đánh liều đến hỏi phú ông. Ban đầu, phú ông ngần ngại vì hình dạng của Sọ Dừa, nhưng nghĩ nuôi ít tốn cơm, công chăn bò cũng ít nên ông đồng ý.
Từ đó Sọ Dừa đến ở nhà phú ông. Cậu chăn bò rất giỏi. Ngày ngày, cậu lăn sau đàn bò ra đồng, tối đến lại lăn sau đàn bò về nhà, đàn bò béo tốt hẳn ra. Phú ông mừng lắm.
Ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm hết cả, phú ông bèn sai ba cô con gái thay phiên nhau đem cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị độc óc, thường hắt hủi Sọ Dừa. Chỉ có cô út hiền lành, đối xử với Sọ Dừa rất tốt.
Một hôm, như thường lệ đến phiên cô út mang cơm cho Sọ Dừa. Từ xa, cô bỗng nghe có tiếng sáo véo von. Cô rón rén nấp sau bụi cây và nhìn thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đang ngồi trên võng đào thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Nhưng nghe tiếng động, chàng trai biến mất, chỉ thấy Sọ Dừa nằm đấy. Nhiều lần như thế, cô út biết Sọ Dừa không phải là người trần, dần đem lòng yêu mến, có thức ăn nào ngon đều giấu đem cho chàng.
Cuối mùa ở, Sọ Dừa về giục mẹ đến hỏi con gái phú ông làm vợ. Bà lão sửng sốt lắm, nhưng thấy con năn nỉ mãi bà cũng chiều lòng.
Mẹ Sọ Dừa đến hỏi, phú ông cười mỉa mai:
– Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm mang sang đây.
Bà lão ra về, nghĩ chắc con mình sẽ từ bỏ ý định. Nhưng Sọ Dừa lại bảo mẹ yên tâm, mình sẽ sắm đủ lễ vậy. Bà lão nửa tin nửa ngờ. Đến ngày hẹn, bà hết sức ngạc nhiên khi trong nhà bỗng có đủ những lễ vật mà phú ông yêu cầu. Không chỉ vậy, còn có chục giai nhân khiêng sính lễ sang nhà phú ông. Phú ông hoa cả mắt, nói với bà cụ:
– Để ta hỏi con gái, xem có đứa nào đồng ý lấy Sọ Dừa không đã?
Hai cô chị chê bai Sọ Dừa xấu xí, chỉ có cô út là cúi đầu tỏ ý bằng lòng. Phú ông đành nhận lễ vật và gả cô gái út cho Sọ Dừa.
Trong ngày cưới, Sọ Dừa cho bày cỗ thật linh đình, gia nhân chạy ra chạy vào tấp nập. Lúc rước dâu, chẳng ai thấy Sọ Dừa xấu xí đâu, chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đứng bên cô út. Ai nấy đều sửng sốt và mừng rỡ, còn hai cô chị thì vừa tiếc nuối vừa ghen tức.
Hai vợ chồng sống hạnh phúc, Sọ Dừa còn rất thông minh, ngày đêm miệt mài đèn sách và thi đỗ trạng nguyên. Chẳng bao lâu, nhà vua truyền chiếu sai chàng đi sứ. Trước khi đi, chàng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, dặn phải giữ luôn các thứ ấy bên mình để có lúc cần dùng đến.
Ganh tị với em, hai cô chị nhân lúc Sọ Dừa vắng nhà, rắp tâm giết hại em để thay làm bà Trạng. Hai cô chị sang nhà chơi, rủ cô em chèo thuyền ra biển rồi đẩy em xuống nước. Một con cá kình to nuốt cô út vào bụng. May có con dao bên mình, cô đâm chết cá, xác cá trôi dạt vào bờ một hòn đảo, cô lại lấy dao xẻ bụng cá chui ra ngoài. Cô dùng bàn đá bật lửa, nướng cá sống qua ngày, chờ thuyền đi ngang qua đến cứu. Sống trên đảo ít ngày, hai quả trứng cũng nở thành đôi gà đẹp làm bạn với cô.
Một hôm có chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống nhìn thấy bèn gáy vang ba lần:
– Ò… ó… o… Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.
Quan trạng cho thuyền vào xem, hai vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Về nhà, quan trạng mở tiệc mừng, mời bà con đến chia vui, nhưng lại giấu vợ trong nhà không cho ai biết. Hai cô chị khấp khởi mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em út rủi ro, tỏ vẻ thương tiếc lắm. Quan trạng không nói gì, tiệc xong mới cho gọi vợ ra. Hai cô chị nhìn thấy cô em thì xấu hổ quá, lén bỏ ra về rồi từ đó bỏ đi biệt xứ.
Truyện Sọ Dừa đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về một chàng Sọ Dừa thông minh, tốt bụng. Qua đó, truyện còn thể hiện tấm lòng nhân ái với những con người hiền lành, tốt bụng và niềm thương cảm với những con người bất hạnh. Đây chính là câu chuyện mà tôi yêu thích nhất.
Bài văn mẫu số 2
Ngày xưa, có hai vợ chồng nông dân hiền lành, chăm chỉ nhưng đã ngoài năm mươi mà vẫn chưa có con. Một hôm nọ, trời nắng rất to, người vợ vào rừng lấy củi cho chủ, khát nước quá không tìm thấy suối. Bà nhìn thấy cái sọ dừa bên cạnh gốc cây đựng đầy nước mưa, bà bưng lên uống, về nhà thì có mang. Chẳng bao lâu sau, bà sinh ra một đứa bé không chân không tay, tròn như một quả dừa nhưng lại biết nói. Bà toan vứt đi thì bỗng nhiên đứa bé cất tiếng nói:
– Mẹ ơi, con là con của mẹ đây! Mẹ đừng vứt con đi mà tội nghiệp.
Thương con, bà lão giữ lại nuôi. S au khi lớn lên, Sọ Dừa xin mẹ cho đi chăn bò ở nhà phú ông. Cậu chăn bò rất giỏi, con nào con nấy bụng no căng. Nhà phú ông có ba cô con gái thay phiên nhau đưa cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị ác nghiệt kiêu kỳ, chỉ có cô út là đối đãi tử tế với Sọ Dừa. Một hôm, như thường lệ đến phiên cô út mang cơm cho Sọ Dừa. Từ xa, cô bỗng nghe có tiếng sáo véo von. Cô rón rén nấp sau bụi cây và nhìn thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đang ngồi trên võng đào thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Nhưng nghe tiếng động, chàng trai biến mất, chỉ thấy Sọ Dừa nằm đấy. Nhiều lần như thế, cô út biết Sọ Dừa không phải là người trần, dần đem lòng yêu mến, có thức ăn nào ngon đều giấu đem cho chàng.
Cuối mùa ở, Sọ Dừa đòi mẹ đến hỏi con gái phú ông làm vợ. Bà mẹ thấy con nói vậy, vì thương con nên đành đến nhà phú ông hỏi cưới. Phù ông nghe bà lão nói thì cười lớn rồi nói:
– Muốn cười con gái ta thì phải chuẩn bị đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm.
Bà lão trở về nhà nói với con. Sọ Dừa dặn mẹ cứ yên tâm. Đến ngày cưới, Sọ Dừa đã chuẩn bị đủ lễ vật cho mẹ mang sang nhà phú ông. Lúc rước dâu, không ai thấy Sọ Dừa đâu, chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đứng bên cô út. Ai nấy đều sửng sốt và mừng rỡ, còn hai cô chị thì vừa tiếc nuối vừa ghen tức.
Cuộc sống của hai vợ chồng Sọ Dừa rất hạnh phúc. Sọ Dừa học hành chăm chỉ đỗ trạng nguyên và được vua cử đi sứ. Trong thời gian đó, hai cô chị sinh lòng đố kị, bày mưu hãm hại em gái. Hai cô chị rủ em chèo thuyền ra biển chơi, rồi đẩy em xuống nước. Cô út bị một con cá kình nuốt chửng vào bụng. Sẵn có con dao mà Sọ Dừa đưa cho cô rạch bụng nó, con cá chết xác dạt vào hòn đảo. Nhờ có những đồ vật mà Sọ Dừa đưa cho, cô út sống sót trên đảo hoang.
Một hôm, có chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống gay to:
– Ò ó o… phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.
Quan trạng thấy thế bèn cho thuyền vào xem, hai vợ chồng gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Đưa vợ về nhà nhưng không cho ai biết, quan trạng mở tiệc mừng với bà con ngày trở về. Hai cô chị thấy vậy mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em rủi ro ra vẻ thương tiếc lắm. Quan trạng không nói gì, hết tiệc mới dẫn vợ ra. Hai cô chị thấy em, xấu hổ quá, lén bỏ ra về rồi từ đó bỏ ra đi biệt xứ.
Kể lại một truyện cổ tích – Tấm Cám
Bài văn mẫu số 1
Từ xưa, tôi đã được nghe những câu chuyện cổ tích qua lời kể của bà, của mẹ. Cho đến bây giờ, tôi vẫn còn yêu thích và nhớ mãi về truyện cổ tích Tấm Cám.
Câu chuyện kể về hai chị em Tấm và Cám. Cha mất sớm, Tấm phải ở cùng với dì ghẻ. Mọi việc nặng nhọc từ việc nhà đến việc đồng áng đề do một tay Tấm làm hết.
Một hôm, dì ghẻ đưa cho hai chị em mỗi người một cái giỏ và bảo ra đồng bắt con tôm cái tép, hứa rằng:
– Hễ đứa nào bắt được đầy giỏ thì thưởng cho một cái yếm đỏ.
Tấm nhờ mò cua bắt ốc đã quen nên chỉ một buổi là được đầy giỏ vừa cá vừa tép. Còn Cám thì mải chơi, đến cuối buổi vẫn chưa bắt được gì. Cám liền nói với Tấm:
– Chị Tấm ơi chị Tấm! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về mẹ mắng.
Tấm tin ngay, bèn xuống ao lội ra chỗ sâu tắm rửa. Thừa dịp đó, Cám liền trút hết tép của Tấm vào giỏ của mình rồi ba chân bốn cẳng về trước để nhận chiếc yếm đào. Tấm lên bờ thấy giỏ không còn cá, sợ về nhà bị dì ghẻ đánh liền ngồi khóc. Bụt hiện lên bảo Tấm nhìn vào trong giỏ xem còn gì không, thì trong giỏ còn một con cá bống. Bụt liền bảo Tấm đem cá về nuôi, khi cho ăn thì gọi:
“Bống bống bang bang
Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta
Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người”
Từ hôm ấy trở đi, cứ sau bữa ăn, Cám lại thấy Tấm để dành một phần cơm. Thấy kì lạ, Cám mách mẹ. Hai mẹ con rình xem thì phát hiện ra Tấm đang nuôi một con cá bống. Mỗi lần nghe lời Tấm gọi, bống lại ngoi lên mặt nước đớp những hạt cơm được ném xuống. Biết chuyện, dì ghẻ gọi Tấm lại rồi bảo chị ta sáng mai dậy sớm đi chăn trâu, và dặn rằng:
– Con ơi con! Làng đã bắt đầu cấm đồng rồi đấy. Mai con đi chăn trâu, phải chăn đồng xa, chớ chăn đồng nhà, làng bắt mất trâu.
Tấm không chút nghi ngờ, sáng hôm sau đưa trâu đi ăn thật xa. Ở nhà mẹ con Cám liền ra giếng, gọi y hệt lời Tấm. Cá bống hiện lên thật, hai mẹ con Cám liền bắt lấy nó rồi đem giết thịt.
Ít lâu sau, nhà vua mở hội luôn mấy đêm ngày. Già trẻ trai gái các làng đều nô nức đi xem. Hai mẹ Cám cũng sắm sửa quần áo đẹp để đi trẩy hội. Thấy Tấm cũng muốn đi, dì ghẻ liền lấy một thúng gạo và một thúng thóc với nhau, rồi bảo chị:
– Con hãy nhặt cho xong chỗ gạo này rồi có đi đâu hãy đi, đừng có bỏ dở, về không có gì để thổi cơm dì đánh đó.
Một thời gian sau, nhà vua hạ lệnh cho rao mời tất cả phụ nữ đi xem hội đến ướm thử giày. Và hễ ai đi vừa chiếc giày thì vua sẽ lấy làm vợ. Cám cũng đếm thử nhưng không vừa. Nhìn thấy Tấm từ xa, Cám liền nói với mẹ:
– Mẹ ơi, hình như chị Tấm nhà ta cũng đến thử giày đấy!
Dì ghẻ liền bĩu môi, nói:
– Chuông khánh còn chẳng ăn ai. Nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre.
Nhưng khi Tấm đặt chân vào giày thì vừa như in. Tấm còn lấy ra một chiếc giày khác giống y hệt. Thế rồi, nàng được vua đón vào cung làm hoàng hậu.
Tuy sống trong hoàng cung, Tấm vẫn không quên ngày giỗ cha. Nhân đó, mụ con Cám bày mưu hại Tấm:
– Trước đây con quen trèo cau, con hãy trèo xé lấy một buồng để cúng bố.
Tấm vâng lời mẹ tôi, trèo lên cây. Thấy cây rung chuyển liền hỏi:
– Dì làm gì dưới gốc thế?
– Gốc cau lắm kiến, dì đuổi kiến cho nó khỏi lên đốt con.
Tấm chưa kịp xé cau thì cây đã đổ, ngã lộn cổ xuống ao và chết. Dì ghẻ liền đưa Cám vào hoàng cung để thay cho Tấm.
Một hôm, Cám đang ngồi giặt áo cho vua ở giếng, thì có con chim vàng anh ở đâu bay đến, dừng lại trên một cành cây, kêu lên:
– Phơi áo chồng tao phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao.
Sau đó, chim vàng anh bay thẳng vào cung điện đậu ở cửa sổ, hót lên rất vui tai. Vua đi đâu, chim bay đến đó. Nhà vua yêu quý vàng anh quên cả ăn ngủ. Cám liền về nhà mách mẹ. Dì ghẻ bảo cứ bắt chim làm thịt ăn rồi kiếm điều nói dối vua. Trở lại cung vua, Cám nhân lúc vua đi vắng, bắt chim làm thịt ăn, rồi vứt lông chim ở ngoài vườn. Thấy mất vàng anh, vua hỏi, Cám trả lời rằng:
– Thiếp có mang thèm ăn thịt chim nên trộm phép bệ hạ đã giết thịt ăn mất rồi.
Nhà vua nghe vậy thì không nói gì cả. Thật kì lạ là ở chỗ lông chim vàng anh mọc lên một cây xoan đào, cành lá xum xuê, tỏa bóng mát. Vua sai người mắc võng, ngày ngày nằm ở đó nghỉ ngơi. Cám thấy vậy thì tức lắm, sai thợ chặt cây làm khung cửi. Khi vua hỏi, tôi lại nói dối:
– Cây bị đổ vì bão, thiếp sai thợ chặt làm khung cửi để dệt áo cho bệ hạ.
Khung cửi đóng xong, Cám vừa ngồi dệt vào dệt thì nghe thấy tiếng kêu:
“Cót ca cót két
Lấy tranh chồng chị,
Chị khoét mắt ra”
Cám sợ hãi lắm, liền về nhà mách mẹ. Dì ghẻ khuyên Cám đốt quách khung cửi rồi đem tro đi đổ cho rõ xa để được yên tâm. Cám sai người đem đốt khung cửi rồi đổ tro ra thật xa hoàng cung.
Từ chỗ tro tàn mọc lên một cây thị, cả cây chỉ có mỗi một quả thị. Một hôm, một bà lão đi qua nhìn thấy liền nói:
– Thị ơi thị, rụng vào bị bà, bà đem bà ngửi, chứ bà không ăn.
Quả thị liền rụng xuống rơi vào bị bà. Bà lão vừa dứt lời thì quả thi rơi xuống. Kỳ lạ là từ đó, cứ mỗi lần đi chợ về, bà lão đều thầy nhà cửa sạch sẽ, cơm nước tinh tươm. Bà quyết tâm rình xem có điều gì lạ đang xảy ra thì phát hiện thấy một cô gái chui ra từ quả thị. Bà lão rón rén lại gần rồi xé nát vỏ quả thị. Từ đó, Tấm ở với bà hàng nước. Một hôm, nhà vua đi qua ghé vào thấy miếng trầu têm cánh phượng giống của Tấm têm, liền gặng hỏi bà lão. Tấm và nhà vua gặp lại nhau.
Lại nói đến Cám sau khi thấy chị Tấm trở về lại xinh đẹp hơn xưa. Vua ngày càng yêu quý. Cám liền đến hỏi chị:
– Chị Tấm ơi, chị làm thế nào mà đẹp thế?
Chị Tấm không trả lời chỉ hỏi lại tôi:
– Có muốn đẹp không để chị giúp?
Cám nghe theo lời chị Tấm. Thấy chị sai người đào một cái hố sâu rồi bảo Cám xuống đó. Cám không chút nghi ngờ, liền xuống dưới và chết bỏng.
Qua truyện Tấm Cám, nhân dân ta đã gửi gắm khát vọng công bằng, cái thiện chiến thắng cái ác. Cô Tấm hiền lành cuối cùng sống hạnh phúc bên nhà vua, còn mẹ con Cám độc ác thì bị trừng phạt.
Bài văn mẫu số 2
Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Vốn được mẹ nuông chiều, Cám chẳng phải động tay đến một công việc nào. Còn Tấm phải làm lụng từ sáng đến tối mà vẫn không hết việc.
Một hôm, mẹ gọi cả hai chị em đến rồi đưa cho mỗi đứa một cái giỏ và bảo:
– Hai con nếu ai bắt được đầy tôm tép sẽ được thưởng một chiếc yếm đào.
Hai chị em đi ra đồng. Tấm chăm chỉ lại quen tay nên chẳng mấy chốc giỏ đã đầy tôm tép. Còn Cám , vì mải chơi mà đến cuối buổi chẳng bắt được gì. Chợt Cảm chạy lại và bảo Tấm:
– Chị Tấm ơi! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu kẻo về mẹ mắng.
Tấm tin thật, liền hụp xuống ao sâu tắm rửa sạch sẽ. Cám liền trút hết tôm tép ở giỏ của Tấm sang giỏ của mình, rồi chạy về gặp mẹ để lấy yếm đào. Còn Tấm ở dưới ao lên, nhìn vào giỏ không còn gì, liền ngồi khóc. Bụt liền hiện lên và bảo Tấm nhìn vào trong giỏ xem còn gì không. Tấm nhìn vào thì thấy một chú cá bống nhỏ. Bụt bảo chị đem cá bống về thả xuống giếng, hàng ngày cho ăn. Mỗi lần cho ăn lại gọi:
“Bống bống bang bang
Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta
Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người”
Từ hôm đó, Tấm thường giấu một phần cơm mang ra giếng. Thấy kỳ lạ, Cám bèn rình xem rồi về mách mẹ. Dì ghẻ lấy lý do làng đã bắt đầu cấm đồng để bắt Tấm chăn trâu ở đồng xa. Còn ở nhà, mẹ con Cám bắt cá bống đem đi giết thịt để nấu ăn. Về đến nhà, như mọi ngày Tấm lại đem cơm ra giếng nhưng gọi mãi không thấy cá bống đâu. Tấm lại ngồi khóc. Bụt hiện lên bảo Tấm hãy đi tìm xương cho vào bốn chiếc lọ rồi đem chôn ở bốn chân giường. Nhờ sự giúp đỡ của gà trống, Tấm tìm được xương cá bống.
Ít lâu sau, nhà vua mở hội cho người dân khắp nơi đến dự. Mẹ con Cám cũng sắm sửa quần áo mới để đi dự hội. Tấm thưa với dì ghẻ muốn đi. Nhưng dì ghẻ lại trộn một đấu gạo với một đấu thóc bắt Tấm ở nhà nhặt cho xong. Nói xong, hai mẹ con xúng xính trong quần áo đẹp lên đường đến kinh đô. Tấm tủi thần ngồi khóc. Bụt lại hiện lên sai đàn chim sẻ đến giúp. Sau đó, bụt còn bảo chị đào bốn lọ xương cá bống lên sẽ có điều kỳ lạ. Khi Tấm đào lên bốn cái lọ biến ra một bộ quần áo đẹp, một đôi hài đẹp và một con ngựa để chị đi dự hội. Ít lâu sau, nghe đồn rằng nhà vua đi qua con sông thấy ngựa không chịu đi liền sai người xuống sông xem có điều gì lạ thì vớt được một chiếc hài. Vua nhìn thấy liền đem lòng yêu mến người đi hài, ra lệnh ai mang vừa sẽ được làm vợ vua. Mẹ con Cám cũng kéo nhau đến thử nhưng chẳng đi vừa. Đến lượt Tấm ướm thử thì vừa như in. Tấm được vua rước vào cung làm hoàng hậu.
Đến ngày giỗ cha, Tấm về ăn giỗ. Dì ghẻ bảo chị Tấm trèo cây cau, hái cau cúng cha. Nhân lúc nàng không để ý mà ở dưới chặt đổ cây cau. Tấm ngã xuống ao chết đuối. Mẹ con dì ghẻ vào cung khóc lóc kể lể sự tình và xin cho Cám ở lại thay Tấm hầu hạ vua.
Một hôm, có một con chim vàng anh ở đâu bay đến đang lúc Cám giặt quần áo cho vua. Vàng anh kêu lên: “ Phơi áo chồng tao phơi lao phơi sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao”. Rồi chim vàng anh bay vào cung vua, ngày ngày quấn quýt khiến nhà vua không thèm ngó ngàng đến tôi. Cám tức lắm, tìm cách giết chết vàng anh, đem lông chim vứt ngoài vườn. Khi vua hỏi thì Cám nói dối là mình có mang thèm ăn thịt chim nên vua không hỏi gì nữa. Từ chỗ lông chim vàng anh, một cây xoan đào mọc lên, cành lá xum xuê tỏa bóng mát. Vua sai người mắc võng nằm nghỉ ở đây. Cám thấy vậy thì về nhà liền mách mẹ. Cám làm theo lời mẹ sai người chặt cây làm thành khung cửi. Vua có hỏi thì Cám lại nói dối là do cây bị đổ vì bão, sai thợ chặt làm khung cửi để dệt áo cho vua. Nhưng lúc Cám ngồi dệt, bỗng vang lên một giọng nói:
“Cót ca cót két
Lấy tranh chồng chị,
Chị khoét mắt ra.”
Cám sợ quá, về nhà mách mẹ. Dì ghẻ cho người đến đốt khung cửi đi, đổ ra xa khỏi hoàng cung.
Từ chỗ tro tàn mọc lên một cây thị, cả cây chỉ có mỗi một quả thị. Một hôm, một bà lão đi qua nhìn thấy liền nói:
– Thị ơi thị, rụng vào bị bà, bà đem bà ngửi, chứ bà không ăn.
Quả thị liền rụng xuống rơi vào bị bà. Bà lão vừa dứt lời thì quả thi rơi xuống. Kỳ lạ là từ đó, cứ mỗi lần đi chợ về, bà lão đều thầy nhà cửa sạch sẽ, cơm nước tinh tươm. Bà quyết tâm rình xem có điều gì lạ đang xảy ra thì phát hiện thấy một cô gái chui ra từ quả thị. Bà lão rón rén lại gần rồi xé nát vỏ quả thị. Từ đó, Tấm ở với bà hàng nước. Một hôm, nhà vua đi qua ghé vào thấy miếng trầu têm cánh phượng giống của Tấm têm, liền gặng hỏi bà lão. Tấm và nhà vua gặp lại nhau.
Tấm theo nhà vua về cung. Lại nói đến Cám sau khi thấy Tấm trở về lại xinh đẹp hơn xưa. Vua ngày càng yêu quý. Cám liền đến hỏi chị:
– Chị Tấm ơi, chị làm thế nào mà đẹp thế?
Chị Tấm không trả lời chỉ hỏi lại tôi:
– Có muốn đẹp không để chị giúp?
Cám nghe theo lời chị Tấm. Thấy chị sai người đào một cái hố sâu rồi bảo Cám xuống đó. Cám không chút nghi ngờ, liền xuống dưới và chết bỏng.
Kể lại một truyện cổ tích – Em bé thông minh
Bài văn mẫu số 1
Ngày xưa, có ông vua nọ muốn tìm người tài giúp nước, liền sai viên quan đi khắp nơi. Một hôm, viên quan đi đến một làng nọ thấy hai cha con đang cày bừa, liền đến gần. Viên quan hỏi người cha:
– Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?
Người cha chưa biết trả lời thế nào, thì cậu bé chỉ khoảng bảy, tám tuổi đã hỏi lại:
– Nếu ông trả lời đúng ngựa của ông đi một ngày được mấy bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.
Viên quan vô cùng sửng sốt không biết trả lời ra sao. Ông mừng lắm, nghĩ thầm đã tìm được người tài, liền trở về bẩm báo với nhà vua.
Một hôm, nhà vua ban cho làng của cậu bé ba thúng gạo nếp và ba con trâu đực, ra lệnh làm sao phải nuôi cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con, hẹn năm sau phải đem nộp đủ, nếu không thì cả làng phải tội.
Cả làng lo lắng. Biết chuyện, cậu bé nói với cha hãy bảo dân làng giết thịt hai con trâu và đồ hai thúng gạo nếp lên để mọi người ăn một bữa cho sướng miệng. Còn một con trâu và một thúng gạo nếp bán đi lấy tiền làm lộ phí cho hai cha con trẩy kinh lo liệu việc của làng.
Dân làng nghe vậy, tuy có ngờ vực nhưng vẫn làm theo, còn bắt họ viết giấy cam đoan. Sau đó, hai cha con cậu bé sửa soạn lên đường. Đến hoàng cung, người cha đứng đợi ở ngoài, còn cậu bé thì nhân lúc mấy người lính canh sơ ý, lẻn vào sân rồng khóc lóc. Nhà vua nghe thấy liền sai lính điệu cậu vào, phán hỏi:
– Cậu bé kia, sao lại đến đây mà khóc?
Lúc đó, cậu bé mới trả lời:
– Tâu đức vua, mẹ con chết sớm mà cha con không chịu đẻ em bé để chơi với con cho có bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ.
Nghe cậu bé nói thế, vua và các triều thần đều bật cười. Vua nói:
– Muốn có em thì phải bảo cha lấy vợ khác, chứ đàn ông làm sao mà để con được?
Nghe vậy, cậu bé liền thưa với vua:
– Thế sao vua lại bắt làng chúng con nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được ạ!
Lúc đó, vua cười và bảo: “
– Ta thử đấy thôi mà! Thế làng chúng mày không biết đem trâu ấy ra thịt mà ăn với nhau à?
Em bé thưa với vua rằng làng biết đó là lộc của vua ban nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi. Nghe nói vậy, nhà vua chỉ cười.
Một hôm, khi hai cha con đang ăn cơm ở công quán, bỗng có sứ giả nhà vua mang đến một con chim sẻ, với lệnh cho em bé phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Cậu bé đưa cho sứ giả một cái kim rồi nói:
– Ông cầm cái kim này về tâu với vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim.
Sau hôm đó, nhà vua cho gọi cha con vào và ban thưởng cho rất hậu. Hồi đó, có một nước láng giềng lăm le muốn chiếm nước ta. Để dò xem nước ta có nhân tài hay không, họ sai sứ thần nước họ đưa sang một cái vỏ ốc vặn rất dài, rỗng hai đầu, đố làm sao xâu một sợi chỉ mảnh xuyên qua đường ruột ốc.
Các đại thần nước ta đều vò đầu suy nghĩ. Mọi người dùng nhiều cách nhưng vô hiệu. Cuối cùng triều đình đành mời sứ thần ra ở công quán đế kéo dài thời gian tìm người giải câu đố.
Một hôm, cậu bé đang đùa nghịch ở sau nhà thì có chỉ dụ của vua. Nghe viên quan nói đầu đuôi câu chuyện, cậu hiểu ra và bày cho viên quan cách xâu chỉ qua mây câu hát sau:
“Tang tình tang! Tính tình tang
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang
Tang tình tang…”
Viên quan sung sướng trở về triều đình và thực hiện như lời cậu bé nói. Nhờ vậy, sợi chỉ xâu xuyên qua ruột con ốc xoắn một cách dễ dàng. Nghe vậy, sứ giả nước láng giềng nghe được câu trả lời thì vô cùng thán phục. Về sau, nhà vua còn phong cho em bé thông minh làm trạng nguyên, đón vào cung vua để học hành.
Bài văn mẫu số 2
Ngày xưa, có hai cha con nọ cùng nhau bình yên ở một ngôi làng nọ. Một hôm, em bé đang phụ cha cày bừa cho vụ mùa mới thì thấy có một viên quan từ đâu tới. Khi đến gần, viên quan ấy mới cất tiếng hỏi:
– Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?
Người cha chưa biết trả lời thế nào, cậu bé mới nhanh miệng hỏi vặn lại quan rằng:
– Thế xin hỏi ông câu này đã. Nếu ông trả lời được ngựa của ông đi một ngày được mấy bước tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.
Viên quan nghe hỏi lại như thế thì lộ ra vẻ sửng sốt. Sau đó ông ta hỏi tên họ làng xã quê quán của hai cha con rồi phi ngựa một mạch đi.
Một thời gian sau, nhà vua sai ban cho làng ba thúng gạo nếp với ba con trâu đực, ra lệnh phải nuôi làm sao cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con, hẹn năm sau phải đem nộp đủ, nếu không thì cả làng phải tội.
Nhận lệnh vua, cả làng đều lo lắng. Cậu bé nghe chuyện liền bảo với cha:
– Chả mấy khi được lộc vua ban, bố cứ thưa với làng làm thịt hai trâu và đồ hai thúng gạo nếp để mọi người ăn một bữa cho sướng miệng. Còn một trâu và một thúng gạo, ta sẽ xin làng làm phí tổn cho bố con ta trẩy kinh lo việc đó.
Ngày hôm sau, người cha vội ra đình trình bày câu chuyện. Cả làng nghe nói ban đầu vô cùng ngờ vực, bắt cha con họ phải làm giấy cam đoan, mới dám ngả trâu đánh chén.
Sau đó mấy hôm, hai cha con cậu bé khăn gói tìm đường tiến kinh. Đến hoàng cung, cậu bảo cha đứng ở ngoài, còn mình thì lẻn vào sân rồng khóc um lên. Vua sai lính điệu cậu bé vào, phán hỏi nguyên nhân.
– Tâu đức vua con đá mẹ con chết sớm mà cha con thì không chịu đẻ em bé để chơi với con cho có bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ.
Nghe nói, vua và các triều thần đều bật cười. Vua phán:
– Muốn có em thì phải kiếm vợ khác cho bố mày, chứ bố mày là giống đực, làm sao mà đẻ được!
Thấy mọi chuyện đều đúng như dự đoán, em bé tươi tỉnh đáp:
– Thế sao làng chúng con lại có lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được kia chứ!
Vua cười bảo:
– Ta thử đấy thôi mà! Thế làng chúng mày không biết đem trâu ấy ra thịt mà ăn với nhau à?
– Tâu đức vua, làng chúng con sau khi nhận được trâu và gạo nếp, biết là lộc của đức vua, cho nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi.
Vua và đình thần gật gù rồi sai người đưa hai cha con đi sắp xếp chỗ ăn ở. Qua hôm sau, bỗng có sứ nhà vua mang tới cho một con chim sẻ, với lệnh bắt họ phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Nhanh chóng suy nghĩ, em bé liền bảo cha lấy cho mình một cái kim may rồi đưa cho sứ giả, bảo:
– Phiền ông cầm lấy cái này về tâu đức vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim.
Lập tức, vua cho gọi cả hai cha con cậu bé vào, ban thưởng rất hậu. Bấy giờ, có nước láng giềng lúc nào cũng lăm le xâm lược đất nước ta. Họ cử viên viên sứ giả sang thăm dò xem nước ta có nhân tài nào không. Viên sứ giả đến mang theo một con ốc vặn dài, rỗng hai đầu và một sợi chỉ mảnh, đố các quan trong triều làm thế nào để xâu được sợi chỉ qua ruột ốc. Các quan làm đủ mọi cách: người thì dùng miệng hút, người bôi sáp vào sợi chỉ cho cứng để dễ xâu. Nhưng tất cả đều vô hiệu. Vua bèn mời sứ giả ở lại cùng nghỉ ngơi vài ngày, kéo dài thời gian cho người đi hỏi ý kiến cậu bé. Nghe chuyện, cậu bé chỉ liền hát một câu:
“Tang tính tang! Tính tình tang
Bắt con kiến càng, buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng,
Bên thời bôi mỡ kiến mừng kiến sang.
Tang tình tang! Tính tình tang!”
Viên quan hiểu ra, mừng rỡ quay về bẩm báo lên nhà vua. Vua cho người làm theo lời cậu bé. Quả nhiên con kiến đã mang sợi chỉ xuyên qua vỏ ốc trước cặp mắt thán phục của sứ giả láng giềng. Sau đó, nhà vua liền gọi hai cha con cậu bé vào cung, phong làm trạng nguyên, còn sai người xây dinh thự ngay trong hoàng cung để tiện hỏi thăm.
Kể lại một truyện cổ tích – Thạch Sanh
Bài văn mẫu số 1
Xưa, ở quận Cao Bình có hai vợ chồng đã lớn tuổi mà vẫn chưa có một mụn con. Mặc dù nhà nghèo, nhưng họ vẫn thường xuyên giúp đỡ mọi người. Ngọc Hoàng thấy họ tốt bụng, bèn sai thái tử đầu thai xuống làm con. Từ đó, người vợ có mang nhưng mấy nay không thấy sinh nở. Người chồng lâm bệnh nặng rồi qua đời. Mãi về sau, người vợ mới sinh ra được một cậu con trai.
Khi cậu bé vừa khôn lớn thì người mẹ cũng mất. Từ đó, cậu sống lủi thủi trong một túp lều dựng dưới gốc đa, cả gia tài chỉ có lưỡi búa cha để lại. Người ta gọi cậu là Thạch Sanh. Năm Thạch Sanh bắt đầu biết dùng búa, Ngọc Hoàng sai thiên thần xuống dạy cho đủ loại võ nghệ, các phép thần thông.
Một lần nọ, có người hàng rượu là Lí Thông tình cờ đi qua. Thấy Thạch Sanh gánh một bó củi lớn, hằn thầm nghĩ: “Người này khỏe mạnh, nếu về ở cùng sẽ có lợi biết bao!”. Rồi Lí Thông lân la gợi chuyện, gạ Thạch Sanh kết nghĩa anh em. Vốn mồ côi cha mẹ, nay lại có người săn sóc đến mình, Thạch Sanh cảm động, vui vẻ nhận lời. Sau đó, Thạch Sanh dọn về sống cùng mẹ con Lí Thông.
Bấy giờ, trong vùng có con chằn tinh có nhiều phép lạ, thường ăn thịt người. Quan quân nhiều lần vây bắt, nhưng đều thất bại. Kể từ đó, dân phải lập miếu thờ, hằng năm nộp cho chằn tinh một mạng người để nó đỡ phá phách. Băm ấy, đến lượt nhà Lý Thông. Mẹ con hắn nghĩ kế để lừa Thạch Sanh đi thay. Chiều hôm đó, Thạch Sanh đi kiếm củi trở về, Lí Thông dọn một mâm rượu thịt, rồi bảo với Thạch Sanh:
– Đêm nay, đến lượt anh đi cánh miếu thời. Ngặt còn mẻ rượu chưa xong, vậy em chịu khó thay anh, sáng mai lại về.
Thạch Sanh thật thà, nhận lời đi ngay. Nửa đêm hôm ấy, chàng đang lim dim ngủ thì chằn tinh xuất hiện, giơ nanh vuốt định vồ lấy chàng. Thạch Sanh lấy búa đánh nhau với con quái vật. Chỉ một lúc, lưỡi búa của chàng đã xả xác con quái vật làm hai. Chằn tinh hiện nguyên hình là một con trăn khổng lồ, nó chết để lại một bộ cung tên bằng vàng. Thạch Sanh chặt đầu con quái vật mang về. Mẹ con Lí Thông đang ngủ, nghe tiếng gọi cửa, ngỡ là Thạch Sanh trở về báo thù. Mẹ con hắn hoảng sợ, van lạy rối rít. Đến khi Thạch Sanh vào nhà kể rõ mọi chuyện, họ mới hoàn hồn. Lí Thông liền nghĩ ra kế khác, bảo với Thạch Sanh:
– Con trăn ấy nhà vua nuôi đã lâu. Nay em giết nó là mang tội. Thôi bây giờ nhân trời chưa sáng em hãy trốn ngay đi. Mọi chuyện đã có anh lo liệu.
Thạch Sanh không mảy may nghi ngờ. Chàng vội vàng từ giã mẹ con Lí Thông, trở về gốc đa cũ, lại kiếm củi để nuôi thân. Còn Lí Thông nhân cơ hội đó đem đầu con chằn tinh vào dâng vua. Nhà vua khen ngợi, còn phong hắn làm Quận công.
Nhà vua có công chúa đến tuổi lấy chồng. Hoàng tử nhiều nước sai sứ đến hỏi vợ nhưng nàng không vừa ý. Nhà vua phải mở một hội lớn, mời các hoàng từ và con trai trong thiên hạ đến dự, để công chúa đứng trên lầu cao ném quả cầu may. Hễ quả cầu rơi trúng người nào, công chúa sẽ lấy người đó làm chồng. Khi công chúa sắp ném quả cầu, nàng bỗng bị một con đại bàng khổng lồ quắp đi. Nó bị thương nhưng vẫn gắng sức bay về hang. Thạch Sanh lần theo vết máu, tìm được hang của đại bàng.
Từ ngày công chúa bị mất tích, nhà vua vô cùng lo lắng. Vua liền sai Lí Thông đi tìm công chúa, hứa sẽ gả công chúa và truyền ngôi cho. Lí Thông bèn cho mở hội hát xướng để nghe ngóng. Nhiều ngày trôi qua vẫn không có tin tức. Đến ngày thứ mười, Lí Thông gặp Thạch Sanh đi xem hội. Nghe Lí Thông kể đến việc đi tìm công chúa, Thạch Sanh kể lại chuyện bắn trúng đại bàng. Lí Thông mừng rỡ nhờ Thạch Sanh đến hang của đại bàng.
Đến nơi, Thạch Sanh xin được xuống hang cứu công chúa. Thạch Sanh đánh nhau với đại bàng, cuối cùng cứu được công chúa. Sau khi đưa được công chúa lên, Lí Thông sai người lấp kín cửa hang lại. Biết mình bị lừa, Thạch Sanh cố tìm lối lên. Chàng đi đến cuối hang thì thấy một chàng trai bị nhốt trong cũi sắt. Thạch Sanh dùng cung tên bắn tan cũi sắt cứu chàng trai. Thì ra đó chính là con trai của vua Thủy Tề. Chàng được mời xuống thủy phủ chơi, tiếp đãi chu đáo rồi đưa trở về nhà. Khi chàng về, vua Thủy Tề biếu nhiều vàng bạc, nhưng chàng không nhận, chỉ xin một cây đàn.
Hồn của đại bàng và chằn tinh lang thang, một hôm gặp nhau bàn cách báo thù. Chúng vào kho nhà vua ăn trộm của cải mang tới giấu ở gốc đa. Thạch Sanh bị bắt vào ngục. Còn về c ông chúa sau khi cứu thoát, trở về cũng thì bỗng không nói, không cười. Nhà vua phải hoãn việc cưới xin lại. Lí Thông tìm mời thầy thuốc về chữa, nhưng cũng không được.
Một hôm, trong ngục tối, Thạch Sanh đem đàn ra đánh. Công chúa nghe thấy tiếng đàn thì bỗng nhiên nói được, cười được. Nàng xin vua cho gọi người đánh đàn vào. Vua lấy làm lạ cho Thạch Sanh đến gặp, chàng kể hết mọi oan khuất. Mọi người bây giờ mới biết được sự thật. Nhà vua cho bắt giam mẹ con Lí Thông, giao cho Thạch Sanh trừng trị. Chàng nể tình tha cho họ về quê, nhưng đi đến nửa đường thì mẹ con Lí Thông bị sét đánh chết, rồi hóa kiếp làm bọ hung.
Nhà vua gả công chúa cho Thạch Sanh. Thấy lễ cưới tưng bừng, hoàng tử các nước chư hầu trước kia bị công chúa từ hôn rất tức giận. Họ đem binh lính sang giao chiến. Thạch Sanh đem đàn ra gảy, tiếng đàn của chàng vừa cất lên đã khiến quân sĩ mười tám nước bủn rủn chân tay, rồi xin hàng. Thạch Sanh sai nấu cơm thiết đãi những kẻ thua trận. Cả mấy vạn tướng lĩnh, quân sĩ thấy chỉ có một niêu cơm bé xíu, tỏ vẻ coi thường, không muốn ăn. Thạch Sanh đố họ ăn hết được niêu cơm và hứa sẽ trọng thưởng. Niêu cơm ăn hết lại đầy, họ cúi đầu tạ an vợ chồng Thạch Sanh rồi kéo nhau về nước. Về sau, nhà vua không có con trai nên đã nhường ngôi cho Thạch Sanh.
Bài văn mẫu số 2
Ngày xưa, ở quận Cao Bình có hai vợ chồng đã lớn tuổi nhưng chưa có con. Tuy cuộc sống vất vả, nhưng họ vẫn thường xuyên giúp đỡ mọi người. Ngọc Hoàng thấy họ tốt bụng liền sai Thái tử đầu thai xuống làm con. Cậu bé sinh ra đã mồ côi cha, về sau người mẹ cũng qua đời. Cậu sống một mình ở gốc đa, dân làng thường gọi là Thạch Sanh. Khi lớn lên, Thạch Sanh được thiên thần dạy cho đủ loại võ nghệ và mọi phép thần thông.
Một hôm, có người hàn rượu là Lí Thông đi ngang qua gốc đa. Thấy Thạch Sanh có sức khỏe, hắn liền lân la đến gợi chuyện để hai người kết nghĩa anh em. Thạch Sanh đồng ý, rồi dọn về ở cùng mẹ con Lí Thông.
Trong vùng có một con chằn tinh có nhiều phép lạ, thường ăn thịt người. Quan quân đã nhiều lần diệt trừ nhưng không làm gì được. Dân làng phải lập miếu thờ, hằng năm lại nộp cho nó một mạng người. Năm ấy đến lượt nhà Lí Thông, hắn liền nghĩ kế khiến Thạch Sanh đi nộp mạng thay mình. Chiều hôm đó, Thạch Sanh đi kiếm củi về đã thấy một bàn tiệc rượu. Lí Thông liền nói:
– Đêm nay, anh phải đi canh miếu thờ. Nhưng mẻ rượu mới cất vẫn chưa xong, nên phiền em đi thay, đến sáng thì về.
Thạch Sanh chẳng nghi ngờ mà đồng ý đi ngay. Đêm ấy, Thạch Sanh đang lim dim ngủ thì chằn tinh hiện ra định vồ lấy chàng. Chàng dùng nhiều võ thuật giết chết con quái vật. Nó hiện nguyên hình là một con trăn khổng lồ. Nó chết để lại một bộ cung tên bằng vàng. Chàng chặt đầu con quái vật đem về. Lúc bấy giờ, mẹ con Lí Thông hãy còn đương ngủ. Nghe tiếng gõ cửa, tưởng Thạch Sanh về đòi mạng thì sợ hãi, van lạy rối rít. Đến khi Thạch Sanh vào nhà, kể rõ sự tình, chúng mới hoàn hồn. Lí Thông liền nghĩ ra kế lừa Thạch Sanh:
– Đấy là con vật vua nuôi. Em giết nó ắt phải chịu tội. Bấy giờ em hãy trốn đi, mọi chuyện để anh lo liệu.
Một lần nữa, Thạch Sanh chẳng chút nghi ngờ, trốn về gốc đa cũ. Còn Lí Thông thì mang đầu con quái vật đến lĩnh thưởng. Nhà vua có con gái đến tuổi lấy chồng, liền cho tổ chức lễ kén rể. Trong lễ kén rể, công chúa bị một con đại bàng khổng lồ quặp đi. Thạch Sanh nhìn thấy, liền dùng cung tên bắn nó rồi lần theo vết máu biết được hang của đại bàng. Từ ngày công chúa mất tích, nhà vua vô cùng lo lắng. Vua sai Lí Thông đi tìm và hứa gả công chúa cho. Lí Thông lo lắng, không biết làm thế nào. Sau hắn cho dân mở hội hát xướng để nghe ngóng tin tức. Tình cờ, Thạch Sanh đến xem, biết được chuyện đi cứu công chúa. Chàng nói mình biết hang của đại bàng và xin được đi cùng. Đến hang, Thạch Sanh xin xuống hang cứu công chúa, nhưng sau đó bị Lí Thông nhốt lại dưới hang. Ở đây, chàng cứu được con trai Vua Thủy Tề, được mời xuống thủy phủ chơi và tặng cho một cây đàn thần.
Sau khi trở về, Thạch Sanh bị oan hồn chằn tinh và đại bàng hãm hại, bị bắt vào ngục tối. Trong ngục, Thạch Sanh đánh đàn để bày tỏ nỗi oan khuất. Lại nói đến công chúa, sau khi trở về cung thì chẳng nói chẳng cười. Nhà vua cho hoãn việc cưới xin, tìm người chạy chữa không khỏi. Một hôm, công chúa nghe thấy tiếng đàn liền nói cười được. Nhà vua thấy lạ bèn cho gọi Thạch Sanh vào gặp. Chàng liền đem hết nỗi oan kể cho vua nghe. Lí Thông thì bị trừng trị thích đáng, còn Thạch Sanh được vua gả công chúa cho.
Thấy lễ cưới tưng bừng, hoàng tử các nước chư hầu đem quân sang đánh. Thạch Sanh đem đàn ra gảy, tiếng đàn của chàng vừa cất lên đã khiến quân sĩ mười tám nước bủn rủn chân tay xin hàng. Thạch Sanh sai nấu cơm thiết đãi, quân sĩ ăn mãi không hết niêu cơm bé xíu liền cảm ơn rồi kéo nhau về nước. Về sau, vua không có con trai nên đã truyền ngôi cho Thạch Sanh.
Kể lại một truyện cổ tích – Vua chích chòe
Bài văn mẫu số 1
Ở một vương quốc nọ, có một cô công chúa xinh đẹp tuyệt trần, nhưng tính tình lại kiêu ngạo. Một lần, nhà vua cho mời các chàng trai ở khắp các nước xa gần tới mở tiệc linh đình để chọn phò mã.
Các vị khách đứng theo thứ bậc, trên cùng là vua các nước rồi các công tước, các ông hoàng, các bá tước, các nam tước, cuối cùng là những người dòng dõi quý tộc. Công chúa được dẫn đi xem mắt. Người nào nàng cũng tìm ra điểm để giễu cợt họ. Đặc biệt, nàng lấy làm khoái chí khi thấy một người có cằm hơi cong như mỏ chim chích chòe. Công chúa nói rằng anh ta có cái cằm chẳng khác gì chim chích choè có mỏ, từ đó trở đi ông vua tốt bụng ấy có tên là Vua chích choè.
Nhà vua cha nổi cơn thịnh nộ và ban truyền, nếu có người ăn mày nào đi qua hoàng cung, nhà vua sẽ gả công chúa cho người đấy. Mấy hôm sau có một người hát rong đi qua, đứng ngây dưới cửa sổ cất tiếng hát, mong sẽ được ban thưởng cho vài xu. Nghe thấy vậy nhà vua ban truyền:
– Hãy cho tên hát rong vào đây!
Người hát rong đi vào cung vua, hát cho vua và công chúa nghe, rồi đưa tay xin tiền thưởng. Nhà vua bảo:
– Ta rất thích tiếng hát của ngươi, vì vậy ta gả con gái ta cho ngươi.
Công chúa sợ hãi van xin, nhưng không thể lay chuyển nhà vua. Ông nói:
– Cha đã thề rằng sẽ gả con cho người ăn mày đầu tiên đi qua cung vua, cha muốn giữ lời thề đó.
Vị linh mục được mời ngay tới để làm hôn lễ của công chúa và người hát rong. Hôn lễ cử hành xong, vua cha nói với công chúa:
– Theo tục lệ, vợ một người hát rong không được ở lâu lại trong cung vua, giờ thì con phải theo chồng ra khỏi cung.
Nàng buồn bã đi theo người chồng của mình. Tới một khu rừng lớn, công chúa liền hỏi:
– Rừng đẹp này của ai?
Người hát rong trả lời:
– Rừng của Vua chích choè, nếu nàng lấy ông ta thì hẳn rừng đã là của nàng.
Công chúa tiếc nuối thốt lên:
– Tôi là cô gái thật đáng thương, đáng ra tôi nên lấy Vua chích chòe.
Một lúc sau tới một thảo nguyên, nàng lại hỏi:
– Thảo nguyên xanh đẹp của ai?
Người hát rong đáp:
– Thảo nguyên của Vua chích choè.
Công chúa lại than thở:
– Tôi là cô gái thật đáng thương, đáng ra tôi nên lấy Vua chích chòe.
Rồi họ tới một thành phố lớn, công chúa hỏi tiếp:
– Thành phố mỹ lệ này của ai?
Người hát rong đáp:
– Thành phố mỹ lệ của Vua chích choè.
Nàng bật khóc, than rằng:
– Tôi thật đáng thương, đáng lẽ ra tôi nên đồng ý lấy Vua chích chòe.
Người hát rong liền nói:
– Tôi không hài lòng một chút nào, tại sao nàng lại cứ luôn luôn mong có người chồng khác, thế tôi không xứng đáng hay sao?
Công chúa không nói được gì nữa, mà chỉ lặng lẽ đi theo sau. Tới một túp lều, nàng hỏi chồng:
– Trời ơi, nhà ai mà nhỏ, thảm thương thế này?
Người hát rong trả lời:
– Nhà của chúng ta đó!
Nàng phải cúi người xuống mới bước vào trong được, rồi hỏi:
– Người hầu của anh đâu?
Người hát rong trả lời:
– Người hầu nào? Muốn làm gì thì tự mình làm lấy. Giờ em hãy nhóm bếp nấu ăn đi, anh mệt lắm rồi.
Công chúa nào có biết nhóm bếp và nấu ăn, người hát rong đành phải nhúng tay vào làm công việc mới xong. Sau bữa ăn, họ mệt mỏi ngủ thiếp đi. Ngày hôm sau, công chúa bị chồng đánh thức dậy để làm việc nhà. Cứ như vậy mấy ngày thì lương ăn dự trữ hết. Người hát rong bảo công chúa
– Mình ạ, chỉ ngồi ăn không kiếm được thêm gì cả cứ như thế này mãi chắc không được lâu, hay là em đan sọt bán.
Anh ta vào rừng lấy tre nứa về, công chúa phải chẻ lạt đan sọt. Nhưng bàn tay của nàng bị cạnh sắc của tre nứa cửa rỉ máu. Người hát rong bảo:
– Thế thì không được, có lẽ dệt vải hợp với em hơn.
Nàng ngồi tập quay sợi, nhưng rồi những ngón tay lại bị sợi cứa chảy máu. Người chồng nói:
– Em chẳng thể làm được việc gì, sống với em thật khổ. Giờ thì chắc ta phải xoay ra đi buôn nồi và bát đĩa. Em ngồi ở chợ và bán hàng.
Công chúa nghe vậy, thì nghĩ bụng:
– Nếu như dân nước mình họ tới đây mua bán, nhìn thấy mình họ sẽ cười nhạo mình mất.
Nhưng nàng vẫn phải làm theo lời chồng mình. Lúc đầu, khách đến mua khá đông, họ trả tiền hàng mà không hề mặc cả, thậm chí có người trả tiền nhưng không lấy hàng. Cuộc sống của hai vợ chồng khá sung túc. Một lần nọ, công chúa đang ngồi coi hàng thì có một anh chàng hiệp sĩ từ xa phi ngựa lao thẳng vào chợ làm cho đống hàng sành sứ đổ vỡ hết cả ra thành hàng nghìn mảnh lớn nhỏ ngổn ngang ở chợ. Nàng sợ hãi, ngồi ôm mặt khóc:
– Trời, khổ thân tôi thế này, còn mặt mũi nào mà nhìn chồng nữa?
Về nhà, nàng kể cho chồng nghe chuyện chẳng may ấy. Nghe xong chuyện, người hát rong trách móc:
– Đời thuở nhà ai bán sành sứ mà lại ngồi ngay đầu chợ chỗ người ta qua lại, khóc làm chi nữa. Anh thấy em chẳng làm gì cho đến đầu đến cuối. Lúc nãy anh có đến cung vua hỏi xem nhà bếp có cần người phụ không, họ hứa sẽ nhận em vào làm và nuôi cơm.
Vậy là giờ đây công chúa là một chị phụ đầu bếp. Hai bên tạp dề nàng buộc chặt hai chiếc nồi con, nàng bỏ phần cơm của mình vào đó và mang về nhà để hai vợ chồng cùng ăn. Một hôm, trong cung vua tổ chức hôn lễ cho nhà vua, công chúa cũng tò mò len vào đứng trước cửa ngõ vào. Khi đèn lần lượt được thắp sáng, cảnh đẹp lộng lẫy trong cung vua mới hiện lên hết. Công chúa thấy vậy mà buồn tủi thay cho số phận của mình. Nàng hối hận chỉ vì tính kiêu căng, ngông cuồng đã khiến mình trở nên như hôm nay. Bỗng nhiên nhà vua bước vào, lụa là châu báu đầy người, cổ đeo dây chuyền vàng. Nhà vua nhìn thấy công chúa bước tới tỏ ý muốn nàng nhảy cùng. Nàng nhận ra đó chính là Vua chích choè, người đã từng muốn làm phò mã và bị nàng nhạo báng, từ chối.
Nàng liền giật tay lại nhưng chẳng ăn thua gì cả, vẫn bị người kéo vào tới giữa phòng làm dây buộc nồi đứt, hai cái nồi rơi xuống đất, súp và bánh mì vung ra khắp nền nhà. Khách khứa và những người đứng đó thấy cảnh tượng ấy đều bật cười và chêm pha những lời nhạo báng. Công chúa vô cùng xấu hổ, giật mạnh một cái khỏi tay Vua chích choè, lao thẳng ra phía cửa để chạy trốn, nhưng mới tới được cầu thang lại bị một người đàn ông lôi lại, khi định thần lại được, nàng thấy người đó lại chính là Vua chích choè:
– Em đừng có sợ hãi, người hát rong sống chung với em trong căn lều lụp xụp chính là anh. Chính anh cũng là kỵ sĩ cho ngựa chạy đổ vỡ hết hàng sành sứ của em. Tất cả những việc đó chỉ nhằm uốn nắn tính kiêu ngạo của em.
Nàng nói:
– Em đã làm những điều sai trái, không xứng đáng là vợ của anh.
Nhưng Vua chích chòe liền nói với nàng:
– Em đừng buồn nữa, những ngày cay đắng đã qua, giờ chúng ta hãy làm đám cưới.
Công chúa nghe theo lời Vua chích chòe, vào thay quần áo. Toàn thể triều đình đều có mặt để chúc mừng.
Bài văn mẫu số 2
Tại một vương quốc, nhà vua chỉ có độc nhất một người con gái. Nàng xinh đẹp tuyệt trần, lại được nuông chiều nên tính tình kiêu ngạo. Một hôm, vua cha cho mời các chàng trai ở khắp các nước xa gần tới mở tiệc linh đình để chọn phò mã. Rất nhiều người đến tham dự.
Công chúa đến xem mắt từng người nhưng chẳng có ai là vừa ý. Thậm chí nàng còn chê bai, chế giễu họ. Trong số đó, có một người có chiếc cằm hơi cong như mỏ chim chích chòe, công chúa liền nói anh ta chẳng khác gì chim chích choè có mỏ. Từ đó, mọi người gọi là vị vua đó Vua chích chòe.
Nhà vua thấy vậy, tức giận lắm, liền truyền rằng nếu có người ăn mày nào đi qua cung vua, vua sẽ gả công chúa cho người ấy. Nàng nghe vậy thì sợ hãi vô cùng, van xin nhưng chẳng có tác dụng. Mấy hôm sau, một người hát rong đi qua, đứng ngây dưới cửa sổ cất tiếng hát, mong sẽ được ban thưởng cho vài xu. Vua cha cho gọi hắn vào:
– Hãy cho tên hát rong vào đây!
Người hát rong đi nọ vào cung vua, hát cho vua và công chúa nghe, rồi đưa tay xin tiền thưởng. Nhà vua bảo:
– Ta rất thích tiếng hát của ngươi, vì vậy ta gả con gái ta cho ngươi.
Công chúa ại van xin nhưng vua cha vẫn cương quyết:
– Cha đã thề rằng sẽ gả con cho người ăn mày đầu tiên đi qua cung vua, cha muốn giữ lời thề đó.
Linh mục được mời ngay tới để làm hôn lễ của công chúa lấy người hát rong. Hôn lễ cử hành xong, nàng phải theo chồng rời khỏi cung điện.
Trên đường đi, công chúa nhìn thấy một khu rừng lớn:
– Rừng đẹp này của ai?
Người hát rong nói:
– Rừng của Vua chích choè, nếu nàng lấy ông ta thì hẳn rừng đã là của nàng.
Công chúa tiếc nuối thốt lên:
– Tôi là cô gái thật đáng thương, đáng ra tôi nên lấy Vua chích chòe.
Một lúc sau tới một thảo nguyên, nàng ại hỏi:
– Thảo nguyên này của ai?
Người hát rong nói:
– Thảo nguyên của Vua chích choè.
Nàng công chúa tiếc nuối thốt lên:
– Tôi là cô gái thật đáng thương, đáng ra tôi nên lấy Vua chích chòe.
Rồi họ tới một thành phố lớn, công chúa lại hỏi:
– Thành phố này của ai?
– Thành phố mỹ lệ của Vua chích choè.
Lúc này, nàng ân hận vô cùng, liền bật khóc:
– Tôi thật đáng thương, đáng lẽ ra tôi nên đồng ý lấy Vua chích chòe.
Người hát rong tỏ vẻ tức giận, nói:
– Tôi thật không hài lòng khi nghe nàng nói vậy, chẳng lẽ tôi không xứng với nàng sao?
Công chúa không nói gì mà chỉ lặng lẽ đi theo sau, tới một túp lều, nàng hỏi người hát rong:
– Nhà ai thế này?
Người hát rong thản nhiên nói:
– Nhà của chúng ta đó!
Nàng phải cúi người mới bước được vào trong, rồi hỏi:
– Vậy người hầu đâu?
Người hát rong đáp:
– Làm gì có người hầu, chúng ta phải tự làm mọi người.
Nói xong, người hát rong yêu cầu công chúa đi nhóm bếp và nấu ăn. Nhưng nàng nào có biết nhóm bếp và nấu ăn. Cuối cùng, người hát rong vẫn phải tự làm mọi việc.
Hôm sau, người hát rong đánh thức công chúa dậy, rồi nói:
– Chúng ta không thể ngồi không, phải làm gì để kiếm sống. Hay là em đan sọt để bán?
Nàng chỉ có thể nghe theo. Người hát rong vào rừng lấy tre nứa về, công chúa phải chẻ lạt đan sọt. Nhưng từ lớn đến bé nàng có làm việc này bao giờ?
– Hay là em dệt vải – Người hát rong lại gợi ý.
Công chúa cũng nghe theo, nhưng n hững ngón tay mềm mại của nàng lại bị sợi cứa, máu chảy rơi xuống nền nhà.
– Em chẳng làm được việc gì. Giờ thì chắc ta phải xoay ra đi buôn nồi và bát đĩa. Em ngồi ở chợ và bán hàng.
Công chúa đành phải nghe lời chồng, ra chợ bán hàng. Lúc đầu, khách đến mua khá đông, họ trả tiền hàng mà không hề mặc cả, thậm chí có người trả tiền nhưng không lấy hàng. Một hôm, nàng đang ngồi bán hàng như mọi khi thì có một anh chàng hiệp sĩ từ xa phi ngựa lao thẳng vào chợ làm cho đống hàng sành sứ của tôi đổ vỡ. Công chúa sợ hãi ngồi khóc lóc, rồi về kể cho chồng nghe. Người hát rong liền trách móc, rồi nói rằng đã hỏi được công việc phụ bếp trong cung cho nàng. Vậy là giờ công chúa đã trở thành một chị phụ bếp.
Một lần, trong cung vua tổ chức hôn lễ cho nhà vua. Chị phụ bếp lén vào xem, khung cảnh hoàng cung làm nàng nhớ lại cuộc sống trước đây. Nàng cảm thấy buồn tủi và ân hận. Bỗng nhiên vua bước vào, lụa là châu báu đầy người, cổ đeo dây chuyền vàng. Nhà vua nhìn thấy nàng, bước tới tỏ ý muốn nhảy cùng. Nàng sợ hãi lùi lại.
Nàng nhận ra Vua chích chòe từng bị mình chế nhạo, tìm cách chạy nhưng không được. Nàng bị kéo vào giữa phòng làm dây buộc nồi đứt, hai cái nồi rơi xuống đất, súp và bánh mì vung ra khắp nền nhà. Khách khứa xung quanh cười cợt khiến nàng vô cùng xấu hổ. Nàng nhanh chóng chạy ra ngoài. Bỗng nhiên, tôi nghe thấy một tiếng nói quen thuộc:
– Đừng sợ, anh chính là người hát rong sống cùng em đây. Anh cũng là kỵ sĩ cho ngựa chạy đổ vỡ hết hàng sành sứ của em. Tất cả những việc đó chỉ nhằm uốn nắn tính kiêu ngạo của em.
Công chúa nghe xong liền bật khóc:
– Em đã làm nhiều điều sai, em không xứng đáng là vợ anh.
Nhưng Vua chích chòe liền nói:
– Em đừng tự trách mình nữa, mọi khổ cực đã qua, giờ chúng ta hãy sống hạnh phúc cùng nhau.
Công chúa nghe theo lời Vua chích chòe. Ngày hôm đó, hoàng cung mở tiệc linh đình. Toàn thể triều đình đều có mặt để chúc mừng cho họ.
Kể lại một truyện cổ tích – Cây khế
Bài văn mẫu số 1
Ngày xửa ngày xưa, ở một làng nọ có hai anh em. Cha mẹ mất sớm, anh em hết mực yêu thương nhau, cùng nhau làm lụng nên cũng có của ăn, của để. Nhưng từ lúc có vợ, người anh đâm ra lười biếng.
Một hôm, người anh gọi em trai đến để phân chia gia sản. Người anh nhận hết của cải, chỉ để lại cho em một túp lều tranh, trước lều có một cây khế. Quanh năm, vợ chồng người em chăm sóc cho cây khế tươi tốt. Đến mùa khế ra rất nhiều quả. Người em bàn với vợ sẽ hái khế để đem ra chợ bán. Hôm đó, khi người em vừa định trèo lên cây thì đã nhìn thấy trên cây khế có một con chim rất to đang đậu trên cây và đang ăn khế. Suốt một tháng, chim đều đến ăn. Người vợ xót ruột liền đến nói với chim:
– Chim ơi! Ngươi ăn khế của ta thì gia đình ta biết lấy gì để sống?
Chim bỗng ngừng ăn và cất tiếng trả lời:
– Ăn một quả trả một cục vàng, may túi ba gang mang đi và đựng.
Nói rồi chim bay đi. Vợ chồng bàn nhau làm theo lời chim nói. Sáng hôm sau, chim đến thật và đưa người em đến một hòn đảo giữa biển. Chim đáp xuống một cửa hang. Bên trong có rất nhiều vàng bạc châu báu. Thấy hang sâu và tối, người em chỉ dám nhặt ít châu báu ở ngoài, rồi ra hiệu cho chim ra về.
Từ đó, cuộc sống của gia đình của người em trở nên sung túc. Họ cho dựng một căn nhà khang trang gần túp lều và cây khế và giúp đỡ người dân nghèo khổ. Tiếng lành đồn xa, chuyện đến tai người anh. Một sáng, người anh đến nhà em trai từ sớm. Anh ta liền lân la hỏi chuyện, rồi gạ để đổi lấy túp lều và cây khế.
Cả gia đình người anh chuyển đến túp lều tranh của em trai. Ngày nào, vợ chồng người anh cũng chỉ ăn rồi ra dưới gốc khế chờ chim thần đến. Mùa khế chín, chim cũng trở về ăn khế. Vừa thấy chim, cả hai đã khóc lóc, kêu gào thảm thiết. Chim thần cũng nói y như lời kể của người em. Người anh bảo vợ may hẳn chiếc túi gấp ba lần, thành ra như một cái tay nải lớn.
Sáng hôm sau, chim thần đến đưa người anh ra đến đảo. Anh ta hoa mắt khi thấy nhiều vàng bạc châu báu. Vào trong hang, người anh lại càng mê mẩn, cố sức nhét thật đầy.
Người anh leo lên lưng chim, chim là đà mãi mới cất cánh được. Vì quá nặng nên chim bay chậm, mãi vẫn ở trên biển. Mang nặng, bay ngược gió, chim yếu dần, hai cánh rũ xuống. Chim buông xuôi rồi đâm bổ xuống biển. Người anh bị sóng cuốn đi. Còn chim chỉ bị ướt lông ướt cánh, lại vùng lên bay về núi rừng.
Bài văn mẫu số 2
Ngày xưa, ở một làng nọ có hai anh em. Cha mẹ mất sớm, anh em chăm chỉ làm lụng cũng đủ ăn. Từ lúc có vợ, người anh đâm ra lười biếng. Còn người em thì vẫn chăm chỉ làm việc.
Một hôm, người anh gọi em trai đến bàn chuyện chia gia sản. Người anh nhận hết của cải, để lại cho em một túp lều tranh, phía trước có một cây khế. Vợ chồng người em chịu khó chăm sóc cây khế. Đến mùa, cây khế trĩu quả. Hai vợ chồng bàn nhau đem khế ra chợ bán. Hôm đó, khi người em vừa định trèo lên cây thì đã nhìn thấy trên cây khế có một con chim rất to đang ăn khế. Suốt một tháng, chim đều đến. Người vợ liền nói với chim:
– Chim ơi! Ngươi ăn khế của ta thì gia đình ta biết lấy gì để sống?
Chim liền nói:
– Ăn một quả trả một cục vàng, may túi ba gang mang đi và đựng.
Hai vợ chồng làm theo lời chim, may một chiếc túi ba gang. Sáng sớm hôm sau, chim thần đến và đưa người em đến một hòn đảo giữa biển. Chim đáp xuống một cửa hang. Bên trong có rất nhiều vàng bạc châu báu. Nhưng hang sâu lại tối, người em chỉ dám nhặt ít châu báu ở ngoài, rồi ra hiệu cho chim ra về.
Kể từ đó, cuộc sống của gia đình của người em trở nên khá giả. Hai vợ chồng còn giúp đỡ người nghèo trong làng. Tiếng lành đồn xa, chuyện đến tai người anh. Một sáng, người anh lân la đến hỏi chuyện em trai. Vốn thật thà, người em kể hết mọi chuyện cho anh trai. Người anh liền gạ em để đổi lấy túp lều và cây khế.
Vợ chồng người anh chuyển đến túp lều. Ngày nào, họ cũng chỉ ăn rồi ra dưới gốc khế chờ chim thần đến. Mùa khế chín, chim đến ăn khế. Vừa thấy chim, cả hai đã khóc lóc, kêu gào thảm thiết. Chim thần cũng nói:
– Ăn một quả trả cục vàng, may túi ba gang mang đi mà đựng!
Vợ chồng người anh sung sướng lắm. Chồng bảo vợ may hẳn chiếc túi to gấp ba lần, thành ra như một cái tay nải lớn.
Sáng hôm sau, chim thần đến đưa người anh ra đến đảo. Nhìn thấy vàng bạc châu báu, người anh hoa cả mắt. Vào trong hang, người anh lại càng mê mẩn. Chim thần giục, người anh cố sức nhét thật đầy túi. Lúc đầu, chim là đà mãi mới cất cánh được. Vì quá nặng, lại đi ngược hướng gió, chim đâm bổ xuống biển. Người anh bị sóng cuốn ra xa. Còn chim chỉ bị ướt lông ướt cánh, lại vùng lên bay đi.