Sống chết mặc bay là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Phạm Duy Tốn. Sau đây, Download.vn sẽ cung cấp Bài văn mẫu lớp 7: Phân tích nhân vật quan phụ mẫu trong Sống chết mặc bay.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 7: Phân tích nhân vật quan phụ mẫu trong Sống chết mặc bay
Tài liệu bao gồm 10 bài văn mẫu, sẽ giúp ích cho các bạn học sinh lớp 7. Mời tham khảo nội dung chi tiết ngay sau đây.
Phân tích nhân vật quan phụ mẫu trong Sống chết mặc bay
Phân tích nhân vật quan phụ mẫu – Mẫu 1
“Sống chết mặc bay” là một trong những truyện ngắn tiêu biểu của nhà văn Phạm Duy Tốn. Nổi bật trong tác phẩm là hình ảnh nhân vật quan phụ mẫu hiện lên vô cùng chân thực, sinh động.
Nhân vật này không xuất hiện ngay từ đầu. Mà đầu tiên nhà đã khắc họa hình ảnh nhân dân đang chống chọi cơn lũ trước. Rồi sau đó mới để viên quan phụ mẫu xuất hiện trong hoàn cảnh hoàn toàn trái ngược. Trước tình cảnh thảm hại của nhân dân, nhiều người tự hỏi bậc quan phụ mẫu đâu? Thì xin thưa rằng quan đang ngồi trong đình đánh tổ tôm. Khung cảnh trong đình được nhà văn miêu tả chi tiết: đèn thắp sáng trưng, khói bay nghi ngút; nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ đi lại rộn ràng. Viên quan đang “uy nghi chễm chệ ngồi” trên sập, “tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi”.
Ngòi bút nhà văn còn khắc họa sâu hơn, chi tiết hơn những đồ vật trong căn phòng của quan phủ để thấy được cuộc sống sa hoa, hưởng thụ khác hẳn với sự khốn khổ bên ngoài của người dân: “Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn, để trong khay khảm, khói bay nghi ngút, tráp đôi môi chữ nhật để mở, trong ngăn bạc đầy những trầu vàng, cau đậu, rễ tía, hai bên nào ống thuốc bạc, nào đồng hồ vàng, nào dao chuối ngày nào ống vôi chạm, ngoáy tai, lý thuốc, quản bút, tăm bông…”. Nhân vật không nói nhiều, chỉ thỉnh thoảng cất lời, mà hầu hết là những mệnh lệnh đầy oai vệ, uy nghiêm với bọn nha lại, lính lệ và thầy đề, chánh tổng: “Điếu, mày!”. Có khi thì là với thầy để lại: “Có ăn không thì bốc chứ!”, rồi: “Thì bốc đi chứ!”… Thật trớ trêu thay khi bậc quan lại phải là người đứng đầu sóng ngọn gió, cùng với nhân dân bảo vệ con đê sắp vỡ, nhưng giờ lại đang ngồi trong đình ung dung đánh bài, hưởng lạc.
Đặc biệt, tác giả xoáy vào dáng điệu, thái độ và lời quát lác đầy giận dữ của quan lớn khi có một người dân quê xông vào báo tin đê vỡ: “Để vỡ rồi! … Để vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không?… Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à? Đuổi cổ nó ra!”. Từ đó, sự vô trách nhiệm của viên quan phụ mẫu đã được đẩy lên đỉnh điểm.
Tóm lại, tác giả Phạm Duy Tốn đã rất thành công khi xây dựng hình ảnh nhân vật viên quan phụ mẫu đại diện cho giai cấp thống trị trong xã hội phong kiến đương thời.
Phân tích nhân vật quan phụ mẫu – Mẫu 2
“Sống chết mặc bay” là truyện ngắn nổi tiếng nhất của nhà văn Phạm Duy Tốn. Không chỉ thành công trong việc đổi mới lối viết, tác giả còn cho người đọc thấy chân dung của tên quan phụ mẫu vô trách nhiệm, mất nhân tính – đại diện cho giai cấp thống trị lúc bấy giờ.
Tên quan phụ mẫu được cử đi hộ đê ở làng X, phủ X. Lúc bấy giờ mưa như trút nước, con đê đã bị thẩm lậu nhiều đoạn và nguy cơ vỡ rất cao. Nhân dân ai nấy đều lo lắng sợ hãi, kẻ cuốc người thuổng hết sức hộ đê. Những tưởng rằng kẻ đứng đầu, kẻ vẫn được coi là cha mẹ của nhân dân sẽ cùng hộ đê để vượt qua cơn nguy khốn này, nhưng thực tế lại hoàn toàn trái ngược.
Quan phụ mẫu ở một nơi cao ráo, sạch sẽ. Dù đê có vỡ cũng không ảnh hưởng gì đến ngài. Khung cảnh nơi quan phụ mẫu ở thật ấm cúng,“đèn thắp sáng trưng; nha lệ, lính tráng đi lại rộn ràng”. Nơi đó quan phụ mẫu uy nghi, chễm chệ ngồi. Bên cạnh ngài với biết bao sơn hào, hải vị: “bát yến hấp đường phèn, trầu vàng, cau đậu, rễ tía, kẻ hầu người hạ túc trực kẻ gãi chân, kẻ phẩy quạt”. Hình ảnh của quan hiện lên thật nhàn nhã và sung sướng biết bao. Ngài nào đâu có biết ngoài kia dân phu đang khổ cực, khốn cùng đến mức nào. Chung quanh sập nơi ngài ngồi còn có thầy đề, đội nhất, thông nhì ngồi hầu ngài chơi tam cúc. Khung cảnh vô cùng trang nghiêm, tĩnh mịch, chỉ nghe thấy tiếng của quan phụ mẫu, những tiếng dạ vâng của kẻ hầu bài ngài. Cả một hệ thống quan lại hưởng lạc, ăn chơi trong khi người dân đang phải oằn mình chống lại thiên nhiên dữ tợn. Hai khung cảnh đối lập này càng làm rõ hơn bộ mặt độc ác của tên quan phụ mẫu.
Nhưng sự độc ác ấy còn được tác giả khắc họa thêm và tăng cao hơn nữa qua hai cuộc đối thoại của ngài với lính tráng và dân phu. Lần thứ nhất, khi quan đang “ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi, mắt mải trông đĩa nọc” thì ngoài ra xa có tiếng kêu vang lên khiến ai nấy đều giật nảy mình, riêng quan vẫn điềm nhiên vì ngài sắp ù to. Khi có người bẩm: “Bẩm, dễ có khi đê vỡ”, viên quan phụ mẫu buông một câu hết sức vô trách nhiệm: “Mặc kệ” rồi tiếp tục ván bài của mình. Lần thứ hai, lần này bộ mặt tàn ác, vô nhân tính của hắn của thể hiện rõ nét hơn. “Bẩm quan lớn … đê vỡ mất rồi”, bấy giờ ai cùng nôn nao sợ hãi, còn quan phủ quát tháo ầm ĩ: “Đê vỡ rồi… Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không? Lính đấu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy”. Những tưởng ông ta sẽ sợ hãi mà ra xem tình hình ra sao, nhưng hắn lại tiếp tục ván bài của mình. Khi ván bài của hắn ù to cũng chính là lúc khắp mọi nơi nước ngập lênh láng, người sống không có chỗ ở, kẻ chết không có chỗ chôn, tình cảnh vô cùng thương tâm.
Bằng nghệ thuật tương phản tác giả đã vạch trần bộ mặt tàn ác bất nhân của tên quan phụ mẫu. Hắn chỉ lo ăn chơi hưởng lạc, bóc lột nhân dân, chứ tuyệt đối không quan tâm tới số phận, cuộc sống của họ. Ngôn ngữ nhân vật giản dị, bộc lộ tính cách độc ác, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày.
Với sự sắp xếp tình tiết hợp lý, ngôn ngữ đặc trưng cho từng nhân vật, tác giả đã khắc họa thành công chân dung của tên quan phụ mẫu độc ác, mất nhân tính, hắn cũng chính là kẻ đại diện cho giai cấp cầm quyền lúc bấy giờ. Đồng thời qua tác phẩm cũng thể hiện niềm cảm thương sâu sắc cho số phận của những người dân bất hạnh, nghèo khổ.
Phân tích nhân vật quan phụ mẫu – Mẫu 3
Cuộc sống đen tối cùng cực của người dân Việt Nam ở nông thôn cũng như bản chất xấu xa, đê tiện của bọn quan lại thời thực dân phong kiến đã được phản ánh rõ nét và chân thật qua nhiều tác phẩm văn học hiện thực. Trong đó, người đọc không thể nào quên được hình ảnh tên quan phụ mẫu trong truyện “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn.
Khúc đê vang động âm thanh trống đánh liên hồi. Trên trời, mưa vẫn tầm tã trút xuống. Dưới sông, nước cứ cuồn cuộn dâng lên. Sức người chống lại với sức nước. Thế mà trong đình đèn thắp sáng trưng, quan phụ mẫu ngồi chễm chệ, uy nghi trên sạp. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra để cho một tên người nhà quỳ dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên, cầm cái quạt lông, chốc chốc sẽ phẩy, tên nữa đứng khoanh tay, chực hầu điếu đóm (châm thuốc).
Chưa hết, bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến đường phèn để trong khay khảm, khói bay nghi ngút. Xung quanh sạp, có đủ các mặt thầy đề, thầy đội, thầy thông nhì, ông chánh tổng sổ tại. Tất cả đang tụ họp lại để chơi bài tổ tôm. Cảnh tượng trên khiến cho người đọc xót xa vừa căm giận. Thật là hai thế giới cách biệt. Gần một giờ đêm, người nào người mấy lướt thướt như chuột lột sức người khó lòng địch nổi với sức trời. Vậy mà quan không hề mảy may để ý đến cái công việc hộ đê ấy, trong khi quan có nhiệm vụ giữ cho con đê an toàn, bảo vệ tài sản, tính mạng cho dân làng. Rõ ràng, đây là một tên quan vô trách nhiệm trước sự sống chết của người dân, hắn chỉ biết hưởng thụ, sống sung sướng cho bản thân.
“Sống chết mặc bay” là tên truyện ngắn nhưng nó đã phản ánh rõ nét bộ mặt thật xấu xa, vô nhân của một tên quan phụ mẫu dưới thời Pháp thuộc. Hắn sống phè phỡn, chỉ biết bài bạc đỏ đen – đó là niềm vui, niềm hạnh phúc của hắn. Mặc dù giữ một chức to – quan phụ mẫu, nhưng không cần biết trách nhiệm, không cần lo cho dân. Hắn chỉ biết thỏa mãn cái sở thích là đánh bạc, mặc cho dân lành chịu bao cảnh tang thương khổ sở vì đê vỡ là mất tất cả. Cái thái độ ấy đâu phải là một lúc, một thoáng chốc mà là bản chất, là lòng lang dạ thú của bọn quan lại vô nhân.
Như vậy, truyện “Sống chết mặc bay” đã giúp ta hiểu và cảm thông sâu xa với những bất hạnh của người dân dưới xã hội cũ. Đồng thời, chúng ta cũng hiểu ra bộ mặt quan lại bất nhân xưa kia.
Phân tích nhân vật quan phụ mẫu – Mẫu 4
Phạm Duy Tốn là cây bút viết truyện ngắn xuất sắc nhất của những năm đầu thế kỷ XX. Trong số những tác phẩm ông để lại, “Sống chết mặc bay” là truyện ngắn tiêu biểu hơn cả. Tác phẩm thể hiện rõ tinh thần nhân đạo thông qua việc lên án thái độ vô trách nhiệm, vô nhân tính không màng đến sự sống chết đối với người nông của giai cấp quan lại trong xã hội cũ. Đọc tác phẩm, người đọc thấy bất bình và căm ghét vô cùng nhân vật tên quan phủ – bậc quan “phụ mẫu” của dân.
Tác phẩm lấy bối cảnh là mùa lũ về trên làng X. Giữa đêm đen nông dân cực nhọc chống chọi với mưa lũ để cứu đê: “Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên to quá; khúc đê làng X thuộc phủ X xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đê thấm lâu rồi, không khéo thì vỡ mất”. Tính mạng người dân cả vùng đang bị đe dọa nghiêm trọng. Ai nấy cũng đều ra sức để chống lại với con đê sắp vỡ: “Kẻ thì thuổng, người thì cuốc, người đội đất, kẻ vác tre”.
Nhưng trong hoàn cảnh đó, viên quan phụ mẫu của dân đáng lẽ phải cùng nhân dân chống đỡ. Nhưng không, khi tất cả dân đen đang hối hả lo cho khúc đê thì quan đang chễm chệ trong đình – “Cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy cũng ở trong mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng chẳng việc gì”. Bên trong đình “đèn thắp sáng trưng”, “nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ đi lại nhộn nhịp”. Giữa cảnh vui vẻ, hoan lạc ấy, quan huyện trở thành trung tâm với phong thái đường bệ: “Quan phụ mẫu uy nghi chễm chệ ngồi”, “tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên cầm quạt lông chốc chốc sẽ phẩy. Tên đứng khoanh tay trực hầu điếu đóm. Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn, tráp đồi mồi, hai bên nào ống thuốc bạc, nào đồng hồ vàng và cơ man những vật dụng quý phái sang trọng khác”. Quan như không hề hay biết đến tình trạng thảm thương của dân chúng. Sự vô trách nhiệm ấy khiến người đọc bất bình và không hiếu tại sao lại có kẻ vô tình đến vậy. Là một người thường vô tâm với cảnh ngộ bi đát của dân chúng đã không đành, huống chi, đây lại là bậc quân dân!
Bản chất vô nhân đạo, lối sống “sống chết mặc bay” của tên quan huyện đã dần lộ rõ. Mưa gió và sinh mạng hàng ngàn con người không được quan chú ý bằng một trăm hai mươi lá bài đen đỏ. Không khí trong đình vẫn tĩnh mịch y trang, chỉ đôi khi nghe tiếng quan gọi “điếu mày”, tiếng “dạ”, tiếng “bốc”, “Bát sách! Ăn”, “Thất văn… phỗng”… Thú vui bài bạc, ma lực đỏ đen đã làm bọn quan lại đánh mất lương tri, nhân tính. Tác giả đã thật khéo léo khi sử dụng hình ảnh so sánh: “Nước sông dẫu nguy không bằng nước bài cao thấp” để thể hiện sự táng tận lương tâm của lũ vô lại. Cuối cùng, đê vỡ. Còn quan thì sung sướng vì ván bài “Ù to”. Khi quan sung sướng, cười hả hê, đắc chí thì cũng là lúc “nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết”. Đến đây, không còn là sự bất bình mà là nỗi căm ghét, oán hận đã trào dâng. Tên quan phụ mẫu quá là kẻ táng tận lương tâm, lòng lang dạ sói. Hắn tưởng như không còn chút tình người và tính người trong huyết quản.
Xây dựng hình ảnh nhân vật tên quan phụ mẫu, Phạm Duy Tốn muốn tố cáo lực lượng sai nha, chức sắc phong kiến với bản chất ích kỷ, tàn nhẫn đã không có chút trách nhiệm đối với cuộc sống của nhân dân. Chính điều đó đã làm nên giá trị hiện thực và nhân đạo cho bông hoa đầu mùa của truyện ngắn hiện đại Việt Nam.
Phân tích nhân vật quan phụ mẫu – Mẫu 5
Phạm Duy Tốn (1883 – 1924) là một trong nhà văn đầu tiên đặt nền móng cho thể loại truyện ngắn hiện đại. Dưới ngòi bút của ông, hình ảnh của những người dân lao động và cả chế độ của đất nước ta thời bấy giờ hiện lên một cách vô cùng chân thực. Đặc biệt là hình ảnh viên quan phụ mẫu – hình ảnh trung tâm của tác phẩm.
Ngay phần mở đầu, tác giả đã tập trung miêu tả một cảnh tượng hết sức cẩn trương và căng thẳng. Đó là hình ảnh của những người nông dân nhỏ bé đang cố gắng hết sức mình để giữ lấy đê ngăn không cho nước đập vỡ trong một buổi đêm trời mưa to gió lớn. Hàng nghìn những người nông dân chân lấm tay bùn không kể là ai đều phải cùng nhau chống lũ với những phương tiện hết sức thô sơ “người vác cuốc, người vác tre, kẻ bì bõm ướt như chuột lột cùng nhau gắng sức chống lại thiên tai, lũ lụt”.
Trong hoàn cảnh như vậy, bất cứ ai cũng đều cảm thấy khẩn trương và lo lắng thì điều đầu tiên mà người đọc cảm thấy tò mò chính là việc không thấy hình ảnh của những người quan phụ mẫu ở đâu. Thì ra quan phụ mẫu trong khi những người dân sức yếu hèn mọn với những công cụ thô sơ đang ra sức để giữ đê thì người quan lại đang chơi đánh bài. Bên cạnh quan là biết bao nhiêu người hầu quan chơi đánh bài: nào thầy đề, thầy thông, phán quan. Mọi người đều hầu quan chơi. Tác giả đã sử dụng biện pháp miêu tả trái ngược giữa cuộc sống của quan và của những người dân thấp hèn lúc bấy giờ. Khi những người dân đang cố gắng chống lại lũ lụt thì quan đang hưởng thụ sự sung sướng ở trong đình đầy sơn son thếp vàng. Khi những người dân đang khẩn trương, lo sợ nước sông Nhị Hà bị võ thì quan đang sung sướng vì đã ù được mấy ván bài liên tiếp.
Hình ảnh của viên quan hiện lên làm cho tất cả chúng ta cùng cảm thấy phẫn nộ. Đáng lẽ, quan phải là cha, là mẹ của những người nông dân chân yếu tay mềm thì quan lại không hề để ý tới cuộc sống của con dân mình. Hắn là một kẻ vô tâm, ích kỷ, chỉ biết nghĩ tới bản thân mình. Trong những lúc nước sôi lửa bỏng như vậy mà hắn lại không hề nghĩ tới những con người ngoài kia, hắn đang chờ cho ván bài tới của hắn. Khi có người báo đê sắp vỡ, hắn cũng bỏ ngoài tai tất cả, không hề quan tâm chút nào, chỉ mải giục những người đang chơi cùng ra ván bài nhanh lên. Ngay cả những kẻ vốn cũng là những người có học như thầy đồ, thầy phán cũng không hề nói mà chỉ hùa nhau nịnh bợ quan, giúp cho quan vui vẻ. Thế mới thấy đắng cay làm sao cho số phận của những người dân.
Hình ảnh của những người quan phụ mẫu như vậy chính là những con sâu mọt trong xã hội phong kiến xưa. Đó chính là những kẻ vô lương tâm và ích kỉ nhất. Đáng lẽ ra những người quan phải là những người biết yêu thương con dân của mình, chăm lo cho cuộc sống của con dân thì lại không hề có bất cứ một hành động gì thể hiện được điều đó. Với chúng, điều quan trọng chỉ là cách hưởng thụ cuộc sống sao cho tốt nhất mà thôi. Điều đó khiến cho những người dân lao động thấp cổ bé họng đã phải chịu biết bao những điều khó nhọc và vất vả. Đáng lẽ họ được nhận sự quan tâm và chăm sóc từ những người quan phụ mẫu thì nay những người đó lại càng áp bức và bóc lột họ nhiều hơn ai hết để cuối cùng khi quan có được ván bài ù to nhất cũng là lúc người dân phải chịu cảnh mất mát và đau khổ nhất.
Với hình ảnh của người quan phụ mẫu, tác giả đã cho thấy hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong kiến xưa cùng những khó khăn mà những người nông dân đã phải chịu đựng. Đồng thời cũng khiến cho người đọc càng thêm căm ghét những người đã khiến cho nhân dân rơi vào cảnh khó khăn như lúc này.
Phân tích nhân vật quan phụ mẫu – Mẫu 6
Văn xuôi quốc ngữ buổi đầu đã có sự đóng góp của Phạm Duy Tốn. Truyện ngắn “Sống chết mặc bay” của ông là một trong những thành tựu của dòng văn học hiện thực thuở sơ khai.
Mở đầu tác phẩm là hình ảnh “khúc đê làng X, thuộc phủ X có hai, ba đoạn nước đã rỉ ra ngoài”. Trong khi nước sông Nhị Hà cứ dâng lên cao, nên có nguy cơ vỡ đê. Bên ngoài chống dội lên từng hồi, hàng trăm người vật lộn với thiên nhiên từ chiều đến gần một giờ đêm để bảo vệ con đê. Trời thì cứ mưa tầm tã không ngớt, nước sông cứ cuồn cuộn dâng cao, sức người như đã kiệt, thế mà trong đình, đèn thắp sáng trưng, quan ngồi chễm chệ uy nghi. Quân lính đứng hầu cạnh nào gãi, nào quạt, nào điếu đóm. Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường để trong khay khảm khói nghi ngút. Quanh sập, có đủ mặt thầy đề, thầy đội, thầy thông nhì, chánh tổng sở tại. Tất cả đang tụ họp để vui chơi tổ tôm. Cảnh tượng này hoàn toàn đối lập với cảnh ngoài đê trăm họ đang vất vả lấm láp, gội gió tắm mưa, như đàn sâu lũ kiến ở trên đê.
Rõ ràng qua hai cảnh được dựng lên ta thấy rằng đây là một viên quan vô trách nhiệm trước sự sống chết của hàng trăm con người. Mưa bão và sinh mạng hàng ngàn con dân không bằng một trăm hai mươi lá bài. Không khí trong đình vẫn im lặng, chẳng có chút không khí vỡ đê, đắp đê nào cả chỉ đôi khi nghe tiếng quan gọi “điếu mày”, tiếng “dạ”, tiếng “bốc”, “Bát sách! Ăn…” Quan sung sướng, cười hả hê, đắc chí và cũng chính lúc ấy “nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết”…
Qua truyện ngắn “Sống chết mặc bay”, tác giả thêm đồng cảm sâu sắc với nỗi thống khổ của người nông dân trong xã hội cũ. Cũng như hiểu được bộ mặt thật của bọn tham tham quan mà xã hội thời nào cũng cần phải thanh lọc. Truyện ngắn “Sống chết mặc bay” có giá trị hiện thực thời đại sâu sắc.
Phân tích nhân vật quan phụ mẫu – Mẫu 7
Trước cách mạng Tháng Tám, cuộc sống của con người luôn rơi vào cảnh khốn khổ, lầm than. Điều đó đã được thể hiện trong truyện ngắn “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn. Nhưng nổi bật nhất trong truyện là hình ảnh viên quan phụ mẫu.
Chắc hẳn chỉ cần đọc qua nhan đề của truyện thôi chúng ta cũng có thể hình dung ra được phần nào nội dung câu chuyện. Thân làm quan, là người được ăn trên ngồi chốc, là người sống bằng thuế máu của dân đáng lẽ ra phải chăm lo cho đời sống nhân dân. Nhưng sau cùng thì dân có thân dân tự lo, quan giàu sang quan hưởng thụ.
Câu chuyện được bắt đầu với những chi tiết đáng lo ngại về tình trạng của một con đê. “Gần một giờ đêm, trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà lên lên to quá, khúc đê làng X, thuộc phủ X xem chừng núng thế lắm, hai ba đoạn đã thầm lậu rồi, không khéo thì vỡ mất”. Đứng trước tình cảnh nguy thế này hàng trăm con người cố gắng, dốc hết sức mình, người cầm thuổng, kẻ cầm cuốc, đội đất, vác tre, lặn lội bì bõm dưới bãi bùn lầy ướt như chuột lột để cứu vớt con đê đang trên mức báo động.
Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng sức người nào có địch được với sức trời. Mặc người người kiệt sức, mệt lả đi, mặc cho không gian đang hỗn độn bởi tiếng tiếng trống, tiếng ốc thổi liên hồi nhưng thiên nhiên hung dữ vẫn tiếp tục công việc của nó, mưa vẫn trút xuống tầm tã, mực nước dưới sông nhanh chóng dâng lên khiến tình thế nguy càng thêm nguy. Nếu cứ như thế này thì con đê rơi vào tình huống nguy kịch mất, mạng sống của hàng trăm nghìn con người nhỏ bé sẽ bị chôn vùi trong nước lũ.
Những lúc như thế này thật sự cần một người lãnh đạo, cần một nguồn lực to lớn để bảo vệ con đê, duy trì sinh tồn của con người. Thế nhưng ngoài những con người chân lắm tay bùn nghèo khổ đang vật vã chống chọi để tìm đường sống thì không có một ai hỗ trợ hay giúp đỡ. Gần con đê, cách đó khoảng bốn năm trăm thước có một ngôi đình, nó cũng nằm trên mặt đê nhưng cao và vững chãi, nếu con đê chẳng may có vỡ thì cũng chẳng hề tổn hại một chút nào gì đến. Và nơi cao ráo, an toàn đó là chỗ mà quan phụ mẫu, người được là cha mẹ dân đang an nhàn hưởng thụ cuộc sống phú quý của mình.
Mặc nhân dân người vật vã, kẻ giãy dụa quằn quại thì đó cũng chẳng là việc của quan. Viên quan phụ mẫu mải mê chơi tổ tôm với đám quan lại dưới quyền và được sai nha, lính lệ hầu hạ, cung phụng đến nơi đến chốn. Giọng điệu đậm chất mỉa mai, châm biếm và phẫn uất. Vị quan phụ mẫu cũng đích thân chỉ đạo việc hộ đê đấy chứ, nhưng không phải là ra cùng với nhân dân mà hắn ta ở trong đình, không gian ấm áp với những món ăn sang trọng, xa hoa: “đèn thắp sáng trưng, nha lệ, lính tráng đi lại rộn ràng”. Quan phụ mẫu thì “uy nghi chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra để cho tên người nhà ngồi dưới đất mà gãi”. Quan phụ mẫu là vậy, nhưng xung quanh hắn ta lại có đủ “thầy đề, thầy đội nhất, thầy thông nhì và chánh tổng” cùng ngồi hầu bài. Cả một hệ thống quan lại ăn bổng lộc của dân nhưng lại mảy may, dửng dưng trước sự sống còn của họ. Khung cảnh ở đây dường như không có chút liên quan nào so với tình hình hộ đê của nhân dân. Trong khi ngoài kia “mưa gió ầm ầm, dân phu rối rít, trăm họ đang vất vả lấm láp, gội gió tắm mưa như đàn sâu lũ kiến ở trên đê” thì trong đình, dù chỉ là một cuộc tổ tôm thôi nhưng tên quan kia vẫn duy trì trật tự trên dưới và không khí tôn nghiêm như chốn công đường. Sự đam mê cờ bạc của đám quan lại diễn ra ngay trên mặt đê, ngay trên mạng sống của hàng nghìn con dân đã cho thấy sự độc ác, vô liêm sỉ của kẻ cầm quyền. Nỗi đau đẩy lên đến đỉnh điểm khi mà khoảnh khắc đê vỡ – nỗi đau đớn, mất mát của nhân dân lại cũng là lúc ván bài của quan ù to – quan vỗ đùi sung sướng. Còn gì uất hận hơn khi những nỗi đau ấy còn thua cả niềm vui của một ván bài. Khung cảnh vỡ đê được tác giả miêu tả thật chi tiết và chua xót biết bao nhiêu: “Ấy, trong khi quan lớn ù ván bài to như thế, thì khắp nơi mọi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết, kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết”.
Khép lại tác phẩm ta như vẫn còn nghe được tiếng la hét, tiếng kêu thảm thiết của những người dân nghèo khổ, họ là những con người nhỏ bé đầy đáng thương và bị chà đạp dã man bởi giai cấp thống trị. Những đau thương này rồi sẽ đến hồi kết, thật vậy con người đã sát cánh cùng nhau đứng lên chống lại bọn cầm quyền vô tâm, hách dịch khi được ánh sáng của Đảng soi đường chỉ lối.
Qua “Sống chết mặc bay”, hình ảnh viên quan phụ mẫu “lòng lang dạ thú” hiện lên đầy chân thực.
Phân tích nhân vật quan phụ mẫu – Mẫu 8
“Nhân vật là trụ cột của truyện ngắn” (Tô Hoài). Qua nhân vật, nhà văn không chỉ gửi gắm tư tưởng, tình cảm, thái độ yêu, ghét mà còn thể hiện tài năng nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo của mình. Đến với truyện ngắn Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn, có thể nhận ra một trong những nhân vật chính, gửi gắm tư tưởng và tài năng của tác giả chính là hình ảnh viên quan phủ đi hộ đê.
Hình ảnh quan phủ không xuất hiện ngay từ đầu tác phẩm mà mở đầu tác phẩm lại là cảnh hàng trăm nghìn dân phu “chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem thân hèn yếu mà đối phó với sức mưa to nước lớn, để bảo vệ lấy tính mạng gia tàu”. Chính trong cảnh tượng trăm dân đang ở cảnh màn trời chiếu đất ấy thì quan phủ đang ở đâu? Ống kính nghệ thuật của nhà văn quay cận cảnh “trong đình, đèn thắp sáng trưng; nha lệ lính tráng, kẻ hầu người lạ, đi lại rộn ràng”.
Còn “quan phụ mẫu” của chúng ta thì “uy nghi chễm chệ ngồi” trên sập, “tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên, cầm cái quạt lông, chốc chốc sẽ phẩy. Tên nữa đứng khoanh tay, chực hầu điều đóm”. Chỉ bằng vài nét phác họa khung cảnh đó, dáng điệu đó, ta đã có thể đoán được cuộc sống phong lưu, phú quý và thảnh thơi của quan phủ trong khi làm nhiệm vụ hộ đê.
Thêm nữa, ngòi bút nhà văn còn khắc họa sâu hơn, chi tiết hơn những đồ vật trong căn phòng của quan phủ: “Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn, để trong khay khảm, khói bay nghi ngút, tráp đôi môi chữ nhật để mở, trong ngăn bạc đầy những trầu vàng, cau đậu, rễ tía, hai bên nào ống thuốc bạc, nào đồng hồ vàng, nào dao chuối ngày nào ống vôi chạm, ngoáy tai, lí thuốc, quản bút, tăm bông…”.
Không chỉ miêu tả khung cảnh để làm nổi bật địa vị và tính cách nhân vật, tác giả còn tập trung miêu tả ngôn ngữ của nhân vật quan phụ mẫu. Nhân vật không nói nhiều, chỉ thỉnh thoảng cất lời, mà hầu hết là những mệnh lệnh đầy oai vệ, uy nghiêm với bọn nha lại, lính lệ và thầy đề, chánh tổng. Khi thì là lời ra lệnh quyền uy: “Điếu, mày!”. Khi thì là với thầy để lại: “Có ăn không thì bốc chứ!”, rồi: “Thì bốc đi chứ!”. Đặc biệt, tác giả xoáy vào dáng điệu, thái độ và lời quát lác đầy giận dữ của quan lớn khi có một người dân quê xông vào báo tin đê vỡ: “Để vỡ rồi! … Để vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không?… Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à? Đuổi cổ nó ra!”.
Đỉnh cao kịch tính của truyện là ở chi tiết kết truyện, khắc họa hình ảnh quan phủ khi bài của quan ù to:
“Quan lớn vỗ tay xuống sập kêu to:
– Đây rồi! … Thế chứ lại! Rồi ngài vội vàng xòe bài, miệng vừa cười vừa nói:
– Ừ! Thông tôm, chi chi nảy!… Điếu, mày!”
Và “trong khi quan lớn ù oán bài to như thế thì khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ…”. Quả là một nghịch cảnh vừa đau thương, vừa đáng căm giận. Như vậy, quan phụ mẫu hiện lên rõ nét trong tác phẩm không chỉ bộc lộ thái độ bàng quan, vô trách nhiệm mà còn phơi bày bản chất tàn ác, bất nhân, “lòng lang dạ thú”. Là “cha mẹ dân” nhưng quan phủ lại coi tính mạng và tài sản của muôn dân không bằng một lá bài của hắn.
Đặt nhân vật vào những tình huống mang tính xung đột, nguy cấp, đầy kịch tính để cho nhân vật tự bộc lộ thái độ và cách hành xử, Phạm Duy Tốn đã thể hiện một cây bút trần thuật sắc sảo, chín chắn, mang đậm dấu ấn của nghệ thuật văn chương hiện đại phương Tây thế kỉ XX.
Hơn hết, qua những nét khắc họa chân dung nhân vật quan phủ, nhà văn đã thể hiện thái độ căm giận, lên án gay gắt quan phủ, hay cũng chính là điển hình cho một bộ phận quan lại phong kiến nửa đầu thế kỉ XX, vừa vô trách nhiệm, vừa bất nhân, sẵn sàng chà đạp lên muôn dân lầm than để hưởng thụ cuộc sống xa hoa ích kỉ. Cái tựa đề “Sống chết mặc bay” của tác phẩm cũng chính là lời nói, là thái độ của quan phụ mẫu đối với người dân khốn cùng trong cảnh thiên tai địch họa, nước mất nhà tan.
Với Sống chết mặc bay, Phạm Duy Tốn được ghi nhận là một trong những nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc ở những năm hai mươi của thế kỉ XX, là người đặt nền móng vững chắc cho trào lưu văn học hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1930-1945 với những tác giả nổi bật như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng.
Phân tích nhân vật quan phụ mẫu – Mẫu 9
Qua truyện ngắn “Sống chết mặc bay”, nhà văn Phạm Duy Tốn đã khắc họa hình ảnh tên quan phủ “lòng lang dạ thú” một cách chân thực.
Nhà văn đã mở đầu bằng một tình huống vô cùng căng thẳng, lôi cuốn người đọc: “Gần một giờ đêm, không gian (địa điểm) là khúc đê làng X, thuộc phủ X”, “trời mưa tầm tã, nước càng ngày càng dâng cao”, “hai ba đoạn nước đã ngấm qua và rỉ chảy đi nơi khác”. Trong tình cảnh đó nhân dân đã phải ra sức chống đỡ từ chiều cho đến gần một giờ sáng. Với sự tham gia của hàng trăm người vất vả, cố sức giữ đê: kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, người vác tre, nào đắp, nào cừ… Khung cảnh náo loạn với tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ nhưng ai cũng đã mệt lử cả rồi. Không khí thì luôn trong tình trạng khẩn trương, gấp gáp (trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi…).
Trong tình cảnh đó, nhiều người tự hỏi rằng quan phụ mẫu đang ở nơi đây. Thì ngay lập tức, Phạm Duy Tốn đã cho người đọc biết được câu trả lời. Nhà văn đã khắc không khí trong đình lại thật yên bình. Bởi đình nằm trên mặt đê, vững chãi và an toàn lắm. Trong đình lúc này, đèn thắp sáng trưng, khói bay nghi ngút. Nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ đi lại rộn ràng. Còn quan phủ cùng nhau lại đánh tổ tôm: “quan phụ mẫu uy nghi chễm chệ ngồi trên sập, say mê đánh tổ tôm”. Thì ra, viên quan phụ mẫu đang ngồi chơi bài.
Thậm chí khi có người chạy vào báo con đê sắp vỡ. Ông ta cũng không hề lo lắng mà còn “cau mặt, gắt: mặc kệ!”. Rồi sau đó vẫn không ngừng việc chơi bài. Khung cảnh trong đình thật náo nhiệt “thỉnh thoảng nghe tiếng quan phụ mẫu gọi: “Điếu, mày”; tiếng tên lính thưa: “Dạ”; tiếng thầy đề hỏi: “Bẩm, bốc”; tiếng quan lớn truyền: “Ừ”. Kẻ này: “Bát sách! Ăn”. Người kia: “Thất văn… Phỗng”, lúc mau, lúc khoan, ung dung êm ái, khi cười, khi nói vui vẻ dịu dàng. Thật là tôn kính, xứng đáng với một vì phúc tinh…”. Có thể thấy, hình ảnh một tên quan là kẻ vô trách nhiệm, thờ ơ trước nỗi khổ của nhân dân.
Đặc biệt nhất là ở cuối truyện, khi quan lớn đang sung sướng vì ván bài ù to, thì cũng là lúc ngoài kia con đê đã vỡ. Nếu người dân rơi vào tình cảnh sầu thảm. Thì viên quan phụ mẫu lại sung sướng vì đã thắng được ván bài. Thế mới thấy rõ được sự thờ ơ, vô trách nhiệm của bậc làm “cha mẹ” nhân dân.
Như vậy, “Sống chết mặc bay” là một trong những tác phẩm thành công. Nhân vật viên quan phụ mẫu chính là một đại diện điển hình của những kẻ cầm quyền trong xã hội xưa.
Phân tích nhân vật quan phụ mẫu – Mẫu 10
Tác phẩm “Sống chết mặc bay” của nhà văn Phạm Duy Tốn đã khắc họa hình ảnh viên quan “lòng lang dạ thú” – chính là đại diện cho giai cấp cầm quyền trong xã hội xưa.
Phạm Duy Tốn đã sử dụng nghệ thuật đối lập để làm hiện lên bức chân dung của bậc quan phụ mẫu. Trong khi ngoài đê, hàng trăm người dân vẫn đang vật lộn với thiên nhiên để ra sức bảo vệ con đê sắp vỡ. Thì ở trong đình, viên quan phụ trách việc hộ đê lại đang ung dung ngồi đánh bài tổ tôm.
Khung cảnh trong đình hiện lên thật yên bình và tráng lệ, khác hẳn với sự khẩn trương, gấp gáp ở ngoài đê: “Trong đình, đèn thắp sáng trưng, khói bay nghi ngút. Nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ đi lại rộn ràng”. Hình ảnh quan lớn hiện lên rất cụ thể: “Trên sập; mới kê ở gian giữa, có một người quan phụ mẫu, uy nghi chễm chệ ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi…”. Xung quanh quan có đủ kẻ hầu người hạ từ thầy đề, thầy đội nhất, thầy thông nhì và chánh tổng cùng ngồi hầu bài: “Một tên lính lệ đứng bên, cầm cái quạt lông, chốc chốc sẽ phẩy. Tên nữa đứng khoanh tay, chực chầu điếu đóm”. Cuộc sống của quan cũng thật an nhàn, hưởng lạc: “Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn, để trong khay khảm, khói bay nghi ngút, tráp đồi mồi chữ nhật để mở, trong ngăn bạc đầy những trầu vàng, cau đậu, rễ tía, hai bên nào ống thuốc bạc, nào đồng hồ vàng, nào dao chuôi ngà, nào ống vôi chạm, ngoáy tai, ví thuốc, quản bút, tăm bông trông mà thích mắt…”. Có thể thấy rằng quan phụ mẫu đang rất nhàn hạ, ung dung và không mảy may quan tâm đến tình cảnh thảm thương của dân chúng đang diễn ra ngoài đê.
Đặc biệt nhất là khi con đê bị vỡ. Nước tràn lênh láng, khắp nơi, nhà cửa trôi còn ruộng lúa má ngập hết. Kẻ sống không có chỗ để ở, còn kẻ chết thì không có nơi để chôn. Nhưng ở trong đình, vị quan phụ mẫu lại đang sung sướng vì sắp ù được ván bài. Khi có người chạy vào báo đê đã vỡ, quan lớn đỏ mặt tía tai, quay ra quát rằng: “Đê vỡ rồi!… Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không?… Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à?…”. Sự vô cảm, độc ác đã được đẩy lên đỉnh điểm. Khi dân chúng phải đối mặt với cái chết, thì quan lớn lại sung sướng vì ù được ván bài: “Đến khi ván bài ù, quan vỗ tay xuống sập kêu to. Ngài xòe bài, miệng vừa cười vừa nói: “Ù! Thông tôm, chi chi nảy! Điếu mày!”.
Qua hình ảnh viên quan phụ mẫu, Phạm Duy Tốn đã thể hiện một cái nhìn chân thực về một bộ máy chính quyền quan lại trong xã hội xưa.