Văn mẫu lớp 9: Dàn ý phân tích 3 khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Văn mẫu lớp 9: Dàn ý phân tích 3 khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Văn mẫu lớp 9: Dàn ý phân tích 3 khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính gồm 3 mẫu chi tiết, đầy đủ những ý quan trọng, giúp các em học sinh lớp 9 thấy rõ cuộc chiến tranh ác liệt trên tuyến đường Trường Sơn.

Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 9: Dàn ý phân tích 3 khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Văn mẫu lớp 9: Dàn ý phân tích 3 khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Sau khi lập xong dàn ý, các em dễ dàng triển khai thành bài văn hoàn chỉnh với đầy đủ những ý quan trọng. Qua đó, cho chúng ta thấy được tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm của các chiến sĩ lái xe. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Download.vn:

Dàn ý phân tích ba khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 1

1. Mở bài:

– Giới thiệu về tác giả Phạm Tiến Duật và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”:

  • Phạm Tiến Duật là nhà thơ thuộc thế hệ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ
  • Bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của ông là một trong những tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc, đặc biệt là 3 khổ cuối.

2. Thân bài:

a. Khái quát chung về tác phẩm, 3 khổ cuối:

  • Bài thơ được sáng tác năm 1969, in trong tập Vầng trăng quầng lửa của nhà thơ.
  • Bài thơ khắc hoạ hình ảnh những người lính lái xe trên đường Trường Sơn trong kháng chiến chống Mỹ.
  • Ba khổ cuối: khắc hoạ hình ảnh người lính lái xe với tình đồng chí, đồng đội thắm thiết cùng ý chí, quyết tâm chiến đấu vì miền Nam.

b. Phân tích:

* Khổ 5, 6: Tình đồng chí, đồng đội của những người lính lái xe:

  • Hình ảnh “những chiếc xe từ trong bom rơi”: gợi lên sự khốc liệt của chiến tranh cũng như sự gan góc, dũng cảm của những người lính.
  • Trải qua quãng đường dài, những người lính tụ họp cùng nhau thành “tiểu đội”, vui vẻ, quây quần.
  • Tình đồng chí, đồng đội được xây dựng lên từ những lần tụ họp như thế, từ những cái “bắt tay” nhau vội vã qua “cửa kính vỡ rồi”. (So sánh với thơ Chính Hữu).
  • Tình cảm đồng chí đồng đội còn được xây dựng qua những phút giây nghỉ ngơi ngắn ngủi, cùng nhau quây quần bên “bếp Hoàng Cầm”, ngủ trên “võng mắc chông chênh”.
  • Phạm Tiến Duật đã chỉ ra khái niệm gia đình thật đơn giản “chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”: tình đồng chí đồng đội gắn bó keo sơn như anh em trong nhà.

– Câu thơ cuối “Lại đi, lại đi trời xanh thêm”:

  • “Lại đi, lại đi”: một hành động được lặp lại vô số lần.
  • “Trời xanh”: hình ảnh ẩn dụ cho bầu trời của hoà bình, tự do.
  • Những người lính tiến cứ đều đặn lái xe về phía trước, với ý chí quyết tâm giành lại tự do, hoà bình cho dân tộc.

* Khổ cuối: Ý chí và quyết tâm chiến đấu vì miền Nam:

  • Những thiếu thốn vật chất càng tăng thêm so với khổ 1: “không có kính”, “không có đèn”, “không có mui xe”, “thùng xe có xước”.
  • Vậy nhưng những người lính lái xe vẫn vượt qua mọi khó khăn để tiến về phía trước vì miền Nam vì “trong xe có một trái tim”.
  • Hình ảnh “trái tim”: hình ảnh hoán dụ, tượng trưng cho những người lính lái xe.
  • Hai từ “chỉ cần” ở đầu câu thơ cuối cho thấy thái độ ngang tàng, hiên ngang của những người lính lái xe.
  • Nhịp thơ ở đây cũng dồn dập hơn, gấp gáp hơn, như nhịp hành quân vội vã.
  • Câu thơ cuối là câu thơ đẹp nhất của bài thơ, thể hiện ý chí, sự quyết tâm của những người lính lái xe Trường Sơn.

c. Đánh giá nội dung, nghệ thuật:

– Nội dung: ba khổ cuối là những câu thơ về tình cảm đồng chí đồng đội thắm thiết, nghĩa tình của những người lính lái xe cùng ý chí quyết tâm chiến đấu vì miền Nam ruột thịt.

– Nghệ thuật:

  • Chất liệu hiện thực cùng giọng thơ khỏe khoắn, vui tươi.
  • Nhịp thơ biến đổi linh hoạt
  • Các biện pháp ẩn dụ, hoán dụ được sử dụng rất thành công.

3. Kết bài:

  • Khẳng định lại giá trị của bài thơ và 3 khổ cuối bài thơ.

Dàn ý phân tích ba khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 2

I. Mở bài:

– Giới thiệu về tác giả, tác phẩm

  • Phạm Tiến Duật: phong cách sáng tác, tác phẩm tiêu biểu
  • “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”: hoàn cảnh sáng tác, nội dung bài thơ

– Giới thiệu về ba khổ thơ cuối của bài thơ:

  • Trích dẫn ba khổ thơ
  • Nêu qua nội dung của ba khổ thơ

II. Thân bài:

a. Khổ 5: Vẻ đẹp của người lính được thể hiện qua cái nhìn lạc quan, yêu đời trước hiện thực cuộc chiến đấu còn nhiều gian khổ.

– “Những chiếc xe… kính vỡ rồi”

  • Nghệ thuật: Những câu thơ ghi nhận một cách chân thực khắc nghiệt mà các anh phải chịu đựng khi bom đạn kẻ thù đã giật, rung, tàn phá tấm kính chắn xe. Hơi thở nhẹ nhàng như lời nói chuyện, mà là chuyện vui, chuyện thường ngày vẫn xảy ra với các anh, không hề khiến các anh phải bận tâm. Nhịp thơ mạnh, dứt khoát. Các cụm từ “chưa cần rửa”, “chưa cần thay” không chỉ đem đến cảm giác về sức trẻ dồi dào mà còn hé mở một điều đáng nể phục ở người lính: với các anh nhiệm vụ là trên hết còn những thứ khác không đáng bận tâm.
  • Liên hệ: bài “Nhớ”

=> Những con người như vậy tất nhiên càng không chỉ vì cái chuyện cái mặt hay lắm mà làm chậm cuộc hành trình “Tất cả vì tiền tuyến, tất cả vì miền Nam ruột thịt”.

b. Khổ 6: Tình đồng chí, đồng đội

– “Bếp Hoàng Cầm… trời xanh thêm”

  • Nghệ thuật: hình ảnh giàu sức gợi, nhịp thơ 2/2/3
  • Nội dung: Niềm vui sum họp được mở ra sau chặng đường chạy dưới mưa bom đạn của kẻ thù.

c. Khổ cuối: Tình yêu quê hương, đất nước

– “Không có kính… một trái tim”

  • Nghệ thuật: điệp từ “không”
  • Nội dung: Vẻ đẹp của người lính trong cuộc kháng chiến chống Mỹ gian khổ: trẻ trung, lạc quan, dù hiểm nguy vẫn chắc tay lái đương đầu ra tiền tuyến.

* Liên hệ với lí tưởng sống của tuổi trẻ trong thời đại ngày nay

– Giải thích: lí tưởng sống là gì?

– Chứng minh: Nguyễn Ngọc Ký, Jack ma

– Bình luận:

  • Cuộc sống thật vô bổ nếu không có lí tưởng sống
  • Lí tưởng sống sẽ là động lực giúp bạn vươn lên trong cuộc sống.

– Liên hệ bản thân

III. Kết bài:

  • Khẳng định giá trị của bài thơ
  • Tình cảm dành cho bài

Dàn ý phân tích ba khổ thơ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 3

1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn thơ

  • Phạm Tiến Duật là nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ ông chủ yếu viết về người lính và những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
  • Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một trong những tác phẩm hay nhất của Phạm Tiến Duật.
  • Bài thơ đã xây dựng một bật vẻ đẹp người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Qua đó làm nổi bật vẻ đẹp con người Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Mỹ. Đặc biệt là trong ba khổ thơ cuối:

Những chiếc xe từ trong bom rơi

Chỉ cần trong xe có một trái tim.

2. Phân tích

– Nhà thơ đã ghi lại những khoảnh khắc đẹp đẽ thể hiện tình đồng chí đồng đội của những người lính lái xe không kính:

Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

  • Xe không kính lại trở thành điều kiện thuận lợi để các anh thể hiện tình cảm. Cái bắt tay thể hiện niềm tin, truyền cho nhau sức mạnh, bù đắp tinh thần cho những thiếu thốn về vật chất mà họ phải chịu đựng.
  • Tình đồng chí, đồng đội còn được thể hiện một cách ấm áp, giản dị qua những giờ phút sinh hoạt của họ:

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi lại đi trời xanh thêm.

  • Sau những phút nghỉ ngơi thoáng chốc và bữa cơm hội ngộ, những người lính lái xe đã xích lại thành gia đình: những người lính cùng chung nhiệm vụ, lí tưởng chiến đấu.
  • Điệp ngữ “lại đi” và hình ảnh “trời xanh thêm” tạo âm hưởng thanh thản, nhẹ nhàng, thể hiện niềm lạc quan, tin tưởng của người lính về sự tất thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Câu thơ trong vắt như tâm hồn người chiến sĩ, như khát vọng, tình yêu họ gửi lại cho cuộc đời.

=> Chính tình đồng chí, đồng đội đã biến thành động lực giúp các anh vượt qua khó khăn, nguy hiểm, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thân yêu.

– Hai câu cuối của bài thơ đã hoàn thiện vẻ đẹp của người lính, đó là lòng yêu nước, ý chí chiến đấu giải phòng miền Nam:

Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chủ cần trong xe có một trái tim.

  • Giờ đây những chiếc xe không chỉ mất kính mà lại không đèn, không mui, thùng xe có xước. Chiếc xe đã biến dạng hoàn toàn. Sự gian khổ nơi chiến trường ngày càng nâng lên gấp bội lần nhưng không thể làm chùn bước những đoàn xe nối đuôi nhau ngày đêm tiến về phía trước.
  • Nguyên nhân nào mà những chiếc xe tàn dạng ấy vẫn băng băng chạy như vũ bão? Nhà thơ đã lí giải: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”.
  • Câu thơ dồn dập cứng cáp hẳn lên như nhịp chạy của những chiếc xe không kính. Từ hàng loạt những cái “không có” ở trên, nhà thơ khẳng định một cái có, đó là “một trái tim”.
  • Trái tim ấy dào dạt tình yêu Tổ quốc như máu thịt, như mẹ cha, như vợ như chồng… Trái tim ấy luôn luôn sục sôi căm thù giặc Mĩ bạo tàn.

=> Có thể coi câu thơ cuối là câu thơ hay nhất của bài thơ. Nó là nhãn tự, là con mắt thơ, bật sáng chủ đề, tỏa sáng vẻ đẹp hình tượng người lính lái xe thời chống Mĩ.

3. Đánh giá

  • Viết theo thể thơ tự do, ba khổ cuối bài thơ vừa có chất tự sự, vừa thấm đẫm chất trữ tình. Với ngôn ngữ chân thực, đời thường và giọng điệu thơ ngang tàng, hóm hỉnh, bài thơ đã đem đến cho người đọc ấn tượng không thể nào quên về vẻ đẹp của người lính cách mạng.
  • Chân dung người lính lái xe Trường Sơn được nhà thơ khắc họa chân thực với bao phẩm chất cao đẹp. Đó là vẻ đẹp của tuổi trẻ, của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời chống Mỹ. Họ là những chiến binh, sống, chiến đấu và chiến thắng trong tư thế hiên ngang, trong niềm lạc quan yêu đời.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *