TOP 4 bài Cảm nhận về nhân vật Tôi trong truyện ngắn Cố hương SIÊU HAY, kèm theo dàn ý chi tiết. Qua đó, giúp các em học sinh lớp 9 hiểu sâu sắc hơn về những suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật Tôi.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận về nhân vật Tôi trong truyện ngắn Cố hương
Thông qua việc thuật lại chuyến về quê lần cuối của nhân vật Tôi trong truyện ngắn Cố Hương của Lỗ Tấn, đã giúp chúng ta cảm nhận được những rung cảm của nhân vật Tôi trước sự thay đổi của làng quê. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Download.vn:
Cảm nhận về nhân vật Tôi trong truyện Cố hương
Dàn ý cảm nhận về nhân vật Tôi trong truyện Cố hương
A. Mở bài:
Giới thiệu tác phẩm Cố hương của Lỗ Tấn – gắn với những kí ức của chính nhà văn về quê hương của mình. Suy nghĩ và cảm xúc của nhân vật tôi trong tác phẩm hướng về những người dân quê, tạo nhận thức về thực trạng đáng buồn của xã hội Trung Hoa trước cách mạng.
B. Thân bài:
1. Tổng:
a. Câu chuyện đan xen kỉ niệm tươi đẹp và thực tại đáng buồn của quê cũ được phản chiếu qua tâm trạng nhân vật tôi.
b. Nhân vật tôi không đồng nhất với tác giả nhưng luôn là người phát ngôn trực tiếp tư tưởng của nhà văn: nhận thức về thực trạng xã hội và thể hiện niềm tin vào khả năng tự thay đổi số phận của những người dân.
2. Phân:
a. Tôi trong ngày về quê:
Cảnh sắc cố hương ngày về tạo nỗi buồn man mác, gắn tâm trạng của kẻ biết mình phải li hương. Khung cảnh cắt nghĩa tâm trạng, báo hiệu những thay đổi đáng buồn của quê cũ.
b. Tôi trong ngày ở quê:
- Hồi ức về người bạn Nhuận Thổ – tình bạn trong sáng và không phân biệt ranh giới giai cấp giữa hai đứa trẻ – Nhuận Thổ là hiện thân sức sống mạnh mẽ của người dân quê.
- Cảm xúc khi gặp lại tạo cảm nhận bi đát về thực tại. Sự thay đổi từ hình dạng đến tâm tính của người bạn cũ.
- Tình cảm đan xen giữa quá khứ và thực tại tạo nên ám ảnh nặng nề. Những con người sống mòn mỏi bởi thói đố kị, bần tiện và nhu nhược, thiếu sức sống là do chính sách cai trị hà khắc và cuộc sống khó khăn.
c. Tôi trong ngày xa quê:
- Không còn chút vương vấn quê cũ
- Niềm hi vọng nhen nhóm từ tình bạn giữa Thủy Sinh – con Nhuận Thổ và cháu Hoàng khơi dậy niềm tin tưởng vào tương lai.
d. Hình tượng con đường:
- Chứa đựng suy ngẫm nhân sinh sâu sắc và ước mơ đổi đời cho người dân nghèo .
- Khẳng định tinh thần lạc quan và đúc kết chân lí làm gì có đường? Người ta đi mãi thì thành đường thôi.
3. Hợp:
- Tình cảm gắn bó với mảnh đất và con người quê hương của Lỗ Tấn. Suy ngẫm gắn với ý thức chữa bệnh tinh thần cho người dân Trung Hoa
- Sự vĩ đại trong tư tưởng nhà văn, ý nghĩa dự báo về tương lai dân tộc Trung Hoa.
C. Kết bài:
Cảm nhận của bản thân về tác phẩm. Giá trị nội dung và nghệ thuật, liên hệ thực tiễn.
Cảm nhận về nhân vật Tôi trong truyện Cố hương – Mẫu 1
Sau bao năm xa cách quê hương, ai mà không muốn tìm lại nó – nơi chôn rau cắt rốn – nơi đã nuôi ta lớn lên từng ngày và cho ta biết bao kỉ niệm đẹp thời thơ ấu. Thật buồn khi phải từ biệt quê hương, quên người, quên cảnh. Vậy mà nhân vật Tấn đã trải qua những nỗi buồn ấy vì cuộc sống mưu sinh. Những cảm xúc ấy đã được Lỗ Tấn khắc họa qua truyện ngắn “Cố Hương”.
Và câu chuyện bắt đầu từ chuyến về nhà sau hai mươi năm xa cách với nỗi buồn phảng phất trong lòng “tôi”. Cái buồn trước không gian u ám, vi vu, tiêu điều, hoang vắng; buồn vì sự thay đổi của làng quê: thê lương!
Chuyến về làng này, Tấn đã gặp lại Nhuận Thổ – người bạn thân thuở bé của anh và từ đây lại xuất hiện tình cảm giữa Hoàng – đứa cháu của anh, Thủy Sinh – con của Nhuận Thổ. Về lần này, anh tính lên thành phố ở luôn trên ấy. Bổng mẹ anh nhắc đến việc Nhuận Thổ sẽ đến chơi làm cắt ngang sự suy tư của anh và bao nhiêu hồi ức thuở ấu thơ tràn về.
“Một đứa trẻ có khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng” – đó là sự hồi tưởng của Tấn về người bạn thân từ bé của mình. Người bạn ấy đã cho anh biết bao điều lí thú: ra biển nhặt vỏ sò; đi bẫy chim, nào là sẻ đồng, chào mào, “bột cô”, xanh lưng. Khi thủy triều dâng lên thì cả hai đi xem “cá nhảy”. Anh và Nhuận Thổ còn đi canh dưa, canh con trai. Anh nhớ Nhuận Thổ đã bảo: “này nhé! Sáng trăng. Có tiếng sột soạt. Tra đang ngốn dưa đấy! Thế là cầm đi ba khẽ tiến lên…”. Từ nhỏ, Tấn học hỏi được rất nhiều điều từ người bạn thân của mình là Nhuận Thổ.
Rồi Nhuận Thổ cũng đã đến, bên cạnh là Thủy Sinh. Hai đứa trẻ Hoàng và Thủy Sinh cùng dắt nhau đi chơi. Với sự ngây ngô và ham chơi của chúng, không biết chúng đã thân thiết với nhau tự lúc nào nữa. Nói về Tấn và Nhuận Thổ. Khi anh gặp lại Nhuận Thổ – nước da bánh mật, khuôn mặt tròn trĩnh trước kia nay đổi thành vàng sạm. Những nếp nhăn sâu hoắm, mi mắt viền đỏ húp mộng lên trên gương mặt ấy. Tấn vừa mừng khi gặp lại bạn nhưng thấy bạn như vậy lại chạnh lòng. Chợt… “Bẩm ông!” – một tiếng gọi làm anh điếng cả người. Tấn chợt nhận ra: “Giữa chúng tôi đã có một bức tường khá dày ngăn cách. Thật là bi đát. Tôi cũng không nói lên lời”. Đó cũng là lễ giáo cổ hủ thời phong kiến. “Lạy ông!”, “Lạy cụ!”, “thưa”, “cụ”, “ông”. Dường như cao nào cũng là lễ giáo. Đây là một bức tường vô hình ngăn cách họ.
Một người nữa mà Tấn gặp khi về quê lần này là thím Hai Dương – “nàng Tây Thi đậu phụ”. Có lẽ do cuộc sống quá nghèo khổ mà chị trông gầy còm: “lưỡng quyền nhô ra, môi mỏng dính, không buộc thắt lưng, chân đứng chạng ra, giống hệt cây compa trong bộ đồ vẽ, có hai chân bé tí” với những tính cách hết sức kỳ quái.Nào là trách móc anh quên mình, nào là giật đôi bít tất của mẹ anh dắt vào lưng quần, lại còn vu oan cho Nhuận Thổ và lấy ngay cây “cẩu khí sát” rồi chuồn thẳng. Chiều hôm tấn và gia đình lên thành phố, khách khứa rất nhiều. “Kẻ đưa chân, người lấy đồ đạc”. Tất cả đồ đạc trong nhà cũ, hư hỏng, tốt xấu đều bị dọn sạch. Tất cả như dọn sạch đi những quá khứ tươi đẹp ngày nào của anh.
Quá khứ tươi đẹp ngày nào đâu còn nữa mà hiện tại lại quá đau buồn nên phải hướng tới một tương lai tươi đẹp hơn. Với tư tưởng, ý nghĩa như vậy, Tấn đã ra đi không một chút luyến tiếc. Hoàng hôn buông xuống cũng là lúc cảnh vật lùi lại phía sau. Thằng Hoàng cháu anh chợt nói với anh câu: “Nhưng mà thằng Thủy Sinh nó hẹn cháu đến nhà nó chơi cơ mà!” làm anh lại nhớ về tuổi thơ giữa mình và Nhuận Thổ. Anh hi vọng một tương lai tươi sáng sẽ đến với thế hệ trẻ không giống như thời quá khứ của anh.
Truyện ngắn “Cố Hương” không chỉ ý nghĩa ở nội dung mà còn hay ở nghệ thuật xây dựng. Bằng cố truyện khá đơn giản xoay quanh lần về quê sau cùng, số lượng nhân vật phải nói là ít, Lỗ Tấn đã làm nổi bật chất tình của tác phẩm. Một cái hay nữa ở đây là sự kết hợp giữa các phương thức biểu đạt: tự sự, miêu tả, nghị luận và các hình thức đối thoại, độc thoại nội tâm… đã làm nổi bật tâm trạng, cảm xúc của nhân vật Tấn xuyên suốt câu chuyện.
Đặc biệt, hình ảnh con đường trong câu: “Kì thực trên mặt đất làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi.” là một câu nói hàm chứa nhiều ý nghĩa. Hình ảnh con đường mang hai tầng ý nghĩa. Đó vừa là con đường cho chúng ta đi lại hàng ngày bị mòn do bước chân ta. Đó cũng vừa là con đường tự do, con đường của sự hi vọng về một tương lai tươi sáng. Con đường ấy không phải ai mà chính chúng ta phải khai phá và vượt qua nó. Ta phải nỗ lực, cố gắng mới hi vọng vào một con đường vững bước và tương lai tốt đẹp.
Truyện ngắn Cố Hương (Cố Hương như một bức tranh thu nhỏ của toàn cảnh đất nước) đã phê phán sâu sắc xã hội phong kiến với sự cực khổ của bá tánh, với các hủ tục lạc hậu. Ai dám đảm bảo là sẽ mãi gắn bó với quê hương nếu nó quá là thê lương như thế. Chỉ có tình yêu quê hương là còn mãi trong trái tim của mỗi người!
Cảm nhận về nhân vật Tôi trong truyện Cố hương – Mẫu 2
Sau hai mươi năm xa cách quê hương, bây giờ Tấn mới có dịp trở lại thăm quê cũ. Lần về thăm này đã xáo động trong anh biết bao suy nghĩ: vui có, buồn có, ước mơ xa xôi… khiến anh vô cùng khó xử khi gặp lại người thân nơi quê nhà.
Trên đường về, ngồi trên thuyền, trong anh rộn lên bao cảm xúc xốn xang, mừng vui. Gần đến nơi: “Tấn nhìn thấy xa xa thấp thoáng mấy thôn xóm tiêu điều, hoang vắng nằm im lìm dưới vòm trời màu vàng lá”, lòng anh chợt buồn bởi lẽ làng quê anh vẫn chẳng khác xưa chút nào, vẫn xơ xác, tiêu điều, hiu quạnh. Nhưng trong đáy lòng mình anh lại thấy rất đỗi gần gũi. Đã bao năm qua, dù xa quê hương những hai nghìn dặm nhưng hình ảnh về quê hương vẫn luôn ngự trong anh, vẫn in đậm trong anh những dấu ấn đẹp đẽ về nơi làng cũ.
Ở lại quê chín ngày, Tấn không đi thăm hết được bà con, vì anh thấy buồn và lo lắng, anh chỉ biết cùng mẹ và đứa cháu nhỏ bán đồ đạc, thu dọn nhà cửa để thời gian trôi nhanh di, mặc dù trước đấy anh rất mừng khi trở về quê cũ. Anh nhận ra nỗi buồn mênh mông của mình xuất phát từ ngoại cảnh chung quanh. Mọi người chung quanh dọn đi hết, cảnh tượng hiu vắng.
Thời gian này sống lại trong anh bao kỉ niệm thời thơ ấu. Hình ảnh Nhuận Thổ -người bạn cùng lứa với anh -suốt bao năm rồi nhưng vẫn luôn sáng đẹp và sống mãi trong anh. Hai người bạn cùng lứa, dễ tâm đầu ý hợp đã sống hồn nhiên bên nhau trong thuở thiếu thời với biết bao trò chơi vô tư. Hình ảnh cậu bé da ngăm đen, tay cầm cái đinh ba đang rình một con tra để bảo vệ ruộng dưa luôn in đậm trong tâm tư của Tân. Tấn bồn chồn ngóng đợi Nhuận Thổ, ngóng đợi người bạn thân thiết của anh thuở còn để chỏm. Nhưng bao sự vui mừng đang xốn xang trong lòng đợi giờ phút hai người gặp mặt thì lại trở thành nỗi buồn mênh mông. Sự hụt hẫng vô bờ xuất hiện khi Tấn gặp lại bạn cũ. Với vẻ khúm núm và câu chào: “Bẩm ông!” của Nhuận Thổ đã khiến khoảng cách giữa hai người càng trở nên xa thẳm. Đau đớn, xót xa, Tấn chỉ biết đứng im nhìn người bạn thân từ thuở nhỏ. Tình cảm đẹp đẽ giữa hai người giờ đây bị bức tường xã hội ngăn cách. Tấn muốn nói với Nhuận Thổ bao điều nhưng cổ họng anh nghẹn đắng, lòng anh xót xa không thể nói gì mà chỉ biết đứng im nhìn bạn.
Nghe chuyện gia đình của bạn, Tấn chỉ biết thương cảm vô cùng chứ anh cũng không giúp được gì. Và sự an ủi của Tấn, phần nào cũng làm vơi đi nỗi buồn trong lòng Nhuận Thổ. Bây giờ trong Tấn còn đâu nữa gương mặt tròn trĩnh với nước da bánh mật phản chiếu ánh lấp lánh của những chiếc vòng bạc đeo nơi cổ chứ bé Nhuận Thổ thông minh, nhanh nhẹn…;mà giờ đây, thay vào đó là gương mặt già nua vì tuổi tác, in hằn trên mỗi vết nhăn là nỗi vất vả, khó khăn của cuộc sống đời thường. Càng nghĩ về dĩ vãng đẹp đẽ, kí ức Tấn bỗng sáng lên trong chốc lát rồi lại vụt tắt luôn. Quê hương nào mà chẳng đẹp trong kí ức mỗi người. Quê hương đối với Tấn cũng vậy. Vậy mà giờ đây cái hoang tàn, xơ xác của làng quê anh đã dập tắt bao kỉ niệm đẹp trong anh.
Không chỉ riêng Nhuận Thổ mà những người khác cũng cằn cỗi đi trong cách nghĩ. Phải chăng do cuộc sống vất vả, họ phải bon chen nhau mà tất cả mọi người đều trở thành những con người hoàn toàn khác. Giữa Tấn và mọi người hình thành một bức tường vô hình ngăn cách họ. Giờ đây Tấn chỉ biết ngậm ngùi suy nghĩ về điều đó.
Khi biết về tình bạn giữa đứa cháu mình và con của Nhuận Thổ thì Tấn cầu mong cho tình bạn giữa chúng không có sự ngăn cách như tình bạn giữa anh và Nhuận Thổ. Một lần trở lại cố hương đã nhen lên trong lòng Tấn bao nỗi suy tư, buồn bã đến day dứt.
Tất cả mọi điều đến như xuất phát từ sâu thẳm đáy lòng yêu quê hương của anh. Hình ảnh làng quê tuổi thơ sẽ chẳng bao giờ phai nhạt trong tâm trí anh – một con người luôn mong ước cho người khác được ấm no hạnh phúc.
Cảm nhận về nhân vật Tôi trong truyện Cố hương – Mẫu 3
Ai đã từng đọc Cố hương của Lỗ Tấn, chắc hẳn sẽ bị cuốn hút vào dòng cảm xúc của nhân vật tôi với bao kỉ niệm sống dậy mãnh liệt trong lần thăm quê cuối cùng. Quá khứ đẹp đẽ ấy đã đối mặt với thực tại đầy biến đổi đến bàng hoàng của quê hương tạo nên những khoảnh khắc diễn biến phức tạp thấm đượm nỗi xót xa của tôi trong tác phẩm. Một câu chuyện cảm động có nhiều chi tiết từ chính cuộc đời của nhà văn nhưng điều chủ yếu nằm trong ý nghĩa tư tưởng lớn lao của tác phẩm: từ hiện tại buồn thương vẫn không tắt nguồn hi vọng vào tương lai, cùng niềm mong ước tốt đẹp về con đường cho những người dân thoát cảnh bần cùng đen tối.
Bối cảnh làng quê trong ngày trở lại của tôi thật buồn, với những chi tiết tô đậm cảm giác lạnh lẽo của khung cảnh mùa đông: “Gần về đến làng, trời lại càng u ám, Gió lạnh lùa vào khoang thuyền, vi vu. Nhìn qua các khe hở mui thuyền, thấy xa gần thấp thoáng mấy thôn xóm tiêu điều, hoang vắng, nằm im lìm dưới bầu trời màu vàng úa. Không nén được, lòng tôi se lại”. Không gian ấy dường như dự báo cho một viễn cảnh ảm đạm về cuộc sống thực tại ở quê hương. Thực tế khác hẳn hình dung của một người hai mươi năm mới trở về làng cũ. Kỉ niệm bao giờ cũng lưu lại những hình ảnh đẹp trong tâm trí nhưng đôi khi thực tại lại gieo vào lòng người cảm giác choáng váng, gần như một nỗi thất vọng.
Tâm trạng buồn lại càng đậm nét hơn khi cuộc trở về này chỉ nhằm mục đích nói lời giã biệt. Còn gì buồn hơn khi phải rứt bỏ những hình ảnh đã từ lâu in hằn trong tâm trí ? Trở về làng cũ mà ngỡ như lạc lõng trước cảnh vật đổi khác.Không gian u ám, hơi lạnh giữa đông như phụ trợ cho niềm cảm khái của con người. Có ai diễn tả nỗi niềm ấy thấm thía như Lỗ Tấn trong đoạn văn này: Làng cũ tôi đẹp hơn kia ! Nhưng phải nhớ rõ đẹp như thế nào, nói rõ đẹp ở chỗ nào thì thật không có hình ảnh ngôn ngữ nào diễn tả ra cho được.
Nói vậy có nghĩa là dù đã cách xa hai mươi năm, kí ức vẫn vẹn nguyên những vẻ đẹp của làng. Nỗi niềm li khách hiện lên ngay trong khoảnh khắc trở về. Trở về không chỉ thăm lại mà là biệt li, một đi không trở lại. Tâm trạng của ngày trở về thật nặng nề ám ảnh khiến câu văn hạ xuống thật buồn: Vì thế, tôi cần phải về trước Tết, vĩnh biệt ngôi nhà yêu dấu và từ giã làng cũ thân yêu, đem gia đình đến nơi đất khách tôi đang làm ăn, sinh sống. Nhưng nỗi buồn ấy có thể gặp ở bất cứ người nào cùng cảnh ngộ, và nếu chỉ dừng lại ở đó thì câu chuyện chẳng có gì đáng nói.
Nỗi buồn phảng phất như càng lúc càng nặng nề hơn khi bước chân lữ khách đã trở về làng cũ, để được sống những ngày cuối cùng với ngôi nhà thân yêu trước khi phải giao bán cho người khác. Ngôi nhà ấy đã lưu dấu bao kỉ niệm tuổi thơ mà mỗi khi nhớ lại, tôi vẫn thấy như “hiện ra một cảnh tượng thần tiên kì dị”. Trước khi phải chia tay những gì mình yêu mến nhất, có lẽ ai cũng phải trải qua khoảnh khắc tâm trạng này. Kí ức của tôi hiện về những hình ảnh như trong một cuốn phim quay chậm, với câu chuyện gắn cùng kỉ niệm về người bạn thân thương Nhuận Thổ.
Đây, cảnh tượng êm đềm: “Giữa ruộng dưa, một đứa bé mười một, mười hai tuổi, cổ đeo vòng bạc, tay lăm lăm cầm chiếc đinh ba, đang cố sức đâm theo một con tra. Con vật bỗng quay lại, luồn qua háng đứa bé, chạy mất”. Hình ảnh ấy là tưởng tượng từ thời cậu bé Tấn còn vui đùa bên Nhuận Thổ. Một tình bạn thật đẹp giữa cậu chủ và đứa con của người ở, vượt qua những ranh giới. Tuổi thơ hạnh phúc trong tình bạn sẽ là dấu ấn theo suốt cuộc đời. Tình bạn ấy đẹp đẽ biết bao vì chưa bị ngăn cách bởi những ý thức thành kiến giai cấp. Đó là nỗi khát khao được gặp người cùng trang lứa để rồi lúc được gặp thì “chưa đầy nửa ngày chúng tôi đã thân nhau”. Người đọc chắc hẳn cũng được chia sẻ niềm vui có bạn của cậu bé Tấn ngày ấy. Bởi Nhuận Thổ chính là người mở cánh cửa thế giới sống động cho cậu bé Tấn, vốn chỉ biết thế giới qua “một mảnh trời vuông trên bốn bức tường cao bao bọc lấy cái sân mà thôi”.
So với Tấn, Nhuận Thổ hạnh phúc làm sao: bẫy chim sẻ, canh dưa, nhặt vỏ sò hòa mình với thiên nhiên. Hạnh phúc thay khi một đứa trẻ được tắm trong bầu không gian thiên nhiên trong lành, thả hồn cùng bao giấc mộng dưới trời xanh, vui đùa tung tăng trên những cánh đồng, hít đẫm hương vị của sự sống thiên nhiên mãnh liệt. Nỗi nhớ về Nhuận Thổ là sự cắt nghĩa thật đơn giản mà chính xác: “Tôi cảm thấy tựa hồ tôi đã tìm ra được quê hương tôi đẹp ở chỗ nào rồi”.
Nhưng kỉ niệm càng đẹp bao nhiêu thì thực tại càng đau xót bấy nhiêu. Cuộc gặp gỡ với thím Hai Dương dường như đã phá tan kí ức của cậu bé Tấn hai mươi năm trước, kéo anh trở về thực tại của một “ông chủ” đang chuẩn bị bán nhà. Nàng Tây Thi đậu phụ lẳng lơ bây giờ đã thành một mụ nạ dòng lắm điều. Một đoạn đối thoại với đầy những lời lẽ dung tục tính toán khôn vặt đã cho thấy thái độ xa lạ hằn học của những kẻ ganh ghét gia đình tôi. Cái hố ngăn cách đầy thành kiến như đang được khoét rộng ra cùng những lời chì chiết của mụ đàn bà lắm lời tham lam bần tiện. Ngạc nhiên không kịp phản ứng là phải, bởi tôi giờ đây dưới mắt người đàn bà ấy chỉ là hiện thân của bọn nhà giàu lắm của. Đáng buồn là sau thái độ rỉa rói bới móc ấy lại là thái độ cầu cạnh, lợi dụng bòn của. Người đàn bà ấy như làm tăng mối ác cảm và xót xa cho chốn làng quê nghèo cực khiến con người như trở nên bần tiện hơn.
Nhưng cuộc gặp gỡ với Nhuận Thổ mới thực sự là nỗi thất vọng lớn nhất. Nhuận Thổ cũng như tôi , đều rất trân trọng tình bạn tuổi thơ. Cuộc gặp gỡ ấy đã đem đến sự tan vỡ của một giấc mộng đẹp. Còn đâu chú bé “khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng” thuở nào, chỉ còn một người đàn ông với khuôn mặt vàng đội một cái mũ lông chiên rách tươm, mặc một chiếc áo bông mỏng dính, người co ro cúm rúm, và bàn tay vừa thô kệch vừa nặng nề, nứt nẻ như một vỏ cây thông. Nhưng sự thất vọng lớn nhất là thái độ Nhuận Thổ “lấy lại dáng điệu cung kính”cùng với lời nói như xát muối vào lòng: “Bẩm ông”. Bức tường dày ngăn cách hai tầng lớp xã hội đã được dựng lên giữa hai người đàn ông trưởng thành. Hai người bạn cũ trong hiện tại không còn gì chung hết, ngoại trừ tình bạn đẹp được xây nên từ khi mới lên mười. Tấm lòng Nhuận Thổ vẫn như xưa, cũng giống như tôi nhưng mặc cảm cũng như thành kiến xã hội đã làm cho hai người thành xa lạ. Còn gì buồn hơn, nỗi buồn khiến tôi điếng người ! Điều gì đã khiến cho người bạn năm xưa trở nên mặc cảm đến vậy ?
Câu chuyện ngỡ như rôm rả cùng bao kỉ niệm tuổi thơ đã tan biến cùng tâm trạng bi đát dâng lên trong lòng tôi khi nghe gia cảnh Nhuận Thổ từ chính miệng người bạn: “Chỗ nào cũng hỏi tiền, chẳng có luật lệ gì cả. Mùa lại mất. Trồng được gì là gánh đi bán tất. Chỉ đóng góp vài lần là cụt vốn rồi. Không đem bán thì lại thối mục hết”. Nhuận Thổ đã khác xa so với hình dung của anh Tấn, nhưng vẫn còn đó chút dư âm của tình bạn ấm áp thuở nào, trong món quà quê thơm thảo: “Ngày đông tháng giá, chẳng có gì. Đây chỉ là ít đậu xanh của nhà phơi khô, xin ông…”. Lời nói tắc nghẹn giữa chừng khiến người đọc hiểu thêm: tình bạn đẹp ngày xưa đã không vượt qua nổi mặc cảm trong hiện tại. Trước tình cảnh Nhuận Thổ, tấm lòng của mẹ con anh Tấn không khỏi ái ngại, xót thương, than thở, buồn cho cảnh nhà anh: con đông, mùa mất ,thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại, thân hào đày đọa thân anh khiến anh trở thành đần độn, mụ mẫm đi”.
Qua tâm trạng ấy, có thể nhận ra hình ảnh một cố hương không còn yên bình êm ả như xưa. Gia đình trung lưu thì phải tha hương, người dân quê càng xơ xác. Hoàn cảnh làm thay đổi tâm tính con người. Sự đổi thay trong tình làng nghĩa xóm, tình bạn tình người cũng nhạt nhẽo hơn đem lại nỗi buồn vô hạn cho đến tận ngày đi. Đó cũng là thời khắc anh Tấn cùng người thân phải giã biệt ngôi nhà thân yêu. Cảnh biệt li được cảm nhận bằng câu văn lạnh lùng không chút luyến lưu: “Kẻ đến đưa chân, người đến lấy đồ đạc. Có kẻ vừa đưa chân vừa lấy đồ đạc”. Và phút rời chân đi thì “tất cả đồ đạc trong ngôi nhà cũ, hư hỏng, to nhỏ, xấu tốt đều mang đi sạch trơn như quét”. Không còn gì lưu dấu, như chính lòng người cũng trở nên trống rỗng.
Hành trình giã biệt quê hương in đậm nỗi buồn của buổi hoàng hôn, trên chiếc thuyền lẻ loi, in bóng đen sẫm như một vệt tối ám ảnh lòng người. Rời quê trong tâm trạng nặng nề như vậy, cứ ngỡ tình cảnh bi đát của đời sống vật chất và tinh thần dân quê sẽ gieo vào lòng tôi cảm giác thất vọng, bi quan. Nhưng nhà văn đã gửi gắm ao ước lạc quan vào trong hình tượng Thủy Sinh con Nhuận Thổ và tình bạn vừa nhen lên với Hoàng – đứa cháu của nhân vật tôi. Có thể nói từ những chi tiết ngoại hình cho đến tính chất tình bạn giữa hai đứa trẻ chẳng khác gì một bản sao của tình bạn Nhuận Thổ – Tấn thuở xưa. Thủy Sinh cũng khuôn mặt tròn trĩnh, dáng vẻ bẽn lẽn như Nhuận Thổ ngày nào, dẫu thiếu chiếc vòng bạc trên cổ nhưng vẫn hồn nhiên trong sáng và gần gũi thân thiết biết bao với thằng bé Hoàng.
Chưa bao giờ, cái ranh giới giả tạo phân biệt giai cấp lại hiện hình rõ như thế qua sự lặp lại vô tình này. Niềm tin của tôi thật mãnh liệt dù cho không tránh khỏi thoáng chút mơ hồ, nhưng ở đó là niềm tin vào phẩm chất tốt đẹp của người dân quê. Chẳng qua, những biến đổi thời cuộc tác động đến gia cảnh đã làm thay đổi tính cách tốt đẹp của họ mà thôi. Những hi vọng được nhen nhóm từ suy ngẫm về người bạn cũ – sùng bái tượng gỗ một cách mê muội kì thực cũng là một cách nuôi hi vọng. Bản thân nhân vật tôi cũng đang hi vọng một tương lai sáng sủa hơn. Họ đã gặp nhau trong hi vọng đổi đời, nhưng lại rất khác nhau về con đường của mỗi người.
Hình tượng con đường ở phần cuối tác phẩm chứa đựng những suy ngẫm về thực trạng xã hội Trung Hoa lúc bấy giờ. Con đường mà tác giả cảm nhận được về thực tại là sự phân rẽ của các tầng lớp xã hội, một điều đáng buồn và ray rứt tâm tư của nhà văn. Nhiệt tình cải tạo xã hội đã thành câu kết đầy triết lí thể hiện sâu sắc tư tưởng nhà văn: kì thực trên mặt đất làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi. Đó là sự khẳng định cho quyết tâm vượt qua những định kiến xã hội lạc hậu. Con đường mà nhà văn muốn nói chính là con đường chung – thay đổi số phận, thay đổi nếp nghĩ để kết lại tình bạn như thuở nào tốt đẹp vô tư, để người sống với người hoà đồng thân ái. Muốn vậy, mỗi người phải tự vạch con đường cho mình, không giẫm lên những vết mòn vẹt của định kiến cũ. Cảm hứng của nhà văn hướng về việc cải tạo xã hội ngày càng tốt đẹp.
Tác phẩm một lần nữa thể hiện quan niệm dùng văn chương “chữa bệnh tinh thần” cho dân tộc Trung Hoa của nhà văn vĩ đại Lỗ Tấn. Xuất phát từ tình yêu với quê hương và con người nghèo khổ, Lỗ Tấn đã viết nên những trang cảm động về tình bạn ấu thơ, nỗi xót xa trước tình trạng khốn cùng và suy thoái tinh thần của người dân tại cố hương. Tấm lòng nhiệt thành và ý thức đấu tranh chống xã hội bất công thấm đượm trong từng trang sách. Ông đã đưa ra những dự đoán thiên tài về cuộc đổi đời vĩ đại của dân tộc Trung Hoa khi tìm ra con đường chân chính tự giải phóng mình.
Cố hương không phải là những dư âm nhạt nhòa mà còn mang ý nghĩa thời sự nóng hổi. Chừng nào nhân loại còn gánh chịu những bất công vô lí, còn những số phận khốn khổ như Nhuận Thổ và những người dân quê, thì chúng ta còn cần đến một tấm lòng Cố hương để chia sẻ nỗi niềm, khơi dậy ý thức xoá bỏ ranh giới giàu nghèo, để giúp cho người mãi đến với nhau bằng tấm lòng bè bạn.
Cảm nhận về nhân vật Tôi trong truyện Cố hương – Mẫu 4
“Cố hương” của Lỗ Tấn là một câu chuyện của nhân vật tôi kể về chuyến thăm quê hương sau hai mươi năm xa cách với những thay đổi bất ngờ.
Sau hai mươi mấy năm trở về quê hương, bây giờ nhân vật “tôi” mới có dịp trở lại quê hương mình để thăm. Lần về thăm này nhân vật cảm thấy xúc động ,tâm trạng lẫn lộn xen nhau, vui có,buồn có, và những ước mơ xa xôi cũng có khiến cho nhân vật tôi vô cùng khó xử khi nghĩ đến cảnh gặp lại những người thân nơi quê nhà, nơi có người bạn thân thuở thơ ấu.
Trên đường về quê ngồi trên chiếc thuyền lòng của nhân vật tôi rộn lên biết bao nhiêu là cảm xúc mừng vui, xốn xang. Gần đến nơi thì “tôi nhìn thấy xa gần thấp thoáng mấy thôn xóm tiêu điều, hoang vắng nằm im lìm dưới vòm trời màu vàng úa” lúc này lòng của nhân vật tôi bỗng buồn bởi quê hương chẳng thay đổi được diện mạo chút nào, vẫn xơ xác, tiêu điều và hiu quạnh biết bao nhưng trong lòng của nhân vật tôi lại thấy rất gần gũi,rất thân quen với cái thời thơ ấu của mình.
Ở lại quê tận những chín ngày nhưng nhân vật tôi không đi thăm hết bà con được , tôi chỉ biết cùng mẹ và đứa cháu nhỏ buôn bán đồ đạc và thu dọn nhà cửa để cho thời gian có thể trôi nhanh đi, mặc dù trước đây nhân vật rất muốn về thăm quê hương nhưng khi tôi trở về thì bỗng nhân ra rằng mọi người xung quanh đã dọn đi hết, cảnh tượng hiu vắng lại hiện ra trước mắt. Hình ảnh người bạn thời thơ ấu lại hiện ra trước mắt đó chính là Nhuận Thổ, suốt mấy chục năm trôi qua nhưng tình bạn ấy, hình ảnh ấy vẫn đẹp đẽ và trong sáng biết bao nhiêu.
Đó là hình ảnh hai người bạn dễ tâm đầu ý hợp sống hồn nhiên vô tư thời ấy với nhiều những trò chơi. Hồi nhỏ Nhuận Thổ là một cậu bé có nước da ngăm đen, tay cầm đinh ba đang rình con trai để bảo vệ ruộng lúa ,ruộng dưa vẫn còn in đậm trong trái tim của nhân vật tôi. Lúc này tôi bồn chồn và lo lắng trông ngóng người bạn của mình, người bạn đã từng kề vai sát cánh một thời đó là Nhuận Thổ . Khi Nhuận Thổ xuất hiện thì nhân vật tôi hết sức hụt hẫng bởi người bạn nhìn ông và chào có vẻ khúm núm “Bẩm ông!” , Nhuận Thổ đã khiến cho nhân vật tôi đau đớn có, xót xa có và bây giờ là một khoảng cách vô định, vô hình nào đó. Nhân vật muốn tâm sự ,muốn nói với Nhuận Thổ bao điều nhưng mà cổ họng ông lại nghẹn đắng lại chỉ biết đứng im lặng nhìn bạn mình.
Tôi chỉ biết thương cho gia đình của Nhuận Thổ chứ không giúp được gì và sự an ủi của nhân vật tôi cũng đã phần nào vơi đi được nỗi buồn trong lòng của Nhuận Thổ.
Bây giờ trong đầu của nhân vật tôi không còn hình bóng của một cậu bé có nước da bánh mật, thông minh nhanh nhẹn, mà thay vào đó là cả một khuôn mặt già nua vì in hằn tuổi tác,in hằn nỗi vất vả và khó nhọc của cuộc sống đời thường.
Đối với nhân vật tôi bây giờ quê hương nào mà chẳng đẹp trong kí ức của mỗi người, và quê hương đối với nhân vật tôi cũng vậy nhưng giờ đây cái hoang tàn và xơ xác của chốn làng quê đã dập tắt bao kỉ niệm đẹp trong lòng của nhân vật tôi. Không những là người bạn Nhuận Thổ mà trong lòng người khác cũng cằn cỗi trong suy nghĩ. Phải chăng do cuộc sống quá vất vả và bon chen làm cho tất cả mọi người trở thành một con người hoàn toàn khác.
Giờ đây nhân vật tôi và mọi người như một bức hình có sự ngăn cách và nhân vật tôi chỉ biết ngậm mùi, khi biết tình bạn giữa cháu mình và con của Nhuận Thổ thì nhân vật tôi đã cầu mong cho tình bạn của chúng không có sự ngăn cách như mình và Nhuận Thổ.
Một lần về thăm quê hương đã nhen nhóm trong lòng nhân vật tôi bao nhiêu nỗi suy tư và phiền muộn đến day dứt nhưng quê hương trong lòng mỗi người có lẽ chẳng bao giờ phai nhạt trong trái tim.