Phân tích 3 khổ đầu Đoàn thuyền đánh cá tuyển chọn 4 mẫu hay, đặc sắc nhất, giúp các em học sinh lớp 9 có thêm nhiều thông tin bổ ích, thấy được niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ Huy Cận.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 9: Phân tích 3 khổ đầu bài Đoàn thuyền đánh cá
Với 4 bài phân tích 3 khổ thơ đầu Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận đã giúp người đọc nhận biết được khúc tráng ca hào hùng của người ngư dân khi ra khơi. Mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Download.vn để có thêm nhiều vốn từ, ngày càng học tốt môn Văn 9.
Phân tích 3 khổ đầu bài Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận
Dàn ý phân tích 3 khổ đầu bài Đoàn thuyền đánh cá
A. Mở bài
– Giới thiệu tác giả: Huy Cận
- Là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam.
- Phong cách sáng tác: Trước cách mạng tháng Tám, ông viết nhiều về thiên nhiên, vũ trụ. Tất cả đều gợi nỗi buồn của một con người gắn bó với quê hương, đất nước nhưng cô đơn bất lực. Sau Cách mạng tháng Tám, những vần thơ của ông trở nên sôi động, huyên náo hơn.
– Giới thiệu tác phẩm: “Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá“ viết năm 1958, trong thời gian ông đi thực tế ở Hòn Gai – Quảng Ninh, được in trong tập “Trời mỗi ngày mỗi sáng”.
– Giới thiệu khái quát về ba khổ thơ đầu.
B. Thân bài
1. Khổ thơ thứ nhất: Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
– Nhà văn Nguyễn Tuân Đã viết “Mặt trời đỏ như lòng trứng khổng lồ, đặt trên mâm lễ từ từ tiến vào ” với “hòn lửa”.
- Khi hoàng hôn buông xuống, mặt trời như một quả cầu lửa khổng lồ đang từ từ lặn xuống biển xanh, cả không gian vũ trụ như nhuốm một màu đỏ rực rỡ và huy hoàng.
- Điều này khác hẳn với thời xưa cảnh hoàng hôn chiều tà thường gợi cảm giác ảm đạm hiu hắt và đây cũng là điều khác hẳn với thơ Huy Cận thời kì trước cách mạng tháng tám 1945.
– Khi ánh sáng của mặt trời dần lịm tắt, màn đêm từ từ buông xuống: “Sóng đã cài then đêm sập cửa” trong trí tưởng tượng bay bổng của Huy Cận, màn đêm như một cánh cửa khổng lồ mà sóng chính là cái then cài đóng lại cánh cửa khổng lồ ấy.
2. Khổ thơ thứ hai
Thiên nhiên vũ trụ bắt đầu đi vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu công việc khơi đánh cá. Đó là sự tương phản giữa thiên nhiên và con người:
Hát rằng cá bạc biển đông lặng
Cá thu biển đông như đoàn thoi
Ngày đêm dệt biển muôn luồng sáng
– Mở đầu khổ thơ là cụm từ “Hát rằng”. Tiếng hát vừa diễn tả niềm vui của ngư dân vừa ngợi ca biển cả giàu đẹp. Nhà thơ sử dụng nghệ thuật liệt kê các loài cá: cá bạc, cá thu.
– Loại cá đầu tiên Huy Cận nhắc đến là cá bạc, loài cá cỡ nhỏ nhiều vô kể đã làm cho biển đông như lặng im. Còn cá thu cũng là loài cá ngon, quý hiếm. Từ dáng cá hình thoi, nhà thơ liên tưởng biển như một tấm lụa lớn mà đàn cá là đàn thoi vun vút qua lại.
3. Khổ thơ thứ ba:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
…
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Đây là cảnh biển mênh mông khoáng đạt trong đêm trăng sáng. Không gian mở ra cả chiều cao, chiều rộng, chiều sâu, một khung cảnh biển trời thơ mộng và hùng vĩ. Biển mênh mông vô tận, gió lồng lộng từ khơi xa, vầng trăng, tầng mây nối liền với mắt nước tạo thành một vùng trời biển bao la rộng lớn.
C. Kết bài
- Khẳng định giá trị của tác phẩm
- Tình cảm của em dành cho tác phẩm
Phân tích 3 khổ đầu Đoàn thuyền đánh cá ngắn gọn
Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận ra đời dựa trên thể thống nhất. Bài thơ được xem như bức tranh trữ tình cảm động mô tả rõ nét cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh bắt cá và trở về với cá đầy ghe. Phân tích 3 khổ thơ đầu bài Đoàn thuyền đánh cá đã giúp người đọc nhận biết được khúc tráng ca hào hùng của người ngư dân khi ra khơi.
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa”
Hình ảnh tráng lệ xuất hiện mở đầu cho bài thơ. Hình ảnh đoàn thuyền đánh cá xuất hiện trong 2 câu thơ hiện lên rõ mồn một khi đoàn thuyền ra khơi trong thời khắc mặt trời lặn của những buổi chiều ra.
Không gian rộng lớn của vũ trụ được thể hiện trong thời khắc ngày dài dần khép lại. Mặt trời lúc này được ví như hòn lửa đỏ rực trời, lửa tắt những hành động bắt đầu được xuất hiện qua các động từ “cài then” “sập cửa” để thiên nhiên được nghỉ ngơi.
Lúc thiên nhiên vắng lặng, hình ảnh con người được xuất hiện qua hai câu tiếp theo:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Nghệ thuật tương phản được mở ra với hình ảnh thiên nhiên chìm vào đêm tối là lúc những động tĩnh của con người cất lên. Đoàn thuyền đánh cá bắt đầu ra khơi nghĩa là những mệt nhọc, nguy hiểm bắt đầu rình rập. Vậy nhưng, để an ủi cho người dân, cánh buồm căng gió hát lên những khúc ca yêu đời thể hiện niềm lạc quan của người dân về một ngày mai tươi sáng.
Nhịp điệu hào hùng được xây dựng trong nội dung khổ tiếp theo:
“Hát rằng cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dẹt lưới ta, đoàn cá ơi!”
Hình ảnh đậm chất lãng mạn xuất hiện, bút pháp tài tình của nhà thơ được mở ra. Từng đoàn cá xuất hiện cùng những hành động nên thơ như đoàn thoi, dệt, dẹt…
Cá thu dệt muôn luồng sáng khiến người dân khi đánh bắt cá cảm thấy phấn khởi khi đi trúng vùng cá vàng cá bạc. Những mệt mỏi khi lao động dần được xua tan ngay trong chính cuộc chiến nhằm chinh phục thiên nhiên.
Hình ảnh đoàn thuyền đánh cá lướt đi nhanh giữa trời đêm thanh cao
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng”
Hình ảnh đoàn thuyền bình dị qua lời thơ của Huy Cận được chấm phá tạo nên bức tranh thơ mộng. Gió bỗng trở thành người lái, cánh buồm là ánh trăng. Con người lúc này được hòa quyện trong thiên nhiên trữ tình. Người lai động lúc này được ví như cuộc du ngoạn lướt cùng thiên nhiên.
“Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
Sự ung dung của người ngư dân lúc này dần kết thúc, mở ra hình ảnh thể hiện sự vất vả khi phải liên tục di chuyển, dàn đan thế trận để thu được mẻ cá lớn. Biển rộng mênh mông nhưng người dân phải dò từng chi tiết một để tìm ra cho chuyến ra khơi mẻ cá lớn.
Nhà thơ dường như có sự am hiểu sâu rộng đối với nghề chài nên bức tranh vẽ ra giàu hiện thực và đầy tính lãng mạn. Nhưng thực tế không phải vậy, nhà thơ chỉ nhờ vào khả năng quan sát tỉ mỉ cùng tình yêu thương với người lao động nên vẽ nên được bức tranh tuyệt vời.
Ba khổ thơ đầu được phân tích kể trên đã phần nào giúp người đọc điểm qua được tài tình của Huy Cận. Đồng thời, ba khổ thơ cho thấy sự hào hùng của người dân và mơ ước về một tương lai tươi sáng đang dần tới.
Phân tích 3 khổ đầu Đoàn thuyền đánh cá
Trong phong trào Thơ mới giai đoạn 1932 – 1945 xuất hiện nhiều cây bút tên tuổi: Thế Lữ, Vũ Đình Liên, Vũ Hoàng Chương, Bích Khê, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư, Thâm Tâm, Huy Cận… Dù nổi tiếng trong phong trào Thơ mới nhưng Huy Cận không muốn kết thúc cái thời thơ của mình ở đó. Năm 1942, ông hăng hái tham gia mặt trận Việt Minh. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Huy Cận từng giữ nhiều trọng trách trong chính quyền Cách mạng. Để tìm nguồn cảm hứng về thiên nhiên đất nước và niềm tin ở cuộc sống mới, năm 1958, nhà thơ đã nhiệt tình tham gia chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là thành quả của chuyến đi ấy. Đây là ba khổ thơ đầu khá đặc sắc của bài thơ này:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”
Bài thơ là một khúc tráng ca khỏe khoắn, say sưa, bay bổng về vẻ đẹp của lao động và người lao động trước khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp của vùng biển Hòn Gai thông qua cái nhìn hứng khởi của hồn thơ Huy Cận. Riêng ba khổ thơ trên, nhà thơ đã tập trung miêu tả cảnh lên đường và cảnh đoàn thuyền đánh cá giữa trời đêm thơ mộng.
Hai câu đầu của bài thơ, Huy Cận đã vẽ một bức tranh hoàng hôn buông mình trên biển khơi với vẻ đẹp kì vĩ, chất chứa sắc màu Mỹ học:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Phép liên tưởng: mặt trời – biển – sóng; then – cửa kết hợp nghệ thuật so sánh tu từ (Mặt trời xuống biển như hòn lửa), nghệ thuật nhân hóa tu từ (Sóng đã cài then, đêm sập cửa), nghệ thuật đối ngữ tương hỗ (cài then >
Trong cảnh thiên nhiên ấy, đoàn thuyền đánh cá bắt đầu xuất phát:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hai câu thơ cho ta thấy tầm vóc hiên ngang của người lao động hòa quyện với thiên nhiên, vũ trụ bao la. Cảnh mặt trời tắt nắng không nặng nề, tăm tối đối với họ mà trở thành một thời điểm thích hợp để thực hiện công việc mang lại nhiều lợi ích. Do đó, đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi như một đoàn quân sung sức, tràn đầy khí thế. Sóng gió không làm con người lo sợ mà trở thành bầu bạn. Những câu hát tràn ngập niềm vui cũng có sức đẩy mạnh mẽ như gió khơi. Hình ảnh liên tưởng theo bộ ba sự vật và hiện tượng. Cánh buồm – gió khơi – câu hát rất độc đáo, khỏe khoắn, có sức gợi tả cao. Chính câu hát và gió khơi đã làm giương to cánh buồm khao khát đời giông tố. Hình ảnh cánh buồm trong câu thơ này chợt gợi nhớ, gợi thương cánh buồm trong thơ Tế Hanh:
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió.
Bốn câu thơ tiếp theo, Huy Cận tiếp tục miêu tả vẻ đẹp tâm hồn của ngư dân:
Hát rằng: Cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!
Trong câu thơ sảng khoái của những con người “ăn sóng nói gió” thể hiện niềm mơ ước về một chuyến đi biển thành công, mang về nhiều chiến lợi phẩm là cá. Nhà thơ khéo léo dùng hàng loạt hình ảnh nghệ thuật được xây dựng trên cơ sở của sự liên tưởng: so sánh tu từ, nhân hóa tu từ, ẩn dụ tu từ, để mang đến cho độc giả những cảm xúc thẩm Mỹ về vẻ đẹp lộng lẫy, rực rỡ đến huyền ảo của các loài cá trên biển, giữa ánh trăng và sao. Đó là các hình ảnh: “cá bạc”, “đoàn thoi”, “dệt biển”, “luồng sáng”, “dệt lưới”. Có thể nói trí tưởng tượng nối dài của nhà thơ đã chắp cánh cho hiện thực khách quan, bay bổng, trở nên lung linh, kì vĩ, làm tôn thêm vẻ đẹp muôn đời của vùng biển rộng lớn, giàu tiềm năng của Việt Nam.
Khổ thơ cuối tả cảnh đoàn thuyền đánh cá giữa biển đêm thi vị:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Biển thật khoáng đạt với gió, trăng, mây, với chiều cao (mây cao), chiều rộng (biển bằng) và chiều sâu (dò bụng biển).
Hình ảnh con người lao động hiện lên to cao, ngang tầm với vũ trụ hòa quyện với cảnh sắc lung linh của trời nước, gió mây. Con thuyền đánh cá lấy gió làm lái, lấy trăng làm buồm và lướt với vận tốc phi thường giữa cái vô hạn của trời, biển, giữa mây cao và biển bằng; vậy nên, con thuyền đánh cá không bé nhỏ mà khổng lồ. Lãng mạn hơn, con thuyền đánh cá còn là con thuyền thơ, nô đùa cùng cánh buồm no gió, ánh trăng thần tiên dịu mát. Do đó, công việc đánh cá cũng ngập tràn chất thơ. Và công cuộc đánh cá không đơn giản. Nó chẳng khác nào một trận đánh được thua. Ngư dân phải “thăm dò bụng biển” trước rồi sau đó “dàn đan thế trận”. Mỗi lần tung ra một mẻ lưới cần đảm bảo trúng luồng cá để khi đoàn thuyền trở về, các khoang thuyền đều nặng oằn, ăm ắp cá tươi ngon.
Tóm lại, Đoàn thuyền đánh cá không chỉ là bài thơ miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên, con người mà còn là một bài ca cuộc đời mới giàu ý nghĩa. Điều này, trước Cách mạng tháng Tám, hồn thơ Huy Cận chưa có được. Chính ánh sáng chói chang của Cách mạng đã tái tạo hồn thơ ông, mạch thơ ông, soi đường dẫn lối cho ông đến những thành công vững chắc trên thi đàn. Có thể nói rằng, ba khổ thơ trên đây không chỉ khơi gợi ở độc giả niềm tự hào trước vẻ đẹp của biển Việt Nam, con người lao động Việt Nam mà còn đưa tinh thần chúng ta thâm nhập vào cái sâu xa, vô hạn của tự nhiên, nối cái khoảnh khắc hữu hạn của đời người vào cái vĩnh hằng, vô hạn của vũ trụ, thiên nhiên. Đó cũng chính là sức sống của thơ Huy Cận gần nửa thế kỉ qua.
Phân tích 3 khổ đầu bài Đoàn thuyền đánh cá
Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận là một “bài thơ cuộc đời”. Bài thơ được sáng tác năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Hòn Gai, Cẩm Phả. Thông qua một đêm đánh cá của đoàn thuyền lớn trên biển, tác giả ca ngợi cuộc sống lao động mới mẻ của người lao động tràn đầy lạc quan tin tưởng, làm chủ thiên nhiên, biển cả bao la. Trong đó, ba khổ thơ đầu bài thơ đã để lại trong lòng người đọc ấn tượng sâu sắc.
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”
Mở đầu bài thơ là hình ảnh miêu tả cảnh ra khơi của những người dân chài thật tráng lệ, hùng vĩ:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”
Với sự liên tưởng so sánh thú vị, Huy Cận đã miêu tả rất thực sự chuyển đổi thời khắc giữa ngày và đêm khiến cảnh biển vào đêm thật kì vĩ, tráng lệ như thần thoại. Vũ trụ như một ngôi nhà lớn với màn đêm buông xuống là tấm cửa khổng lồ với những lượn sóng hiền hoà gối đầu nhau chạy ngang trên biển như những chiếc then cài cửa. Phác hoạ được một bức tranh phong cảnh kì diệu như thế hẳn nhà thơ phải có cặp mắt thần và trái tim nhạy cảm.Màn đêm mở ra đã khép lại không gian của một ngày. Giữa lúc vũ trụ, đất trời như chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi thì ngược lại, con người bắt đầu hoạt động:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm trong gió khơi
Sự đối lập này làm nổi bật tư thế lao động của con người trước biển cả. Nhịp thơ nhanh mạnh như một quyết định dứt khoát. Đoàn ngư dân ào xuống đẩy thuyền ra khơi và cất cao tiếng hát khởi hành. Từ “lại” vừa biểu thị sự lặp lại tuần tự, thường nhật, liên tục mỗi ngày của công việc lao động vừa biểu thị ý so sánh ngược chiều với câu trên: đất trời vào đêm nghỉ ngơi mà con người bắt đầu lao động, một công việc lao động không ít vất vả. Tiếng hát tràn ngập không gian bao la, tiếng hát vang lên trong tâm tư người đánh cá, trong niềm say mê sự giàu đẹp của biển cả quê hương:
Tiếng hát căng buồm cùng gió khơi.
Gió căng buồm chứ đâu phải câu hát ? Hình ảnh “câu hát căng buồm” – cánh buồm căng gió ra khơi – là ẩn dụ cho tiếng hát của con người có sức mạnh làm căng cánh buồm. Câu hát là niềm vui, niềm say sưa hứng khởi của những người lao động lạc quan yêu nghề, yêu biển và say mê với công việc chinh phục biển khơi làm giàu cho Tổ quốc. Đó là một ẩn dụ hay, biến cái ảo thành cái thực tạo khí thế phơi phới, mạnh mẽ của đoàn thuyền và niềm vui, sức mạnh người lao động trên biển, làm chủ cuộc đời đang chinh phục biển khơi.Nghệ thuật ẩn dụ trong hình ảnh thơ lãng mạn này đã góp phần thể hiện một hiện thực: Đó là niềm vui phơi phới, tinh thần lạc quan của người dân chài. Họ ra khơi trong tâm trạng đầy hứng khởi vì học tìm thấy niềm vui trong lao động, yêu biển và say mê với công việc chinh phục biển khơi làm giàu cho Tổ quốc.
Câu hát của người lao động còn mang theo niềm mong mỏi tha thiết vừa hiện thực vừa lãng mạn. Họ hát khúc hát ca ngợi sự giàu có của biển cả. Họ hát bài ca gọi cá vào lưới, mong muốn công việc đánh cá thu được kết quả tốt đẹp. Lời hát ca ngợi sự giàu có và hào phóng của biển cả cùng vẻ đẹp lung linh, diệu kì của nó trong đêm:
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Nội dung của bài hát với lời mong ước một chuyến ra khơi nhiều may mắn. Đó phản ánh tâm hồn chân chất, mộc mạc của những người dân chài mà ta cũng có thể bắt gặp tâm hồn đó trong bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh:
“Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng”
Và Bằng cảm hứng lãng mạn, Huy Cận đã tô đậm lên hình ảnh những người lao động mới với tầm vóc ngang tầm vũ trụ và hòa nhập với khung cảnh trời nước bao la:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Khổ thơ thứ ba là khổ thơ hay nhất và gây ấn tượng nhất bởi hình ảnh con thuyền đẹp và kì vĩ được tác giả miêu tả bằng bút pháp lãng mạn, khoa trương. Trên cái không gian bát ngát ấy của trăng, gió, trời, biển, hình ảnh con người mới hiện lên với chiều kích của không gian, đó chính là niềm vui hăng say lao động, làm giàu cho Tổ quốc bằng sức lực, trí tuệ của mình. Mây cao – biển bằng bàng bạc ánh trăng. Cánh buồm no gió, cong cong như vầng trăng khuyết – một nửa vầng trăng, hình ảnh thực đẹp mà lãng mạn, nên thơ. Hình ảnh “mây cao, biển bằng” mở ra một không gian vũ trụ rộng lớn, khoáng đạt, bát ngát. Hình ảnh con thuyền hay con người trong không gian ấy càng lớn lao, kì vĩ. “lướt”nhanh, nhẹ, cảm tưởng như đang bay trên không trung. Tư thế, tầm vóc ấy trong cảm xúc bay bổng, thăng hoa của Huy Cận, hay là trong niềm vui, trong sự hào hứng của người người dân chài khi ra khơi. Cứ như thế, bút pháp lãng mạn và trí tưởng tượng của nhà thơ như dẫn ta đi lạc lối vào một cõi huyền ảo của biển trời. Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la giờ đây đã trở thành một con thuyền đặc biệt có gió là người cầm lái, còn trăng là cánh buồm. Con thuyền băng băng lướt sóng ra khơi để “dò bụng biển”. Công việc đánh cá được dàn đan như một thế trận hào hùng. Tư thế và khí thế của những ngư dân thật mạnh mẽ, đầy quyết tâm giữa không gian bao la của biển trời. Như vậy, tầm vóc của con người và đoàn thuyền đã được nâng lên hòa nhập vào kích thước của thiên nhiên vũ trụ. Không còn cái cảm giác nhỏ bé lẻ loi khi con người đối diện với trời rộng sông dài như trong thơ Huy Cận trước cách mạng. Hình ảnh thơ thật lãng mạn bay bổng và con người có tâm hồn cũng thật vui vẻ, phơi phới. Công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá đã trở thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên.
Tóm lại, qua những hình ảnh liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo, bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” đã khắc họa nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống.
Phân tích 3 khổ thơ đầu bài Đoàn thuyền đánh cá
Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” viết năm 1958, trong thời gian ông đi thực tế ở Hòn Gai – Quảng Ninh, được in trong tập “Trời mỗi ngày mỗi sáng”. Bài thơ đã khắc họa nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống. Điều này được thể hiện rõ nét qua ba khổ thơ đầu của bài.
Bài thơ ra đời trong thời điểm miền Bắc nước ta đang trong giai đoạn đầu dựng chủ nghĩa xã hội. Xuyên suốt toàn bài thơ là âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng, lạc quan thể hiện rõ dấu ấn của sự chuyển mình trong cảm hứng nghệ thuật của nhà thơ Huy Cận. Cũng vẫn là cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ, nếu như trước cách mạng, thiên nhiên vũ trụ đi vào thơ ông thường gợi cảm giác về sự rợn ngợp trước cái mênh mông, vô cùng vô tận khiến con người trở nên nhỏ bé, cô độc thì ở bài này, thiên nhiên vũ trụ trở nên tươi sáng, khoáng đạt gần gũi với con người, mạnh mẽ và đầy tự tin trong tư thế của một vị chủ nhân của biển cả.
Ở khổ thơ đầu tiên, ta đã bắt gặp hình ảnh người dân chài cá ra khơi vào lúc hoàng hôn.
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Nhà văn Nguyễn Tuân Đã viết “Mặt trời đỏ như lòng trứng khổng lồ, đặt trên mâm lễ từ từ tiến vào” với “hòn lửa”. Khi hoàng hôn buông xuống, mặt trời như một quả cầu lửa khổng lồ đang từ từ lặn xuống biển xanh, cả không gian vũ trụ như nhuốm một màu đỏ rực rỡ và huy hoàng. Điều này khác hẳn với thời xưa cảnh hoàng hôn chiều tà thường gợi cảm giác ảm đạm hiu hắt và đây cũng là điều khác hẳn với thơ Huy Cận thời kì trước cách mạng tháng tám 1945. Trước đó bao nhiêu sóng nước tràng giang là có bấy nhiêu nỗi buồn trong lòng thi nhân: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”. Độc đáo hơn, nhà thơ đã tả “mặt trời xuống biển” (trong khi biển nước ta là biển đông – một cách cảm nhận dường như thật mơ hồ nhưng có thể lý giải được bởi phải chăng Huy Cận đang mượn điểm nhìn của những người đi biển để chứng kiến cảnh mặt trời lặn “xuống biển”?
Khi ánh sáng của mặt trời dần lịm tắt, màn đêm từ từ buông xuống: “Sóng đã cài then đêm sập cửa” trong trí tưởng tượng bay bổng của Huy Cận, màn đêm như một cánh cửa khổng lồ mà sóng chính là cái then cài đóng lại cánh cửa khổng lồ ấy. Nghệ thuật nhân hóa đã đem lại cho người đọc cảm giác thiên nhiên vũ trụ trong màn đêm như một ngôi nhà lớn, gần gũi, thân thuộc với con người, nó không huyền bí, xa lạ với con người, đoàn thuyền đánh cá ra khơi mà như đang đi trong chính ngôi nhà thân thuộc của mình. Như vậy, nhờ sự khéo léo tài tình biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa trong hai câu thơ mở đầu, nhà thơ Huy Cận đã khắc họa được vẻ đẹp kì vĩ của thiên nhiên lúc hoàng hôn và mối quan hệ gắn bó giữa thiên nhiên vũ trụ với con người đang khao khát chinh phục làm chủ biển khơi.
Thiên nhiên vũ trụ bắt đầu đi vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu công việc khơi đánh cá. Đó là sự tương phản giữa thiên nhiên và con người:
Hát rằng cá bạc biển đông lặng
Cá thu biển đông như đoàn thoi
Ngày đêm dệt biển muôn luồng sáng
Mở đầu khổ thơ là cụm từ “Hát rằng”. Tiếng hát vừa diễn tả niềm vui của ngư dân vừa ngợi ca biển cả giàu đẹp. Nhà thơ sử dụng nghệ thuật liệt kê các loài cá: cá bạc, cá thu. Loại cá đầu tiên Huy Cận nhắc đến là cá bạc, loài cá cỡ nhỏ nhiều vô kể đã làm cho biển đông như lặng im. Còn cá thu cũng là loài cá ngon, quý hiếm. Từ dáng cá hình thoi, nhà thơ liên tưởng biển như một tấm lụa lớn mà đàn cá là đàn thoi vun vút qua lại. Cái hay của khổ thơ còn ở pháp nhân hóa tinh tế. Trong tưởng tượng của những ngư dân yêu quý biển cả, cá bơi trên biển là cá “dệt biển”. Những con cá lấp lánh trong ánh trăng, lướt nhanh trên mặt biển muôn luồng sáng làm cho biển đem lung linh, rực rỡ. Cũng trong sự tưởng tượng thú vị ấy, cá vào lưới là cá “Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi”.
Đến khổ thơ thứ ba, người đọc như đắm chìm vào cảnh biển mênh mông khoáng đạt trong đêm trăng sáng:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
…
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
Không gian mở ra cả chiều cao, chiều rộng, chiều sâu, một khung cảnh biển trời thơ mộng và hùng vĩ. Biển mênh mông vô tận, gió lồng lộng từ khơi xa, vầng trăng, tầng mây nối liền với mắt nước tạo thành một vùng trời biển bao la rộng lớn.
Thật vậy, “Đoàn thuyền đánh cá” chính là khúc ca tráng về lao động và thiên nhiên đất nước. Đây là một trong những bài thơ hay nhất của Huy Cận sau cách mạng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.