Văn mẫu lớp 8: Cảm nhận về hình ảnh ngọn lửa diêm trong truyện Cô bé bán diêm

Văn mẫu lớp 8: Cảm nhận về hình ảnh ngọn lửa diêm trong truyện Cô bé bán diêm

TOP 5 bài Cảm nhận về hình ảnh ngọn lửa diêm trong truyện Cô bé bán diêm của An-đéc-xen, kèm theo dàn ý chi tiết. Qua đó, giúp các em học sinh lớp 8 có cái nhìn sâu sắc hơn về hình ảnh ngọn lửa đặc biệt này.

Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 8: Cảm nhận về hình ảnh ngọn lửa diêm trong truyện Cô bé bán diêm

Văn mẫu lớp 8: Cảm nhận về hình ảnh ngọn lửa diêm trong truyện Cô bé bán diêm

Những ngọn lửa diêm mà cô bé quẹt lên để sưởi ấm giữa đêm đông giá lạnh gợi nhắc về quá khứ tươi đẹp, cùng những ước mơ, hy vọng và niềm tin vào những điều tốt đẹp trong tương lai. Mời các em cùng tải miễn phí bài viết để ngày càng học tốt môn Văn 8:

Cảm nhận về hình ảnh ngọn lửa diêm trong truyện Cô bé bán diêm

    Dàn ý Cảm nhận về hình ảnh ngọn lửa diêm

    1. Mở bài

    • Giới thiệu về tác giả An-đéc-xen và tác phẩm “Cô bé bán diêm”
    • Giới thiệu về hình ảnh ngọn lửa diêm.

    2. Thân bài

    a. Hoàn cảnh của cô bé bán diêm

    • Mẹ mất sớm, ở với người bố bạo lực.
    • Hàng ngày phải đi bán diêm để kiếm sống.

    b. Ngọn lửa diêm chính là ngọn lửa sưởi ấm cô bé trong đêm đông giá rét

    • Trong đêm giao thừa lạnh giá, vì chưa bán hết diêm nên cô bé không dám về nhà.
    • Vì quá lạnh, cô đã quẹt diêm để sưởi cho đỡ lạnh.

    c. Ngọn lửa thể hiện ước mơ của cô bé đáng thương, tội nghiệp

    • Que diêm thứ nhất sáng lên, em bé tưởng chừng như đang ngồi trước lò sưởi bằng sắt toả ra hơi ấm dịu dàng. → Đây là mong ước giản dị nhưng lại xa vời đối với em bé.
    • Ngọn lửa từ que diêm thứ hai đã giúp em nhìn thấu và tận trong nhà, nơi có bàn ăn thịnh soạn, có ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao, phuốc-sét cắm trên lưng tiến về phía mình. → Em bé muốn có một bữa ăn để có sức chống chọi với cái rét.
    • Que diêm thứ ba phát sáng, em bé thấy một cây thông Nô-en lộng lẫy, những ngọn nến sáng rực, lấp lánh. → Em bé muốn được vui chơi trong đêm giao thừa như bao đứa trẻ khác.
    • Que diêm thứ tư sáng lên cũng là lúc em bé nhìn thấy bà đang mỉm cười với mình. → Em mơ ước được sống bên người bà hiền hậu.
    • Hình ảnh ngọn lửa diêm tượng trưng cho ước muốn hạnh phúc, ấm no dưới mái nhà tràn ngập tình yêu thương của em bé.
    • Những ngọn lửa ấy cũng gợi sự đau xót cho bạn đọc khi nhớ về cuộc đời của em bé bán diêm xấu số.
    • Hình ảnh ngọn lửa cũng thể hiện tiếng nói nhân đạo của nhà văn.

    3. Kết bài

    • Khái quát ý nghĩa hình ngọn lửa trong tác phẩm.

    Cảm nhận về hình ảnh ngọn lửa diêm – Mẫu 1

    Bằng nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, với các tình tiết diễn biến hợp lí đan xen giữa hiện thực và mộng tưởng. Tác phẩm “Cô bé bán diêm” của An-đéc-xen đã truyền cảm hứng thật sâu sắc với người đọc, khiến cho chúng ta khơi dậy lòng cảm thương với một cô bé bất hạnh. Trong câu chuyện, ta không chỉ cảm động bởi hoàn cảnh bất hạnh của cô bé mà hình ảnh những ngọn lửa diêm cũng là một biểu tượng quan trọng.

    Trong đêm giao thừa, cô bé bán diêm đã phải chịu đói chịu rét cả một ngày không có gì cho vào bụng, thế nhưng em lại không dám về nhà vì cả ngày không bán được bao diêm nào, cha em sẽ đánh em. Em đành lang thang trên vỉa hè, ngồi vào một xó tường để chống lại với cái rét, cái đói cuối cùng. Vì quá lạnh mà em đã liều lấy bao diêm ra quẹt, em vẫn quẹt dù biết như thế sẽ làm hỏng hết các bao diêm và sẽ bị cha đánh, nhưng vì quá rét nên em muốn quẹt chúng lên, hi vọng chúng sẽ sưởi ấm cho em, sưởi ấm cả về thân thể lẫn tâm hồn.

    Trong đêm ấy, cô bé bán diêm đã quẹt bốn que diêm, trước hết ta cần nhận ra rõ ràng rằng, những que diêm này sáng lên với ý nghĩa rất thực tế, nó giúp cho cô bé xua tan đi phần nào cái lạnh giá của đêm đông tuyết trắng. Trong cái giá lạnh xé da xé thịt ấy, cùng với cái bụng trống rỗng, chỉ một ngọn lửa diêm bé nhỏ, le lói thôi cũng đủ để cho em cảm nhận cái ấm, đối với em trong thời khắc đó, những ngọn lửa diêm là thứ xa xỉ nhất em đang có. Bên cạnh ý nghĩa sưởi ấm, trong cảm nhận và hình dung của cô bé thì mỗi ngọn lửa diêm lại phản chiếu chính ước mơ của em, những ước mơ rất thuần khiết và trong sáng đã xuất hiện theo ánh sáng của ngọn lửa diêm.

    Quẹt que diêm đầu tiên, em nhìn thấy hình ảnh lò sưởi to lớn, ấm áp hiện ra ngay trước mặt em, thật nhiệm màu và kì diệu, em chưa dám tin vào mắt mình, em vui sướng và ngọn lửa ấy đã nhen nhóm niềm hạnh phúc của em. Em tiếp tục quẹt que diêm thứ hai, ngọn lửa diêm sáng lên, hình ảnh bàn tiệc thịnh soạn cùng với cả một con ngỗng quay đã đặt sẵn trên bàn như đang chờ đợi em, đó chắc hẳn là bù đắp cho cả một ngày em chịu đói, và cả những tháng ngày em sống khổ cực.

    Que diêm thứ ba sáng lên, đồng nghĩa với việc thắp lên ước mơ nhìn thấy cây thông noel to lớn rực rỡ, và rồi tới que diêm thứ tư đã mang lại cho em hình ảnh của người bà yêu dấu, mang lại cho em tình yêu thương mà em mong mỏi nhất, ước ao nhất, bà sẽ che chở và cho em tất cả những thứ em muốn. Que diêm cuối cùng đã tắt, em cũng đã được bên bà mãi mãi, chấm dứt cái lạnh cái đói và những khổ cực bất hạnh nơi cuộc sống hiện tại, em mỉm cười đi theo Thượng đế lên thiên đàng, bắt đầu một cuộc sống tươi đẹp hơn.

    Những ngọn lửa diêm đã tượng trưng cho những ước mơ của cô bé, tuy nhiên những khoảnh khắc ấy vô cùng ngắn ngủi, chợt rực sáng lên rồi bỗng vụt tắt. Bởi vậy ánh sáng của ngọn lửa diêm là ánh sáng của ước mơ, hi vọng và niềm tin của em vào những điều tốt đẹp.

    Cảm nhận về hình ảnh ngọn lửa diêm – Mẫu 2

    Ai đã từng đọc Cô bé bán diêm của nhà văn Đan Mạch An-đéc-xen hẳn sẽ không thể nào quên những ánh lửa diêm nhỏ nhoi bùng lên giữa đêm giao thừa giá rét gắn với một thế giới mộng tưởng thật đẹp của cô bé nghèo khổ. Kết cục câu chuyện thật buồn nhưng sức ám ảnh của những giấc mơ tuyệt đẹp vẫn ắp đầy tâm trí người đọc, người nghe qua những lời kể và sự miêu tả rất cuốn hút của An-đéc-xen…

    Trong bóng tối và cái rét cắt thịt da của xứ sở Đan Mạch, ta như nhìn thấy rõ một cô bé đôi môi tím tái, bụng đói cồn cào đang lần từng bước chân trần trên hè phố. Một cô bé mồ côi khốn khổ, không dám về nhà vì chưa bán được bao diêm nào thì sẽ bị cha đánh. Nhà văn đã tạo ra cảm giác thật sống động khi ông nhập vào những khoảnh khắc tâm trạng của cô bé.

    Ấn tượng đậm nét đầu tiên khơi lên mối cảm thương chính là hình ảnh cô bé như lọt thỏm giữa cái mênh mông của bóng đêm vào thời khắc sắp giao thừa. Khi “mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay”, cô bé đã hồi tưởng lại quá khứ tươi đẹp khi bà nội hiền hậu còn sống. Ngôi nhà xinh xắn với những dây trường xuân trong những ngày đầm ấm tương phản với thực tại cuộc sống của hai cha con trong một xó tối tăm, sự nghèo khổ kéo theo những lời mắng nhiếc chửi rủa của người cha khi gia sản đã tiêu tán.

    Để nguôi cảm giác lạnh, em đã “ngồi nép trong một góc tường”, “thu đôi chân vào người” nhưng có lẽ chính nỗi sợ hãi còn mạnh hơn giá rét đã khiến em “càng thấy rét buốt hơn”. Em không thể về vì biết “nhất định cha em sẽ đánh em”. “Ở nhà cũng rét thế thôi”, điều đáng sợ nhất đối với cô bé không phải là thiếu hơi ấm mà là thiếu tình thương. Thật đáng thương khi thân hình bé nhỏ của em phải chống chọi vô vọng với cảm giác giá buốt bên ngoài và cái lạnh từ trong trái tim khiến “đôi bàn tay em đã cứng đờ ra”.

    Lúc ấy, em chỉ ao ước một điều thật nhỏ nhoi: “Chà! Giá quẹt một que diêm mà sưởi cho đỡ rét một chút nhỉ?” nhưng dường như em cũng không đủ can đảm vì làm như vậy em sẽ làm hỏng một bao diêm không bán được. Nhưng rồi cô bé ấy cũng “đánh liều quẹt một que”, để bắt đầu cho một hành trình mộng tưởng vượt lên thực tại khắc nghiệt. Giấc mơ của em bắt đầu từ lúc nhìn vào ngọn lửa: “lúc đầu xanh lam, dần dần biến đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt”. Ánh sáng ấy đã lấn át đi cảm giác của bóng tối mênh mông, để hiện lên hình ảnh “một lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng”.

    Niềm vui thích của em đến trong ảo giác “lửa cháy nom đến vui mắt và toả ra hơi nóng dịu dàng”. Đó là ước mơ thật đơn giản trong khi thực tế lại phũ phàng “tuyết phủ kín mặt đất, gió bấc thổi vun vút… trong đêm đông rét buốt”. Ước ao được ngồi hàng giờ “trước một lò sưởi” cũng biến tan khi “lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất”. Khoảnh khắc em “bần thần cả người” khi hình dung ra những lời mắng chửi của cha khiến ta phải nao lòng. Bóng tối lại phủ lên màu u ám trong tâm hồn em.

    Có lẽ vì vậy, nhà văn đã để em tiếp tục thắp lên que diêm thứ hai, thắp lên niềm vui nhỏ nhoi dù chỉ là trong mộng tưởng. Không chỉ phải chống chọi với cái rét, cô bé còn phải cầm cự với cơn đói khi cả ngày chưa có miếng nào vào bụng. Bởi thế, ánh sáng rực lên của ngọn lửa diêm đã biến bức tường xám xịt thành “tấm rèm bằng vải màu”. Cái hạnh phúc trong những ngôi nhà ấm áp đã đến với em, khi em nhìn thấy: “Bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa bằng sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay”.

    Giá như tất cả những hình ảnh tưởng tượng biến thành hiện thực thì em sẽ vui sướng biết bao, khi “ngỗng nhảy ra khỏi đĩa” sẽ mang đến cho em bữa ăn thịnh soạn để vượt lên phút đói lả người. Nhưng một lần nữa, ảo ảnh lại vụt biến, em lại phải đối mặt với “phố xá vắng teo, lạnh buốt, tuyết phủ trắng xóa, gió bấc vi vu”. Không những thế, em còn chứng kiến sự thờ ơ ghẻ lạnh của những người qua đường, hình ảnh tương phản được nhà văn khắc họa làm ta nhói đau trước em bé bất hạnh.

    Và một lần nữa, que diêm tiếp theo lại sáng bừng lên, để em được sống trong những giấc mơ đẹp nhất của một em bé. Trong một cuộc sống phải từng phút từng giây vật lộn mưu sinh, em đã phải từ giã những niềm vui được đùa chơi của con trẻ. Ánh sáng từ que diêm đã tỏa ra vầng hào quang lộng lẫy, cho em “một cây thông Nô-en”, như đem đến cho em một thiên đường của tuổi thơ: “Hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi và rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ như những bức bày trong tủ hàng”. Điều trớ trêu nghiệt ngã là tất cả những hình ảnh tươi đẹp ấy em chỉ kịp nhìn nhưng không thể chạm tay vào, bởi lẽ tất cả chỉ là ảo ảnh, như những ngôi sao trên trời mà em không thể với tới. Trái tim ta như nghẹn lại cùng lời kể của nhà văn, bởi lẽ em bé đang dần kiệt sức và sắp phải gục ngã trước cái lạnh chết người của xứ sở bà chúa Tuyết.

    Trong giây phút cuối cùng của đời em, có lẽ nhà văn không muốn người đọc phải chứng kiến một cái chết thảm thương vì rét, vì đói, vì thiếu tình thương và niềm vui trong cuộc đời khốn khổ của cô bé, nên đã cho em rất nhiều ánh lửa và niềm vui được gặp lại bà nội hiền hậu mà em rất mực kính yêu. Hình ảnh bà hiện lên trong những phút cuối cùng của em bé không hẳn là ảo ảnh mà chính là sự thực đã được nhìn qua tâm hồn thánh thiện của em. Bà em hiện ra với nụ cười như ban cho em diễm phúc được sống lại quãng đời ấm áp đầy tình thương thuở trước. Tiếng reo của em khi gặp lại bà cũng những lời cầu xin ngây thơ là tiếng nói cuối cùng của một người sắp giã từ trần thế. Em được sống với niềm vui trọn vẹn của riêng mình nhưng chúng ta có lẽ khó ai cầm được dòng nước mắt: “Dạo ấy, bà đã từng nhủ cháu rằng nếu cháu ngoan ngoãn, cháu sẽ được gặp lại bà, bà ơi! Cháu van bà, bà xin Thượng đế chí nhân cho cháu về với bà. Chắc Người không từ chối đâu”.

    Trong lời tâm sự ấy, ta hiểu được sự thực về cuộc đời nghiệt ngã và bất công mà em đang hứng chịu. Điều em cần chính là tình thương thật sự trong một thế giới bao dung và nhân hậu. Bởi thế, cái chết đối với em không còn là một điều đáng sợ. Em được về với bà, đến một thế giới khác “chẳng còn đói rét, buồn đau nào đe doạ”. Nhà văn đã để chính đôi tay bé nhỏ của em thắp lên Ánh sáng – “diêm nối nhau chiếu sáng như giữa ban ngày” – để em được thấy bà em “to lớn và đẹp lão” đến đón em cùng bay vào thế giới ước mơ trong ánh sáng huy hoàng xua hết tối tăm đè nặng cuộc đời em.

    Câu chuyện kết thúc. Ngày mới lại bắt đầu, “mặt trời lên, trong sáng, chói chang trên bầu trời xanh nhợt”. Sự sống vẫn tiếp diễn, mọi người đón “ngày mồng một đầu năm hiện lên trên thi thể em bé ngồi giữa những bao diêm”, nhìn em để buông ra lời nhận xét thờ ơ: “chắc nó muốn sưởi cho ấm”. Không ai được biết những cái kỳ diệu em đã trông thấy, chỉ duy nhất một người chứng kiến được “cảnh huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón lấy những niềm vui đầu năm”, đó chính là nhà văn. Ông đã cúi xuống nỗi đau của một em bé bất hạnh, kể cho ta nghe câu chuyện cảm động này bằng tất cả tình yêu thương vô bờ bến đối với trẻ thơ và những con người nghèo khổ. An-đéc-xen đã cất lên tiếng nói cảnh tỉnh những trái tim đông cứng như băng giá, gửi bức thông điệp của tình thương đến với mọi người.

    Cảm nhận về hình ảnh ngọn lửa diêm – Mẫu 3

    Nhắc đến truyện dành cho thiếu nhi không nhắc đến An-đéc-xen một nhà văn nổi tiếng của Đan Mạch là một thiếu sót rất lớn. Bạn đọc khắp năm châu đều biết đến ông bởi những tác phẩm của ông rất đặc sắc, huyền ảo mà mơ mộng gần gũi với trẻ thơ.

    Khi đọc truyện “cô bé bán diêm” của nhà văn, ta thấy thật ấn tượng với ngọn lửa diêm, phải chăng hình ảnh ngọn lửa diêm sáng lấp lánh trong truyện đã đem đến những giấc mơ kì diệu của em bé bán diêm, đó là ngọn lửa của ước mơ tuổi thơ về mái ấm gia đình, về ấm no hạnh phúc, được ăn ngon mặc đẹp, được vui chơi và được sống trong tình yêu thương của bố mẹ, của bà và mọi người. Chính ngọn lửa diêm ấy đã đưa em đến với bà thương yêu- người đã bao bọc che chở cho em, yêu thương em hết mực để rồi hai bà cháu cùng bay lên trời về chầu Thượng Đế. Hình tượng ngọn lửa diêm sáng ngời lên vẻ đẹp nhân văn thể hiện cái nhìn đầy cảm thông, trân trọng, ngợi ca của tác giả về nỗi bất hạnh về ước mơ và những khát khao cháy bỏng trong tâm hồn của trẻ thơ- những thân phận nghèo khổ trên đời giữa cảnh đời nghiệt ngã.

    Thông qua hình tượng ngọn lửa diêm, ta thấy rõ tấm lòng nhân đạo, lòng nhân ái của tác giả đối với các em thiếu nhi, đồng thời nhà văn còn muốn gửi tới người đọc một thông điệp: đó là hãy biết san sẻ tình yêu thương, đừng phũ phàng hoặc vô tình trước nỗi đau, bất hạnh của các em nhỏ.

    Cảm nhận về hình ảnh ngọn lửa diêm – Mẫu 4

    An-đéc-xen là một nhà văn nổi tiếng của Đan Mạch. Bạn đọc khắp năm châu đều biết đến ông bởi những tác phẩm của ông rất đặc sắc, huyền ảo mà mơ mộng gần gũi với trẻ thơ.

    Khi đọc truyện “Cô bé bán diêm” của nhà văn, ta thấy thật ấn tượng với ngọn lửa diêm, phải chăng hình ảnh ngọn lửa diêm sáng lấp lánh trong truyện đã đem đến những giấc mơ kì diệu của em bé bán diêm, đó là ngọn lửa của ước mơ tuổi thơ về mái ấm gia đình, về ấm no hạnh phúc, được ăn ngon mặc đẹp, được vui chơi và được sống trong tình yêu thương của bố mẹ, của bà và mọi người. Chính ngọn lửa diêm ấy đã đưa em đến với bà thương yêu- người đã bao bọc che chở cho em, yêu thương em hết mực để rồi hai bà cháu cùng bay lên trời về chầu Thượng Đế. Hình tượng ngọn lửa diêm sáng ngời lên vẻ đẹp nhân văn thể hiện cái nhìn đầy cảm thông, trân trọng, ngợi ca của tác giả về nỗi bất hạnh về ước mơ và những khát khao cháy bỏng trong tâm hồn của trẻ thơ- những thân phận nghèo khổ trên đời giữa cảnh đời nghiệt ngã. Thông qua hình tượng ngọn lửa diêm, ta thấy rõ tấm lòng nhân đạo, lòng nhân ái của tác giả đối với các em thiếu nhi, đồng thời nhà văn còn muốn gửi tới người đọc một thông điệp: đó là hãy biết san sẻ tình yêu thương, đừng phũ phàng hoặc vô tình trước nỗi đau, bất hạnh của các em nhỏ.

    Với lối viết nhẹ nhàng bay bổng An-đéc-xen đã trở thành nhà văn của mọi thời, mọi người và mọi nhà. Hình tượng ngọn lửa diêm sẽ mãi ám ảnh trong lòng độc giả về những khát vọng bình dị, giản đơn mà vô cùng đẹp đẽ của những đứa trẻ bất hạnh khơi dậy trong lòng ta về lòng yêu thương con người để xã hội càng trở nên tươi đẹp, hòa bình, ấm no, hạnh phúc.

    Cảm nhận về hình ảnh ngọn lửa diêm – Mẫu 5

    Đọc truyện “Cô bé bán diêm”, ta thấy hình tượng ngọn lửa là hình tượng lấp lánh nhất. Đó là ngọn lửa của ước mơ tuổi thơ về mái ấm gia đình, về ấm no hạnh phúc, được ăn ngon mặc đẹp, được vui chơi và sống trong tình thương. Từ những ngọn lửa diêm đã hóa thành những ngôi sao trên trời… để soi đường cho em bé bay lên ở với bà nội trên Thượng đế.

    Qua ngọn lửa và ngôi sao, An-đéc-xen đã cảm thông, trân trọng, ngợi ca những ước mơ hoặc bình dị, hoặc kì diệu của tuổi thơ. Vẻ đẹp nhân văn của truyện “Cô bé bán diêm” được thể hiện tài tình qua hình tượng ngọn lửa ấy.

    Giấc mơ em bé thấy sau khi quẹt que diêm thứ tư là xúc động nhất. Em bé chìm dần vào ngọn lửa xanh. Em “nhìn rỗ ràng bà em đang mỉm cười với em”. Em mơ được sống lại những ngày êm ấm hạnh phúc thời bé thơ được sống bên bà. Diêm cháy sáng rồi tàn làm tan giấc mơ: “Que diêm tắt phụt, và ảo ánh rực sáng trên khuôn mặt em bé cũng biến mất”. Đã hơn một thế kỉ trôi qua, từ ngày An-đec-xen viết truyện “Cô bé bán diêm” (1845), người đọc khắp hành tinh gần xa, nhất là những bạn nhỏ, hình như vẫn còn nghe văng vẳng đâu đây lời nguyện cầu tha thiết của em bé tội nghiệp: “… xin bà đừng bỏ cháu ở nơi này… cháu van bà, bà xin Thượng đế chí nhân, cho cháu về với bà. Chắc Người không từ chối đâu”.

    Chập chờn trong những cơn mơ. Đêm giao thừa càng về khuya càng rét, tuyết phủ dày mặt đất. Tối tăm, lạnh lẽo, cô đơn. Em bé quẹt hết cả bao diêm. Ngọn lửa diêm nối nhau cháy sáng. Em bé thấy bà nội hiện lên to lớn, hiền từ. Bà nội cầm tay em cùng bay lên cao, cao mãi “chẳng còn đói rét, đau buồn nào đe dọa” em nữa. Hai bà cháu “đã về chầu Thượng đế”

    Cũng như Tiên, Phật, Bụt… trong truyện cổ dân gian Việt Nam, Thượng đế trong truyện cổ An-đéc-xen là một biểu tượng về niềm tin hướng tới cái thánh thiện vô cùng cao cả, thiêng liêng, tốt đẹp. Thượng đế trong ước mơ chứ không phải Thượng đế trong Kinh thánh, trong đạo giáo. Mơ ước của em bé là mãi mãi muốn được sống bên bà trong yên vui, ấm no, hạnh phúc, vĩnh biệt hiện thực đói rét, đau khổ, côi cút, bước sang một thế giới hạnh phúc tốt đẹp, đó là lên trời với Thượng đế chí nhân.

    Em bé đã chết đói, chết rét trong đêm giao thừa. Thế nhưng người đọc vẫn cảm thấy em không chết. Nói về giấc mơ em bé bán diêm, ngòi bút An-đéc-xen chứa chan tình nhân đạo.

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *