Phân tích 2 khổ thơ đầu Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải mang tới 9 bài văn hay nhất, kèm theo 3 dàn ý chi tiết, giúp các em học sinh lớp 9 thấy rõ cảm xúc của nhà thơ Thanh Hải trước mùa xuân của thiên nhiên, đất trời.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 9: Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ
Bên cạnh đó, còn cung cấp một số hình ảnh, từ ngữ đáng chú ý khi phân tích khổ 1, khổ 2 Mùa xuân nho nhỏ, giúp các em tái hiện bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp một cách dễ dàng hơn. Mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Download.vn để ngày càng học tốt môn Văn 9.
Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ
Dàn ý Phân tích 2 khổ thơ đầu Mùa xuân nho nhỏ
Dàn ý 1
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Thanh Hải, bài thơ Mùa xuân nho nhỏ và dẫn dắt vào hai khổ thơ đầu tiên.
Lưu ý: Học sinh tự lựa chọn cách viết mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp tùy thuộc vào năng lực của bản thân mình.
2. Thân bài
a. Khổ thơ thứ nhất
Hai câu thơ đầu: một bông hoa tím biếc đang mọc lên giữa dòng sông nước xanh như ngọc thật nhẹ, thật hài hòa mà cũng rất dễ thương. Gam màu ấy đã được tô vẽ vào bức tranh thật khéo léo, tài tình, làm cho người đọc hình dung ra ngay trước mắt cả một bông hoa tím biếc, thật nhỏ, thật xinh, cũng có đủ khả năng để nhuộm tím cả bầu trời, cả không gian mùa xuân đang căng tràn sức sống.
→ Cảnh vật mùa xuân bình dị, giản đơn, và thâm trầm, tĩnh lặng.
Hai câu thơ tiếp: âm thanh của con chim chiền chiện hót vang trời làm xao xuyến cả đất trời, cả tâm hồn của người thi sĩ bằng những từ ngữ cảm thán như “ơi, hót chi”. Cả bầu không gian tĩnh lặng giờ đây trở nên sôi động, tưng bừng sức sống. Âm thanh tiếng chim hót tưởng chừng như nhỏ bé nhưng trong cái tĩnh lặng, nó như bao quát cả đất trời.
Hai câu thơ cuối: tiếng chim không chỉ ngân vang trên không trung và đất trời mà giờ đây nó đã cô đọng thành giọt, có hình thù, kích thước nhất định, cách chuyển đổi cảm giác này tưởng chừng vô lí nhưng lại rất hợp lí, làm nổi bật khung cảnh mù xuân với dòng sông, bông hoa tím biếc, tiếng chim chiền chiện cùng người thi sĩ khiến cho bức tranh trở nên bình dị mà vẫn tươi đẹp.
b. Khổ thơ thứ hai
“Lộc” ở đây có thể hiểu là sức mạnh dân tộc, “lộc trải dài nương mạ” là sự hối hả xôn xao cho một mùa màng mới, cho đồng ruộng vẫn mãi mãi bạt ngàn một màu xanh.
“Người cầm súng và “người ra đồng” là hai lực lượng chính dựng xây Tổ quốc. Đây là mùa xuân trách nhiệm gắn với ý thức bảo vệ dân tộc. Người ra trận phải đổ máu, người ra đồng phải đổ mồ hôi nước mắt. Máu, mồ hôi, nước mắt của nhân dân ta đã góp phần giữ lấy mùa xuân mãi mãi của dân tộc.
Từ “cứ” đặt đầu câu thơ như một sự khẳng định, thể hiện một chân lí đơn giản mà thiêng liêng. Có thể nói bao nỗi nhọc nhằn, đắng cay của dân tộc được đáp lại bằng những mùa xuân tiếp nối vô tần.
3. Kết bài
Khái quát lại nội dung, nghệ thuật của đoạn thơ đồng thời nêu cảm nghĩ về giá trị của tác phẩm.
Dàn ý 2
1. Mở bài
- Dẫn dắt vấn đề: Đề tài mùa xuân trong văn chương nghệ thuật
- Giới thiệu tác giả và tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ.
2. Thân bài
a. Cảm nhận về khổ đầu bài thơ: “Mọc giữa dòng sông xanh… tôi hứng”
– Không gian quen thuộc của miền quê Việt Nam yên bình qua vài ba nét chấm phá: Một dòng sông xanh, một bông hoa tím, vài chú chim nhỏ
– Hình ảnh nổi bật trong bức tranh đó: Dòng sông xanh biếc đang miệt mài chảy trôi, giữa dòng điểm xuyết “bông hoa tím biếc”
– Động từ “mọc”: Tạo ấn tượng mạnh
– Màu tím: Màu sắc được người dân xứ Huế sử dụng nhiều nhất nhưng ở đây là “tím biếc” – màu của đóa hoa lục bình đang dập dềnh trôi giữa dòng nước
– “Ơi con chim chiền chiện”:
+ Tiếng gọi đầy tha thiết, thân thương, như tiếng gọi một con người
+ Chim chiền chiện: Loài chim quen thuộc của nông thôn Việt Nam, giọng hót cao vút
=> Tiếng hót của chúng báo hiệu mùa xuân về
– “Hót chi mà vang trời”: Tiếng trách yêu của tác giả
– “Từng giọt long lanh rơi”: Giọt mưa mùa xuân hay tiếng chim hót, là từng giọt mật của mùa xuân đang dần rơi xuống?
+ Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác: Từ thính giác sang xúc giác, chính mùa xuân đã khiến cho mọi giác quan trong cơ thể người bừng tỉnh.
=> Bức tranh quê hương thôn dã rộn ràng, chân thực, đặc trưng vùng miền.
b. Cảm nhận về khổ thứ hai bài thơ: “Mùa xuân người cầm súng… xôn xao”
– Hình ảnh người lính cầm súng với quanh mình là lá ngụy trang: Mùa xuân là những cành lộc non giắt trên lưng để che mắt kẻ thù
– “Lộc” đối với những người ở hậu phương: Là những mầm ngô, cây sắn, cây lúa mới đang trải ra khắp ruộng đồng, nương rẫy
=> Cả Tổ quốc đang “hối hả”, sục sôi bước những bước chân đầu tiên đầy gian khổ trong quá trình xây dựng đất nước
+ Điệp từ “tất cả”: Lời khẳng định của nhà thơ cả đất nước đang rộn ràng, tươi vui, phấn đấu xây dựng
– Nghệ thuật: So sánh, hệ thống từ láy gợi hình gợi cảm => Miêu tả không khí rạo rực, rộn ràng của cả dân tộc đang phấn đấu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
3. Kết bài
- Khẳng định lại giá trị bài thơ Mùa xuân nho nhỏ.
- Nêu suy nghĩ, cảm xúc bài thơ.
Dàn ý 3
A. Mở bài
– Giới thiệu tác giả: Thanh Hải
- Là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam
- Phong cách sáng tác
- Tác phẩm tiêu biểu
– Giới thiệu tác phẩm: Mùa xuân nho nhỏ
- Hoàn cảnh sáng tác
- Nội dung, nghệ thuật
– Giới thiệu khái quát ba khổ đầu bài thơ
B. Thân bài
1. Khổ thơ thứ nhất
– Bức tranh thiên nhiên xứ Huế
+ Hình ảnh: dòng sông, bông hoa tím biếc, con chim chiền chiện
=> Hình ảnh đặc trưng của xứ Huế mộng mơ
=> Phải là người am hiểu sâu sắc, tường tận về Huế thì mới có thể viết được những vần thơ chân thật, giản dị mà rất đỗi ngọt ngào đến vậy!
2. Khổ thơ thứ hai
– Khung cảnh mùa xuân của đất nước.
+ Hình ảnh: người cầm súng, người ra đồng
=> Những người rất đỗi quen thuộc trong cuộc sống của chúng ta
- Nếu người ra đồng là người cung cấp lương thực, thực phẩm, nuôi sống các anh bộ đội “lộc trải dài nương mạ”
- Thì “người cầm súng” là những người có trách nhiệm to lớn trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc.
C. Kết bài
- Khẳng định giá trị của bài thơ
- Tình cảm của em dành cho bài thơ
Phân tích 2 khổ đầu Mùa xuân nho nhỏ hay nhất
Thanh Hải là một thi nhân được nuôi dưỡng trong tiết trời của xứ Huế. Ông là một nhà thơ luôn hướng ngòi bút của mình vào lý tưởng sống và tình yêu để từ ấy góp sức vào sự nghiệp dựng xây nền văn học cách mạng ở miền Nam từ những ngày đầu. Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được Thanh Hải viết vào tháng 11 năm 1980, khi còn nằm trên giường bệnh, một tháng trước lúc qua đời. Hai khổ thơ đầu bài thơ là niềm ái mộ tha thiết của nhà thơ trước khung cảnh thiên nhiên, đất trời thơ mộng.
Mở đầu tác phẩm, ông đã trở thành người hoạ sĩ vẽ nên một bức tranh về một mùa xuân rất Huế với những gam màu thật ấm áp:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc.”
“Mọc” là vươn lên để đón lấy những nắng gió cuộc đời, là sự trỗi dậy, sự thức tỉnh sau một giấc ngủ đông. Thanh Hải đã sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, chữ “mọc” đặt ở đầu câu thơ gợi ấn tượng đậm nét về vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt đến bất ngờ của thiên nhiên, tạo vật. Bông hoa ấy như đang vươn lên, nở rộ, phô màu tím khoe sắc thắm trên dòng sông xanh biếc. Cũng góp vào thi đàn hồn thơ nàng xuân, đại thi hào Nguyễn Du trong “Truyện Kiều”:
“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Hay Nguyễn Trãi ở thế kỷ 15 cũng có khá nhiều câu thơ, bài thơ về mùa xuân, thể hiện niềm lạc quan yêu đời, ung dung tự tại. Con người sống chan hòa cùng cảnh sắc thiên nhiên của mùa xuân dù xuân đang dâng tràn hay “xuân đã muộn”:
“Cỏ xanh như khói bến xuân tươi
Lại có mưa xuân nước vỗ trời”
Còn Thanh Hải, ông chọn cho mình những gam màu dịu dàng, nên thơ và rất đặc trưng của Huế. Đó là khúc sông uốn lượn tựa như tấm lụa đào thướt tha của dải đất miền Trung quanh co. Phải chăng đó chính là dòng Hương Giang êm đềm, hiền từ? Dòng sông đó đã hoà nhập với bầu trời xanh thẳm bên trên để biến thân thành một “dòng sông xanh”. Bằng biện pháp đảo ngữ “mọc giữa dòng sông xanh”, tác giả đã tô đậm hình ảnh một bông hoa tím bé nhỏ mà tràn đầy sức sống mãnh liệt, vươn lên sự sống trong điều kiện có phần khắc nghiệt để hòa cùng vạn vật giữa vũ trụ bao la vô tận. Xuân miền Nam là hoa mai nhuộm màu vàng rạo rực của nắng. Xuân miền Bắc là cành đào e thẹn nép sau chiếc váy màu hồng nhạt. Còn mùa xuân của Huế, mùa xuân của Thanh Hải là một màu tím biếc. Một màu tím thủy chung đặc trưng của con người xứ Huế mộng mơ, trầm tư, cổ kính. Trong không gian tĩnh lặng của mùa xuân bị khuấy động bởi âm thanh ngân vang đầy trìu mến chất chứa niềm vui rộn rã:
“Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.”
Mùa xuân không chỉ với sắc màu hài hòa mà bức tranh xuân ấy bỗng nhộn nhịp hẳn lên với tiếng chim hót vang trời chào đón ngày mới. Từ “Ơi” được đặt ở đầu câu như một lời thốt lên thích thú, mộc mạc, gần gũi. “Hót chi mà” như một lời trách yêu đầy thân thương, trìu mến, dù trách là vậy nhưng vẫn đắm say vào âm thanh trong trẻo ấy. Con chim chiền chiện qua góc nhìn của Huy Cận cũng có sự tương đồng với Thanh Hải:
“Con chim chiền chiện
Bay vút, vút cao
Lòng đầy yêu mến
Khúc hát ngọt ngào.”
Tâm trí của nhà thơ như con thuyền nhỏ đi từ bến cõi thực sang bến cõi mộng. Ông ngây ngất trước vẻ đẹp thiên nhiên, nâng niu, trân trọng từng khoảnh khắc xuân về:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.”
“Giọt long lanh” là hình ảnh giàu sức gợi và ẩn chứa muôn trùng sắc thái. Hình ảnh này có thể hiểu theo nhiều cách. Đó là hình ảnh thực, là những giọt sương đêm hay những giọt mưa mùa xuân vẫn còn đọng lại trên nhành cây, kẽ lá. Nhưng đó cũng là hình ảnh ẩn dụ. Từ việc giọt sương đêm hay giọt mưa xuân được cảm nhận bằng thị giác tác giả đã chuyển hóa thành giọt âm thanh của tiếng chim chiền chiện, giọt ngọc tinh túy và đẹp đẽ của đất trời và được cảm nhận bằng thính giác. Dù hiểu theo cách nào đi chăng nữa thì hình ảnh “giọt long lanh” cũng đều mang những vẻ đẹp, là sự tinh túy mà thiên nhiên đất trời ban tặng cho mùa xuân xứ Huế thân thương. Đó chính là nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được Thanh Hải sử dụng một cách tài tình. Thi nhân vội vàng đưa đôi bàn tay để “hứng” lấy thứ quà tặng của thiên nhiên xứ Huế với một sự đón nhận, nâng niu, trân quý như sợ rằng, nếu không làm như vậy thứ âm thanh ngọt lành kia sẽ chìm vào thinh vắng. Đại từ “tôi” được điệp hai lần đã gợi nên khát khao được ôm trọn vào lòng tất cả tinh hoa của cuộc sống, được tận hưởng, chiếm lĩnh và giao hòa với bản hoà tấu mùa xuân.
Vẻ đẹp của mùa xuân kinh thành Huế chính là một nét hoạ thần tình tô đậm cho vẻ đẹp của chốn thiên đường mang tên “mùa xuân con người, mùa xuân đất nước”. Đối tượng hướng đến không chỉ dừng lại là các sự vật hiện tượng mà còn hướng đến những con người gây dựng lên mùa xuân:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ”
Nói về mùa xuân của đất nước,của con người tác giả lựa chọn hai hình ảnh: “người cầm súng” và “người ra đồng”. Bởi họ là những người đại diện cho sức mạnh dân tộc. Đồng thời, biểu trưng cho hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng của đất nước ta là chiến đấu ở tiền tuyến và lao động xây dựng hậu phương vững chắc. Những người cầm súng ra trận mang theo những cành lá ngụy trang như mang theo cả mùa xuân “Lộc giắt đầy trên lưng”. Cách miêu tả của nhà thơ khiến ta cảm giác những nhành lá ngụy trang như đang đâm chồi nảy lộc, tươi xanh suốt con đường ra trận. Hình ảnh này còn phản chiếu vẻ đẹp tâm hồn của người lính Cách mạng gợi liên tưởng tới những vần thơ của nhà thơ Quang Dũng trong bài thơ “Tây Tiến”:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm”
Họ cầm súng chiến đấu bảo vệ mùa xuân, bảo vệ màu xanh, sự sống trên quê hương, đất nước mình với tâm hồn hào hoa lãng mạng và tinh thần hiên ngang khí phách. Tương ứng với vẻ đẹp của những người lính trên con đường chiến đấu là hình ảnh những người dân đang hăng say lao động để xây dựng đất nước. Hình ảnh “người ra đồng” gợi liên tưởng đến không khí tấp nập, đông vui của những con người tay tạo dựng cuộc sống mới. Dường như bước chân họ đi tới đâu là màu xanh bát ngát trải theo tới đó. Đọc câu thơ ta có thể hình dung về những cánh đồng màu mỡ, phì nhiêu đang hứa hẹn những vụ mùa no ấm.
Nét đặc sắc của đoạn thơ là việc sáng tạo hình ảnh ẩn dụ “lộc”. Lộc biếc rũ bỏ quá khứ điêu tàn, cũ kĩ để vươn lên sau những cơn mưa xuân rét mướt, những ngày đông giá lạnh trong kén lá đang ngỡ ngàng nhìn vạn vật. Và từ “lộc” cũng biểu hiện cho một niềm tin, một thành quả do cách mạng đem lại, là kết quả. Tất cả “như hối hả”, “như xôn xao” mà hoà quyện trong sự phồn thực của mùa xuân:
“Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao …”
Điệp từ “tất cả” đi liền với những từ láy “hối hả, xôn xao” làm cho nhịp thơ trở nên sôi động, lời thơ chan chứa niềm hân hoan, rung động. Tác giả đã mang đến âm hưởng của nét sống rộn ràng, nhộn nhịp, khẩn trương trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước. Phải gắn bó với quê hương, với con người bằng tình cảm máu thịt, nhà thơ Thanh Hải mới có được những liên tưởng vừa rất chân thực, vừa rất lãng mạn như vậy!
“Mùa xuân nho nhỏ” là ngọn lửa diệu kỳ ủ ấm đôi tay xám ngắt của thi nhân trong những giây phút cuối đời. Ngọn lửa ấy như có phép màu truyền hơi thở, truyền tình yêu vào mạch huyết, vào trái tim của nhà thơ. Hai khổ thơ đã khép lại nhưng dư âm của nó vẫn còn đọng mãi như khơi gợi trong lòng chúng ta về một tình cảm cao đẹp của con người dành cho thiên nhiên và đất nước.
Phân tích khổ 1, 2 bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
Mùa xuân xưa nay luôn là đề tài quen thuộc, gợi nguồn cảm hứng cho bao văn nhân, thi nhân. Ngay cả nhà thơ Thanh Hải khi đang nằm trên giường bệnh thì hình ảnh mùa xuân luôn làm ông xao xuyến để viết lên bài thơ mang niềm cảm xúc dịu ngọt, nhỏ nhẹ, chân tình, gợi cảm mà sâu lắng. Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ được sáng tác năm 1980, chẳng bao lâu trước khi tác giả qua đời. Đó là tiếng lòng tha thiết, yêu mến, gắn bó với quê hương đất nước, với cuộc đời, là thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ muốn được góp mùa xuân nhỏ của riêng mình vào mùa xuân lớn của dân tộc.
Thật xúc động biết bao trước hoàn cảnh sáng tác của bài thơ. Có lẽ, khi đến lúc phải rời xa cuộc sống tươi đẹp thì con người ta lại cảm xúc hơn bao giờ hết. Thanh Hải cũng vậy. Bao nhiêu cảm xúc, nỗi lòng của ông đều đặt vào Mùa xuân nho nhỏ . Bài thơ bắt đầu bằng những xúc cảm trực tiếp trước vẻ đẹp và sức sống của mùa xuân thiên nhiên xứ Huế, từ đó mà lan rộng ra thành hình ảnh mùa xuân của đất nước. Đang từ cảm xúc, mạch thơ chuyển sang biểu hiện suy nghĩ và ước nguyện của nhà thơ muốn được hòa nhập, đóng góp cho cuộc đời chung. Và kết thúc bằng sự trở về với những cảm xúc tha thiết, tự hòa về quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế.
Khổ thơ đầu là bức tranh thiên nhiên mùa xuân của xứ Huế:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.”
Mặc dù vào thời điểm viết bài thơ là vào giữa đông song bài thơ vẫn sống động lên những nét đẹp của thành phố Huế khi vào xuân. Đó là mùa xuân của sự hòa bình, độc lập, là mùa xuân mà bao nhiêu người dân Việt Nam mong muốn. Có lẽ, con người ta chỉ khi lâm vào gần đất xa trời thì ta mới thật sự biết trân trọng những vẻ đẹp của cuộc sống. Và Thanh Hải cũng vậy. Khi nằm trên giường bệnh, ông mới thực sự trân trọng và cảm thấy cuộc sống này còn rất nhiều thứ đẹp. Chính vì vậy, nhà thơ đã gửi gắm những nét đẹp ấy vào sáu câu thơ đầu. Chỉ với sáu câu thơ, ng đọc ta cũng có thể cảm nhận được hết những nét đẹp của Huế khi xuân. Đó là một xứ Huế thoáng đãng, tràn đầy sinh lực, sức sống và rất đỗi nên thơ với dòng sông xanh hiền hòa, với bông hoa tím biếc, với con chim chiền chiện. Tất cả đã tạo nên một bức tranh của mùa xuân với hình khối, màu sắc, đường nét sinh động và đầy sức sống.
Mở đầu là câu thơ:
“Mọc giữa dòng sông xanh”
Ở đây, Thanh Hải đã sử dụng biện pháp đảo ngữ đảo động từ “mọc” lên đầu câu nhằm mục đích tạo nên một sự xuất hiện đột ngột. Giữa một dòng sông xanh ngát của mùa xuân, đột ngột mọc lên “một bông hoa tím biếc”. Đúng vậy, sự đột ngột ấy đã thành công biểu đạt được sự thay đổi lớn của đất nước. Mùa xuân đã thực sự trỗi dậy, bừng nở cũng như đất nước sau khi hòa bình lặp lại đã đi vào ổn định và con người đã làm chủ được cuộc sống, đưa đất nước hướng đến con đường xã hội chủ nghĩa. Phải chăng bông hoa tím biếc ấy là hoa lục bình? Một bông hoa mang màu sắc mộng mơ, nên thơ, thơ mộng. Bông hoa ấy kết hợp cùng với sắc xanh của dòng sông đã tạo nên một nét vẽ hài hòa cho bức tranh xuân của thành phố Huế. Hay bông hoa ấy còn là tượng trưng cho vẻ đẹp của những người con gái nơi đây. Những cô gái mang vẻ đẹp dịu dàng, một vẻ đẹp thanh tao, nho nhã, trong sáng động lòng người như nét đẹp của bông hoa súng. Không chỉ vậy, nó còn là hình ảnh của con người xứ Huế luôn hiền lành, căng tràn sức sống và gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Trong khổ thơ này tác giả còn sử dụng những tiếng chim chiền chiện để đặc tả nên nét đẹp của mùa xuân quê hương mình. Tại sao giữa muôn vàn tiếng chim Thanh Hải lại chọn tiếng chim chiền chiện? Bởi khi nhắc tới chim chiền chiện là ta nghĩ ngay đến mùa xuân và khi mùa xuân tới tiếng chim chiền chiện lại xuất hiện. Khi nhắc đến nửa này ta nghĩ ngay đến nửa kia. Vì vậy nhà thơ đã sử dụng thứ tiếng ấy để ng đọc có thể cảm nhận được sâu sắc hơn vẻ đẹp mà ông muốn mang tới. Đó là một khung cảnh mang màu sắc trong sáng, sống động và tràn ngập sức sống. Cả bầu trời, mặt đất, dòng sông đều tràn trề nhựa sống, đất nước vào xuân bừng lên trong sáng, vô ngần. Trong không gian tràn trề nhựa sống ấy, tiếng chim chiền chiện vút lên trong trẻo, tươi vui, náo nức, âm thanh của tiếng chim chiền chiện chính là hơi thở, sự sống của mùa xuân. Bởi tiếng chim giúp ta cảm thấy thêm yêu đời, tích cực, thêm lạc quan hơn trước cuộc sống bộn bề, bận rộn mới. Tiếng hót ấy vang rộng khắp đất trời, mang đến niềm vui cho cuộc sống của muôn vật, làm tan biến đi mọi âu lo muộn phiền. Chỉ vài nét chấm phá, nhà thơ đã làm cho tất cả không gian tràn ngập sự rạo rực, vui tươi, tưng bừng khi đất trời vào xuân.
Song tới hai câu thơ cuối cùng tác giả lại nói:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.”
Những giọt long lanh ở đây liệu có phải là những giọt sương không? Không, thực chất những giọt long lanh ấy là những giọt tiếng chim. Ở đây tác giả đã sử dụng nghệ thuật chuyển đổi cảm giác từ thính giác sang xúc giác. Từ nghe thấy những tiếng chim hót trở nên hứng những tiếng chum rơi. Từ những âm thanh vô hình, giờ đây nó đã trở thành có hành khối. Đó là hình dạng của những giọt nước được mặt trời chiếu sáng khiến nó trở nên long lanh hơn và từ từ chạm tới đôi bàn tay của ng thi nhân. Đôi bàn tay của sự tự do, phóng khoáng. Đôi bàn tay của niềm lạc quan, yêu cuộc sống. Điều đáng quý ở đây là sự lạc quan, yêu đời của tác giả với cuộc sống. Mặc dù đang nằm trên giường bệnh và phải đối mặt với cái chết cận kề nhưng hồn thơ của ông vẫn luôn mang sự tích cực, tươi vui, hạnh phúc, mang những nét đẹp đơn giản ít được để ý đến của cuộc sống.
Từ mùa xuân thiên nhiên đất trời xứ Huế, nhà thơ cảm nhận về mùa xuân đất nước, mùa xuân cách mạng. Tác giả hướng tình cảm tới những con người cụ thể – những con người làm nên lịch sử:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao.“
Mùa xuân về, điều làm tác giả nhớ đến lúc này chính là hai hình ảnh “người cầm súng” và “người ra đồng” với hai nhiệm vụ là chiến đấu bảo vệ tổ quốc và lao động sản xuất lương thực thực phẩm. Đây chỉ là một ý thơ quen thuộc thường xuất hiện trong nền văn học cách mạng. Cái hay của khổ thơ là tác giả đã gắn hình ảnh “người cầm súng” và “người ra đồng” với màu xanh tươi mới của cành lá tươi non. Những con người lịch sử ấy luôn toát lên một màu xanh mới của những con người thế hệ mới, luôn mang trong mình tinh thần sảng khoái, lạc quan, tích cực, quyết tâm chiến thắng và tràn đầy sức sống. Họ đi đến đâu mùa xuân đi đến đó, đi cùng đến mọi miền tổ quốc và ngược lại mùa xuân cũng tạo nên sức mạnh để giúp những ng chiến sĩ chắp tay súng, những người nông dân chắp tay cày để bảo vệ và xây dựng đất nước. Cũng có thể hiểu rằng chính những con người ấy đã đem mùa xuân đến cho đất nước giữa mùa xuân của thiên nhiên. Từ “lộc” ở đây vừa mang nghĩa tả thực là những chồi non, mầm cây vừa là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho những thắng lợi, cho những vụ mùa bội thu, cho những kết quả đạt được của đất nước ta. “Lộc giắt đầy” và “lộc trải dài”, hai hình ảnh trùng điệp làm hiện ra cả mùa xuân đất trời trong màu xanh bất tận của lộc mới. Đất nước giờ đây mang toàn là những màu sắc tươi mới, sức sống mới, tràn ngập sự chiến thắng, niềm vui, sự tự hào.
Và trong cái màu xanh tươi non kia, một màu xanh của sức sống tràn trề Thanh Hải đã thấy được trong ấy một khí thế khẩn trưởng, náo nức, vui vẻ của đất nước vào xuân:
“Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao”
Bằng việc sử dụng các từ láy như “hối hả”, “xôn xao” và điệp từ “tất cả” đã càng làm nổi bật hơn được khung cảnh ấy. Đó là khung cảnh của tất cả người dân Việt Nam đang cố gắng, tất bật, đoàn kết, phấn đấu không ngừng nghỉ để xây dựng đất nước mới. Đó là khung cảnh mùa xuân của sự hòa bình, tự do, độc lập.
Bài thơ có nhịp thơ hài hòa bởi cách ngắt nhịp linh hoạt khi thì 2/3 khi thì 1/4. Nhịp thơ lúc nhanh lúc chậm lúc thì hối hả khi lại suy tư cũng góp phần diễn tả không khí của mùa xuân trên quê hương đất nước và cái dư vị trầm hùng sâu lắng của tâm hồn nhà thơ. Các biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, điệp ngữ được tác giả vận dụng hết sức tài tình.
Cảm ơn Thanh Hải người đã thả con diều nghệ thuật chứa những tình cảm đẹp về quê hương đất nước để rồi cánh diều ấy cũng giống như tiếng chim chiền chiện mùa xuân không tan loãng vào không trung mà đọng lại ở trái tim biết bao thế hệ một quan niệm sống đẹp: Sống là phải có mơ ước và cống hiến.
Phân tích 2 khổ đầu bài thơ Mùa xuân nho nhỏ
Mùa xuân là mùa của thiên nhiên thắm tươi, của vạn vật sinh sôi nảy nở. Văn học Việt Nam đã từng không có ít những vần thơ thể hiện cảm xúc rạo rực, trẻ trung trước mùa xuân. Đó là “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử, “Mùa xuân xanh” của Nguyễn Bính, “Chiều xuân” của Anh Thơ,… và Thanh Hải – nhà thơ xứ Huế cũng góp vào đó một “Mùa xuân nho nhỏ”. Ra đời vào tháng 11 năm 1980, không bao lâu trước khi nhà thơ qua đời, bài thơ thể hiện niềm yêu mến thiết tha cuộc sống, đất nước và ước nguyện dâng hiến của tác giả. Để lại nhiều ấn tượng nhất trong lòng người đọc là cảm xúc của thi nhân về mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân đất nước.
Ở vị trí phần đầu của thi phẩm, đoạn thơ là những dòng cảm xúc hồn nhiên, trong trẻo, đắm say của tác giả trước vẻ đẹp mùa xuân – mùa xuân thiên nhiên xứ Huế và mùa xuân đất nước, mùa xuân Cách mạng. Nếu mùa xuân của đất trời mang vẻ đẹp tươi trẻ, tràn trề sức sống thì mùa xuân đất nước lại đẹp một cách sôi nổi, hào hùng.
Với nét bút khoáng đạt, bức tranh mùa xuân thiên nhiên được nhà thơ phác họa bằng hình ảnh tự nhiên, bình dị và gợi cảm:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc”.
Xứ Huế vào xuân với “dòng sông xanh”, với “bông hoa tím”. Sắc xanh hiền hòa của sông điểm xuyết nét chấm phá của bông hoa tím biếc gợi một sắc xuân tươi tắn, rực rỡ mà vẫn rất mực bình dị, dân dã mang đậm chất Huế mộng mơ. Động từ “mọc” được đảo lên đầu câu thơ gợi ấn tượng đậm nét về vẻ đẹp duyên dáng, và sức sống mạnh mẽ của bông hoa mùa xuân. Đó có thể là bông hoa lục bình, cũng có thể là bông trang, bông súng, với sắc tím biếc như đang vươn lên, đang trỗi dậy. Hoa tím biếc mọc nở trên dòng sông xanh – cái hài hòa của tự nhiên của màu sắc đem đến vẻ đẹp dịu nhẹ, thanh mát làm say đắm lòng người.
Bức tranh mùa xuân xứ Huế không chỉ tươi tắn,sống động sắc màu mà còn rực rỡ âm thanh:
“Ơi con chim chiền chiện,
Hót chi mà vang trời”.
Tiếng hót của chim chiền chiện mở ra một không gian cao vời, trong trẻo. Và cũng bởi tiếng chim lảnh lót đó vang lên làm xao động cả đất trời, làm xao xuyến cả tâm hồn thi sĩ nhạy cảm của nhà thơ. Với cảm thán từ “Ơi” và lời hỏi “hót chi?”, Thanh Hải đã đưa vào lời thơ giọng điệu ngọt ngào, dịu nhẹ, thân thương của người dân xứ Huế, diễn tả cảm xúc vui say đến ngỡ ngàng trước một mùa xuân tươi đẹp – một mùa xuân đậm chất quê hương và giàu chất thơ.
Say sưa, ngây ngất trước vẻ đẹp giản dị mà nên thơ của mùa xuân, nhà thơ bỗng bồi hồi, xúc động:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
“Giọt long lanh” là giọt mùa xuân, giọt nắng vàng hay giọt sương sớm?Theo mạch cảm xúc của nhà thơ thì có lẽ đây là giọt âm thanh của tiếng chim ngân vang, đọng lại thành từng giọt niềm vui, rơi xuống cõi lòng rộng mở của thi sĩ, thấm vào tâm hồn đang rạo rực tình xuân. Phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được sử dụng một cách tự nhiên, hợp lí. Thanh Hải cảm nhận vẻ đẹp của mùa xuân bằng nhiều giác quan: thị giác, thính giác và cả xúc giác. Cử chỉ“Tôi đưa tay tôi hứng” thể hiện sự nâng niu, trân trọng của nhà thơ trước vẻ đẹp của mùa xuân với cảm xúc say sưa, lặng ngắm. Hình ảnh thơ lung linh, đa nghĩa, vừa là thơ, vừa là nhạc, là hoạ. Bức tranh mùa xuân được phác hoạ khi nhà thơ đang nằm trên giường bệnh khiến người đọc trân trọng hơn, yêu hơn một tâm hồn nghệ sĩ, một tình yêu quê hương, đất nước.
Từ mùa xuân thiên nhiên đất trời, nhà thơ cảm nhận về mùa xuân đất nước, mùa xuân Cách mạng. Tác giả hướng tình cảm tới những con người cụ thể – những con người làm nên lịch sử:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ”.
Các điệp ngữ “mùa xuân”,”lộc”,”người” như trải rộng khung cảnh hiện thực khi gắn với cuộc sống lao động, chiến đấu của nhân dân.Nhà thơ đã sáng tạo cặp hình ảnh sóng đôi đẹp như hai vế của câu đối mừng xuân để nói về hai lực lượng chủ yếu của cách mạng, hai nhiệm vụ chiến lược của đất nước. Đó là người chiến sĩ và người lao động – bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, quê hương. Từ “lộc” được dùng với hai lớp nghĩa : tả thực chồi non, nhành biếc và ẩn dụ cho sức sống, thế vươn lên, sức phát triển mới, thành quả tốt đẹp là mùa xuân. “Lộc” trên cành lá ngụy trang theo bước chân người cầm súng ra trận,“lộc” trải dài trên những nương mạ theo bàn tay người ra đồng. Như thế, người chiến sĩ, người lao động đã đem mùa xuân, gieo mùa xuân đến mọi miền đất nước. Họ trở thành những con người làm ra mùa xuân, bảo vệ mùa xuân. Và họ đã làm nên cái giai điệu chính của bản hợp xướng mùa xuân, tạo nhịp điệu hối hả, hào hùng:
“Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao”
Nghệ thuật điệp ngữ “tất cả” cùng các từ láy “hối hả”, “xôn xao” làm nổi bật không khí khẩn trương, náo nức của đất nước trong những năm tháng gian lao, hào hùng. Cách ngắt nhịp 2/1/2 làm cho câu thơ vang lên một nhịp điệu tươi vui, mạnh mẽ. Đó là hành khúc mùa xuân của thời đại Hồ Chí Minh.
Mùa xuân là đề tài truyền thống trong thơ ca dân tộc. Thanh Hải đã góp vào đó một bài thơ xuân đẹp, đậm đà tình nghĩa. Thể thơ năm chữ, giọng thơ lúc mạnh mẽ, lúc thiết tha ngân vang, ngôn ngữ thơ trong sáng và biểu cảm, hàm súc và hình tượng, các phép tu từ được vận dụng sắc sảo và tài hoa. Tình yêu mùa xuân gắn liền với tình yêu quê hương, đất nước được nhà thơ diễn tả sâu sắc và cảm động trong đoạn thơ, bài thơ. Mỗi cuộc đời hãy là một mùa xuân, đất nước ta sẽ mãi mãi là những mùa xuân tươi đẹp.
“Mùa xuân nho nhỏ” là khúc ca say mê về tình yêu thiên nhiên, tình yêu cuộc sống làm rung động trái tim người đọc bao thế hệ. Đến với bài thơ, đặc biệt là đoạn thơ trên, ta không chỉ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của mùa xuân mà còn xúc động trước thế giới tâm hồn của thi nhân. Nhẹ nhàng mà sâu lắng, những vần thơ của Thanh Hải đã khơi gợi trong ta tình yêu thiên nhiên, tình yêu cuộc đời.
Phân tích khổ 1, 2 Mùa xuân nho nhỏ
Mùa xuân là đề tài quen thuộc trong các tác phẩm văn học Việt Nam. Mỗi mùa xuân của mỗi nhà thơ đều mang những phong cách khác nhau, để lại dấu ấn khác nhau trong lòng độc giả. Một trong những bài thơ về mùa xuân nhẹ nhàng, đầy sức sống ấy phải kể đến bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Nhà thơ Thanh Hải. Bài thơ được sáng tác trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt, đó là khi đất nước đã thống nhất, non sông thu về một mối, cả đất nước hồi sinh sôi sục khí thế xây dựng, nhưng Thanh Hải lại đang nằm trên giường bệnh vì mắc bệnh hiểm nghèo.
Mùa xuân là đề tài muôn thuở cho các nhà thơ phóng bút. Nhắc đến mùa xuân là ta nghĩ ngay đến sự sống mãnh liệt, đâm chồi nảy lộc của thiên nhiên và cả của con người. Và trong thơ Thanh Hải, ở khổ đầu chính là mùa xuân với thiên nhiên tươi đẹp, cảnh sắc lãng mạn và mơ mộng.
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ôi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”
Mở đầu bài thơ là những vần thơ vô cùng ngắn gọn, giản dị nhưng chứa đựng cả một mùa xuân tươi mới, tràn nhựa sống. Mùa xuân xứ Huế trong mắt người cách mạng vừa lãng mạn, trữ tình đậm chất Huế vừa tràn đầy sức sống.
Không cần sử dụng những từ ngữ kiêu sa để nói về mùa xuân, đơn giản chỉ là một bông hoa tím biếc mọc giữa một dòng sông xanh. Đây chính là dòng sông đẹp xanh ngắt với những bông hoa tím khi mùa xuân về. Mùa xuân dường như đẹp hơn, trong trẻo hơn, phản ánh không gian bầu trời cũng trong xanh rạng rỡ. Tác giả thật khéo léo khi miêu tả màu sắc của dòng sông, của bông hoa, màu sắc hài hòa, mang đậm sắc màu mùa xuân, cảm nhận được nhựa sống đang cuộn mình trên dòng sông và từng cánh hoa.
Không gian rộn ràng hơn khi hình ảnh con chim chiền chiền hiện ra, với tiếng hót líu lo vang cả bầu trời. Bức tranh mùa xuân không còn đơn thuần là màu sắc, tĩnh lặng nữa mà nó đã lồng với âm thanh, tạo nên bức tranh sinh động. Tiếng con chim nhỏ mà vang cả bầu trời, xé toang không gian tĩnh lặng, mang đến sự sống cho không gian, cho con người.
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
Đây chính là giọt mùa xuân, giọt hạnh phúc. Có biết bao nhiêu mĩ từ mô tả mùa xuân, vậy mà tác giả chỉ dùng từ giọt long lanh rơi , cho thấy sự độc đáo, nét đặc sắc của nghệ thuật. Hai câu thơ trên là nghệ thuật chuyển đổi cảm giác khi từ thính giác sang xúc giác, chính mùa xuân đã làm cho giác quan con người bừng tỉnh để tận hưởng tận sâu cái đẹp của mùa xuân.
Khổ thơ đầu tiên chính là bức tranh thôn quê về mùa xuân chân thực, rộn ràng đặc trưng vùng miền. Nhưng sang khổ thơ thứ 2 là bức tranh mùa xuân của quê hương, đất nước, của những người lính:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc trải dài trên tay
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao
Không còn là những câu thơ tả cảnh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp lãng mạn nữa mà nó là mùa xuân gắn liền với nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, lao động sản xuất. Hình ảnh người lính giắt trên lưng những cành lộc xuân càng khẳng định nhiệm vụ của mình và mang cả mùa xuân trên người. Mùa xuân đến họ vẫn hăng say làm nhiệm vụ bảo vệ quê hương đất nước. Bên cạnh hình ảnh người lính đó chính là người lao động, họ chính là hậu phương vững chắc cho tiền tuyến an tâm đánh giặc. Những người lao động đang hối hả ra đồng giữa mùa xuân tươi đẹp của đất nước.
Mùa xuân chính là sự sống, là đâm chồi nảy lộc và con người cũng hòa trong không khí mùa xuân ấy mà hăng say làm việc, lao động, xây dựng một đất nước mới mẻ, tươi đẹp hơn. Đây chính là những năm tháng đầu tiên giành lại độc lập, mùa xuân độc lập trên đất nước nên trong mắt Thanh Hải mùa xuân vừa đẹp, vừa thực và con người hòa mình vào thiên nhiên tươi đẹp ấy.
Với các biện pháp tu từ sử dụng linh hoạt và giọng điệu tươi vui, hào hứng đã vẽ lên một mùa xuân thiên nhiên vô cùng tươi đẹp, tràn đầy nhựa sống. Mặc dù đang nằm trên giường bệnh nhưng Thanh Hải vẫn nhìn thấy sự đổi mới của đất nước, của con người, một mùa xuân nho nhỏ nhưng lại vô cùng có ý nghĩa đối với những con người khi ấy. Qua đây cũng cho thấy thanh hải là người tràn đầy tình yêu với cuộc đời, với đất nước, vẫn khao khát sự sống, khao khát hạnh phúc. Ta càng thấy trân trọng hơn tấm lòng của nhà thơ, một người nghệ sĩ nhân cách lớn.
Phân tích hai khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ
Thiên nhiên vạn vật với vẻ đẹp hấp dẫn, phong phú luôn là nguồn đề tài thu hút, khơi nguồn cảm hứng ở các tác giả. Đặc biệt là khoảnh khắc giao mùa, những tâm hồn tinh tế nắm bắt trọn vẹn khoảnh khắc mùa cũ qua đi, mùa mới ghé đến. Bằng tâm hồn nhạy cảm và tinh tế, Thanh Hải đã nắm bắt trọn vẹn vẻ đẹp của mùa xuân xứ Huế mộng mơ. Nó được thể hiện đặc biệt rõ trong hai khổ thơ đầu của bài thơ Mùa xuân nho nhỏ.
Mùa xuân nho nhỏ được viết vào tháng 11 năm 1980, không bao lâu trước khi nhà thơ qua đời. Hoàn cảnh đó giúp ta càng hiểu rõ hơn lòng yêu cuộc sống thiết tha của tác giả. Ông vẫn mở rộng mọi giác quan để cảm nhận đầy đủ nhất vẻ đẹp của thiên nhiên, vạn vật.
Viết về đề tài mùa xuân, không phải là một đề tài hiếm có trong thơ ca. Ta từng biết đến mùa xuân rộn ràng sắc hương trong thơ Nguyễn Bính:
Đây cả mùa xuân đã đến rồi
Từng nhà mở cửa đón vui tươi
Từng cô em bé so màu áo
Đối má hồng lên nhí nhảnh cười.
Còn đối với Thanh Hải, ông cảm nhận một mùa xuân rất riêng, rất Huế với sắc tím dịu dàng, đằm thắm:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Thiên nhiên đẹp đẽ, là sự hòa phối hài hòa giữa các màu sắc. Giữa dòng sông xanh là sắc tím biếc của loài hoa lục bình. Động từ “mọc” được đảo lên đầu câu nhấn mạnh vào sức sống mạnh mẽ, sự trỗi dậy của thiên nhiên. Đồng thời cũng khiến cho sự biến chuyển của sắc hoa thêm rõ nét. Hòa vào khung cảnh yên bình, đậm chất Huế là tiếng chim hót vang trời ngưng đọng thành từng giọt long lanh. Hình ảnh giọt long lanh là một hình ảnh thơ đa nghĩa, vừa có thể hiểu là tiếng chim hót ngưng đọng thành giọt, nhưng cũng có thể hiểu là giọt mưa xuân. Đứng trước khung cảnh ấy, tác giả không khỏi bồi hồi, xúc động. Ông ngây ngất trước vẻ đẹp thiên nhiên, nâng niu, trân trọng từng khoảnh khắc xuân về:
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
Đôi tay tác giả đầy nâng niu, trân trọng hứng lại giọt âm thanh, hứng lấy giọt mùa xuân của thiên nhiên. Đồng thời hành động ấy cũng cho thấy sự níu giữ, yêu tha thiết mùa xuân, cuộc đời của tác giả. Với hoàn cảnh lúc bấy giờ, tác giả đang nằm trên giường bệnh, cái chết có thể đến bất cứ lúc nào, ta lại càng thấy rõ hơn tình yêu quê hương, yêu cuộc sống ở ông.
Từ mùa xuân của thiên nhiên, Thanh Hải dần chuyển sang cảm nhận mùa xuân của đất nước. Đối tượng hướng đến không chỉ dừng lại là các sự vật hiện tượng mà hướng đến những con người gầy dựng lên mùa xuân:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc dắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ.
Mỗi một cặp câu thơ nhắc đến một nhiệm vụ lúc bấy giờ: nhiệm vụ chiến đấu và nhiệm vụ lao động sản xuất. Người cầm súng chính là những chiến sĩ anh dũng, ngày đêm bảo vệ đất nước. Họ mang trên mình những chiếc lộc nguy trang giặc, nhưng đồng thời họ cũng mang cả mùa xuân đất nước trên lưng, chiến đấu và bảo vệ nền độc lập cho dân tộc. Làm hậu phương vững chắc cho tiền tuyến là những người ra đồng, họ là những người nông dân cần mẫn, chăm chỉ sản xuất phục vụ kháng chiến, cuộc sống. Hình ảnh lộc trải dài, cho thấy sức sống mạnh mẽ, trải dài của đất nước. Hòa trong không khí chung đó ai cũng hối hả, xôn xao. Tứ thơ như được lan tỏa không khí khẩn trương, rộn ràng. Trong hai câu thơ, Viễn Phương đã sử dụng liên tiếp điệp từ “tất cả”, từ láy hối hả, xôn xao tạo nên nhịp điệu vui tươi, hào hùng, hồi hởi. Cho thấy niềm tự hào sâu sắc của tác giả trước mùa xuân của đất nước.
Trong hai khổ thơ đầu Thanh Hải đã vận dụng linh hoạt các biện pháp tu từ, cùng với đó là giọng điệu vui tươi, hào hứng đã vẽ nên vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên và sức sống của mùa xuân đất nước. Ta không thấy một Thanh Hải ốm đau, mà là một người nghệ sĩ tràn đầy tình yêu cuộc sống, tình yêu đất nước. Những vần thơ khiến ta càng thêm trân trọng hơn tấm lòng của một người nghệ sĩ lớn, nhân cách lớn.
Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc”
Tiếng ngâm ngọt ngào, bay bổng của nghệ sĩ Thu Hương trong chương trình “đêm thơ” làm cả nhà em chăm chú, lắng nghe. Một cảm giác lâng lâng đầy xúc cảm chạy khắp cơ thể em. Ôi bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải đấy ư? Đó là một trong những bài thơ đã để lại trong em những ấn tượng đẹp nhất. Mùa xuân nho nhỏ, thật là nho nhỏ khi hai khổ thơ đầu chỉ là những vần thơ giản dị, ngắn, mà chứa đựng cả một mùa xuân thiên nhiên của xứ Huế và mùa xuân Cách mạng của người dân cố đô vào những năm Huế đang ra sức lao động sản xuất để mang lại cuộc sống êm ấm cho quê hương:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi! con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao”
Mở đầu bài thơ, tác giả đã tả cảnh thiên nhiên quê mình thật nên thơ. Bằng niềm cảm xúc lâng lâng, Thanh Hải đã tả con sông quê hương mình xanh ngắt, mà nhẹ nhàng, đượm chất thơ sâu lắng.
“Mọc giữa dòng sông xanh”
Dòng sông Hương nơi quê Thanh Hải vốn là một con sông nổi tiếng, quanh năm xanh ngắt với muôn vàn vẻ đẹp, nhất là vào mùa xuân của xứ Huế cổ kính càng đẹp hơn.
Đọc tiếp câu thơ, ta thấy tác giả đã mô tả hình ảnh “Một bông hoa tím biếc”. Ôi! Còn cảnh nào đẹp hơn, khi giữa dòng sông xanh lại có một bông hoa tím biếc mọc lên giữa dòng. Tác giả đã sử dụng màu sắc thật hài hòa: ở giữa dòng sông xanh lại có một màu tím nổi lên. Màu tím hiện lên giữa màu xanh, đó là hình ảnh của một vẻ đẹp nổi bật nhưng không rực rỡ, mà nên thơ nhẹ nhàng, hài hòa duyên dáng.
“Ơi! con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”
Bức tranh xứ Huế vào mùa xuân càng sinh động hơn không chỉ bằng con sông Hương xứ thơ mà còn sinh động bởi những tiếng hót líu lo của loài chim chiền chiện. Tiếng chim chiền chiện “Hót chi mà vang trời” cũng đủ để cho ta thấy nét đẹp của xứ Huế ra sao? Một vẻ đẹp vừa cổ kính vừa sinh động, tràn đầy sức sống:
“Từng giọt long lanh rơi”
Từ “giọt” ở đây chúng ta có thể nghĩ đó là giọt sương, giọt mưa xuân, hay cũng có thể là giọt hạnh phúc. Đây chính là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc của tác giả và có biết bao nhiêu điều cần mô tả, mà tác giả chỉ cô đọng lại trong từ đơn sơ “giọt long lanh” độc đáo đó:
“Tôi đưa tay tôi hứng”
Hình ảnh “tôi đưa tay tôi hứng” làm ta hình dung giọt sương rơi, giọt mưa xuân hay có thể trừu tượng là tác giả hứng được giọt hạnh phúc mà đất nước, nhân dân, hay chính bản thân mình đã góp phần tạo nên.
Thế đấy, với khổ thơ trên chỉ bằng vài ba nét phác hoạ, cùng với sự chuyển đổi giác quan, tác giả tạo ra một mùa xuân thiên nhiên nơi xứ Huế với một vẻ đẹp thật tao nhã, nên thơ mà giản dị đầm ấm.
Đọc tiếp đoạn thứ hai, ta thấy vẫn vần thơ giản dị nhưng tuyệt vời, tác giả mô tả một mùa xuân Cách mạng của quê hương đất nước:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng”
Hai câu đầu tác giả nhấn mạnh đến mùa xuân chiến đấu, mùa xuân của “người cầm súng” với “Lộc giắt đầy quanh lưng”. “Lộc” có nghĩa đen là một chồi xanh, non tơ, biểu tượng sức sống khi mùa xuân đến. Ở đây, từ “lộc” biểu hiện cho một niềm tin, một thành quả do cách mạng đem lại, là kết quả. Người chiến sĩ với “Lộc giắt đầy quanh lưng” khi ra chiến trường với một mong muốn cao nhất là phải chiến thắng quân thù.
“Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ”.
Với mùa xuân của những người lao động sản xuất thì từ “lộc” tượng trưng cho sự ấm no, hạnh phúc, tượng trưng cho sự “trúng mùa” của công việc sản xuất. Mọi người dân lao động đều mong muốn mình phải cống hiến sức lực, tài năng, để lao động xây dựng quê hương và bảo vệ Tổ quốc.
Trong khổ thơ này, “mùa xuân chiến đấu” đối xứng với “mùa xuân sản xuất”, “người chiến sĩ đối xứng với “người lao động sản xuất”, tác giả đã nêu bật nhiệm vụ hàng đầu của đất nước ta lúc bấy giờ là phải vừa chiến đấu bảo vệ đất nước, vừa phải ngày đêm lao động sản xuất, xây dựng quê hương sau chiến tranh, góp phần làm cho Tổ quốc giàu mạnh. Bởi vậy, mọi người đều tự giác, tự nguyện:
“Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao”
Câu thơ giản dị, điệp ngữ “tất cả” như diễn tả sự thống nhất trong suy nghĩ và hành động. Từ “xôn xao” vừa gợi tả vừa gợi thanh – âm thanh nhỏ mà có chiều sâu của cuộc sống đang phát triển, đang reo vui. Lời thơ nhỏ nhẹ, chứa chất suy tư tha thiết chân thành mà vẫn sâu lắng.
Tóm lại hai khổ thơ lời ít ý nhiều, tác giả đã diễn tả cảm xúc của mình về một mùa xuân nho nhỏ trên quê hương sau mấy năm giải phóng. Đó là quê hương của xứ Huế mộng mơ đã hòa chung với cuộc sống thanh bình của cả nước.
Phân tích 2 khổ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ
Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm, là mùa muôn vật hồi sinh sự sống. Mùa xuân làm cho con người cuồn cuộn sức sống, thêm yêu đời, yêu vạn vật. Đề tài mùa xuân được xuất hiện trong rất nhiều sáng tác. Trong đó phải kể đến Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải.
Mở đầu bài thơ là những vần thơ giản dị, ngắn mà chứa đựng cả một mùa xuân thiên nhiên của xứ Huế và mùa xuân cách mạng của người dân cố đô vào những năm Huế đang ra sức lao động sản xuất để mang lại cuộc sống ấm êm cho quê hương:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi! con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao”
Chỉ bằng vài câu thơ tác giả đã vẽ lên cảnh thiên nhiên quê mình thật nên thơ, đẹp và lãng mạn. Mùa xuân trên quê hương Thanh Hải không rực rỡ kiêu sa mà chỉ đơn giản là một bông hoa mọc lên giữa dòng sông xanh ngắt, nhưng nó lại đem lại cảm giác xao xuyến cho người đọc. Bằng niềm cảm xúc lâng lâng, Thanh Hải đã tả con sông quê hương mình xanh ngắt mà nhẹ nhàng, được chất thơ sâu lắng.
“Mọc giữa dòng sông xanh”
Dòng sông quê hương Thanh Hải vốn là con sông nổi tiếng quanh năm xanh ngắt với muôn vàn vẻ đẹp, nhất là vào mùa xuân của xứ Huế cổ kính càng đẹp hơn.
Đọc tiếp câu thơ, ta thấy tác giả đã mô tả hình ảnh một bông hoa tím biếc. Ôi còn cảnh nào đẹp hơn, khi giữa dòng sông xanh hiện lên một đóa hoa tím biếc lừng lững trôi giữa dòng. Tác giả đã sử dụng màu sắc thật hài hòa. Màu tím hiện lên giữa màu xanh là một hình ảnh nổi bật nhưng không rực rỡ mà nên thơ nhẹ nhàng, hài hòa và duyên dáng. Bức tranh sinh động nhưng có nét gì đó mang chút suy tư, nhưng nó cũng bị thay đổi bởi bóng dáng của một con chim:
“Ôi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”
Bức tranh xứ Huế vào xuân càng sinh động hơn không chỉ bằng con sông Hương thơ mộng mà còn sinh động bởi những tiếng hót véo von của đàn chim chiền chiện. Tiếng chim hót líu lo vang trời đủ cho ta thấy nét đẹp của Huế ra sao. Câu thơ gợi cho ta có một chút băn khoăn bởi giữ không gian tĩnh lặng đó, một con chim chiền chiện mà có thể hát vang được cả bầu trời rộng lớn kia. Có lẽ chỉ có tác giả khi đã hòa mình vào cảnh vật để cảm nhận vẻ đẹp của quê hương mới có thể bừng tỉnh vì tiếng hót của con chim và có cảm giác như tiếng hót của nó xé toang không gian tĩnh lặng đó. Một cái đẹp vừa cổ kính vừa bình dị và tràn đầy sức sống:
“Từng giọt long lanh rơi”
Từ giọt ở đây khiến chúng ta phải suy nghĩ đó là giọt sương, giọt mưa xuân hay là giọt hạnh phúc. Đây chính là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc của tác giả. Có biết bao nhiêu điều cần mô tả vậy mà tác giả chỉ đọng lại trong vài từ đơn sơ giọt long lanh độc đáo đó. Có lẽ giọt long lanh mà tác giả muốn nói tới là giọt tiếng chim, bởi chỉ có một mình tác giả mới cảm nhận được những điều mà mắt thường không nhìn thấy được. Câu thơ tưởng như có sự vô lý lại trở thành hợp lý. Ông có cảm giác như một người say, say trước vẻ đẹp nên thơ, yêu kiều của mùa xuân. Vẻ đẹp đó được ông nâng niu trân trọng và giường như tác giả muốn giữ vẻ đẹp đó cho riêng mình nên đã muốn giơ tay hứng lấy. Có lẽ tác giả muốn cảm nhận vẻ đẹp của mùa xuân bằng xương bằng thịt của mình:
“Tôi đưa tay tôi hứng”
Hình ảnh Tôi đưa tay tôi hứng làm ta hình dung có một giọt sương rơi, một giọt mưa xuân hay có thể trừu tượng là tác giả đang hứng một giọt hạnh phúc mà quê hương hay bản thân mình đã tạo ra. Từ đấy, với khổ thơ trên chỉ bằng vài nét phác họa, cùng với sự chuyển đổi giác quan, tác giả tạo ra một mùa xuân thiên nhiên nơi Huế với một vẻ đẹp tao nhã, nên thơ, giản dị và khoáng đạt.
Đọc tiếp đoạn thứ hai, ta thấy vần thơ tuy giản dị nhưng tuyệt vời, tác giả tả mùa xuân cách mạng của quê hương đất nước:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng”
Hai câu đầu tác giả nhấn mạnh đến mùa xuân chiến đấu, mùa xuân của người cầm súng với lộc giắt đầy quanh lưng. Lộc có nghĩa đen là một chồi xanh non mơn mởn biểu hiện cho sức sống vạn vật khi xuân sang. Ở đây từ lộc biểu hiện cho một niềm tin, một thành quả cách mạng đem lại, là kết quả. Người chiến sĩ với lộc giắt đầy quanh lưng khi ra chiến trường với mong muốn cao nhất là phải chiến thắng quân thù.
“Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ”
Với mùa xuân của những người nông dân, những người lao động thì lộc của họ là sự ấm no, hạnh phúc, tượng trưng cho sự trúng mùa của công việc sản xuất. Một người dân lao động đều mong muốn mình phải cống hiến sức lực, tài năng, để lao động xây dựng quê hương và phát triển đất nước.
Trong khổ thơ này, mùa xuân chiến đấu đối xứng với mùa xuân sản xuất. Người chiến sĩ đối xứng với người lao động sản xuất. Tác giả đã nêu bật nhiệm vụ hàng đầu của đất nước ta lúc bấy giờ là phải vừa chiến đấu bảo vệ đất nước, vừa phải ngày đêm lao động sản xuất xây dựng quê hương sau chiến tranh, góp phần cho Tổ quốc giàu mạnh.
Bởi vậy, mọi người đều tự giác, tự nguyện:
“Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao.”
Câu thơ giản dị, điệp ngữ tất cả như diễn tả sự thống nhất theo suy nghĩ và hành động. Xôn xao gợi thanh – âm thanh nhỏ mà chiều sâu của cuộc sống đang phát triển đang reo vui. Lời thơ nhỏ nhẹ, chứa chan suy tư thống thiết chân thành mà vẫn sâu lắng.
Hai khổ thơ lời ít ý nhiều, tác giả diễn tả cảm xúc của mình về một mùa xuân nho nhỏ trên quê hương sau mấy năm giải phóng. Đó là quê hương xứ Huế mộng mơ đã hòa chung với cuộc sống thanh bình của đất nước.
Đọc Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải ta như được tận hưởng cái vẻ đẹp độc đáo của mùa xuân. Mùa xuân như có men say và nó đã lan tỏa vào vạn vật, vào da thịt của con người. Thanh Hải đã dâng tặng cho đời một mùa xuân tràn trề nhựa sống, một mùa xuân tươi đẹp báo hiệu một cuộc sống tươi đẹp, hạnh phúc.
Phân tích hai khổ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ
Theo quy luật thiên nhiên muôn đời, mùa đông lạnh lẽo trôi qua là mùa xuân xanh tươi lại trở về với tiếng chim rộn rã và muôn hoa khoe sắc, khoe hương. Bức tranh xuân mở đầu bài thơ thật đơn sơ, giản dị mà không kém phần đẹp đẽ:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Chỉ bằng vài nét phác họa: dòng sông xanh, bông hoa tím biếc, tiếng chim chiền chiện hót vang trời, tác giả đã vẽ ra bức tranh mùa xuân tươi đẹp với không gian cao rộng và sắc màu tươi thắm. Những màu sắc có tính chất; đặc trưng của xứ Huế (sông xanh, hoa tím biếc) và cả âm thanh vang vọng của tiếng chim chiền chiện lảnh lót, tươi vui. Dòng sông trong xanh, hiền hòa làm nền cho sắc tím biếc của bông hoa, có thể là bông hoa súng. Bông hoa nhỏ bé soi mình trên mặt nước, vươn lên đón những tia nắng mặt trời. Mùa xuân thu nhỏ trong khung cảnh đơn sơ ấy. Nhà thơ lặng ngắm và lắng nghe với vẻ say mê và tấm lòng tràn đầy một cảm xúc thanh cao, trong sáng. Ôi tiếng chim chiền chiện –con chim thân thuộc của quê hương miền Trung! Tiếng chim thánh thót như chuỗi ngọc long lanh, đọng thành từng giọt niềm vui, rơi xuống cõi lòng rộng mở của thi sĩ, thấm vào tâm hồn đang rạo rực tình xuân. Nhà thơ chào đón mùa xuân bằng tất cả con người mình, cho hên mới có những câu thơ thắm thiết ân tình đến vậy. Cảm xúc của tác giả trước cảnh mùa xuân của thiên nhiên được diễn tả tập trung ở chi tiết rất tạo hình này: “Từng giọt long lanh rơi / Tôi đưa tay tôi hứng”. Về hai câu thơ trên, có hai cách hiểu. Cách hiểu thứ nhất: từng giọt ở đây là giọt mưa xuân long lanh trong ánh sáng của trời xuân. Ta có thể gắn hai câu thơ này với hai câu thơ trước Ơi con chim chiền chiện,/ Hót chi mà vang trời để hiểu theo cách thứ hai: nhà thơ đưa tay hứng từng giọt âm thanh tiếng chim. Ở đây có sự chuyển đổi cảm giác. Tiếng chim từ chỗ là âm thanh (cảm nhận được bằng thính giác) chuyển thành từng giọt long lanh ánh sáng mặt trời (hình và khối, cảm nhận được bằng thị giác) và cả bằng xúc giác (Tôi đưa tay tôi hứng). Hiểu theo cách thứ hai này thì câu thơ có nghệ thuật điêu luyện hơn nhưng cũng cầu kì hơn.
Dù hiểu theo cách nào thì hai câu thơ ấy vẫn biểu hiện niềm say sưa, ngây ngất của nhà thơ trước vẻ đẹp của mùa xuân. Xuân đến với thiên nhiên, xuân đến với lòng người. Suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, hình ảnh dân tộc Việt Nam kết tụ lại ở hình ảnh người cầm súng và người ra đồng. Nhà thơ Thanh Hải nhìn đâu cũng thấy sức xuân phơi phới:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao…
Từ cảm xúc trước mùa xuân của thiên nhiên, nhà thơ mở rộng, nâng cao thành cảm nhận về mùa xuân đất nước với hình ảnh người cầm súng, người ra đồng, biểu trưng cho hai nhiệm vụ chiến đấu và lao động xây dựng Tổ quốc. Ý này không mới, nhưng tác giả đã tạo nên sự rung động của câu thơ bằng hình ảnh nơi nơi tràn đầy lộc non của mùa xuân: Lộc giắt đầy trên lưng… Lộc trải dài nương mạ. Mùa xuân, cây cối đâm chồi nảy lộc. Lộc là chồi non, lá nõn, tượng trưng cho may mắn, thành công và hạnh phúc. Người cầm súng bảo vệ Tổ quốc thì lộc là vòng lá ngụy trang xanh tươi giắt đầy trên lưng. Người nông dân ra đồng, lộc là nương mạ mơn mởn trải dài, hứa hẹn một mùa màng bội thu. Tất cả như hối hả, Tất cả như xôn xao, điệp từ tất cả cùng với các tính từ hối hả, xôn xao làm tăng thêm sức xuân mãnh liệt trong mỗi con người và trong cả cộng đồng rộng lớn là dân tộc.
Mùa xuân của đất trời hiển hiện trong hình ảnh lộc non theo chân người cầm súng và người ra đồng còn có ý nghĩa khẳng định con người Việt Nam đang đem mùa xuân đến khắp mọi miền đất nước. Phải gắn bó với quê hương, với con người bằng tình cảm máu thịt, nhà thơ Thanh Hải mới có được những liên tưởng vừa rất chân thực, vừa rất lãng mạn như vậy.
Cảm nhận 2 khổ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ
Thanh Hải sáng tác bài thơ giữa mùa đông rét buốt trên xứ Huế, lúc tác giả đang nằm trên giường bệnh và không bao lâu sau nhà thơ qua đời. Có hiểu cho hoàn cảnh của nhà thơ trên giường bệnh ta mới thấy hết được tấm lòng tha thiết với cuộc sống, với quê hương đất nước của nhà thơ.
Bài thơ bắt đầu từ những cảm xúc trực tiếp hồn nhiên, trong trẻo trước vẻ đẹp và sức sống của mùa xuân thiên nhiên. Từ đó mở rộng cảm nghĩ về mùa xuân đất nước. Từ mùa xuân lớn của thiên nhiên đất nước mà liên tưởng tới mùa xuân của mỗi cuộc đời – một mùa xuân nho nhỏ góp vào mùa xuân lớn.
Mở đầu bài thơ là vẻ đẹp tươi xanh của thiên nhiên xứ Huế khi vào xuân với cảnh sắc tươi đẹp, đầm ấm:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc”.
Từ “mọc” được vận dụng rất tự nhiên, biểu hiện rất thực sức sống đang vươn lên của cây cảnh giữa thiên nhiên. Giữa thiên nhiên bao la, rộng lớn ấy hiện lên một bông hoa với màu sắc tím biêng biếc hiện lên giữa dòng sông trong xanh. Màu xanh của nước hài hoà với màu tím biếc của bông hoa tạo nên một nét chấm phá nhẹ nhàng mà sống động, đem lại một vẻ đẹp tự nhiên, hài hòa, một màu sắc đặc trưng của xứ Huế. Màu tím hoa lục bình phá vỡ nét đơn điệu của bức tranh nhưng cũng nhuốm lên màu của tâm trạng thoáng chút u buồn. Một bông hoa lẻ loi trôi nổi giữa dòng nước vô định như đời người chưa biết sẽ về đâu trong dòng thời gian vĩnh hằng.
Nhà thơ Lê Văn Trường cũng có những câu thơ đặc sắc về loài hoa tím biếc ấy:
“Hoa lục bình vừa trôi vừa nở
Hoa nhớ ai mà trôi khắp nẻo
Hoa tím buồn chắc nhớ người thương”.
(Khoảng trời em hát – Lê Văn Trường)
Câu thơ làm ta chợt nhớ đến bài hát “Hoa Tím Lục Bình” của Bích Tuyền:
“Có một loài hoa buồn trôi lững lờ
Theo nước hững hờ xuôi mãi về đâu
Vẫn trôi trôi chẳng hết sầu
Có một loài hoa vừa trôi vừa nở
Em lấy chồng rồi anh ở vậy thôi”.
Dòng sông xanh hay cũng chính là dòng đời. Hoa lục bình hay cũng chính là kiếp người nhỏ bé trên dòng sinh diệt trùng trùng. Có lẽ, trước lúc đi vào với vĩnh hằng, Thanh Hải tâm niệm về đời người và nhìn nhận lại tất cả những gì mình đã trải qua cả triết lí sống và ý nghĩa của sự tồn tại.
Trong vòng luân hồi biến ảo, ta không thể lựa chọn mình sẽ hóa thân thành cái gì nhưng lại có thể quyết định mình sống như thế nào. Đối với Thanh Hải sống là phải đẹp, phải có ích cho cuộc sống như bông hoa lục bình tuy nhỏ bé nhưng luôn biết mang đến cho đời sắc đẹp tươi xanh.
Bất giác, nhà thơ nhìn lên bầu trời, hướng theo tiếng chim chiền chiện đang say mê ca hát giữa bầu trời xanh:
“Ơi con chim chiền chiện.
Hót chi mà vang trời”.
Cảm xúc của nhà thơ đã trào dâng thực sự qua câu hỏi tu từ: “Hót chi mà vang trời”. Thứ âm thanh không thể thiếu ấy làm sống dậy cả không gian cao rộng, khoáng đạt. Nó làm sống dậy, vực dậy cả một tâm hồn con người đang phải đối mặt với những bóng đen ú ám của bệnh tật, của cái chết rình rập.
Từ “ơi” được đặt trong nhịp 1/4 gây được chú ý, mang lại giọng điệu thơ ca như đang reo vui. Tác giả như đang đón nhận những vẻ đẹp của thiên nhiên, đón nhận sức sống của quê hương. Ý thơ còn giúp chúng ta nhận rõ được niềm vui của nhà thơ trước những vẻ đẹp của mùa xuân. Lời gọi ấy mới đầu nhen nhóm ở một góc trái tim. Nhưng con người nhà thơ và những cảnh sắc, âm thanh kia như đã hòa vào làm một. Cảm xúc từ đó mà òa ra thành lời, thật ngỡ ngàng, thật thích thú.
Trước cảnh đẹp lòng vui bừng nở cảm xúc lạ, rộn ràng tựa như nguồn sống cứ chực trỗi dậy chiếm lĩnh cả tâm hồn. Đó cũng là niềm hân hoan vẫn thường thấy ở tâm hồn người nghệ sĩ. Trần Nhân Tông một lần đứng trước đất trời cũng đã cảm khái nên những câu thơ tuyệt đẹp:
“Chim hót véo von liễu nở đầy
Thềm hoa chiếu ảnh bóng mây bay
Khách đến chẳng hỏi chuyện nhân sự
Chỉ tựa bao lơn đứng ngắm trời”.
(Cảnh mùa xuân – Trần Nhân Tông)
Một mùa xuân tĩnh lặng, đẹp mà buồn! Đẹp như nỗi buồn thánh thiện của thi nhân trước vận nước, là nỗi đau về nhân tình thế thái. Đọc những vần thơ của ông vua thi sĩ Trần Nhân Tông, ta có thể lại gặp một mùa xuân thật đẹp, tưng bừng náo nức cái tâm trạng mà ta hay có.
Tiếng chim của Trần Nhân Tông tuy véo von nhưng cũng chỉ quẩn quanh trong các nhành liễu nơi cung điện uy nghiêm của vị vua từng bôn ba vì vận mệnh đất nước. Còn tiếng chim “chiền chiện” của Thanh Hải thì hót vang giữa đất trời. Nghĩa là tiếng hót vút cao và lan rộng khắp bầu trời. Cụm từ “hót chi mà vang trời” rất chính xác và cũng rất thực. Vì chiền chiện vốn là loài chim thường cất tung mình lên bầu trời cao rồi mới cất tiếng hót.
Nhờ vậy, âm thanh tiếng hót của chúng sẽ vút cao rồi lan tỏa, vang vọng trong không gian. Và cũng nhờ đặc điểm ấy, chiền chiện sẽ góp phần làm cho thiên nhiên tươi vui, rộn rã, phù hợp với không khí mùa xuân. Tiếng chim chiền chiện rất gần gũi, thân thương với tất cả mọi người. Đó cũng là những yếu tố giúp Thanh Hải thể hiện tâm trạng say sưa, ngây ngất của mình trước những nét tươi vui của thiên nhiên khi mùa xuân đến, nhà thơ đã cảm nhận được:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”.
Cụm từ “giọt long lanh” gợi lên những liên tưởng đầy thi vị. Nó có thể là giọt sương lấp lánh qua kẽ lá trong buổi sớm mùa xuân tươi đẹp. Đó có thể là giọt nắng lấp lóa bên thềm. Đó cũng có thể giọt mưa xuân rơi trong chiều xuân mơ màng. Hay là giọt sương đêm còn đọng lại trên lá cỏ.
Dựa theo mạch cảm xúc của nhà thơ thì có lẽ đây là giọt âm thanh của tiếng chim ngân vang, đọng lại thành từng giọt niềm vui. Giọt tinh túy ấy rơi xuống cõi lòng rộng mở của thi sĩ, thấm vào tâm hồn đang rạo rực tình xuân. Tất cả bầu trời, tất cả thanh sắc mùa xuân như gói trọn lại trong tiếng chim, tinh khôi và long lanh như ánh ngọc, như nước biếc khiến lòng người say sưa, mê mẫn.
Phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được vận dụng một cách tài hoa qua trí tưởng tượng của nhà thơ. Thanh Hải cảm nhận vẻ đẹp của mùa xuân một cách tinh tế bằng nhiều giác quan: thị giác, thính giác và cả xúc giác. Cả tâm hồn thi sĩ hòa vào với thiên nhiên, tan biến vào đất trời vô tận. Con người và vũ trụ hòa hợp nhất thể, không còn nhận thấy đâu là tiếng chim, đâu là bầu trời, đâu là con người nữa.
Cử chỉ “Tôi đưa tay tôi hứng” thể hiện sự nâng niu, trân trọng của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời lúc với xuân với cảm xúc say sưa, xốn xang, rạo rực. Nhà thơ như muốn ôm trọn vào lòng tất cả sức sống của mùa xuân, của đất trời, của cuộc đời tràn đầy nhựa sống.
Thật ra đây là sự chuyển đổi cảm giác đầy tưởng tượng, lãng mạng của thi nhân. Sự chuyển đổi cảm giác tưởng phi lí nhưng lại rất tự nhiên, hợp lí, góp phần thể hiện mong ước cao đẹp, thật lãng mạn của thi nhân Mong ước những nét tươi đẹp của mùa xuân sẽ ngưng đọng lại giúp thi nhân giữ lại trong đôi tay. Nó khắc sâu tâm trạng say sưa, ngây ngất, thiết tha của nhà thơ trước thiên nhiên, vũ trụ.
Từ cảm hứng về mùa xuân của đất trời, nhà thơ đi về với mùa xuân của đất nước với biết bao sự trìu mến, thân thương:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao…”
Vẫn những vần thơ 5 chữ giản dị, dễ hiểu nhưng cấu từ có thay đổi so với khổ thơ đầu. Mùa xuân đến với các chiến sĩ cùng khí thế mới. Nhưng dù vui xuân nhưng các chiến sĩ không hề quên nhiệm vụ chiến đấu:
“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng”.
Lộc chính là những cành lá ngụy trang của các chiến sĩ. Đó vừa là hình ảnh tả thực vừa ẩn dụ tượng trưng. Lộc là chồi xanh, chồi non tơ. Lộc là sức sống của mùa xuân đang đến. Lộc cũng là niềm vui của thi nhân trước những thành quả lao động của cách mạng.
Các chiến sĩ ra trận giữa mùa xuân với cành lá ngụy trang. Họ hy sinh niềm vui, hạnh phúc riêng để thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng của người trai đối với đất nước. Họ luôn nâng cao cảnh giác để chiến đấu với kẻ thù với ước vọng chiến thắng giặc thù, giữ yên bờ cõi, mang lại niềm vui cho mọi người.
Trở lại thời điểm lịch sử lúc này, dù hai miền đất nước đã hoàn toàn giải phóng nhưng sự nghiệp cách mạng vẫn chưa kết thúc. Chúng ta còn phải đương đầu với các thế lực thù trong giặc ngoài để giữ vững nền độc lập nước nhà, bảo vệ chính phủ, bảo vệ thành quả cách mạng vừa đạt được. Vẫn còn biết bao xương máu đổ xuống. Vẫn còn biết bao chiến sĩ ngày đêm chiến đấu. Bởi thế, thấu hiểu hoàn cảnh, ta càng thấy khâm phục tinh thần hi sinh thật cao đẹp của các anh.
Sống xứng đáng với các anh chiến sĩ, những người nông dân đón xuân bằng khí thế hăng say lao động:
“Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ”.
Dù là ngày xuân, ngày của lễ hội nhưng người nông dân vẫn miệt mài với công việc. Đất nước đang còn khó khăn, niềm vui chưa trọn vẹn, người nông dân không vì ngày vui mà buông bỏ nhiệm vụ của hậu phương. “Lộc” ở đây tượng trưng cho sự ấm no, hạnh phúc. Nó gắn kết với hình ảnh của sự được mùa, hứa hẹn bội thu trong ngày gặt hái. “Lộc” nằm trong ý thơ đã gợi lên hình ảnh giữa cảnh cả nước đang đón xuân. Người lao động sẵn sàng hi sinh niềm vui riêng, cống hiến công sức, tài năng của mình vào công cuộc xây dựng quê hương.
Hai hình ảnh kì vĩ, đối xứng nhau qua hai khổ thơ tạo nên một tư thế của dân tộc trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù và xây dựng quê hương đất nước. Họ thực sự là những con người anh hùng trong thời đại mới, sẵn sàng chiến đấu và hi sinh vì sự nghiệp bảo vệ đất nước. Họ đã thực hiện nhiệm vụ trong khí thế bừng bừng niềm tin tưởng:
“Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao…”
Lời thơ giản dị có cụm từ so sánh “tất cả như” vận dụng theo hình thức một điệp ngữ đặt trong nhịp thơ nhanh gấp của nhân dân tạo nên sự thống nhất trong suy nghĩ và hành động của mọi người. Bởi vì từ “tất cả” gợi lên hiện thực đồng lòng, nhất trí trong cả một cộng đồng.
Bên cạnh đó, hai từ láy “hối hả” mang tính gợi hình cao. Nó gợi lên hình ảnh mọi người đang say sưa, khẩn thương, tấp nập trong công việc. Còn từ láy “xôn xao” thì gợi âm thành cuộc sống, vừa thể hiện chiều sâu của cộng đồng đang phát triển, vừa là tiếng reo vui trong lao động, trong tư thế làm chủ đất nước của con người.
Tất cả các ngôn ngữ, hình ảnh ấy được đặt trong lời nói nhỏ nhẹ, chất chứa bao suy tư tha thiết, chân thành tỏa sáng trong nhịp thơ khẩn trương, nhanh gấp giúp hình ảnh thơ thêm bay bổng, góp phần làm cho sức sống của con người, sức sống quê hương đất nước thêm dạt dào, sinh động. Hình ảnh thơ một lần nữa khắc sâu hơn tâm trạng say sưa ngây ngất, có cả niềm tự hào, khích phục của nhà thơ đối với những vẻ đẹp trên quê hương đất nước.
Chỉ bằng một vài khổ của bài “Mùa xuân nho nhỏ” với những nét nghệ thuật khá độc đáo như vừa phân tích vừa tả cảnh mà Thanh Hải đã vẽ nên những nét tươi đẹp sinh động của thiên nhiên, của con người trong khí thế đón xuân. Hai khổ thơ đã góp phần ngợi ca cuộc sống mới hối hả, bộn bề, náo nức như đang vẫy gọi đến xôn xao lòng người.
Phải có một tình yêu tha thiết với cuộc sống, nhà thơ mới có được những lời thơ tươi tắn và dạt dào đến như thế. Đặc biệt ta không thể quên rằng Thanh Hải sáng tác bài thơ trong tình trạng sức khỏe đang suy kém. Thế mới hay, tinh thần con người mới đáng trọng đáng quý. Và, cũng chính chờ vậy mà bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của ông mới trở thành một tác phẩm văn học sống mãi với thời gian.
Hai khổ thơ là những nốt nhạc thiết tha trong bản giao hưởng bất tận về mùa xuân. Mùa xuân đất trời hòa quyện cùng mùa xuân đất nước tạo nên một bức tranh đầy sức sống, thể hiện niềm tin yêu cuộc đời của tác giả. Thể thơ 5 tiếng, nhạc điệu trong sáng, tha thiết, hình ảnh đẹp, giản dị mà gợi cảm …đã góp phần thể hiện vẻ đẹp của bức tranh xuân và cảm xúc của nhà thơ.
Một số từ ngữ, hình ảnh cần lưu ý khi phân tích khổ 1, 2 Mùa xuân nho nhỏ
Khổ 1
– Mọc: Ngôn từ “mọc” được đưa lên đầu câu nhấn mạnh đến sức sống mãnh liệt của bông hoa tím biếc nhưng cũng chính là sức sống mãnh liệt của thiên nhiên, đất trời xứ Huế ngày xuân.
– Bông hoa tím biếc: Vẻ đẹp thơ mộng, lãng mạn của thiên nhiên mùa xuân. Hơn nữa, sắc tím còn là nét đặc trưng của xứ Huế mộng mơ, trầm tư, cổ kính.
– Ơi: Tiếng gọi thân thân, trìu mến
– Hót chi: Chi là ngôn ngữ địa phương của người miền Trung. Hót chi thể hiện sự da diết, tha thiết của tác giả trước tiếng hót vang trời của tiếng chim chiền chiện.
– Giọt long lanh: Gợi nhiều liên tưởng. Ở đây có thể hiểu là giọt long lanh của những giọt sương sớm, cũng có thể hiểu là những giọt âm thanh. Như vậy, tác giả đón nhận mùa xuân bằng thị giác và xúc giác
– Hứng: Thái độ trân trọng, nâng niu.
Khổ 2
– Lộc: Hình ảnh lộc mang tính biểu tượng cao. Lộc trong “Mùa xuân người cầm súng” là lộc của người lính với cành lá ngụy trang. Lộc trong “Mùa xuân người ra đồng” là lộc trải dài nương mạ của những người nông dân lao động sản xuất.
>> Nhấn mạnh đến sự cống hiến của con người để làm nên mùa xuân đất nước.