Văn bản Phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số Việt Nam ngày xưa được tìm hiểu trong chương trình học môn Ngữ văn. Vì vậy, Download.vn cung cấp tài liệu Bài văn mẫu lớp 7: Tóm tắt văn bản Phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số Việt Nam ngày xưa.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 7: Tóm tắt văn bản Phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số Việt Nam ngày xưa
Tài liệu gồm 4 mẫu tóm tắt lớp 7. Bạn đọc hãy cùng theo dõi để có thể nắm được nội dung của văn bản, cũng như biết cách tóm tắt văn bản theo đội dài khác nhau.
Đề bài: Tóm tắt văn bản “Phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số Việt Nam ngày xưa” theo hai yêu cầu 5 – 6 dòng và 10 – 12 dòng.
Tóm tắt Phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số Việt Nam ngày xưa
Dàn ý tóm tắt văn bản Phương tiện vận chuyển
1. Mở đầu
– Nêu nội dung chính của văn bản Phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số Việt Nam ngày xưa.
2. Nội dung chính
– Phương tiện vận chuyển của các dân tộc miền núi phía Bắc
- Di chuyển bằng cách đi bộ là chính
- Một số tộc người sinh sống ở ven sông Đà, sông Mã… sử dụng thuyền vận chuyển
- Người Sán Dìu dùng xe quệt trâu kéo để vận chuyển
- Người Mông, Hà Nhì, Dao,… thường dùng sức ngựa để vận chuyển
– Phương tiện vận chuyển của các dân tộc ở Tây Nguyên
- Người Tây Nguyên dùng sức voi, sức ngựa vào việc vận chuyển
- Các buôn, làng ở ven sông suối lớn sử dụng thuyền độc mộc.
3. Kết thúc
Tên tài liệu tham khảo.
Dàn ý tóm tắt văn bản Phương tiện vận chuyển
- Mở đầu
– Nêu nội dung chính của văn bản Phương tiện vận chuyển của các dân tộc thiểu số Việt Nam ngày xưa.
- Nội dung chính
– Phương tiện vận chuyển của các dân tộc miền núi phía Bắc
- Di chuyển bằng cách đi bộ là chính
- Một số tộc người sinh sống ở ven sông Đà, sông Mã… sử dụng thuyền vận chuyển
- Người Sán Dìu dùng xe quệt trâu kéo để vận chuyển
- Người Mông, Hà Nhì, Dao,… thường dùng sức ngựa để vận chuyển
– Phương tiện vận chuyển của các dân tộc ở Tây Nguyên
- Người Tây Nguyên dùng sức voi, sức ngựa vào việc vận chuyển
- Các buôn, làng ở ven sông suối lớn sử dụng thuyền độc mộc.
- Kết thúc
Tên tài liệu tham khảo.
Tóm tắt văn bản 5 – 6 dòng
Mẫu số 1
Trong khoảng thế kỉ X – XVIII, các dân tộc miền núi phía Bắc chủ yếu di chuyển theo cách đi bộ. Một số dân tộc đã xuất hiện các cách vận tải, di chuyển dựa vào các phương tiện khác như: Người La Ha, Thái dùng thuyền, bè, mảng; người Sán Dìu dùng xe quệt trâu; Người Mông, Hà Nhì, Dao thương cưỡi ngựa và vận chuyển đồ đạc, hàng hóa hay đi chợ. Đối với các dân tộc ở Tây Nguyên, họ chủ yếu dùng sức voi, ngựa để vận chuyển. Sống ở khu vực sông suối nhưng họ không giỏi bơi lội, nên thường sử dụng thuyền độc mộc.
Mẫu số 2
Mỗi vùng lại có phương tiện vận chuyển khác nhau. Từ thế kỉ X đến XVIII, dân tộc miền núi phía Bắc di chuyển bằng cách đi bộ. Một số dân tộc di chuyển dựa vào các phương tiện khác như: Người La Ha, Thái dùng thuyền, bè, mảng; người Sán Dìu dùng xe quệt trâu; Người Mông, Hà Nhì, Dao thương cưỡi ngựa và vận chuyển đồ đạc, hàng hóa hay đi chợ. Dân tộc ở Tây Nguyên dùng sức voi, ngựa để vận chuyển.
Tóm tắt văn bản 10 – 12 dòng
Mẫu số 1
Vào khoảng thế kỉ X – XVIII, các dân tộc miền núi phía Bắc di chuyển bằng cách đi bộ. Một số tộc người sinh sống ven sông Đà, sông Mã hay sông Lam đã biết đóng thuyền và sử dụng thuyền để vận chuyển, lưu thông trên sông suối lớn. Từ xa xưa, người Thái, người Kháng thường chế tạo và sử dụng thuyền đuôi én. Người Kháng thường sinh sống ở các địa phương ven sông Đà, tương đối giỏi trong việc chế tạo thuyền độc mộc, sử dụng thuyền độc mộc để nuôi én. Người Sán Dìu lại dùng xe quệt trâu để vận chuyển. Người Mông, Hà Nhì, Dao thường cưỡi ngựa và vận chuyển đồ đạc, hàng hóa hay đi chợ. Các dân tộc vùng Tây Nguyên thường dùng sức voi, sức ngựa vào việc vận chuyển, nhất là người Gia-rai, Ê-đê, Mnông. Sống ở khu vực sông suối nhưng họ không giỏi bơi lội, nên thường sử dụng thuyền độc mộc. Việc dùng thuyền trên sông ở Tây Nguyên chỉ phổ biến với đàn ông, phụ nữ ít tham gia vào loại hình vận chuyển, đi lại này.
Mẫu số 2
Khoảng thế kỉ X – XVIII, đi bộ là cách di chuyển chủ yếu của các đồng bào dân tộc miền núi phía Bắc. Một số tộc người sinh sống ven sông Đà, sông Mã hay sông Lam đã biết đóng thuyền để vận chuyển, lưu thông trên sông suối lớn. Người Kháng sinh sống chủ yếu ở các địa phương ven sông Đà, chế tạo thuyền độc mộc, sử dụng thuyền độc mộc để nuôi én. Người Sán Dìu lại dùng xe quệt trâu để vận chuyển hàng hóa, đồ dùng. Người Mông, Hà Nhì, Dao thường cưỡi ngựa và vận chuyển đồ đạc, hàng hóa hay đi chợ. Các dân tộc vùng Tây Nguyên hiếm khi dùng trâu như ở phía Bắc mà họ sẽ dùng sức voi, sức ngựa vào việc vận chuyển, nhất là người Gia-rai, Ê-đê, Mnông. Họ không giỏi bơi lội, nên thường sử dụng thuyền độc mộc để vận chuyển, lưu thông trên sông. Thuyền độc mộc của họ không khác nhiều so với thuyền độc mộc của các dân tộc miền núi phía Bắc. Nhưng chủ yếu đàn ông mới dùng thuyền còn phụ nữ ít tham gia vào loại hình vận chuyển, đi lại này.