Cảm nhận khổ 1 Mùa xuân nho nhỏ mang tới 8 bài văn hay nhất, kèm theo 3 dàn ý chi tiết, giúp các em học sinh lớp 9 thấy rõ khung cảnh thiên nhiên, đất trời tươi đẹp, bình yên khi mùa xuân tới.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải
Bên cạnh đó, còn cung cấp một số hình ảnh, từ ngữ đáng chú ý trong khổ 1 Mùa xuân nho nhỏ, giúp các em tái hiện bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp một cách dễ dàng hơn. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Download.vn để ngày càng học tốt môn Văn 9.
Cảm nhận khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải
Dàn ý cảm nhận khổ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ
Dàn ý 1
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Thanh Hải, bài thơ Mùa xuân nho nhỏ và khổ thơ đầu tiên.
Lưu ý: Học sinh tự lựa chọn cách viết mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp tùy thuộc vào năng lực của bản thân mình.
2. Thân bài
Hai câu thơ đầu: Khung cảnh mùa xuân được hiện ra với một vẻ đẹp thật bình dị, đơn sơ nhưng cũng không kém phần nên thơ và sâu sắc. Chỉ đơn giản là một bông hoa tím đang mọc lên giữa dòng sông nước xanh như ngọc thật nhẹ, thật hài hòa mà cũng rất dễ thương. Bức tranh ấy lại càng đẹp hơn, có “hồn” hơn khi cái màu tím được tô đậm lên thành “tím biếc”. Gam màu ấy đã được tô vẽ vào bức tranh thật khéo léo, tài tình, làm cho người đọc hình dung ra ngay trước mắt cả một bông hoa tím biếc, thật nhỏ, thật xinh, cũng có đủ khả năng để nhuộm tím cả bầu trời, cả không gian mùa xuân đang căng tràn sức sống.
→ Cảnh vật mùa xuân bình dị, giản đơn, và thâm trầm, tĩnh lặng.
Hai câu thơ tiếp: Không chỉ có hình ảnh mà còn có âm thanh của con chim chiền chiện hót vang trời làm xao xuyến cả đất trời, cả tâm hồn của người thi sĩ bằng những từ ngữ cảm thán như “ơi, hót chi”. Cả bầu không gian tĩnh lặng giờ đây trở nên sôi động, tưng bừng sức sống. Âm thanh tiếng chim hót tưởng chừng như nhỏ bé nhưng trong cái tĩnh lặng, nó như bao quát cả đất trời.
Hai câu thơ cuối: tiếng chim không chỉ ngân vang trên không trung và đất trời mà giờ đây nó đã cô đọng thành giọt, có hình thù, kích thước nhất định, cách chuyển đổi cảm giác này tưởng chừng vô lí nhưng lại rất hợp lí, làm nổi bật khung cảnh mù xuân với dòng sông, bông hoa tím biếc, tiếng chim chiền chiện cùng người thi sĩ khiến cho bức tranh trở nên bình dị mà vẫn tươi đẹp.
3. Kết bài
Khái quát lại nội dung, nghệ thuật của đoạn thơ đồng thời nêu cảm nghĩ về giá trị của tác phẩm.
Dàn ý 2
a. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm
b. Thân bài
* Bức tranh mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy sức sống:
- Bông hoa tím vươn mình khoe sắc giữa dòng sông xanh.
- Động từ “mọc” đảo lên đầu câu gợi ra nhịp vận động nhẹ nhàng, tinh tế của những cánh hoa
- Âm thanh tiếng chim chiền chiện làm cho bức tranh mùa xuân thêm rộn rã
- Giọt long lanh: Giọt sương đọng trên lá , cũng có thể là âm thanh tiếng chim chiền chiện ngưng đọng thành hình khối.
=> Mùa xuân xứ Huế được điểm tô bởi những sắc màu bình dị cảnh vật và những âm thanh rộn rã của sự sống.
* Tình cảm của nhà thơ trước bức tranh mùa xuân:
- Ngạc nhiên, xúc động khi bắt gặp những tín hiệu của mùa xuân.
- Từ “mọc” không chỉ gợi ra nhịp vận động của cánh hoa mà còn thể hiện sự bất ngờ đan xen lẫn sự hào hứng, mong chờ của tác giả khi phát hiện ra sự thay đổi nhẹ nhàng, tinh tế.
- Trân trọng, nâng niu từng vẻ đẹp của tự nhiên “tôi đưa tay tôi hứng”
- Cảm nhận mùa xuân bằng cả trái tim nồng nhiệt, bằng tất cả các giác quan (thị giác, khứu giác, cảm giác)
=> Cảm xúc đắm say, ngây ngất trước vẻ đẹp của mùa xuân, qua đó thể hiện tâm hồn lãng mạn của một con người yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết, nồng nhiệt.
c. Kết bài
- Khẳng định giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ.
Dàn ý 3
1. Mở bài
- Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm.
- Vị trí và nội dung khổ thơ: khổ thơ nằm ở phần đầu tác phẩm, nói về vẻ đẹp tinh khôi của thiên nhiên khi đất trời vào xuân.
2. Thân bài
Cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên đất nước (Khổ 1)
– Nhà thơ vẽ ra trước mắt độc giả bức tranh thiên nhiên mùa xuân với:
- Không gian: cao rộng của bầu trời, dài rộng của “dòng sông xanh”
- Âm thanh: âm thanh rộn rã vui tươi của “chim chiền chiện”
- Màu sắc: xanh của dòng sông, tím của hoa
⇒ Nghệ thuật đảo cú pháp: không gian cao rộng, màu sắc tươi sáng và âm thanh rộn ràng như thiết tha mời gọi níu giữ con người ở lại với cuộc sống, với mùa xuân xứ Huế tươi đẹp này
– Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân của thiên nhiên:
- Nhà thơ có cái nhìn trìu mến với cảnh vật
- Đưa tay ra “hứng” “giọt long lanh”: là giọt sương, cũng có thể là ẩn dụ chuyển đổi cảm giác chỉ tiếng chim “hót vang trời”
⇒ Cảm xúc ngây ngất trước vẻ đẹp của mùa xuân của thiên nhiên, khao khát hòa mình với thiên nhiên đất trời. Tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ, nói về giọt long lanh và tiếng chim thực chất là nói về những điều tinh túy, đẹp đẽ của cuộc sống con người. Đoạn thơ thể hiện lòng yêu thiên nhiên, đất nước con người, sự cống hiến thầm lặng, mối quan hệ cá nhân và cộng đồng.
3. Kết bài
- Khái quát những đặc sắc về nghệ thuật làm nên thành công của đoạn thơ: Thể thơ năm chữ, có nhạc điệu trong sáng, thiết tha gần gũi với dân ca, nhiều hình ảnh đẹp, giản dị, gợi cảm, nhiều so sánh và ẩn dụ sáng tạo.
- Thiên nhiên trữ tình, tinh khôi đã góp phần làm giàu thêm cho vẻ đẹp của đất nước.
- Liên hệ trình bày khát vọng cống hiến của thế hệ trẻ cho cuộc đời.
Cảm nhận khổ 1 Mùa xuân nho nhỏ
Với nét bút khoáng đạt, bức tranh mùa xuân thiên nhiên được nhà thơ Thanh Hải phác họa bằng hình ảnh tự nhiên, bình dị và gợi cảm:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc”.
Xứ Huế vào xuân với “dòng sông xanh”, với “bông hoa tím”. Sắc xanh hiền hòa của sông điểm xuyết nét chấm phá của bông hoa tím biếc gợi một sắc xuân tươi tắn, rực rỡ mà vẫn rất mực bình dị, dân dã mang đậm chất Huế mộng mơ. Động từ “mọc” được đảo lên đầu câu thơ gợi ấn tượng đậm nét về vẻ đẹp duyên dáng, và sức sống mạnh mẽ của bông hoa mùa xuân. Đó có thể là bông hoa lục bình, cũng có thể là bông trang, bông súng, với sắc tím biếc như đang vươn lên, đang trỗi dậy. Hoa tím biếc mọc nở trên dòng sông xanh – cái hài hòa của tự nhiên của màu sắc đem đến vẻ đẹp dịu nhẹ, thanh mát làm say đắm lòng người.
Bức tranh mùa xuân xứ Huế không chỉ tươi tắn, sống động sắc màu mà còn rực rỡ âm thanh:
“Ơi con chim chiền chiện,
Hót chi mà vang trời”.
Tiếng hót của chim chiền chiện mở ra một không gian cao vời, trong trẻo. Và cũng bởi tiếng chim lảnh lót đó vang lên làm xao động cả đất trời, làm xao xuyến cả tâm hồn thi sĩ nhạy cảm của nhà thơ. Với cảm thán từ “Ơi” và lời hỏi “hót chi?”, Thanh Hải đã đưa vào lời thơ giọng điệu ngọt ngào, dịu nhẹ, thân thương của người dân xứ Huế, diễn tả cảm xúc vui say đến ngỡ ngàng trước một mùa xuân tươi đẹp – một mùa xuân đậm chất quê hương và giàu chất thơ.
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”.
“Tôi đưa tay tôi hứng” là cử chỉ bình dị của nhà thơ nhưng lại bật lên mọi giác quan, gợi cảm đến lạ. Đó chính là nét đặc sắc trong thơ của Thanh Hải với tài hoa chuyển đổi từ thính giác và thị giác sang xúc giác. Hai từ “tôi hứng” đã thể hiện sự trân trọng và toát lên cái tôi trữ tình của tác giả trước hình ảnh mùa xuân rạng rỡ, đầy đủ sắc màu và âm thanh của xứ Huế mộng mơ, nơi đã đi vào những bài thơ và những khúc ca muôn thuở.
Cảm nhận khổ đầu Mùa xuân nho nhỏ
Mùa xuân, đó có thế gọi là một khoảng thời gian tươi đẹp nhất trong năm. Nói đến mùa xuân là ta dường như đang nói đến lòng yêu đời đang cuồn cuộn chảy và những mơ ước cháy bỏng của con người trong cuộc sống. Có lẽ chính vì vậy mà từ lâu mùa xuân đã trở thành một đề tài quen thuộc của các nhà thơ. Viết về mùa xuân, thì mỗi thi nhân đều có được những vần thơ thật hay, thật đặc trưng và nhất là đều mang được tính độc đáo riêng của mình, ở đây, ta chỉ nói về hình ảnh của mùa xuân trong bài thơ quen thuộc “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã phác họa lên một bức tranh mùa xuân trước mắt chúng ta giữa khung cảnh thiên nhiên và đất trời, vũ trụ:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi! Con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời…
Khung cảnh mùa xuân dần dần được hiện ra với một vẻ đẹp thật bình dị, đơn sơ nhưng cũng không kém phần nên thơ và sâu sắc. Ở đây, mùa xuân của Thanh Hải đến với ta không rực rỡ kiêu sa với cánh đào Hà Nội, với những nụ mai vàng đang phô trương sắc thắm, mà chỉ đơn giản là một bông hoa tím đang mọc lên giữa dòng sông nước xanh như lọc. Cánh hoa nghiêng mình xuống mặt nước tựa như gương ấy để nổi bật lên trên một khung trời được in bóng dưới lòng sông, với màu sắc thật nhẹ, thật hài hòa mà cũng rất dễ thương, Thanh Hải đã tạo nên cho bức tranh mùa xuân của mình một nét gì đó vô cùng độc đáo. Và bức tranh ấy lại càng được đẹp hơn, có “hồn” khi cái màu tím kia được nhà thơ tô đậm lên thành “tím biếc”. Gam màu ấy đã được tô vẽ vào bức tranh thật khéo léo, tài tình, làm cho người đọc chúng ta có thể hình dung ra ngay trước mắt cả một bông hoa tím biếc, thật nhỏ, thật xinh, nhưng dường như cũng có đủ khả năng để nhuộm tím cả bầu trời, cả không gian mùa xuân đang căng tràn sức sống. Cái màu tím ấy lan ra, chơi vơi, và khẽ lay động theo những ngọn gió xuân đang thổi lên từ lòng sông xanh mát rượi. Cảnh vật mùa xuân trong bài thơ có lẽ cũng bình dị, giản đơn, và thâm trầm, tĩnh lặng như vùng đất miền Trung quê hương tác giả. Xứ Huế vốn nổi tiếng mộng mơ với núi Ngự sông Hương, với những điệu hò mái nhì mái đẩy, giờ lại càng thêm xinh đẹp dưới ngòi bút tô vẽ của nhà thơ…
Bức tranh thiên nhiên kia nãy giờ đang tĩnh lặng như chất chứa suy tư, chợt sinh động và “sống” hẳn lên vì một nét đâm ngang của cánh chim chiền chiện:
Ơi! Con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng!
Bức tranh ấy giờ đây chợt đẹp hẳn lên và cũng độc đáo hơn vì có sự pha trộn giữa hai sắc màu: hài hoa (xanh, tím) và lung linh rực rỡ (long lanh). Câu thơ giờ cũng mang một nét gì đó lạ lùng chừng như là vô lí; con chim chiền chiện mà lại hót đến vang cả trời! Thực ra, khoảng trời ấy chính là khoảng không gian của riêng tác giả, trong tim tác giả, vì vậy mà chỉ có một mình tác giả mới cảm nhận được và nghe thấy được mà thôi. Tâm hồn nhà thơ nhỏ bé trước đất trời, chính vì vậy mà tất cả mọi cảnh của tâm hồn ấy cũng trở nên nhỏ xinh và dễ thương đến lạ: con chim nhỏ của mùa xuân nhỏ trong một khoảng không gian nhỏ. Nhưng chính cái “nhỏ” ấy đã phần nào tạo nên được nét độc đáo riêng trong thế đối lập của câu thơ. Tâm hồn ấy, trái tim ấy tuy nhỏ nhưng chỉ chính nó mới cảm nhận được hết mùa xuân của đất trời và vũ trụ thiên nhiên… Và giờ đây tiếng chim lại vang lên, tiếng chim quen thuộc của đồng quê dân dã:
Ồ! tiếng hát vui say
Con chim chiền chiện
Trên đồng lúa chiêm
Xuân chao mình bay liệng…
(Tố Hữu)
Say mê với tiếng chim, trước mắt nhà thơ dường như xuất hiện những giọt long lanh đang nhẹ nhàng rơi xuống:
“Từng giọt long lanh rơi,
Tôi đưa tay tôi hứng!”.
“Từng giọt long lanh”… giọt gì? Giọt nắng, giọt sương, giọt hạnh phúc, hay là giọt xuân đang êm đềm rơi xuống từ cánh chim chiền chiện nhỏ đang tung mình bay lượn để ban phát mùa xuân đến cho mọi người? Nhưng chính xác hơn nhất có lẽ là giọt tiếng chim, giọt tiếng chim mà chỉ có một mình tác giả cảm nhận được, và “trông thấy” được! Nhìn được những vật mà mắt thường không thấy có lẽ do Thanh Hải đang nhìn bằng con mắt của một nhà thơ. Tiếng chim thì nghe, nhưng ở đây tác giả lại nhìn. Hiện tượng chuyển đổi cảm giác này lẽ ra chỉ có được ở những người say. Câu thơ đang vô lí giờ lại bỗng nhiên hợp lí. Quả thật Thanh Hải đang say, ông say trước khung cảnh thiên nhiên vào mùa xuân thật xinh tươi, đẹp đẽ, say vì nàng chúa xuân quá diễm lệ, yêu kiều. Và từ đó trân trọng, thật nhẹ nhàng, tác giả đã đưa tay ra hứng để đón lấy những điều may mắn, cái tốt đẹp và cái “lộc” của mùa xuân đã ban tặng cho tâm hồn của mỗi con người, và đặc biệt là cho tác giả.
Càng đọc thơ Thanh Hải, ta càng thêm cảm thấy thú vị và say sưa. Nhất là sau khi đọc “Mùa xuân nho nhỏ”, ta như thấy được cả men rượu của mùa xuân đang lan tỏa vào đất trời, hòa vào trong lòng mùa xuân và trong lòng người đọc. Đây quả thật đúng là mùa một “mùa xuân nho nhỏ” mà Thanh Hải đã dâng tặng cho đời. Nếu chúng ta biết rằng Thanh Hải viết bài thơ này khi ông đang nằm trên giường bệnh, ông viết không phải vào dịp xuân… và chỉ ít tháng thôi ông đã ra đi mãi mãi… dù sao, bông hoa tím biếc chung với đời, dòng sông xanh biếc của hi vọng, của niềm tin với đời vẫn là hình ảnh nhỏ nhẹ nói với ta bao điều…
Cảm nhận khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 1
Bức tranh mùa xuân thiên nhiên trong 6 câu thơ đầu được vẽ bằng vài nét phác hoạ nhưng rất đặc sắc:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”.
Không gian cao rộng của bầu trời, rộng dài của dòng sông, màu sắc hài hoà của bông hoa tím biếc và dòng sông xanh – đặc trưng của xứ Huế. Rộn rã, tươi vui với âm thanh tiếng chim chiền chiện hót vang trời, tiếng chim trong ánh sáng xuân lan toả khắp bầu trời như động thanh “từng giọt long lanh rơi”.
Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân đất trời thể hiện qua cái nhìn trìu mến với cảnh vật, trong những lời bộc lộ trực tiếp như lời trò chuyện với thiên nhiên “ơi, hót chi… mà…”. Đặc biệt cảm xúc của nhà thơ được thể hiện trong một động tác trữ tình đón nhận vừa trân trọng vừa tha thiết trìu mến với mùa xuân: đưa tay hứng lấy từng giọt long lanh của tiếng chim chiền chiện.
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”.
Có thể hiểu câu thơ theo nhiều cách khác nhau. Trước hết, “giọt long lanh” là những giọt mưa mùa xuân, giọt sương mùa xuân, trong sáng, rơi xuống từng nhành cây, kẽ lá như những hạt ngọc.
Giọt long lanh cũng có thể hiện theo nghĩa ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: tiếng chim từ chỗ là âm thanh cảm nhận bằng thính giác, chuyển thành từng giọt long lanh ánh sáng và sắc màu được cảm nhận bằng thị giác, chi tiết “tôi đưa tay tôi hứng” còn cho thấy giọt âm thanh này có thể cảm nhận cả bằng xúc giác.
Dù hiểu theo cách nào thì hai câu thơ vẫn thể hiện cảm xúc say sưa ngây ngất của tác giả trước cảnh đất trời xứ Huế vào xuân, thể hiện mong muốn hoà vào thiên nhiên đất trời trong tâm tưởng giữa mùa đông giá lạnh khiến ta vô cùng khâm phục.
Cảm nhận khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 2
Gợi hứng thú từ thơ mùa xuân là một bông hoa tím biếc mọc giữa dòng sông xanh. Nhà thơ viết:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc”
Từ khi mọc lên cho tới lúc xòe cánh phô màu tím biếc, hình như ta được chứng kiến sự sinh thành của bông hoa – tín hiệu mùa xuân. Rồi tín hiệu màu sắc được phụ hoạ thêm bởi tín hiệu âm thanh “vang trời” của những tiếng chim chiền chiện. Âm thanh đặc biệt của tiếng chim “mang một mảnh vườn của đất đai vườn tược” (Xuân Diệu) như được ngưng, được đọng thành từng giọt long lanh. Phải chăng đó chỉ là những giọt âm thanh, hay đó là những giọt mùa xuân. Khó mà phân biệt rạch ròi, nhưng màu tím biếc, những âm thanh náo nức rộn ràng và những giọt mưa – âm thanh long lanh đã báo hiệu rằng mùa xuân đến. Xuân của đất trời, của thiên nhiên đã đến. Khi ấy xuân của đất trời hoà với mùa xuân của con người hối hả, xôn xao. Mùa xuân của hoa, của chim, nhưng mùa xuân còn của cây cỏ với màu sắc đặc trưng: màu xanh lộc biếc. Mùa xuân gắn liền với những con người vất vả gian lao nhất, nhưng họ cũng vinh quang nhất vì họ mang trên mình mùa xuân, họ làm ra mùa xuân.
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc dắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương lúa”
Chắc không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ chọn người cầm súng và người ra đồng. Vấn đề không phải chi vì họ vất vả nhất, mà vì họ đại diện cho hai nhiệm vụ cơ bản của đất nước: sản xuất và chiến đấu – xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; họ còn là đại diện của tiền tuyến và hậu phương. Những người chiến đấu, những người sản xuất làm thành giai điệu chính trong bản hợp xướng mùa xuân. Mùa xuân lớn của đất trời, của dân tộc.
Nhưng điều làm nên nét độc đáo của bài thơ, làm cho nó không lẫn vào các bài thơ xuân vốn có một số lượng kỉ lục trong thơ ca xưa nay chính là mùa xuân nho nhỏ, mùa xuân riêng trong hai khổ thơ này:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”
Nếu khi bắt đầu vào bài, nhà thơ xưng tôi (Từng giọt long lanh rơi. Tôi đưa tay tôi hứng) thì ở đây tác giả đã chuyển sang xưng ta. Hoàn toàn không phải là sự ngẫu nhiên. Với chữ “ta” vừa là số ít lại vừa là số nhiều, tác giả có thể nói được cái riêng biệt, cụ thể, cá thể, đồng thời lại nói được cái khái quát, cái chung. Đây là tâm sự, là quan niệm, là phương châm sống và làm việc của nhà thơ, hay cũng là của những con người chân chính? Đây là ước vọng của một con người từ khi vào đời ở tuổi hai mươi cho đến khi sắp từ biệt cõi đời với mái đầu tóc bạc, hay cũng là ước vọng của mọi lớp người từ trẻ tới già? Nói chuyện riêng của mình và cũng là nói cho tất cả mọi người cứ tự nhiên như thế vì trước hết nhà thơ đã làm một nốt trầm, làm mùa xuân nho nhỏ rất khiêm nhường; tác giả đã “Đứng vào điều cao thượng của cả một nhân loại vô danh” (Vũ Quần Phương).
Song khổ thơ cuối cùng này, dù vẫn xưng “ta” nhưng chữ ta này đã mang nhiều màu sắc riêng, tâm sự riêng của nhà thơ. Nếu chúng ta biết được rằng bài thơ được viết trong những ngày nhà thơ ốm nặng và ít lâu sau tác giả qua đời, chúng ta càng yêu quý tiếng hát của Thanh Hải.
Phải yêu đời lắm, lạc quan lắm mới hát lên được. Trong điệu dân ca xứ Huế, nước non ngàn dặm, thật bát ngát, mênh mông. Nhưng khi con người suốt đời nguyện làm mùa xuân nho nhỏ, làm một nốt trầm, thì nhà thơ có thể hát, và nốt trầm xao xuyến ấy sẽ còn mãi mãi trong nhịp phách tiền của khúc hát quê hương, sẽ trải mãi tình theo nước non ngàn dặm.
Cảm nhận khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 3
“Mùa xuân nho nhỏ” là tác phẩm tiêu biểu nhất của nhà thơ Thanh Hải, được viết vào những ngày cuối cuộc đời ông. Bài thơ là khúc hát đắm say của một tâm hồn nồng nhiệt, thiết tha với đất nước, với cuộc đời tươi đẹp. Trước vẻ đẹp của mùa xuân, lòng nhà thơ dạt dào cảm xúc. Tất cả được thể hiện rõ ràng nhất qua khổ 1 của bài thơ.
Bức tranh thiên nhiên mùa xuân trong 6 câu thơ đầu được vẽ bằng những hình ảnh, màu sắc, âm thanh hài hòa, sống động, tràn đầy sức sống:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”.
Không gian được đo bằng độ cao xã của bầu trời và độ rộng dài của dòng sông; được tô vẽ bằng màu sắc hài hoà của bông hoa tím biếc và dòng sông xanh, một nét rất đặc trưng của xứ Huế:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Biện pháp đảo ngữ ngay lập tức tạo ấn tượng mạnh mẽ với người đọc. Hình ảnh bông hoa tím mọc lên giữa dòng sông vừa gây kinh ngạc vừa thu hút cái nhìn. Không phải mọc trên bờ, mà là mọc lên giữa dòng sông. Bông hoa mọc lên bất chấp quy luật là biểu hiện của sức sống. Hình ảnh có giá trị khắc sâu ấn tượng về sức sống trỗi dậy và vươn lên của mùa xuân. Tưởng như bông hoa tím biếc kia đang từ từ, lồ lộ mọc lên, vươn lên, xòe nở trên mặt nước xanh của dòng sông xuân.
Không gian được mở rộng ra với hình ảnh dòng sông đôi bờ xanh thắm. Cái màu xanh ấy phản ánh được màu xanh của bầu trời, của cây cối hai bên bờ, cái màu xanh quen thuộc mà ta có thể gặp ở bất kì một con sông nào ở mọi miền quê đất nước.
Không gian ấy cũng rộn rã, tươi vui với âm thanh tiếng chim chiền chiện hót vang trời. Lời gọi ấy mới đầu nhen nhóm ở một góc trái tim, nhưng con người nhà thơ và những cảnh sắc, âm thanh kia như đã hòa vào làm một, cảm xúc từ đó mà òa ra thành lời, thật ngỡ ngàng, thật thích thú:
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Tiếng chim trong trẻo vang động khắp bầu trời như đọng thành “từng giọt long lanh rơi”. Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân đất trời thể hiện qua cái nhìn trìu mến với. Cảnh vật, trong những lời bộc lộ trực tiếp như lời trò chuyện với thiên nhiên. Đặc biệt cảm xúc của nhà thơ được thể hiện trong một động tác trữ tình: đưa tay hứng lấy từng giọt long lanh của tiếng chim chiền chiện vừa trân trọng vừa tha thiết trìu mến với mùa xuân:
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”.
Có thể hiểu câu thơ theo nhiều cách khác nhau. Trước hết, “giọt long lanh rơi” kìa là những giọt mưa mùa xuân, giọt sương mùa xuân, trong sáng rơi xuống từng nhành cây, kẽ lá trong buổi sớm tinh mơ như những hạt ngọc long lanh ánh trời.
Mặt khác, “giọt long lanh rơi” cũng có thể được hiểu theo nghĩa ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Tiếng chim từ chỗ là âm thanh (cảm nhận bằng thính giác) chuyển thành “từng giọt” (hình và khối, cảm nhận bằng thị giác), từng giọt ấy lại long lanh ánh sáng. Bởi thế, nhà thơ dùng cả cơ thể cảm nhận:“Tôi đưa tay tôi hứng”.
Dù hiểu theo cách nào thì hai câu thơ vẫn thể hiện cảm xúc say sưa, ngây ngất của tác giả trước cảnh đất trời xứ Huế vào xuân, thể hiện mong muốn hòa mình vào thiên nhiên đất trời trong tâm tưởng giữa mùa đông giá lạnh khiến ta vô cùng khâm phục.
Đọc thơ Thanh Hải, ta lại nhớ đến những bức tranh mùa xuân được vẽ bằng thơ trong biết bao thi phẩm. Xuân Diệu đứng trước thanh sắc màu xuân mà không thể kìm giữ nổi lòng mình. Dưới con mắt của thi sĩ, bức tranh thiên nhiên mùa xuân rực rỡ sắc màu, rạo rực tình ái:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi…”
Với Nguyễn Bính, mùa xuân xanh biếc sắc trời, sắc lúa:
“Mùa xuân là cả một mùa xanh
Giời ở trên cao, lá ở cành
Lúa ở đồng anh và lúa ở
Đồng nàng và lúa ở đồng quanh”.
Với Hàn Mặc Tử, mùa xuân đang khoác lên tấm áo mơ màng, tình tứ:
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi má nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang”.
Không quá nồng nhiệt như Xuân Diệu, bí ẩn như Nguyễn Bính hay điệu đà như Hàn Mặc tử, Thanh Hải nhẹ nhàng khám phá mùa xuân tươi xanh và rộn rã. Khổ thơ mở đầu đã mở ra một bức tranh xứ Huế thật đẹp: có hình ảnh, có màu sắc, âm thanh được họa lên từ những vần thơ có nhạc…. Thiên nhiên, nhất là mùa xuân vốn hào phóng, sẵn sàng trao tặng con người mọi vẻ đẹp nếu con người biết mở rộng tấm lòng. Thanh Hải đã thực sự đón nhận mùa xuân với tất cả sự tài hoa của ngòi bút, sự thăng hoa của tâm hồn. Nhà thơ lặng ngắm, lặng nghe bằng cả trái tim xao động, bằng trí tưởng tượng, liên tưởng độc đáo.
Cảm nhận khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 4
Cảm hứng xuân phơi phới của Thanh Hải đã dệt nên một bức tranh xuân rất đẹp, đầy sức sống và tràn ngập niềm vui rạo rực. Bức tranh ấy được chấm phá bằng rất ít chi tiết: một dòng sông xanh, một bông hoa tím biếc, một tiếng chim chiền chiện. Những nét chấm phá ấy đã vẽ ra được một không gian cao rộng, màu sắc tươi thắm của mùa xuân và cả âm thanh vang vọng, tươi vui của chim chiền chiện.
Ngay hai câu mở đầu đã gặp một cách viết khác lạ:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc”.
Không viết như bình thường: “một bông hoa tím biếc; Mọc giữa dòng sông xanh” mà đảo lại: “Mọc giữa dòng sông xanh; Một bông hoa tím biếc”. Động từ “mọc” đặt ở đầu khổ thơ của bài thơ là một dụng ý nghệ thuật của tác giả Nhà thơ muốn khắc sâu ấn tượng về sức sống trỗi dậy và vươn lên của mùa xuân. Tưởng như bông hoa tím biếc kia đang từ từ, lồ lộ mọc lên, vươn lên, xoè nở trên mặt nước xanh của dòng sông xuân.
Hàn Mặc Tử có bài thơ Mùa xuân chín có một điểm nhìn không khác Thanh Hải. Hàn Mặc Tử chọn màu vàng của mái nhà tranh lá mới hòa lẫn với màu xanh tươi của cỏ cây làm màu chủ đạo của bức tranh mùa xuân tươi xanh. Bức tranh mùa xuân vì thế trở nên sinh động khác thường. Trong đoạn trích Cảnh ngày xuân (trích Truyện Kiều), Nguyễn Du cũng đã có cách phối màu tài tình như thế:
“Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Trên nền cảnh màu xanh bất tận của cỏ non và trời cao, xuất hiện mấy đóa hoa lê nhỏ bé như nổi bậc làm điểm nhấn của bức tranh mùa xuân rạo rực sức sống. Thủ pháp điểm chỉ tài tài khiến cho bức tranh vừa rộng đến vô cùng, vừa thu gọn tầm nhìn trên một đóa hoa lê trắng bình dị nhưng ấn tượng.
Thanh Hải có một lựa chọn khác biệt. Ông vẫn lấy nền xanh làm chủ đạo và điểm tô trên cái nền ấy bông hoa tím. Có thể thấy, màu tím trên nền xanh không hề nổi bật nhưng gợi được tình sâu. Một màu tím se sắt, mơ mộng và hướng về nguồn cội quê hương xứ Huế. Màu ín của tấm lòng thủy chung, của tâm hồn mơ mộng, chứa đầy những khát khao. Màu tím của sức trẻ, của sự dung hòa đến vô cùng vô tận.
Mở rộng không gian, nhà thơ hướng tầm nhìn lên bầu trời cao xanh. Tiếng chim chiền chiện tạo nên một nét đẹp nữa của mùa xuân:
“Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”.
Nhạc điệu của câu thơ như giai điệu của mùa xuân tươi vui và rạo rực. Các từ “ơi”, “chi”, mang chất giọng ngọt ngào đáng yêu của người xứ Huế (thân thương, gần gũi). Câu thơ cứ như câu nói tự nhiên không trau chuốt từ ngữ nhưng vẫn mang âm hưởng thi ca. Câu hỏi tu từ “hót chi” thể hiện tâm trạng đùa vui, ngỡ ngàng, thích thú của tác giả trước giai điệu của mùa xuân.
Quả thật, thiên nhiên nhất là mùa xuân vốn hào phóng, sẵn sàng trao tặng con người mọi vẻ đẹp nếu con người biết mở rộng tấm lòng. Thanh Hải đã thực sự đón nhận mùa xuân với tất cả sự tài hoa của ngòi bút, sự thăng hoa của tâm hồn. Nhà thơ lặng ngắm, lặng nghe bằng cả trái tim xao động, bằng trí tưởng tượng, liên tưởng độc đáo:
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”.
Về hai câu thơ trên, có hai cách hiểu: từng giọt ở đây là giọt mưa xuân long lanh trong ánh sáng của trời xuân; nhưng cũng còn có thể hiểu hai câu này gắn với hai câu trước: Tiếng chim đang vang xa bỗng gần lại, rõ ràng, tròn trịa như kết thành những giọt sương óng ánh sắc màu, rơi rơi, rơi mãi tưởng chừng không dứt và nhà thơ đưa tay hứng từng giọt âm thanh ấy.
Như vậy từ một hình tượng, một sự vật được cảm nhận bằng âm thanh (thính giác), tác giả đã chuyển đổi biến nó thành một sự vật có thể nhìn được bằng mắt (thị giác) bởi nó có hình khối, màu sắc rồi lại được như cảm nhận nó bằng da thịt, bằng sự tiếp xúc (xúc giác). Nghệ thuật ví ngầm, chuyển đổi cảm giác quả đã đạt tới mức tinh tế đáng khâm phục.
Khổ 1 bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” đã biểu hiện niềm say sưa, ngây ngất, xốn xang, rạo rực của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời lúc vào xuân. Chắc hẳn trong lòng thi sĩ đang dạt dào tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu cuộc đời.
Cảm nhận khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 5
Thanh Hải là nhà thơ trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Sông Hương Núi Ngự đã nuôi dưỡng tâm hồn nhà thơ trong trẻo mà đằm thắm, suốt đời gắn bó với cách mạng với quê hương đất nước tới hơi thở cuối cùng. Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là tác phẩm nổi bật của ông. Đọc bài thơ người đọc rất ấn tượng với khổ thơ đầu của bài thơ:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được ra đời trong hoàn cảnh rất đặc biệt trước khi nhà thơ sắp vĩnh biệt cuộc đời. Vậy mà bài thơ vẫn rất trẻ trung và đầy khát vọng cống hiến. Bài thơ được cấu tạo theo mạch cảm xúc dạt dào của tác giả. Bằng sự quan sát tinh tế các giác quan nhạy cảm nhưng hơn thế là cả một tấm lòng yêu quê hương Thanh Hải đã vẽ bức tranh xuân thật nhẹ nhàng đằm thắm giản dị nhưng hết sức thơ mộng:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”
Tín hiệu mùa xuân đã về được nhà thơ cảm nhận bằng thị giác: trên dòng sông xanh của quê hương mọc lên một bông hoa tím biếc. Màu xanh của sông làm nền tô điểm cho màu hoa tím biếc. Động từ “mọc” nằm ở đầu câu thơ gợi tả sự ngạc nhiên vui thú là niềm vui hân hoan đón chào mùa xuân đến. Bông hoa tím biếc mang đặc trưng của xứ Huế thâm trầm, mang đặc trưng của chiếc áo dài Huế. Bông hoa ấy có thể là hoa lục bình hoặc hoa súng mà ta vẫn thường gặp và được cảm nhận qua sự say mê ngắm nhìn của Lê Anh Xuân:
“Hoa lục bình tím cả bờ sông”
Trở về quê nội
Sắc xanh, màu tím biếc đã tạo nên bức tranh xuân với những đường nét chấm phá mặn mà đằm thắm. Đó là bức tranh đa chiều mà nhìn vào con người như đọc được điệu hồn quê hương.
Không gian của mùa xuân được mở rộng theo chiều cao, nhà thơ vui sướng lắng tai nghe tiếng chim chiền chiện hót trên bầu trời trong trẻo. Từ “ơi” nằm ở đầu dòng thơ là tiếng gọi ngọt ngào xúc động biểu lộ niềm vui ngây ngất khi nghe âm thanh của tiếng chim. Tiếng chim chiền chiện hót gọi xuân về hay tiếng lòng náo nức của người dân xứ Huế của người dân đất Việt trước xuân sang. Tiếng chim ngân vang rung động đất trời đem niềm vui hân hoan trong lòng người.
Ngắm dòng sông ngắm bông hoa đẹp nghe tiếng chim hót nhà thơ bồi hồi sung sướng bất giác đưa tay ra hứng từng giọt âm thanh từng giọt sương sớm hay từng giọt mưa xuân long lanh:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Cử chỉ của nhà thơ bình dị mà trân trọng là cử chỉ thể hiện sự xúc động sâu xa. Đó là sự liên tưởng đầy chất thơ qua nghệ thuật chuyển đổi cảm giác thính giác thị giác xúc giác đã được huy động để cảm nhận những hình khối thẩm mỹ của âm thanh.
Huế đẹp thơ mộng đã đi vào lòng người đã đi vào thơ ca muôn thuở, mùa xuân xứ Huế đã là đề tài để thi sĩ Hàn Mặc Tử viết nên “mùa xuân chín” cách bài thơ mùa xuân nho nhỏ gần nửa thế kỉ:
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trưa tà áo biếc
Trên giàn thiên lí bóng xuân sang”
Như vậy, qua khổ thơ đầu của bài thơ Thanh Hải đã gợi lên trước mắt người đọc bức tranh thiên nhiên xứ Huế vào mùa xuân. Bức tranh ấy có bông hoa màu tím, có tiếng chim hát vang trời. Đưa đến cho người đọc cảm nhận tinh tế về mùa xuân xứ Huế.
Cảm nhận khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 6
“Thơ ông chân chất, bình dị, đôn hậu và chân thành… Đối với nền thơ chống Mỹ của miền Nam, Thanh Hải là một trong những cây bút có nhiều đóng góp”, đó là những lời nhận xét chân thành mà Trần Hữu Tả đã dành cho nhà thơ Thanh Hải. Thanh Hải là một nhà thơ cách mạng, đi qua cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cuộc đời ông gắn liền với mảnh đất Thừa Thiên – Huế thân yêu kể cả trong những ngày tháng kháng chiến ác liệt liệt nhất. Trong cả đời thơ của mình Thanh Hải đã dành phần lớn để viết những bài thơ ca ngợi quê hương đất nước, ca ngợi cách mạng thể hiện tấm lòng muốn cống hiến hiến hết mình cho Tổ quốc, cho nhân dân. Và đến những ngày tháng cuối đời khi nằm trên giường bệnh, ông vẫn sáng tác ra những vần thơ thật hay thật tươi đẹp về mùa xuân của thiên nhiên của cuộc đời, bộc lộ sâu sắc tấm lòng tha thiết của nhà thơ với dân tộc, với đất nước. Trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ này, qua lăng kính của một người sắp từ giã thế gian người ta vẫn thấy một mùa xuân nơi xứ Huế thân yêu thật rực rỡ, thật trong trẻo và đẹp đẽ.
“Mùa xuân nho nhỏ” được viết vào tháng 11 năm 1980. Đây là thời điểm tác giả Thanh Hải đang nằm trên giường bệnh, chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo cũng là đối mặt với cái chết đang hiện hữu cận kề. Tuy vậy, qua con mắt của thi nhân và khối óc tưởng tượng của một con người yêu thiên nhiên, cảnh vật sâu sắc, Thanh Hải đã sáng tạo nên những vần thơ thật ý nghĩa. Ngay ở khổ thơ đầu tiên đã toát lên được tình yêu thiên nhiên đất trời mãnh liệt:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Khổ thơ như một bức tranh thiên nhiên đầy sắc xuân. Đó là bức tranh có những nét chấm phá, phác họa vô cùng tinh tế. Từ “mọc” xuất hiện ngay từ đầu câu thơ cho ta một ấn tượng mạnh. Một động từ mạnh xuất hiện như thể hiện sự vươn dậy, sự khỏe khoắn, một sức sống như tiềm tàng bí ẩn bỗng chốc vụt trỗi dậy. Người đọc đặt ra câu hỏi “Cái gì Mọc giữa dòng sông xanh”? Điều này gây tò mò đối với độc giả thì ngay lập tức, câu thơ thứ hai đã giải đáp điều ấy: “Một bông hoa tím biếc”. Hai câu thơ có sử dụng biện pháp đảo ngữ.
Trong câu thơ tiếp “Một bông hoa tím biếc”, bông hoa ấy có lẽ là một bông hoa súng, bông hoa trang, hoặc cũng có thể là bông lục bình trôi trong “Hoa lục bình tím cả dòng sông”, chúng đều nổi danh là loài hoa mạnh mẽ kiên cường, là biểu tượng của làng quê Việt Nam, dẫu dập dềnh sóng nước nhưng vẫn giữ riêng cho mình những nét đẹp thân thương. Thêm nữa sắc tím của loài hoa này lại gợi người đọc liên tưởng đến xứ Huế mộng mơ với tà áo tím của những cô gái vùng đất kinh kỳ, nơi mà tác giả đã gắn bó và yêu thương cả cuộc đời. Hai gam màu, một xanh một tím dẫu đều là những gam màu lạnh, thế nhưng khi kết hợp lại với nhau, sắc xanh làm nền, sắc tím trở thành nét chấm phá, tô điểm, gợi ra bức tranh xuân rực rỡ, sống động, đậm vị Huế thương, rất tự nhiên, hài hòa và nền nã dịu dàng.
Bên cạnh bức họa chấm phá với nét thi pháp cổ điển, thì bức tranh xuân của Thanh Hải còn gây ấn tượng với người đọc bằng một tiếng chim lảnh lót vang trời của chú chim chiền chiện. Âm thanh ấy phá tan cái sự tĩnh lặng của cảnh vật, thổi vào không gian cái rạo rực, sôi động và yêu đời, mang đến không khí vui tươi, phấn khởi. Hơn thế nữa tiếng chim chính là đại diện cho bầu trời, nếu trong câu thơ trước chúng ta chỉ có thể mường tượng ra bầu trời thông qua màu xanh biếc của dòng sông, thì ở đây tiếng hót vang của loài chim đã mang đã mang ta đến một không gian rộng rãi và khoáng đạt thật sự đi theo cánh chim bay lượn. Như vậy bức tranh đã đủ cả trời, cả đất, rộng lớn vô cùng, khiến người ta chỉ muốn nhập vào đó mà thỏa sức bay nhảy. “Ơi con chim chiền chiện/ Hót chi mà vang trời” chính là lời cả thán tha thiết của nhà thơ trước sự thay đổi của thiên nhiên, sống dậy trong lòng người những rung cảm mạnh mẽ, thể hiện tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu mùa xuân và cuộc đời sâu nặng. Đọc hai câu thơ ấy người ta chẳng thể nghĩ nổi đó là nỗi lòng của một con người đã bước dần đến cửa tử, bởi tiếng lòng ấy sao tươi vui, sao xúc động và thích thú quá. Như vậy có thể thấy, bức tranh xuân, tiếng chim lảnh lót đã làm sống dậy cả một tâm hồn tưởng héo úa, khai mở trái tim, niềm vui sống, xóa mờ đi những đau đớn của bệnh tật và cái chết đang tới gần.
Có một nhà phê bình đã từng viết về “Mùa xuân nho nhỏ” giống như “Một tác phẩm kết tinh của tâm hồn người sáng tác, vừa là sợi dây truyền cho mọi người sự sống mà nghệ sĩ mang trong lòng”. Chính tình yêu thiên nhiên da diết cùng với tinh thần lạc quan, yêu đời của tác giả Thanh Hải đã đem đến một tiếng thơ vô cùng giản dị, mộc mạc mà chan chứa xúc cảm. Không phải một mùa xuân mang sự ảm đạm, u buồn trong “Xuân” của Chế Lan Viên, cũng không phải một “Mưa xuân” của Nguyễn Bính mang đầy sự dịu dàng, nhẹ nhàng của một người con gái như đang ngỏ lời trách hờn với chàng trai hay một “Hồn xuân” của Huy Cận mang hơi thở của tình yêu. Thanh Hải đã góp vào một tiếng thơ riêng, rất riêng, rất Thanh Hải và rất ý nghĩa.
Một số từ ngữ, hình ảnh cần lưu ý trong khổ 1 Mùa xuân nho nhỏ
– Mọc: Ngôn từ “mọc” được đưa lên đầu câu nhấn mạnh đến sức sống mãnh liệt của bông hoa tím biếc nhưng cũng chính là sức sống mãnh liệt của thiên nhiên, đất trời xứ Huế ngày xuân.
– Bông hoa tím biếc: Vẻ đẹp thơ mộng, lãng mạn của thiên nhiên mùa xuân. Hơn nữa, sắc tím còn là nét đặc trưng của xứ Huế mộng mơ, trầm tư, cổ kính.
– Ơi: Tiếng gọi thân thân, trìu mến
– Hót chi: Chi là ngôn ngữ địa phương của người miền Trung. Hót chi thể hiện sự da diết, tha thiết của tác giả trước tiếng hót vang trời của tiếng chim chiền chiện.
– Giọt long lanh: Gợi nhiều liên tưởng. Ở đây có thể hiểu là giọt long lanh của những giọt sương sớm, cũng có thể hiểu là những giọt âm thanh. Như vậy, tác giả đón nhận mùa xuân bằng thị giác và xúc giác
– Hứng: Thái độ trân trọng, nâng niu.