Văn mẫu lớp 8: Phân tích một bài thơ mà em yêu thích

Văn mẫu lớp 8: Phân tích một bài thơ mà em yêu thích

Download.vn muốn giới thiệu tài liệu Bài văn mẫu lớp 8: Phân tích một bài thơ mà em yêu thích.

Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 8: Phân tích một bài thơ mà em yêu thích

Văn mẫu lớp 8: Phân tích một bài thơ mà em yêu thích

Phân tích một bài thơ mà em yêu thích

Tài liệu dành cho các bạn học sinh lớp 8 tham khảo để có thêm ý tưởng bài viết. Nội dung ngay sau đây.

Đề bài: Câu lạc bộ văn học trường em tổ chức cuộc thi viết với chủ đề: “Tác phẩm tôi yêu”. Em hãy viết một bài văn nghị luận phân tích một bài thơ mà em yêu thích để tham gia cuộc thi này.

Phân tích một bài thơ mà em yêu thích

    Dàn ý phân tích một bài thơ mà em yêu thích

    1. Mở bài

    • Giới thiệu tác phẩm, tác giả.
    • Khái quát những nét đặc sắc về chủ đề và một vài nét đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm.

    2. Thân bài

    • Nêu chủ đề chủ tác phẩm.
    • Phân tích một số nét đặc sắc về nội dung của tác phẩm.
    • Phân tích một vài nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật.

    3. Kết bài

    • Khẳng định lại giá trị của tác phẩm.
    • Nêu cảm nhận chung về tác phẩm.

    Phân tích một bài thơ mà em yêu thích – Mẫu 1

    “Cảnh khuya” được Bác Hồ sáng tác khi còn ở chiến khu Việt Bắc, trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954). Bài thơ đã cho thấy tình yêu thiên nhiên, cũng như tấm lòng yêu nước sâu nặng của nhà thơ.

    “Tiếng suối trong như tiếng hát xa
    Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”

    Trong bài “Côn Sơn ca”, Nguyễn Trãi cũng đã có hình ảnh so sánh độc đáo về tiếng suối:

    “Côn Sơn suối chảy rì rầm
    Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai”

    Còn trong “Cảnh khuya”, Hồ Chí Minh đã so sánh “tiếng suối” với “tiếng hát xa”. Từ đó, âm thanh tiếng suối trở nên có tâm hồn. Âm thanh tiếng suối trong trẻo, vang vọng tựa như tiếng hát từ xa vọng lại. Cùng với tiếng suối, vẻ đẹp của thiên nhiên còn được khắc họa qua ánh trăng. Trăng vốn quen thuộc trong thơ của Bác. Mỗi bài thơ, ánh trăng đều được khắc họa độc đáo. Câu thơ “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa” gợi ra hai cách hiểu. Ánh sáng của vầng trăng chiếu xuống những bông hoa rừng tạo ra bóng hoa in xuống mặt đất. Hay ánh trăng sáng chiếu xuyên qua từng tán cây cổ thụ, phản chiếu xuống mặt đất tạo ra hình thù như những bông hoa. Mỗi cách hiểu đều có sự độc đáo riêng nhưng đều gợi ra vẻ đẹp đầy thơ mộng của thiên nhiên đêm trăng nơi chiến khu Việt Bắc.

    Trong bức tranh thiên nhiên đó, con người đã xuất hiện với nỗi lòng suy tư:

    “Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
    Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”

    Nếu như trong thơ cổ, con người xuất hiện giữa thiên nhiên chỉ là một chấm buồn nhỏ bé:

    “Lom khom dưới núi tiều vài chú
    Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

    (Qua Đèo Ngang, Bà Huyện Thanh Quan)

    Thì trong thơ Bác, con người xuất hiện với tư cách là trung tâm trong bức tranh thiên nhiên đó. Nhân vật trữ tình trong “Cảnh khuya” hiện lên với trạng thái “chưa ngủ”. Có lẽ vì bức tranh thiên nhiên quá đỗi thơ mộng? Hay vì nỗi băn khoăn, lo lắng nào khác? Câu thơ cuối cùng đã giải thích lí do – “vì lo nỗi nước nhà”. Bác một lòng lo cho nhân dân, cho sự nghiệp cách mạng của đất nước. Cụm từ “chưa ngủ” được điệp lại hai lần nhằm nhấn mạnh nỗi lo âu, trăn trở của Bác. Từ đó, hình ảnh Hồ Chí Minh hiện lên thật đẹp đẽ, vị đại – một con người luôn vì nước, vì dân.

    “Cảnh khuya” miêu tả cảnh ánh trăng ở chiến khu Việt Bắc cũng như thể hiện tình yêu thiên nhiên, lòng yêu nước của nhà thơ. Bài thơ tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Hồ Chí Minh.

    Phân tích một bài thơ mà em yêu thích – Mẫu 2

    Nguyễn Đình Thi là nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam. Một trong những tác phẩm của ông có thể kể đến bài thơ “Lá đỏ”.

    “Gặp em trên cao lộng gió
    Rừng lạ ào ào lá đỏ”

    Cuộc gặp gỡ diễn ra trong không gian với “em” diễn ra ở rừng Trường Sơn “lộng gió”, “rừng lạ ào ào lá đỏ”, “bụi Trường Sơn nhòa trời lửa”. Các hình ảnh vẽ lên khung cảnh rừng Trường Sơn khoáng đạt, gợi ấn tượng vừa lãng mạn, hào hùng dữ dội. Những vẻ đẹp lạ lùng của rừng lá đỏ, những trận lá đổ ào ào như trút trong gió lộng trên những đỉnh núi cao giữa mùa thu của đại ngàn Trường Sơn, lửa bụi chiến tranh bay nhòa trời.

    Bốn câu thơ tiếp theo là hình ảnh con đường Trường Sơn mùa ra trận. Mở đầu là hình ảnh cô thanh niên xung phong đứng bên đường. Nhắc đến con đường Trường Sơn không thể thiểu hình ảnh những cô gái thanh niên xung phong, vì lòng yêu nước mà sẵn sàng lên đường.

    “Em đứng bên đường, như quê hương
    Vai áo bạc, quàng súng trường”

    Cách gọi “em gái tiền phương” nghe thật gần gũi, nhưng cũng đầy sự trân trọng. Hình ảnh của những cô gái hiện lên gợi cảm giác vừa thân thương, gần gũi, giản dị; vừa dũng cảm, kiên cường, vững vàng khi làm nhiệm vụ. Hình ảnh “em gái tiền phương” được so sánh với “như quê hương” trở thành biểu tượng của quê hương, đất nước. Họ cũng chính là biểu tượng cho cuộc chiến tranh nhân dân của dân tộc, cho khát vọng tự do, hòa bình của nhân dân.

    “Đoàn quân vẫn đi vội vã
    Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa.”

    Hình ảnh đoàn quân trên đường ra tiền tuyến gợi lên không khí hào hùng, thần tốc trong khung cảnh “bụi Trường Sơn nhòa trời lửa”. Từ láy “vội vã” đã làm nổi bật tinh thần khẩn trương, tranh thủ từng phút giây hành quân ra tiền tuyến cho kịp bước vào chiến trận cuối cùng, bất chấp gian khổ hiểm nguy. Hình ảnh đoàn quân là kết tinh của ý chí, tinh thần, khát vọng độc lập, tự do và chiến thắng của dân tộc.

    Hai câu thơ cuối của bài thơ là lời chào tạm biệt và lời hứa hẹn gặp lại giữa Sài Gòn khi đất nước ta thống nhất.

    “Chào em em gái tiền phương
    Hẹn gặp nhé giữa Sài Gòn…”

    Lời chào nghe thì rất đơn giản nhưng ẩn sâu bên trong lời chào đấy là lời hứa hẹn về ngày trở lại khi đất nước đã giành được độc lập. Chiến dịch cuối cùng của cuộc trường chinh ấy sẽ mang tên Bác, gặp nhau giữa Sài Gòn là gặp nhau trong ngày toàn thắng.

    Bài thơ “Lá đỏ” đã c a ngợi tình yêu đất nước, những đóng góp to lớn của người anh hùng chưa biết tên đã tạo ra sức mạnh dân tộc, góp phần làm nên chiến thắng trong những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm.

    Phân tích một bài thơ mà em yêu thích – Mẫu 3

    Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của dân tộc. Một trong những bài thơ hay của ông có thể kể đến Bạn đến chơi nhà. Bài thơ đã ca ngợi tình bạn chân thành, thắm thiết.

    “Đã bấy lâu nay, bác tới nhà
    Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa”

    Hai câu thơ mở đầu giới thiệu về việc người bạn đến chơi nhà. Cụm từ “đã bấy lâu nay” cho thấy khoảng thời gian kéo dài, rất lâu. Điều đó khiến cho nhân vật trữ tình rất vui vẻ, mong muốn được tiếp đón bạn thật chu đáo. Cách xưng hô “bác” thể hiện mối quan hệ gần gũi, thân mật. Nhưng hoàn cảnh lại không cho phép khi trẻ thì đi vắng, không có người để sai đi mua đồ tiếp đãi bạn mà chợ lại ở quá xa xôi.

    Nhưng không dừng lại ở đó, hoàn cảnh của nhân vật trữ tình càng thêm éo le hơn với một loại hình ảnh được khắc họa:

    “Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
    Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
    Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
    Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
    Đầu trò tiếp khách, trầu không có”

    Trong căn nhà của nhân vật trữ tình, mọi thứ đều chưa thể dùng để tiếp khách: “ao sâu – khôn chài cá”, “cải chửa ra cây, cà mới nụ”, “bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa”. Ngay cả “miếng trầu” quan trọng nhất bởi có câu “miếng trầu là đầu câu chuyện” thì ở đây cũng không có. Nhưng dù vậy, sự thiếu thốn đó vẫn không làm tăng thêm khoảng cách giữa những người bạn tri kỉ:

    “Bác đến chơi đây ta với ta”

    Câu thơ cuối như một lời khẳng định cho tình bạn tri kỉ của Nguyễn Khuyến. Trong thơ Bà Huyện Thanh Quan cũng đã từng sử dụng cụm từ “ta với ta”:

    “Dừng chân đứng lại trời, non, nước
    Một mảnh tình riêng ta với ta”

    Nhưng “ta với ta” trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan chỉ tác giả, đang chỉ có một mình nơi đèo Ngang hoang vu. Từ đó, câu thơ càng làm tăng thêm nỗi buồn và nỗi cô đơn, sợ hãi trước dòng thời gian trôi chảy.

    Còn trong thơ của Nguyễn Khuyến, cụm từ “ta với ta” lại mang ý nghĩa khác. Đại từ “ta” thứ nhất chính là nhân vật trữ tình, còn đại từ “ta” thứ hai chỉ người bạn. Từ “với” cho thấy mối quan hệ song hành, gắn bó. “Ta với ta” đồng nghĩa với tôi với bác, chúng ta với nhau. Cuộc sống tuy nghèo khó, thiếu thốn nhưng có bạn lại thấy vui vẻ, hạnh phúc. Tình bạn tri kỉ thật đáng ngưỡng mộ, cảm phục biết bao nhiêu.

    Bằng những hình ảnh giản dị, giọng thơ dí dỏm, bài thơ Bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến đã gửi gắm được một thông điệp ý nghĩa, giá trị về tình bạn.

    Phân tích một bài thơ mà em yêu thích – Mẫu 4

    Trương Nam Hương là một nhà thơ khá nổi tiếng. Một trong những tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến là bài thơ Trong lời mẹ hát:

    Mở đầu bài thơ, tác giả gợi nhắc về tuổi thơ của chủ thể trữ tình – người con:

    “Tuổi thơ chở đầy cổ tích
    Dòng sông lời mẹ ngọt ngào
    Đưa con đi cùng đất nước
    Chòng chành nhịp võng ca dao”

    Khổ thơ gợi liên tưởng về hình ảnh người mẹ đang bế đứa con nằm trên chiếc võng. Từng nhịp võng chòng chành, tiếng mẹ hát ru vang lên ngọt ngào đã đưa con vào giấc ngủ.

    Tiếp đến, tác giả đã nêu ra những hình ảnh xuất hiện trong lời ru của mẹ, đầy quen thuộc và thân thương:

    “Con gặp trong lời mẹ hát
    Cánh cò trắng, dải đồng xanh
    Con yêu màu vàng hoa mướp
    “Con gà cục tác lá chanh”.

    Đó là cánh đồng xanh mướt, cánh cò trắng bay lượn. Đó là những màu vàng của hoa mướp, con gà cục tác, lá chanh. Đó còn là lũy tre huyền thoại, dây trầu, vầng trăng hay hương cau. Tất cả đều thuộc về quê hương quen thuộc của con.

    Nhắc đến lời ru, người con nhớ về hình ảnh của mẹ hiện lên với công việc vất vả, cuộc đời lam lũ:

    “Con nghe thập thình tiếng cối
    Mẹ ngồi giã gạo ru con
    Lạy trời đùng giông đừng bão
    Cho nồi cơm mẹ đầy hơn…

    Con nghe dập dờn sóng lúa
    Lời ru hóa hạt gạo rồi
    Thương mẹ một đời khốn khó
    Vẫn giàu những tiếng ru nôi.

    Áo mẹ bạc phơ bạc phếch
    Vải nâu bục mối chỉ sờn
    Thương mẹ một đời cay đắng
    Sao lời mẹ vẫn thảo thơm.”

    Cả cuộc đời mẹ luôn vì con. Hình ảnh “áo mẹ bạc phơ bạc phếch” cho thấy nỗi vất vả, đắng cay của mẹ. Và người con lại thêm thương mẹ nhiều hơn.

    “Thời gian chạy qua tóc mẹ
    Một màu trắng đến xôn xao
    Lưng mẹ cứ còng dần xuống
    Cho con ngày một thêm cao”

    Thời gian chảy trôi qua tóc mẹ, làm cho mái tóc xanh mượt giờ trở nên bạc trắng, tấm lưng thẳng giờ đã còng dần xuống. Dấu vết của thời gian đã in hằn lên cơ thể của mẹ. Và mẹ càng già đi thì cũng là lúc con ngày càng trường thành.

    “Mẹ ơi trong lời mẹ hát
    Có cả cuộc đời hiện ra
    Lời ru chắp con đôi cánh
    Lớn rồi con sẽ bay xa…”

    Người con đã bộc lộ những tình cảm chân thật của mình dành cho người mẹ. Lời ru của mẹ chính là sức mạnh, chắp cánh cho con bay xa hơn. Dù có bay xa đến đâu, mẹ vẫn dõi theo con, động viên và chờ đợi con trở về trong vòng tay âu yếm.

    Như vậy, bài thơ Trong lời mẹ gửi gắm một tình mẫu tử thật thiêng liêng, đẹp đẽ. Trương Nam Hương đã đóng góp thêm một bài thơ hay viết về mẹ.

    Phân tích một bài thơ mà em yêu thích – Mẫu 5

    Vũ Đình Liên là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Bài thơ “Ông đồ” mang đậm phong cách sáng tác của ông, gửi gắm nhiều ý nghĩa.

    Hình ảnh ông đồ vốn rất đỗi quen thuộc trong xã hội xưa. Họ là những người có học thức, tài năng. Trong quá khứ, mỗi năm Tết đến, ông đồ lại bày mực, tàu giấy đỏ bên phố đông người để viết câu đối:

    “Mỗi năm hoa đào nở
    Lại thấy ông đồ già
    Bày mực tàu giấy đỏ
    Bên phố đông người qua.”

    Ông viết câu đối mà như người biểu diễn thư pháp khiến người xem tấm tắc khen ngợi, trân trọng. Đó là một thời vàng son, khi ông đồ được hết mực trân trọng. Để rồi biết bao nhiêu người phải tấm tắc khen ngợi tài năng:

    “Bao nhiêu người thuê viết
    Tấm tắc ngợi khen tài
    Hoa tay thảo những nét
    Như phượng múa rồng bay.”

    Hoa tay ý chỉ về tài năng thiên phú. Cách so sánh “như phượng múa rồng bay” cho thấy lòng ngưỡng mộ của tác giả với ông đồ. Nhưng thời gian trôi qua, cùng với sự phát triển của xã hội, ông đồ vẫn ngồi đấy, nhưng không có ai hay:

    “Nhưng mỗi năm mỗi vắng
    Người thuê viết nay đâu?
    Giấy đỏ buồn không thắm
    Mực đọng trong nghiên sầu…

    Ông đồ vẫn ngồi đấy,
    Qua đường không ai hay,
    Lá vàng rơi trên giấy;
    Ngoài trời mưa bụi bay.”

    Cụm từ “mỗi năm, mỗi vắng” ý chỉ theo thời gian con người dần lãng quên. Câu hỏi tu từ “Người thuê viết nay đâu?” bộc lộ tâm trạng buồn bã, nuối tiếc trước sự thay đổi này. Hình ảnh nhân hóa “giấy đỏ buồn không thắm”, “mực đọng trong nghiên sầu” gợi ra nỗi buồn của chính người nghệ sĩ khi không còn được biết đến. Dường như chính cảnh vật cũng nhuốm màu buồn bã, thê lương.

    “Năm nay đào lại nở,
    Không thấy ông đồ xưa.
    Những người muôn năm cũ
    Hồn ở đâu bây giờ?”

    Một mùa xuân nữa lại về, nhưng không thấy ông đồ xưa. Câu hỏi tu từ giống như một lời than trách cho số phận của ông đồ trước sự mai một của những giá trị truyền thống. Đây là một trong tác phẩm mà em yêu thích nhất của nhà thơ Vũ Đình Liên.

    Với thể thơ ngũ ngôn bình dị mà cô đọng, giọng thơ giàu cảm xúc kết hợp với sử dụng biện pháp tu từ độc đáo, bài thơ đã thể hiện tình cảnh đáng thương của “ông đồ” qua đó toát lên niềm cảm thương chân thành trước một lớp người đang tàn tạ và nỗi tiếc nhớ cảnh cũ người xưa của nhà thơ.

    Phân tích một bài thơ mà em yêu thích – Mẫu 6

    Một trong những nữ thi sĩ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam trung đại là Bà Huyện Thanh Quan. Tác phẩm nổi bật của bà phải kể đến bài thơ “Qua Đèo Ngang”.

    Mở đầu bài thơ, tác giả đã khắc họa thiên nhiên nơi đèo Ngang tràn đầy sức sống:

    “Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
    Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”

    Thời điểm mà Bà Huyện Thanh Quan bước đến đèo Ngang là khi “bóng xế tà” – kết thúc của một ngày. Đó là khi con người trở về nhà để nghỉ ngơi sau một ngày mệt mỏi. Trước mắt tác giả là thiên nhiên nơi đèo Ngang trần đầy sức sống. Cách sử dụng điệp từ “chen” kết hợp với hình ảnh “đá, lá, hoa” cho thấy sự sống đang trỗi dậy. Khung cảnh đèo Ngang được khắc họa chỉ bằng vài nét nhưng lại hiện ra đầy chân thực và sinh động.

    Và trong nền bức tranh thiên nhiên đó, con người xuất hiện. Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật đảo ngữ trong hai câu thơ tiếp theo: “lom khom – tiều vài chú”, “lác đác – chợ mấy nhà” cho thấy hình ảnh vài chú tiều với dáng đứng lom khom dưới chân núi, vài căn nhà nhỏ bé thưa thớt, lác đác bên sông. Cách sử dụng nhằm nhấn mạnh sự nhỏ bé của con người giữa thiên nhiên rộng lớn. Từ đó, sự cô đơn của tác giả càng được thể hiện rõ hơn.

    “Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc,
    Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.”

    Hình ảnh “con quốc quốc” và “cái gia gia” không chỉ là hình ảnh thực về hai loại chim (chim đỗ quyên, chim đa đa). Tiếng kêu “quốc quốc”, “đa đa” nghe da diết đã còn bộc lộ nỗi lòng nhớ thương của mình với đất nước, quê hương.

    Đến câu thơ “Dừng chân đứng lại, trời, non, nước” khắc họa hình ảnh nhà thơ một mình đứng tại nơi Đèo Ngang, đưa mắt nhìn ra xa cũng chỉ thấy thiên nhiên rộng lớn phía trước (có bầu trời, có núi non, dòng sông). Sự cô đơn của nhà thơ: “một mảnh tình riêng” – tình cảm riêng tư của nhà thơ không có ai để chia sẻ:

    “Dừng chân đứng lại trời, non, nước
    Một mảnh tình riêng, ta với ta”

    Cảnh vật thiên nhiên thì rộng lớn, còn tác giả chỉ có “một mảnh tình riêng”. Và cái mảnh tình con con ấy cũng chỉ có “ta với ta”. Nếu trong “Bạn đến chơi nhà”, Nguyễn Khuyến dùng cụm từ “ta với ta” – “Bác đến chơi đây ta với ta” để diễn tả tình bạn tri kỉ, thắm thiết. Thì trong bài Qua đèo Ngang, cụm từ “ta với ta” càng bộc lộ thêm nỗi cô đơn của tác giả.

    Qua Đèo Ngang gửi gắm nỗi lòng yêu quê hương, đất nước tha thiết của Bà Huyện Thanh Quan.

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *