TOP 4 bài Đóng vai vợ ông giáo kể lại chuyện lão Hạc bán chó SIÊU HAY, kèm theo 2 dàn ý chi tiết. Qua đó, giúp các em học sinh lớp 8 nhập vai vợ ông giáo, kể lại hoàn cảnh khó khăn, vất vả, đáng thương của gia đình Lão Hạc.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 8: Đóng vai vợ ông giáo kể lại chuyện lão Hạc bán chó
Với 4 bài Hóa thân vợ ông giáo kể lại chuyện lão Hạc bán chó, còn giúp các em biết cách kể chuyện theo ngôi thứ nhất, tích lũy vốn từ, rèn luyện trí tưởng tượng của mình ngày càng phong phú hơn để học tốt môn Văn 8. Vậy mời các em cùng tải miễn phí bài viết dưới đây của Download.vn:
Đóng vai vợ ông giáo kể lại chuyện lão Hạc bán chó
Dàn ý đóng vai vợ ông giáo kể chuyện lão Hạc bán chó
Dàn ý 1
A. Mở bài
- Giới thiệu về bản thân
B. Thân bài
- Tôi đang từ dưới bếp đi lên, thấy lão Hạc vừa đi đến cổng gọi ông nhà tôi.
- Lão chưa ngồi xuống nhưng đã nói “Cậu Vàng đi đời rồi ông giáo ạ”
- Lão đã bán đi một người bạn mà lão yêu quý, mỗi lần sang nhà tôi lão đều cho nó đi cùng.
- Lão vừa kể vừa khóc, đôi mắt lão ầng ậng nước. Tôi thắc mắc người già như lão mà vẫn còn nước mắt sao. Chắc là do lão quá đau buồn
- Nhìn khuôn mặt lão đầy đau đớn xót xa như vừa mất đi một thứ gì đó trân quý lắm chứ không phải là một con chó bình thường
- Lúc này đây thì lão đã đến tột cùng của sự đau khổ, mặt lão ngoẹo về một bên, miệng mếu máo như con nít và lão khóc hu hu
- Lão kể cho ông nhà tôi về việc thằng Mục và thằng Xiên qua bắt cậu Vàng, nghe trong lời nói của lão có một sự đau khổ.
- Một người như lão Hạc mà phải bán đi cậu Vàng – kỉ vật của người con trai, tôi đoán chắc là lão cũng dằn vặt bản thân lắm và không còn cách nào thì mới phải làm như vậy.
C. Kết bài
- Nêu suy nghĩ của bản thân.
Dàn ý 2
I. Mở bài:
- Tôi là vợ ông giáo, nhìn cảnh Lão Hạc sống khó khăn, vất vả như thế tôi cũng thấy rất thương nhưng không biết làm thế nào
- Hôm nay lão lại sang nhà tôi nhưng hôm nay tâm trạng lão sa sút lắm, thì ra là lão đã bán cậu Vàng
II. Thân bài:
- Lão vừa bước chân sang nhà tôi, nhìn thấy chồng tôi đang ngồi uống nước, lão chưa ngồi xuống nhưng đã nói “Cậu Vàng đi đời rồi ông giáo ạ”.
- Hóa ra lần này lão đã thật sự bán đi con chó ấy, con chó mà lão coi như con đẻ.
- Lão vừa kể vừa khóc, đôi mắt lão ầng ậng nước. Tôi thắc mắc người già như lão mà vẫn còn nước mắt sao. Chắc là do lão quá đau buồn.
- Nhìn khuôn mặt lão đầy đau đớn xót xa như vừa mất đi một thứ gì đó trân quý lắm chứ không phải là một con chó bình thường.
- Lúc này đây thì lão đã đến tột cùng của sự đau khổ, mặt lão ngoẹo về một bên, miệng mếu máo như con nít và lão khóc hu hu.
- Lão kể lại quá trình lão bán Cậu Vàng xót xa tủi hổ làm sao, lão gọi thằng Mục và thằng Xiên đến lừa cậu Vàng vào tròng.
- Nghe lão kể như vậy tôi đón chắc lão xót xa ân hận lắm khi đã lừa một con chó tin tưởng lão vô điều kiện.
- Lão kể cho chồng tôi nghe với giọng chua xót biết bao và lão mong kiếp sau cậu Vàng của lão sẽ được sống sung sướng hơn.
III. Kết bài:
- Khi nghe câu chuyện của Lão Hạc tôi cũng cảm nhận được phần nào tấm lòng của Lão dành cho cậu vàng: một tấm lòng thương yêu vô bờ bến.
Đóng vai vợ ông giáo kể chuyện lão Hạc bán chó – Mẫu 1
Trời đã thủng buổi, mặt trời chói chang len qua những bóng lá rọi xuống khung cửa nan nhà. Tôi đang lụi cụi nấu ăn dưới bếp, than khói lửa hồng bốc lên dưới cái nắng ban trưa thật khiến người ta dễ bực mình. Ông nhà đang ngồi đọc mấy quyển văn của trò ông ấy, rồi cứ luôn tay phe phẩy cái quạt mo. Cơm nước đã xong đấy, toan dọn mâm lên ăn, thì bỗng nhiên, lão Hạc bước từ cửa vào. Lão hạc là hàng xóm của nhà tôi, nhà lão nghèo lắm, vợ mất, con trai vì không lấy được vợ nên bỏ đi làm ăn, để mình thân già lão ở nhà. Lão với ông nhà tôi thân nhau lắm, tuy tuổi tác chênh lệch, nhưng hai người cứ trò chuyện thì lại rôm rả, như hai người bạn tri kỉ với nhau vậy.
Lão Hạc cứ chệnh choạng , mặt cúi gằm xuống, lưỡng lự trước cửa một lúc rồi bước vào nhà. Ông nhà tôi kêu lên: Cụ đến chơi ạ” Lão Hạc không đáp lại. Lão đi từ từ, chậm rãi vào gian chính. Bực mình thật, đúng lúc người ta ăn cơm thì lại mò đến- Tôi tự nhủ một cách trách móc lão Hạc. Lạ thật! Lão ngồi phịch xuống tấm phản, không nói không rằng, cứ cúi gằm cái mặt xuống. Chồng tôi cũng thấy lạ lắm, nhưng cũng giữ phép lịch sự, rót chén nước chè mời lão. Lão Hạc đưa hai bàn tay run run đỡ lấy chén trà chồng tôi đưa, đưa lên môi nhấp nhẹ rồi lại đặt xuống. Đến giờ lão vẫn chưa mở lời. Rồi cái vẻ yên lặng ấy cứ diễn ra một lúc, chồng tôi nhìn lão một cách kì lạ, không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Cuối cùng thì, có lẽ là lão đã sẵn sàng để nói chuyện- lão ngẩng khuôn mặt lão lên, khuôn mặt nhăn nheo, rám nắng, dưới khóe mắt vẫn thâm quầng- và mở chuyện:
– Cậu Vàng đi đời rồi ông giáo ạ!
– Cụ bán nó rồi?- chồng tôi đáp một cách ngạc nhiên
– Bán rồi! Họ vừa bắt nó xong.
Lão kể với giọng khàn khàn, khiến tôi nghe chữ được chữ không. Lão mỉm cười. Nhưng lão cười lạ lắm, miệng lão cười nhưng mà môi cứ giật giật, cả người lão run lên. Lão cười mà như mếu vậy. Có lẽ tâm trạng lão không vui như lão cố tỏ ra cho chồng tôi thấy- và chồng tôi cũng nhận ra điều đó. Ông hỏi:
– Thế nó cho bắt à!
Vẻ mặt lão thoáng thay đổi, mắt lão nhắm nghiền lại, khuôn miệng cười lúc nãy đã biến mất. Rồi từ hai khóe mắt chảy ra giọt nước mắt, nó chảy dài trên khuôn mặt xương xương của lão. Những nếp nhăn trên khuôn mặt lão co lại, lão khóc mỗi lúc một nhiều, hàng nước mắt cứ tuôn mãi. Tôi ngạc nhiên, từ xưa đến nay lão có bao giờ thế đâu. Mà lão Hạc đã già, có lẽ lên chức ông chức cụ rồi, vậy mà lão lại hu hu khóc chẳng khác gì một đứa con nít. Mặt ông nhà tôi cũng biến dạng theo.
Lão Hạc kể lại chuyện bán chó mà tiếng khóc cứ ngân dài theo từng lời nói, trông đến là tội nghiệp.
– Khốn nạn… Ông giáo ơi! – Lão òa lên- Nó có biết gì đâu! Nó thấy tôi gọi thì chạy ngay về, vẫy đuôi mừng. Tôi cho nó ăn cơm, nó ăn ngon lành, bởi vì tôi cho nó toàn món ngon, bữa cuối cùng của nó mà. Thế rồi, lúc nó đang hoan hỉ, thì bỗng thằng Mục với thằng Xiên nấp ngay sau nó nhảy ra, tóm gọn nó. Cu cậu trông béo tốt thế mà lại nhát, thế nên chẳng bao lâu nó đã bị trói gọn cả bốn cẳng lại rồi. Bấy giờ cu cậu mới biết cu cậu chết. Mà cái giống nó khôn lắm! Nó nhìn tôi in như nó trách tôi. Nhìn ánh mắt nó, chắc nó đang thầm bảo rằng: “ A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão thế mà lão lại đối xử với tôi như thế à? Tôi già từng này tuổi đầu rồi mà lại phải lừa một con chó ông giáo ạ.
Nói đến đây, lão Hạc tự đấm thùm thụp vào ngực mình, bởi vì có lẽ lão sẽ không bao giờ có thể tự tha thứ cho mình được. Lão cứ rên rỉ, trách móc mình mãi, kèm theo là những cái cào xé, lão đang dằn vặt nỗi lòng của mình, đến nỗi mà chồng tôi phải ngăn lão lại thì lão mới dừng. Ông an ủi lão Hạc
– Thôi cụ ạ! Nó không hiểu gì đâu! Mà chó nào nuôi mà chẳng để giết thịt! Ta bán nó đi chính là hóa kiếp cho nó đấy.
Nghe xong câu này của chồng tôi, lão Hạc ngẩng mặt lên trời, lão vẫn khóc, nhưng lão vừa khóc vừa cười, giọng cười chua chát và cay đắng. Lão nhắm nghiền mắt lại cố ngăn cho dòng nước mắt không tuôn nữa, rồi bảo rằng lão mong là con chó sẽ thành kiếp người, như lão chẳng hạn. Tôi để ý thấy chồng tôi cũng đau buồn theo lão, nước mắt đã rơi, nhưng ông không muốn lão Hạc càng thêm buồn nên cố nén lại, và nghiến răng để không òa khóc theo lão. Ông nắm lấy đôi vai gầy gộc của lão Hạc an ủi lão. Cái cảnh tượng thật não nề.
Đóng vai vợ ông giáo kể chuyện lão Hạc bán chó – Mẫu 2
Hôm nay là một ngày khá là đẹp, mặt trời chiếu những tia nắng xen qua kẽ lá. Tôi đang lúi húi nấu ăn, còn chồng thì chăm chú ngồi đọc sách. Chợt từ xa, lão Hạc với dáng vẻ buồn bã từ từ tiến lại gần nhà tôi, không biết có chủ ý gì mà lão qua đây. Tò mò tôi ló đầu ra hóng chuyện.
Vừa đến cửa, lão nói với chồng tôi, gương mặt hốc hác cúi cằm xuống:
– Cậu Vàng đi rồi ông Giáo ạ!
À thì ra lão qua đây để nói về con chó mà lão cưng, lão thương như vàng ấy. Không tránh khỏi sự ngạc nhiên, ông nhà tôi hỏi:
– Cụ đã bán rồi à?
– Vâng, tôi bán rồi.
Lão nói với giọng bùi ngùi, gương mặt lão cố tỏ ra vui vẻ nhưng thật ra trong lòng đau đớn đến tột cùng. Lão cười, cười một cách quái dị, lão cười mà cứ như mếu. Trên đôi mắt đầy ắp những khổ cực bắt đầu ngân ngấn nước, đỏ hoe. Ông nhà tôi xót xa lắm, rót ly rượu mời lão rồi hỏi tiếp:
– Vậy nó cho bắt à?
Câu hỏi này có lẽ đã vô tình đụng vào nỗi đau mà lão Hạc cố chôn vùi. Lão bắt đầu khóc, lão khóc hu hu như một đứa trẻ, khóc như chưa từng được khóc. Nước mắt chan hòa với nỗi đau khiến lòng lão quặn lại, tim đau từng hồi. Những giọt nước mắt ấy tưởng chừng sẽ không có ở cái tuổi gần đất xa trời như lão, ấy vậy mà lại rơi vì trót lừa một con chó, lão nghẹn ngào:
– Khốn nạn… ông giáo ơi!… Nó có biết gì đâu. Nghe gọi về ăn cơm thì vẫy đuôi lật đật chạy về. Đang ăn thì thằng Mục và thằng Xiên trốn từ phía sau túm lấy cu cậu, loay hoay một lát là trói chặt cả bốn chân. Cái giống nó cũng khôn, biết mình bị bắt nên im lặng, chỉ kêu ư ử như muốn oán trách tôi vì sao lại đối xử tệ với nó như vậy. Ông giáo à! Ngay cả tôi cũng không hiểu vì sao mình bằng tuổi này rồi mà lại nhẫn tâm đi lừa một con chó, phản bội người bạn thân duy nhất của mình. Tôi thấy ân hận quá! Lão vừa nói vừa đấm thình thịch vào ngực mình, nước mắt cứ thế mà rơi trên gương mặt xương xương, gầy gầy. Lão cấu xé, dằn vặt bản thân để thoả nỗi đau đang cồn cào tận đáy lòng. Nhìn lão thế này, ông nhà tôi thấy đau lòng lắm, ông ôm lão mà khóc cùng và tôi thấy thương lão Hạc biết bao!
Người ngoài nhìn vào có thể sẽ nghĩ lão không được bình thường, không khóc vì khổ thì thôi chớ ai đời lại đi khóc vì bán chó. Bản thân tôi trước đây cũng nghĩ lão già rồi nên không còn minh mẫn, có tiền không tiêu, có ruộng vườn không bán, có chó không giết… nhưng bây giờ hiểu rõ sự tình, tôi thấy thương cho hoàn cảnh lão lắm. Vợ mất sớm, nhà nghèo, con trai thì không lấy được vợ, đứa con trai duy nhất phẫn chí bỏ đi phụ đồn điền cao su không biết khi nào về. Lão phải sống hiu quạnh cùng con chó là kỉ niệm mà người con trai để lại, lão cưng nên gọi là “cậu Vàng”. Nhưng vì muốn giữ lại mảnh vườn cho con, lão đứt ruột bán đi cậu Vàng dù trong lòng đau như cắt. Không biết cậu Vàng đi rồi, lão Hạc sẽ sống chuỗi ngày còn lại như thế nào, ai sẽ quấn quýt bên lão những khi lão nhớ đến con trai, ai bên cạnh lão khi lão ốm yếu? Càng nghĩ tôi càng thấy thương lão. Giật mình khi thấy đồng hồ điểm mười hai giờ trưa, tôi phải tiếp tục nấu ăn. Còn lão Hạc với chồng tôi vẫn nói chuyện ở gian trên.
Lão Hạc quả là một con người đáng thương, ông có một tấm lòng yêu thương con trai và yêu con vật như yêu chính bản thân. Cuộc đời quả thật trớ trêu khi bắt con người ta phải sống trong sự đau khổ, kéo dài như thế. Còn về phần ông giáo cũng sống trong hoàn cảnh túng quẫn. Tuy nhiên ông có tấm lòng rộng lớn qua việc mặc dù nhỏ tuổi hơn lão Hạc rất nhiều nhưng khi nghe lão tâm sự, ông vẫn lắng nghe và chia sẻ cùng lão, không hề phàn nàn mà lại tỏ thái độ vô cùng lễ phép tôn trọng lão Hạc.
Đọc truyện ngắn của Nam Cao, đoạn lão Hạc sang báo tin bán chó với ông giáo đã để lại cho tôi cảm xúc khó tả, giúp tôi thấm thía, cảm nhận được những nỗi đau của lão Hạc cũng như những người nông dân thời xưa phải trải qua, họ phải sống trong tầng lớp nghèo khổ, bị khinh miệt rất đáng thương. Và đây cùng là đoạn trích mà tôi thích nhất.
Đóng vai vợ ông giáo kể chuyện lão Hạc bán chó – Mẫu 3
Tôi là vợ ông giáo, sống cùng làng với lão Hạc. Nếu nói nhà chúng tôi đã nghèo khó thì có thể nói rằng nhà lão Hạc còn nghèo khó hơn rất nhiều. Nhưng câu chuyện về cuộc đời đáng thương của lão luôn sẽ mãi là câu chuyện day dứt trong tôi.
Nhà lão thuộc “loại nhất nhì trong hạng cùng đinh” ở làng Đại Hoàng này, đã vậy lão còn trong cảnh “gà trống nuôi con” mấy năm nay. Con trai lão cũng đẹp giai, sáng sủa, nhìn ra được là chàng trai sẽ có tương lai sau này. Nhưng cũng tại cái túng quẫn của gia cảnh nhà mình nên không cưới được vợ, mặc dù hai cô cậu cũng thuận lòng nhau lắm. Cậu ta phẫn chí quá nên bỏ cha đi đồn điền cao su làm việc cũng được mấy năm rồi.
Lão Hạc ở nhà một mình chỉ biết làm bạn với con chó mà con trai lão mua về, lão gọi nó là cậu Vàng. Lão thương nó lắm, thường hay tâm tình với nó, lão còn cho nó ăn bằng bát như người. Số lão cũng khổ, chỉ có cậu Vàng làm bạn quanh quẩn cái khu vườn rộng ba sào ấy. Tôi và ông giáo cũng thương tình cho lão, nhất là khi thấy cảnh lão bán cậu Vàng đi.
Tưởng rằng có cậu Vàng bên cạnh là nào có người bạn, người con trong những ngày cô đơn buồn tủi, thế mà lão đã bán nó đi. Sự tình là do ông trời chẳng thương xót, một cơn bão tàn nhẫn đi qua, nó còn cuốn theo cả ruộng rẫy nhà cửa. Nhà tôi vốn không khá khẩm nhưng cũng chắt chiu được mấy đồng sống qua ngày, nhưng lão Hạc lại chẳng có gì. Căn nhà của lão lụp xụp như muốn đổ, ruộng vườn hoa màu tan hoang, đã thế lão còn lăn ra bệnh. Chỉ thương thay lão, vì nhà tôi cũng không khá khẩm là bao.
Lão nằm liệt giường tới tận hai tháng, ông giáo nhà tôi vẫn thỉnh thoảng qua thăm, lão nhờ chồng tôi mua thuốc men chữa chạy, tôi đếm chừng chắc lão cũng đã vơ vét hết tài sản vào trận ốm đó rồi.
May mà sau đó lão thật sự khỏe lại, nhưng lão chẳng còn thứ gì đáng giá, cuối cùng vào một hôm tôi thấy lão bán cậu Vàng đi.
Khi đó, tôi chợt thấy hai thằng lính nhà ông trưởng làng nấp dưới khóm lau trước sân, tay chúng còn cầm cả dây thừng và một cái bao. Vì chúng chẳng phải hạng người tốt lành gì nên tôi cũng tránh đi luôn.
Hôm sau lão Hạc sang nhà tôi thì mới biết rằng, lão bán Cậu Vàng đi thật, não nói:
– Cậu Vàng đi đời rồi, ông giáo ạ!
Đến bấy giờ tôi mới biết hai thằng lính hôm qua đứng đấy làm gì.
– Cụ bán rồi? – Chồng tôi hỏi lão.
– Bán rồi! Họ vừa bắt xong.
Lúc này tôi chỉ tập trung vào lão Hạc, lão còn cố làm ra vẻ vui vẻ nữa chứ. Chắc cũng đoán ra sự tình, chồng tôi mới hỏi thêm:
– Thế nó cho bắt à?
Trong đầu tôi cũng thắc mắc, cậu Vàng là chú chó thông minh mà lại để chúng lôi đi dễ dàng như vậy sao. Lão Hạc co rúm lại chống tay lên trán, dường như không chịu nổi sức nặng của chính mình, lão đổ phịch xuống sân, lão hu hu khóc, vừa khóc lão vừa nói:
– Khốn nạn… Ông giáo ơi!… Nó có biết gì đâu! Nó thấy tôi gọi thì chạy ngay về, vẫy đuôi mừng. Tôi cho nó ăn cơm. Nó đang ăn thì thằng Mục nấp trong nhà, ngay đằng sau nó, tóm lấy hai cẳng sau nó dốc ngược nó lên. Cứ thế là thằng Mục với thằng Xiên, hai thằng chúng nó chỉ loay hoay một lúc đã trói chặt cả bốn chân nó lại. Bây giờ cu cậu mới biết là cu cậu chết!… Này! Ông giáo ạ! Cái giống nó cũng khôn! Nó cứ làm in như nó trách tôi; nó kêu ư ử, nhìn tôi, như muốn bảo tôi rằng:”A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão xử với tôi như thế này à ?”. Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó!
Mọi chuyện thì ra là như vậy, tôi cảm thấy lão thật khổ, khuôn mặt già nua với đầy nếp nhăn như xô ép khiến nước mắt lão chạy ra vậy. Chồng tôi lúc này cũng xúc động ngồi xuống an ủi lão. Thấy vậy tôi cũng ra ngoài làm việc tiếp. Tính ra tôi cũng chẳng thương tiếc gì cho con chó của lão, tôi chỉ tủi cho lão đã già mà khổ, vậy thôi.
Không biết chồng tôi với lão nói gì, nhưng từ lúc lão Hạc về thì thấy ông suy tư lắm. Nhưng chỉ mấy ngày sau tôi vô cùng sốc khi hay tin lão chết. Lão chết bằng cách ăn bả chó! Tôi nghĩ hẳn là vì lão hối hận với cậu Vàng, hắn dùng bả chó để nhận thử cái chết trong đau đớn và quằn quại ấy, để tới khi chết rồi lão đỡ oán hận chính bản thân mình.
Qua câu chuyện cuộc đời của lão, tôi chỉ thương cảm người sống lương thiện nhưng số phận lại khốn khó. Nhưng liệu có đáng? Con lão liệu có trở về? Mặc dù chồng tôi luôn chăm sóc mảnh vườn mà lão gửi gắm lại, nhưng tôi vẫn thấy đáng lý ra cuộc sống của lão cũng sẽ không tồi tệ đến vậy.
Đóng vai vợ ông giáo kể chuyện lão Hạc bán chó – Mẫu 4
Tôi là vợ ông giáo, sống cùng làng với lão Hạc. Nhà chúng tôi đã nghèo khó, lão Hạc còn nghèo khó hơn. Nhà lão thuộc “loại nhất nhì trong hạng cùng đinh” ở làng Đại Hoàng này, đã vậy lão còn phải cảnh “gà trống nuôi con” mấy năm nay. Con trai lão cũng đẹp giai, sáng sủa nhưng cũng tại cái túng quẫn quá nên không cưới được vợ, mặc dù hai cô cậu cũng thuận lòng nhau lắm. Phẫn chí quá nên nó bỏ cha đi đồn điền cao su sáu, bảy năm nay. Ở nhà một mình, lão Hạc chỉ biết làm bạn với con chó mà con trai lão mua về, lão gọi nó là cậu Vàng. Lão thương cậu Vàng lắm, thường hay tâm tình với nó, lão còn cho nó ăn bằng bát như người. Cũng khổ thân cho ông lão, chỉ còn mỗi cậu Vàng làm bạn quanh quẩn cái khu vườn rộng ba sào ấy. Tôi cũng thương cho lão, nhất là khi lão bán cậu Vàng đi.
Những tưởng có cậu Vàng là niềm an ủi suốt đời. Nào ngờ ông trời chẳng thương xót gì cho dân nghèo chúng tôi, tất nhiên có cả lão Hạc. Chỉ trong phút chốc, cơn bão tàn nhẫn đi qua làng đã cuốn đi hết ruộng rẫy, nhà cửa. Đúng thật là bất công! Vợ chồng tôi dành dụm bấy lâu nay mới chắt chiu được dăm ba đồng mà thoắt cái đã tiêu tan hết cả. Lão Hạc cũng chẳng khá hơn, căn nhà lụp xụp không đủ hai người tan hoang, đồng ruộng, hoa màu tiêu tán, đã thế lão còn lăn ra bệnh. Nhưng đến lúc này tôi cũng chẳng thương tiếc gì lão, nhà tôi không lo được thì biết lo cho nhà ai nữa!
Lão nằm liệt giường nhưng tận hai tháng, chồng tôi thỉnh thoảng vẫn qua thăm, lão nhờ chồng tôi mua thuốc men chữa chạy, tôi đếm chừng chắc lão cũng đã vơ vét hết tài sản vào trận ốm đó rồi. Cũng may là lão kịp khoẻ, nhưng trong nhà lão chẳng tìm được thứ gì đáng giá cả. Chắc cùng đường quá nên lão quyết định bán cậu Vàng. Trước khi bán, lão còn qua nhà tâm sự với chồng tôi.
Ngồi rửa bát ngoài giếng, tôi cũng nghe lỏm được vài câu. Coi bộ lão Hạc đắn đo lắm mới đem bán cậu Vàng, còn chồng tôi thì tỏ vẻ quan tâm, nhưng tôi biết ông chẳng thông cảm gì, cái dân trí thức nghèo thì chỉ biết lo cho mấy cuốn sách của mình mà thôi. Còn về phần tôi, tôi cũng chẳng bất ngờ với quyết định này, sớm muộn gì thì cậu Vàng cũng có cái kết như vậy, giữ lại làm quái gì cho khổ thân. Tôi nghĩ thầm và khi lão về tôi cũng chẳng thèm liếc lão một cái. Với tôi, lão Hạc là người dở hơi, đã nghèo mà còn sĩ diện, bày đặt giữ lại con chó Vàng giống như nhà giàu, đúng là không biết thân biết phận.
Vài ngày sau, khi đang đi giặt đồ ngoài sông về ngang qua nhà lão Hạc, tôi chợt thấy hai thằng lính nhà ông trưởng làng nấp dưới khóm lau trước sân, tay chúng còn cầm cả dây thừng và một cái bao. Tôi chủ động tránh xa chúng vì bọn này chẳng tử tế gì. Thế mà vừa về đến nhà, tôi đã thấy lão Hạc chạy ngay đằng sau, trông lão vừa đáng thương vừa đáng cười: tóc tai rũ rượi, quần thì ống thấp ống cao, lão chạy đi mà như người sắp ngã đến nơi, vừa thở hổn hển lão vừa gọi:
– Cậu Vàng đi đời rồi, ông giáo ạ!
Đến bấy giờ tôi mới biết hai thằng lính đứng đấy làm gì. Nhưng lúc này tôi chỉ tập trung vào lão Hạc, tôi cũng gọi theo:
– Mình ơi, ra lão Hạc có chuyện rồi này!
Chồng tôi hối hả chạy ra, trên cổ choàng cái khăn, quần áo thì xộc xệch, chắc là ông mệt quá nên ngủ thiếp đi. Chắc cũng đoán ra sự tình, chồng tôi mới hỏi:
– Thế nó cho bắt dễ thế hả cụ?
Trong đầu tôi cũng thắc mắc, cậu Vàng vốn thông minh mà lại để chúng lôi đi dễ dàng như vậy sao. Lão Hạc chống tay lên trán, dường như không chịu nổi sức nặng của chính mình, lão đổ phịch xuống sân, mắt ngân ngấn nước:
– Khổ quá, ông giáo ạ! Nó có biết gì đâu. Tôi cho nó ăn, vừa ngồi vừa kể chuyện để nó ngoan. Thế là thằng Mục với thằng Xiên xồng xộc chạy vào xốc ngửa cậu Vàng lên rồi trói lại, dã man lắm. Rồi chúng cho cậu vào bao khiêng đi. Cậu cũng vẫy vùng ghê lắm, miệng vừa gặm lấy bao vừa rên ư ử, ánh mắt nhìn tôi như trách: “A! Lão già tệ bạc! Tôi đối xử với lão như thế mà lão cho tôi thế này đây…!”Tôi tiếc lắm,cậu ấy là kỉ vật của cháu nó mà tôi không giữ lại được, tôi tệ quá, tệ quá!
Đến nước này thì lão thật là khổ. Khuôn mặt của con người từng trải qua đau buồn hiện rõ lên: những nếp mắt trên trán dồn lại từng đường, xô vào nhau ép cho nước mắt chảy ra. Chồng tôi xúc động ngồi xuống cạnh lão nói:
– Cụ đừng buồn nữa, cụ làm thế là đúng! Mình bán nó là hoá kiếp cho nó, giúp nó đầu thai kiếp khác sướng hơn.
Tôi cũng nói một câu để an ủi:
– Thôi, hai ông cháu vào trong thềm ngồi để tôi đi đun ấm trà rồi lấy thuốc lào ra cho các ông hút đỡ buồn.
– Vợ tôi nói phải đấy cụ ạ! Với chúng mình thì thế là sướng rồi. Cụ vào ngồi đây.
Tôi toan đi đun nước thì lão Hạc ngăn lại, lão đã lau hết nước mắt nhưng mắt vẫn đỏ, lão xua tay:
– Bà giáo cứ mặc tôi. Bây giờ tôi xin phép có đôi lời với ông giáo một lúc.
Tôi bỗng giận lão Hạc vì xem thường lời mời của tôi, tôi không nói gì rồi lẳng lặng đi cho đàn gà ăn. Thật ra tôi cũng chẳng thương hại gì cho con chó của lão, tôi chỉ tủi cho lão đã già mà khổ, thế thôi, vậy mà lão vẫn cứ sĩ diện.
Tôi ngồi ngoài vườn nhưng cố tập trung vào chuyện giữa hai người kia. Đại loại lão Hạc nhờ chồng tôi giữ hộ 30 đồng để làm tang khi lão chết và giữ luôn mảnh vườn cho đến khi con trai lão về. Tôi chỉ biết được có thế vì có vẻ lão Hạc đã lặng lẽ ra về từ lúc nào, trông chồng tôi suy tư lắm.
Qua câu chuyện trên, tôi thấy lão Hạc thật khó hiểu, có lúc lão tốt, còn lúc thì thật giả tạo. Tôi thấy thế thật vì lão chẳng bao giờ tiếp nhận giúp đỡ của ai, ngay cả tôi đôi khi cũng không ưa gì lão, nhưng cũng phải công nhận rằng lão thật đáng thương, khốn khó.