Văn mẫu lớp 6: Kể về một cuộc thăm hỏi gia đình liệt sĩ neo đơn gồm dàn ý, cùng 5 bài văn mẫu, giúp các em học sinh lớp 6 tham khảo, tích lũy vốn từ để kể lại cuộc thăm hỏi gia đình liệt sĩ neo đơn súc tích nhất.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 6: Kể về một cuộc thăm hỏi gia đình liệt sĩ neo đơn
Văn mẫu lớp 6: Kể về một cuộc thăm hỏi gia đình liệt sĩ neo đơn
Dàn ý kể về một cuộc thăm hỏi gia đình liệt sĩ neo đơn
a. Mở bài
– Nhân dịp nào đi thăm
– Ai tổ chức? đoàn gồm những ai?
– Dự định đến thăm gia đình nào? Ở đâu?
b. Thân bài
– Chuẩn bị những gì cho cuộc đi thăm? (Nước quà tặng, đồ ăn,…)
– Tâm trạng của em trước khi đi thăm (bồn chồn, lo lắng, hồi hộp, hào hứng,…)
– Con đường tới nơi thế nào? Nhà của người liệt sĩ thế nào (Đơn sơ, giản dị,…)
– Cuộc gặp gỡ, cuộc trò chuyện xảy ra thế nào (nghe người liệt sĩ kể những câu chuyện về cuộc đời mình => khâm phục, kể chuyện học hành của chính mình,…)
– Tặng quà cho người liệt sĩ (động viên họ, lời hứa của bản thân)
– Thái độ lời nói của các thành viên trong gia đình liệt sĩ
c. Kết bài
– Ấn tượng sau buổi đi thăm là gì.
-Tiếp thêm động lực để mình phát triển
– Lời hứa hẹn của bản thân.
Kể một cuộc thăm hỏi gia đình liệt sĩ neo đơn – Mẫu 1
Uống nước nhớ nguồn là đạo lí truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Những hoạt động đền ơn đáp nghĩa, giúp đỡ các gia đình thương binh liệt sĩ, những người có công với Cách mạng là biểu hiện của đạo lí tốt đẹp đó. Nhân ngày 27 tháng 7 năm nay, cô giáo chủ nhiệm lớp đã đưa chúng tôi tới thăm gia đình liệt sĩ neo đơn ở một làng nhỏ yên tĩnh, ven thành phố. Đó là gia đình liệt sĩ Nguyễn Thanh Sơn.
Ngay từ sớm, chúng tôi đã tụ họp đông đủ trước sân trường. Cô giáo chủ nhiệm làm trưởng đoàn. Cả lớp đi xe đạp. Đông là thế nhưng tất cả đều trật tự và nghiêm túc. Dường như ai cũng hiểu được ý nghĩa thiêng liêng của hoạt động này.
Ngôi nhà nhỏ bé của liệt sĩ khuất sau lũy tre xanh mát. Chúng tôi đẩy nhẹ chiếc cổng tre khép hờ, bước vào chiếc sân nhỏ lát gạch Bát Tràng. Đây đó xuất hiện một vào đám rêu xanh ở góc sân. Khu vườn thoảng hương hoa dại. Ở góc vườn, cây vối khẳng khiu đối diện với cây khế quả sai trĩu cành. Những chiếc lá vàng rụng rải rác trên sân. Vài con chim sâu kêu lích tích. Cảm giác quạnh hiu buồn vắng xâm chiếm lòng tôi. Một bà cụ nhỏ bé, mái tóc trắng như cước, chống chiếc gậy trúc bước ra sân. Chúng tôi cất tiếng chào, bà cụ cười hiền hậu mời cô giáo và chúng tôi vào nhà. Đồ đạc trong nhà có phần xuềnh xoàng, đơn giản. Ở gian giữa ngôi nhà kê một chiếc bàn thờ, mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm ngát. Trên bàn thờ có hai bức chân dung: hai người lính trẻ có gương mặt giống nhau như tạc. Họ tươi cười nhìn chúng tôi qua làn khói hương nghi ngút. Chiếc bàn gỗ mộc đơn sơ, bộ ấm chén sạch sẽ. Bà cụ mời cô giáo và chúng tôi uống nước. Bà bảo: Nước vối đấy các cháu ạ! Uống nước vối rất tốt cho sức khỏe! Tôi đỡ lấy chén nước bà đưa cho, uống một ngụm và chợt nhận ra mình chưa bao giờ được thưởng thức thứ nước uống nào thơm và ngon đến thế!
Chúng tôi lắng nghe câu chuyện của bà. Bà kể người trong hai bức ảnh là chồng và con trai của bà, liệt sĩ Nguyễn Thanh Sơn. Chồng bà hi sinh ở chiến trường Điện Biên Phủ lịch sử. Bà một mình nuôi anh Sơn khôn lớn. Năm 1970, anh xung phong đi bộ đội, mặc dù đủ tiêu chuẩn để đi học nước ngoài. Trước ngày lên đường, anh đã trồng cây vối và cây khế ngọt ở góc vườn. Anh bảo uống nước vối tốt cho sức khỏe của mẹ. Còn cây khế anh trồng là để dành cho lũ trẻ con. Nhà neo người, có trẻ đến chơi cho vui cửa, vui nhà. Anh hi sinh ở cửa ngõ Sài Gòn năm 1975. Bà nghẹn ngào: Cây thì còn, nhưng người thì mất. Những lúc nhìn cây, bà lại nhớ đến anh. Ngày ngày đám trẻ con lân cận vẫn sang chơi, hái nụ vối để bà pha nước uống và ăn khế ngọt trong vườn. Bác hàng xóm đã làm cho chúng một dụng cụ hái khế rất tiện lợi, không phải trèo cây mà vẫn hái được quả. Bọn chúng thích lắm, còn bà thì yên tâm, không sợ lũ trẻ bị ngã vì leo trèo. Chúng tôi theo bà ra vườn. Nhìn cây khế đong đưa quả nặng, nâng niu đón nhận những trái khế bà cho, tôi bỗng cảm nhận thấm thía tấm lòng hiếu thảo của người con trai dành cho mẹ. Cô giáo tôi bảo: Vị nước vối thơm và những trái khế ngọt của người con trai đã giúp bà vượt qua nỗi buồn đau, sự cô đơn để sống và hoài niệm. Mấy bạn gái chăm chỉ đã mau mắn quét tước thu dọn sân vườn giúp bà. Lũ con trai lộc ngộc như bọn tôi, khỏe hơn, thì múc đầy bể nước, xén tỉa hàng rào râm bụt ở lối ngõ cho gọn ghẽ. Đúng lúc đó, một đám trẻ con hơn mười đứa cũng kéo sang. Chúng mang biếu bà một cá khoai luộc để bà tiếp khách. Mấy đứa tranh nhau kể cho bà nghe mọi chuyện trong xóm, ngoài làng và những trò tinh nghịch của chúng ở trường. Bà lắng nghe câu chuyện của đám trẻ, cười móm mém, hiền hậu. Bà bảo: Đám trẻ con hàng xóm ấy chính là con cháu của bà!
Chúng tôi tặng quà cho bà rồi xin phép ra về. Trên đường về, cả lớp tôi đều đạp xe lặng lẽ. Ai nấy đều theo đuổi một ý nghĩ riêng từ chuyến viếng thăm này. Còn tôi? Lòng nao nao với bao cảm xúc khó tả, tôi mơ hồ nhận ra ý nghĩa lớn lao, vĩ đại của sự hi sinh thầm lặng ở những người vợ, người mẹ Việt Nam. Một chút ngậm ngùi thương cảm đan xen niềm cảm phục vô bờ. Cảm phục, biết ơn người chiến sĩ đã hi sinh máu xương của
mình cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Cảm thương cho những người vợ, người mẹ liệt sĩ sống trong cô đơn, buồn nhớ suốt phần đời còn lại. Được hưởng hòa bình từ bao mất mát hi sinh từ các thế hệ cha anh, mỗi chúng ta hôm nay phải có những hành động thiết thực, hiệu quả trong việc đền ơn đáp nghĩa gia đình liệt sĩ để các anh an lòng từ thế giới bên kia.
Kể một cuộc thăm hỏi gia đình liệt sĩ neo đơn – Mẫu 2
Chiều thứ năm tuần trước, lớp chúng em tổ chức đến thă gia đình thương binh của chú Trí tại xóm nhỏ. Cuộc viếng thăm này làm em nhớ mãi.
Được sự phân công của Ban Giám hiệu nhân dịp kỷ niệm chào mừng ngày giải phóng miền Nam 30 – 4, lớp em đến thăm gia đình của chú Trí, một thương binh bị hỏng cá hai mắt, lại còn liệt nửa người.
Chiều hôm ấy chúng em tập hợp tại nhà Hương, lớp trưởng để cùng đến nhà chú Trí. Đây là một căn nhà lá nghèo nàn ở tận cùng xóm nhỏ. Ra đón chúng em là thím Trí, một người phụ nữ nhỏ nhắn, da sạm đen vì phải đi bán vé số nuôi gia đình. Bước vào nhà, chúng em được thím giới thiệu với chú Trí, một thương binh da tái xanh, đeo kính đen, đang ngồi trên xe lăn. Bạn Hương thay mặt lớp biếu cho gia đình chú một món quà mà lớp chúng em đã tự nguyện đóng góp với nhau trong suốt tháng qua. Món quà chỉ có đường, sữa, mì gói… nhưng chú thương binh rất cảm động.
Khi chúng em hỏi về cuộc chiến đấu ở chiến trường, chú không muốn nói nhiều. Chú cho biết chú đã bị thương nặng trong một đợt ném bom của máy bay B52 trên tuyến đường Trường Sơn. Khi chúng em tỏ ý biết ơn và thương cảm thì chu chỉ nói: “Nước có giặc thì mình phải đánh, chứ sao? Cá nhân mình không may thì cố chịu. Biết bao đồng đội còn hy sinh nơi chiến trường. Mong sao từ đây thanh bình”. Những ý nghĩ đó, chắc chú đã nghiền ngẫm hơn hai chục năm trời sống trong bóng tối. Nó thể hiện một ý thức tự giác, một nghị lực, kiên cường của anh bộ đội cụ Hồ.
Từ biệt gia đình chú Trí ra về, chúng em cứ nghĩ đến sau chiến tranh, đất nước có biết bao nhiêu gia đình thương binh, liệt sĩ mà gia đình chú Trí chỉ là một trong số đó. Sự hi sinh của quân và dân ta thật to lớn biết bao! Cuộc viếng thăm của chúng em chỉ là một cử chỉ biết ơn rất nhỏ. Em nghĩ, mọi người trong đó có chúng em cần phải cố gắng nhiều hơn nữa để góp phần xoa dịu những vết thương chiến tranh.
Kể một cuộc thăm hỏi gia đình liệt sĩ neo đơn – Mẫu 3
Hàng năm cứ vào dịp kỉ niệm ngày thương binh liệt sĩ, trường em lại tổ chức đi thăm các mẹ Việt Nam anh hùng, các gia đình thương binh liệt sĩ. Chúng em phân công nhau mỗi lớp đi một nhà, lớp em được cử đi thăm gia đình mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Lan.
Mẹ quê ở xã Tịnh Long, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Mẹ sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo giàu lòng yêu nước. Thế rồi, truyền thống yêu nước ấy được nhân lên. Mẹ lập gia đình và một lòng đi theo cách mạng. Chồng và con của mẹ tham gia hoạt động cách mạng, luôn nêu cao tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, họ đã làm rạng rỡ truyền thống kiên cường, bất khuất của nhân dân Quảng Ngãi. Với tinh thần đó, chồng và hai con của mẹ đã hi sinh trong một cuộc tiến công và nổi dậy ở Tây Nguyên, để lại trong lòng mẹ một nỗi đau thương, mất mát khôn cùng. Năm 1994, Chủ tịch nước đã kí quyết định tặng cho mẹ danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng.
Năm nay mẹ đã ngoài 80 tuổi, mẹ sống cô đơn một mình trong căn nhà tình nghĩa mà xã xây dựng lên. Tuy tuổi cao, mái tóc đã bạc trắng nhưng mẹ vẫn minh mẫn và khỏe mạnh lắm. Có lẽ linh hồn của chồng và hai con đã tiếp thêm sức mạnh cho mẹ để mẹ tiếp tục sống trên cõi đời này.
Chúng em mới tới đầu ngõ, mẹ đã đon đả chạy ra chào hỏi. Chúng em lễ phép chào mẹ. Khuôn mặt mẹ đang hằn sâu những nếp nhăn bỗng vụt tươi lên nụ cười đôn hậu. Bạn Uyên – Chi đội trưởng thay mặt liên đội kính cẩn đặt lên bàn thờ chồng và con mẹ một bó hoa huệ thơm ngát, chúng em lần lượt đến bàn thờ và thắp hương với tấm lòng thành kính, biết ơn sâu sắc. Rồi chúng em tặng quà cho mẹ, ngồi quây quần bên mẹ, nghe mẹ kể cuộc đời hoạt động cách mạng của gia đình mẹ, của chồng và con mẹ. Kể đến đấy, mẹ rưng rưng nước mắt, mẹ nghẹn ngào xúc động khi lòng mẹ khơi dậy hình ảnh của người thân đã vĩnh viễn ra đi. Chúng em cũng không cầm được nước mắt. Em thầm nghĩ không gì có thể đền đáp xứng đáng công lao của những người mẹ đã cống hiến những đứa con ruột thịt của mình cho Tổ quốc. Rồi mẹ nói tiếp: Ngày nay mẹ không còn chồng con nhưng bù lại tình thương bao la của các cháu, của cán bộ và nhân dân nên mẹ cũng an lòng. Mẹ mong chúng em học giỏi, thành tài, kế tục sự nghiệp của cha ông. Mẹ gửi lời cảm ơn đến ngành giáo dục thành phố Quảng Ngãi, các cơ quan đoàn thể đã phụng dưỡng mẹ, quan tâm chăm sóc mẹ thật chu đáo về vật chất lẫn tinh thần.
Trò chuyện với mẹ rất lâu, chúng em được nghe rất nhiều chuyện mẹ kể. Tất cả lớp đều im lặng nghe từng lời từng câu mẹ nói ra, ai nấy đều rưng rưng xúc động. Rồi cũng đến giờ phải trở về, chúng em xin phép mẹ ra về, mẹ tiễn chúng em ra ngõ và không quên nhắn nhủ một câu: Các cháu chăm học và học thật tốt nhé!
Cái ngày về thăm gia đình mẹ đã luôn khắc ghi trong tâm trí chúng tôi, càng hiểu được những mất mát của cha anh để có ngày hôm nay, tôi càng phải cố gắng học tập thật tốt để trở thành người tài giỏi sau này về xây dựng quê hương đất nước, đền đáp công ơn của những người đã hi sinh cho chúng ta có cuộc sống này.
Kể một cuộc thăm hỏi gia đình liệt sĩ neo đơn – Mẫu 4
Sáng chủ nhật tuần trước, lớp em tổ chức đi thăm một số gia đình thương binh, liệt sĩ ở địa phương. Tổ em được phân công thăm bà Phan, mẹ liệt sĩ và chú Hiển, thương binh nặng, cụt cả hai chân trong chiến dịch giải phóng Sài Gòn năm 1975.
Nhà bà Phan nằm sâu trong một con hẻm ở đường Bàn Cờ. Bà là mẹ của liệt sĩ Trương Tấn Quang, hi sinh anh dũng trong chiến dịch biên giới Tây Nam. Bản thân bà trước đây cũng là một cơ sở hoạt động cách mạng nội thành và đã từng bị địch bắt giam, tra tấn dã man.
Tuổi già sức yếu, bà Phan sống dựa vào tiền trợ cấp gia đình liệt sĩ và sự đùm bọc của nhân dân trong phường. Cách đây hơn một tháng, phòng Giáo dục quận 3 đã tặng bà ngôi nhà tình nghĩa, thay thế cho căn nhà dột nát chật chội.
Thấy chúng em tới, bà mừng lắm: Các cháu đến thăm bà đấy ư? Khuôn mặt nhăn nheo vụt tươi lên bởi nụ cười đôn hậu. Bạn Thu Hương thay mặt cho tổ hỏi thăm sức khỏe của bà. Bạn Tiến Thành cắm một bó hoa tươi vào bình rồi kính cẩn đặt lên bàn thờ. Mùi nhang trầm tỏa ấm cả gian nhà. Từ trong ảnh, đôi mắt trong sáng của chú Quang nhìn chúng em trìu mến. Chúng em biếu bà mấy ký đường, vài hộp sữa, chục trứng gà, chục cam và ít thuốc bổ… Bà xúc động cảm ơn chúng em. Em thầm nghĩ là không gì có thể đền đáp xứng đáng công lao của những người mẹ đã cống hiến, hi sinh đứa con ruột thịt của mình cho Tổ quốc.
Rồi chúng em quây quần bên cánh võng, nghe bà kể về những kỉ niệm trong đời hoạt động cách mạng của mình; kể về chú Quang, người con trai yêu quý. Cảnh tượng bà cháu sum vầy thật vui vẻ và ấm cúng.
Từ giã bà Phan, chúng em sang thăm chú Hiển. Chú ngồi trên xe lăn, tươi cười chào đón chúng em. Tuy là một thương binh nặng nhưng chú Hiển vẫn rất lạc quan. Chú là một tấm gương sáng về nghị lực và ý chí khắc phục khó khăn.
Theo lời Bác dạy: Thương binh tàn nhưng không phế, chú Hiển vẫn cần cù làm việc bằng đôi tay tài hoa của mình. Chú hướng dẫn cho vợ con đan lát những mặt hàng thủ công mĩ nghệ bằng mây, tre, lá. Bàn tay cầm súng năm xưa giờ đây đang thoăn thoắt luồn những sợi mây óng chuốt, tạo nên những chiếc khay, chiếc giỏ xinh xắn, làm đẹp cho mọi nhà.
Chúng em nhận giúp đỡ gia đình chú đã hơn nửa năm nay nên đến nhà chú thấy việc là làm. Nhóm nữ giúp cô Hồng dọn dẹp nhà cửa cho ngăn nắp. Bạn Thủy, bạn Dung hướng dẫn hai em con chú Hiển giải những bài toán khó. Chúng em quyên góp tiền mua tặng sách vở và một số đồ dùng học tập cho hai em. Chú Hiển nói lên ước nguyện của mình là cố gắng nuôi các con ăn học đến nơi đến chốn. Với tình hình sức khỏe và hoàn cảnh gia đình của chú, điều ấy quả thật chẳng dễ chút nào. Nhưng chúng em tin rằng với tinh thần phấn đấu và quyết tâm cao, ước vọng của chú sẽ thành hiện thực.
Buổi đi thăm các gia đình thương binh, liệt sĩ kết thúc tốt đẹp. Trên đường về, chúng em bàn bạc để tìm cách giúp đỡ các gia đình ấy sao cho có hiệu quả hơn. Đạo lí Uống nước nhớ nguồn của dân tộc nhắc nhở chúng em sống sao cho có nghĩa có tình đối với những người có công với đất nước. Em càng hiểu sâu sắc hơn về lòng biết ơn – nền tảng đạo đức, đạo lí truyền thống của dân tộc ta.
Kể một cuộc thăm hỏi gia đình liệt sĩ neo đơn – Mẫu 5
Chiều thứ năm tuần trước, sau giờ học buổi sáng, chúng em đến thăm gia đình thương binh hỏng mắt Lê Văn Trí tại nhà riêng. Cuộc viếng thăm làm em nhớ mãi.
Để thiết thực chào mừng ngày 30-4 giải phóng miền Nam, hưởng ứng chủ trương của Ban giám hiệu, lớp em phân công nhau đi thăm một số gia đình thương binh, liệt sĩ. Theo sự phân công của lớp, chúng em sẽ đến thăm gia đình chú Trí, một thương binh bị hỏng cả hai mắt, lại còn liệt nửa người. Chú có hai người con thì một đứa bị di chứng chất độc màu da cam, trở nên ngớ ngẩn, đứa con thứ hai học lớp 5. Chúng em bàn nhau nhịn quà sáng, góp tiền mua một món quà nhỏ mang đến biếu gia đình. Bọn em có 15 bạn, mọi việc do bạn Hương lo liệu.
Chiều hôm ấy chúng em tập hợp tại nhà Hương rồi cùng đến nhà chú Trí. Như đã hẹn trước, thím Trí đón chúng em vào, giới thiệu với chú Trí, một thương binh cao lớn, da xanh, đeo kính đen, ngồi trên chiếc xe đẩy. Khi chúng em chào, chú Trí khẽ nói: “Chào các cháu”. Trong khi thím Trí lấy nước uống mời khách, chúng em nhìn quanh, thấy chú thím ở trong ngôi nhà cũ đã xuống cấp. Chính quyền địa phương đang có kế hoạch giúp đỡ chú. Thím cho biết em thứ hai đang đi học, em đầu ngớ ngẩn, ai hỏi chỉ cười. Bạn Hương thay mặt nhóm biếu gia đình món quà nhỏ, gồm chiếc áo cho thím, đường, sữa cho chú và ít giấy cho đứa em đang đi học. Thím cảm ơn chúng em và cho biết địa phương cũng quan tâm nhiều nhưng bệnh tình chú và đứa em nặng quá, thím không thể làm thêm gì để cải thiện.
Khi chúng em hỏi về cuộc chiến đấu của chú ở chiến trường, chú không muốn nói nhiều. Chú cho biết chú phục vụ ở một binh trạm trên Trường Sơn, bị máy bay B.52 ném bom và bị thương nặng. Chú điều trị mãi đến những năm 80 mới được thế này. Chú cho biết phần lớn đồng đội chú đã hi sinh trong khi làm nhiệm vụ. Khi chúng em tỏ ý biết ơn và thương cảm, thì chú nói: “Nước có giặc thì mình phải đánh, chứ biết sao? Cá nhân mình không may thì ráng chịu. Mong sao từ đây thanh bình. Những ý nghĩ đó, chắc chú đã nghiền ngẫm trong hơn hai chục năm trời sống trong bóng tối, nó biểu thị một ý thức tự giác và nghị lực kiên cường của anh bộ đội Cụ Hồ.
Chúng em tỏ ỷ muốn làm một việc gì, dù rất nhỏ để đỡ đần cho chú, thím. Thím từ chối không được cuối cùng hướng dẫn chúng em làm vệ sinh sân, vườn và ngõ. Chúng em lấy cuốc, chổi xẻng cùng nhau dọn dẹp. Trong vòng nửa giờ, trong sân ngõ sạch sẽ, mảnh vườn nhỏ tinh tươm.
Từ biệt gia đình chú Trí ra về, chúng em nghĩ, sau chiến tranh, nước mình có biết bao thương binh và gia đình liệt sĩ. Đây chỉ là một gia đình trong số đó. Sự hi sinh của nhân dân và quân đội thật lớn lao biết bao! Cuộc viếng thăm của chúng em chỉ là một cử chỉ biết ơn rất nhỏ. Em nghĩ, mọi người trong đó có chúng em, còn phải cố gắng nhiều để góp phần xoa dịu những vết thương chiến tranh của đất nước không thể chữa lành.