Văn mẫu lớp 9: Phân tích 4 khổ đầu Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Văn mẫu lớp 9: Phân tích 4 khổ đầu Bài thơ về tiểu đội xe không kính

TOP 5 bài Phân tích 4 khổ đầu Bài thơ về tiểu đội xe không kính hay, đặc sắc nhất, giúp các em học sinh lớp 9 có thêm nhiều thông tin bổ ích, thấy rõ hiện thực trần trụi của chiến tranh, cùng những vất vả mà người lính phải gánh chịu.

Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 9: Phân tích 4 khổ đầu Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Văn mẫu lớp 9: Phân tích 4 khổ đầu Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Chỉ với 4 khổ thơ đầu Bài thơ về tiểu đội xe không kính, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã cho bạn đọc thấy rõ cho dù có mưa bom bão đạn, cuộc sống muôn vàn khó khăn nhưng những người lính lái xe vẫn luôn lạc quan, yêu đời. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết để ngày càng học tốt môn Văn 9.

Đề bài: Phân tích bốn khổ thơ đầu trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.

Phân tích 4 khổ thơ đầu Bài thơ về tiểu đội xe không kính

    Dàn ý phân tích 4 khổ đầu Bài thơ về tiểu đội xe không kính

    Dàn ý 1

    a) Mở bài:

    • Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, mất năm 2007 vì một bệnh hiểm nghèo.
    • Bài thơ tiểu đội xe không kính được sáng tác năm 1969, trên con đường Trường Sơn. Bài thơ được giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ và được đưa vào tập thơ” Vầng trăng quầng lửa” của tác giả.
    • Bốn khổ thơ đầu thể hiện tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm bất chấp khó khăn nguy hiểm, niềm vui sôi nổi của tuổi trẻ trong tình huống tình đồng đội và ý chí chiến đấu vì miền Nam ruột thịt.

    b) Thân bài:

    – Phương tiện vận chuyển là những chiếc xe không có kính:

    “Không có kính không phải vì xe không có kính
    Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”

    Với ba từ “Không” tác giả đã lí giải một cách rõ ràng nguyên nhân xe không có kính. Không phải xe không trang bị mà xe không có kính bởi vì lí do “Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”

    – Tư thế hiên ngang của người lính chiến sĩ lái xe Trường Sơn. Dù bom rơi, xe vỡ kính, xe không đèn, xe xước nhưng người lính vẫn:

    “Ung dung buồng lái ta ngồi
    Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”

    Từ “Ung dung” nói lên dáng điệu cử chỉ bình tĩnh, không hề nôn nóng, vội vàng hay lo lắng của người chiến sĩ lái xe. Với tư thế “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” qua khung cửa sổ không còn nhìn kính chắn gió người lái xe tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài:

    “Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
    Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
    Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
    Như sa như ùa vào buồng lái”

    Những câu thơ diễn tả được cảm giác về tốc độ trên chiếc xe đang la nhanh. Qua khung cửa xe không kính, không chỉ mặt đất, bầu trời, sao trời mà cả con đường chạy thẳng vào tim.

    – Trên đường vận tải đầy bom đạn, những người lính lái xe vẫn rất vui nhộn, lạc quan, tác giả miêu tả bằng những hình ảnh hết sức chân thật , đời thường

    “Không có kính, ừ thì có bụi
    Bụi phun tóc trắng như người già
    Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
    Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”

    Những chàng trai với mái tóc xanh giờ đây bụi đường đã làm cho “trắng xóa như người già”. Họ chẳng cần vội rửa những khuôn mặt lấm. Không những vậy, khi họ nhìn nhau vào khuôn mặt lấm lem của nhau cất tiếng cười “ha ha” chỉ bằng một vài nét miêu tả chân thực mà chân dung người lính hiện lên thật trẻ trung, tinh nghịch, yêu đời.

    – Người lính Trường Sơn là những con người có tinh thần quyết chiến quyết thắng, họ vẫn chạy vì miền Nam ruột thịt:

    Không có kính, ừ thì ướt áo
    Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
    Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
    Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”

    Với bộ quần áo ướt nước mưa vì xe không có kính, người lính lái xe vẫn lái xe tiến về phía trước hàng trăm cây số. Đó chính là ý chí chiến đấu để giải phóng miền Nam, là tình yêu nước nồng nhiệt thời chống mĩ.

    c) Kết bài:

    • Bài thơ đã khắc họa một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính. Qua đó, tác giả khắc họa nổi bật hình ảnh những người lính lái xe Trường Sơn thời chống Mĩ, với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam ruột thịt thân yêu.
    • Tác giả đưa vào bài thơ chất liệu thơ hiện thực sinh động của cuộc sống ở chiến trường Trường Sơn, ngôn ngữ giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, khỏe khoắn.

    Dàn ý 2

    1. Mở bài

    • Phạm Tiến Duật là nhà thơ được rèn luyện, trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ gian khổ và oanh liệt của dân tộc.
    • Bài thơ về Tiểu đội xe không kính nằm trong chùm thơ ba bài được Giải nhất của báo Văn Nghệ 1969.
    • Giới thiệu bốn khổ thơ đầu

    2. Thân bài

    – Hai câu đầu

    • Một lời hỏi – đáp rất hồn nhiên tự nhiên của người lính. Chiếc xe vận tải vốn có kính nhưng trong bom đạn “kính vỡ đi rồi”.
    • Các điệp ngữ: “không có…không phải… không có”, “bom giật, bom rung” đã làm cho âm điệu thơ hùng tráng, gợi tả không khí ác liệt chiến trường.
    • Một tư thế chiến đấu rất đẹp: Cái ngồi “ung dung” đàng hoàng làm chủ tình thế. Một cái nhìn khoáng đạt bao la giữa chiến trường: “Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”.
    • Nhịp thơ 2/2/2 với điệp từ “nhìn” đã thể hiện tuyệt đẹp một tư thế chiến đấu rất đĩnh đạc hào hùng của người lính trẻ trong mưa bom bão đạn của giặc Mỹ.

    – Khổ thơ thứ hai

    • Mở ra một không gian rộng lớn, những cung đường chiến lược phía trước
    • Các điệp ngữ: “Nhìn thấy gió…”, “nhìn thấy con đường…”, rồi “nhìn thấy sao trời…”: có giá trị gợi tả tiểu đội xe không kính, nối đuôi nhau hành quân ra chiến trường.
    • Tiểu đội xe không kính đã xông pha trong cảnh “bom giật bom rung”, đã nếm trải nhiều gió bụi, vô cùng gian khổ, các anh còn hành quân trong mưa.

    – Nghệ thuật:

    • Đoạn thơ trên đây hội tụ bao vẻ đẹp nghệ thuật. Câu thơ mang màu sắc văn xuôi thể hiện “chất lính” thời máu lửa.
    • Các điệp từ, điệp ngữ, các hình ảnh về chiếc xe không kính, về tư thế lái xe, về cái nhìn, mái tóc, nụ cười,… đã diễn tả thật đẹp chí khí anh hùng của tiểu đội xe không kính, đồng thời làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, hào hùng mang âm điệu ành hùng ca.

    3. Kết bài

    • Tóm lược lại nội dung và nghệ thuật của 4 khổ thơ đầu.
    • Gợi mở vấn đề.

    Phân tích 4 khổ đầu Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 1

    Phạm Tiến Duật là một cây bút lớn trong thơ ca thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một trong những thi phẩm đặc sắc của ông. Bốn khổ đầu bài thơ đã phác họa những nét vẽ đầu tiên về hiện thực chiến tranh và làm nổi bật hình tượng người lính hào hùng, dũng cảm.

    “Không có kính không phải vì không có kính
    Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
    Ung dung buồng lái ta ngồi
    Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”.

    Hai câu thơ đầu như một cách lý giải ngộ nghĩnh và hồn nhiên của người lính về hình tượng “chiếc xe không kính”. Điệp từ “không” được lặp đi lặp lại ba lần với cấu trúc câu “Không có…không phải…không có…” kết hợp với các động từ mạnh “giật”, “rung” đã thể hiện rõ thực tàn khốc của chiến tranh.Trong hiện thực như vậy, hình ảnh những người lính hiện lên như một tượng đài đẹp đẽ nhất với tư thế “ung dung” cùng với chữ “ta” khẳng định sự làm chủ của mình. Mặc mưa bom bão đạn, họ vẫn sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng đi về phía trước. Nhịp thơ 2/2/2 cùng điệp ngữ “nhìn” đã thể hiện rõ thái độ tự tin, tư thế hiên ngang, anh dũng của họ.

    Khổ thơ thứ hai tiếp tục mạch cảm xúc với cái “nhìn thẳng” quyết tâm từ khổ một:

    “Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
    Nhìn thấy con đường chảy thẳng vào tim
    Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
    Như sa, như ùa vào buồng lái”.

    Điệp ngữ “nhìn thấy” đã vẽ ra một không gian rộng lớn và liên tục của những con đường hành quân gian khổ. Có gió bụi, có sao trời và có cả cánh chim,… Bởi vì xe không có kính mà tất cả như “đột ngột” “chảy thẳng vào tim”, “ùa vào buồng lái” với một vận tốc nhanh chóng. Họ trải qua mọi khó khăn, băng qua mọi địa hình hiểm trở không một chút ngần ngại. Họ tiêu biểu cho những người chiến sỹ với tinh thần sẵn sàng hi sinh để bảo vệ tổ quốc, chiến đấu vì một phần máu thịt của dân tộc.

    Không chỉ đối mặt với gió “xoa mắt đắng” – một sự chuyển đổi cảm giác tinh tế, mà họ còn phải đối mặt với mưa bụi khắc nghiệt:

    “Không có kính, ừ thì có bụi
    Bụi phun tóc trắng như người già
    Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
    Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
    Không có kính, ừ thì ướt áo
    Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
    Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
    Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi”.

    Phạm Tiến Duật tài tình khi sử dụng biện pháp điệp cấu trúc “Không có kính, ừ thì…” ở hai khổ thơ liên tục để thể hiện rõ tinh thần lạc quan của những người lính. Dù “bom giật bom rung” hay “bụi phun mưa xối thì họ vẫn sẵn sàng vượt qua, xem nhẹ mọi gian truân vất vả. Không những thế, họ sống cùng khó khăn thử thách với một cái nhìn lạc quan, nhẹ nhõm, hóm hỉnh: “Bụi phun tóc trắng như người già”, “Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi”. Chẳng cần lo nghĩ nhiều, cứ vậy mà “phì phèo châm điếu thuốc” để tận hưởng những phút giây bình dị và vui vẻ trên đường chiến đấu. Tiếng cười “ha ha” của họ một lần nữa cho thấy thái độ lạc quan đầy “chất lính” của những con người hiên ngang trong khói lửa chiến tranh. Đối lập với những cái “không”, ở họ có cả trái tim nhiệt huyết và tinh thần sắt thép, dũng cảm tiến lên chi viện cho miền Nam tổ quốc. Đó chính là tình yêu nước bất diệt trong lòng những người lính.

    Bằng thể thơ tự do, câu thơ đậm chất văn xuôi cùng nhịp thơ linh hoạt, ngôn ngữ giản dị, hình ảnh độc đáo kết hợp nhuần nhuyễn với bút pháp điệp ngữ và so sánh, bốn khổ thơ đầu đã làm nổi bật lên hiện thực khốc liệt của chiến tranh và từ đó tô đậm vẻ đẹp của người lính với tư thế hiên ngang, tinh thần chủ động, lạc quan và dũng cảm.

    Như vậy, bốn khổ đầu bài thơ như khúc dạo đầu cho bản hòa ca hào hùng về người lính. Cả đoạn thơ mặc dù nói về sự thiếu thốn của chiến tranh nhưng không mang âm hưởng của sự mất mát, đau thương mà ngược lại. Đó chính là nét riêng trong ngòi bút lạc quan và không kém phần hóm hỉnh, hài hước của Phạm Tiến Duật.

    Phân tích 4 khổ đầu Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 2

    Từ nơi em gửi đến nơi anh
    Những đoàn quân trùng trùng ra trận
    Như tình yêu nối lời vô tận
    Đông Trường Sơn, nối tây Trường Sơn…

    “Những đoàn quân trùng trùng ra trận” được nhà thơ Phạm Tiến Duật nói đến trong bài thơ Trường Sơn đông, Trường Sơn tây và hàng ngàn, hàng vạn thanh niên, thanh nữ Việt Nam ào ào ra trận với khí thế ” xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” thời chống Mỹ, trong đó có những tiểu đội xe không kính trên con đường mòn Hồ Chí Minh.

    “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được Phạm Tiến Duật viết năm 1969, hơn 40 năm sau người đọc vẫn cảm thấy hừng hực không khí chiến trường và khí thế ra trận của những chiến sĩ trong binh đoàn vận tải quân sự. Đây là bốn khổ thơ đầu. Giọng thơ mạnh mẽ hùng hồn vang lên như một tráng ca anh hùng.

    “Không có kính không phải vì xe không có kính
    Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”

    Hai cầu đầu như một lời hỏi – đáp rất hồn nhiên của người lính. Chiếc xe vận tải vốn có kính nhưng trong bom đạn “kính vỡ đi rồi”. Các điệp ngữ: “không có.. không phải… không có”, “bom giật, bom rung” đã làm cho âm điệu thơ hùng tráng gợi tả không khí ác liệt chiến trường. Vần thơ đã làm hiện lên những chiếc xe vận tải quân sự mang đầy thương tích chiến tranh, và hình ảnh người chiến sĩ can trường, dày dạn kinh nghiêm trong khói lửa.

    Một tư thế chiến đấu rất đẹp:

    “Ung dung buồng lái ta ngồi
    Nhìn đất. nhìn trời, nhìn thẳng”

    Cái ngồi “ung dung” đàng hoàng làm chủ tình thế. Một cái nhìn khoáng đạt bao la giữa chiến trường: “Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Nhịp thơ 2/2/2 với điệp từ ”nhìn” đã thể hiện tuyệt đẹp một tư thế chiến đấu rất đĩnh đạc hào hùng của người lính trẻ trong mưa bom bão đạn của giặc Mỹ.

    Khổ thơ thứ hai mở ra một không gian rộng lớn, những cung đường chiến lược phía trước. “Nhìn thấy gió…”, “nhìn thấy con đường…”, rồi “nhìn thấy sao trời…” các điệp ngữ ấy có giá trị gợi tả tiểu đội xe không kính, nối đuôi nhau hành quân ra chiến trường. Xe không kính, xe phóng băng băng, nên “gió vào xoa mắt đắng”. Chữ “đắng” chuyển đổi cảm giác, một cách viết tài hoa. Sao trời và cánh chim mà người chiến sĩ “thấy” tưởng “như sa vào buồng lái” đã diễn tả thật hay tốc độ phi thường của tiểu đội xe không kính ra trận trong mọi thời gian đêm ngày, trên mọi địa hình gian khổ:

    “Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
    Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
    Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
    Như sa như ùa vào buồng lái”

    Sau gió “xoa mắt đắng” là bụi. Bốn chữ “ừ thì có bụi” như một tiếng “mặc kệ” cất lên, biểu thị một thái độ sẵn sàng chấp nhận. Bụi làm cho những mái tóc xanh trở thành ” tóc trắng như người già”. “Mặt lấm” cũng chẳng cần vội rửa. Cách hút thuốc “phì phèo”, tiếng “cười ha ha” là những chi tiết nghệ thuật hóm hỉnh thể hiện tinh thần lạc quan, hồn nhiên, yêu đời của tiểu đội xe không kính:

    “Không có kính, ừ thì có bụi,
    Bụi phun tóc trắng như người già,
    Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
    Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.”

    Tiểu đội xe không kính đã xông pha trong cảnh “bom giật bom rung”, đã nếm trải nhiều gió bụi, vô cùng gian khổ, các anh còn hành quân trong mưa. Hai câu thơ nối tiếp xuất hiện như tiếng nói của người lính coi thường mọi thử thách:

    – Không có kính, ừ thì có bụi,
    – Không có kính, ừ thì ướt áo.

    Mưa rừng dữ dội, vả lại xe không kính, gian khổ không thể nào kể xiết: “Mưa tuôn, mưu xối như ngoài trời”. Trong gian khổ các anh vẫn hiên ngang xông tới chi viện cho chiến trường miền Nam phía trước:

    “Không có kính, ừ thì ướt áo,
    Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
    Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
    Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.”

    Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. Con người và thời đại được nói đến trong đoạn thơ trên là những chiến sĩ lái xe can trường và dũng cảm, lạc quan và yêu đời, trẻ trung và hồn nhiên trong gian khổ và nguy hiểm trên con đường chiến lược Trường Sơn thời đánh Mỹ. Tiểu đội xe không kính tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng của tuổi trẻ Việt Nam trong chống Mỹ cứu nước.

    Đoạn thơ trên đây hội tụ bao vẻ đẹp nghệ thuật. Câu thơ mang màu sắc văn xuôi thể hiện “chất lính” thời máu lửa. Các điệp từ, điệp ngữ, các hình ảnh về chiếc xe không kính, về tư thế lái xe, về cái nhìn, mái tóc, nụ cười,… đã diễn tả thật đẹp chí khí anh hùng của tiểu đội xe không kính, đồng thời làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, hào hùng mang âm điệu anh hùng ca.

    Bom, gió, bụi, mưa được nhà thơ nói đến đã diễn tả đầy ấn tượng về sư gian khổ, ác liệt của chiến trường. Trên cái nền ấy, hình tượng tiểu đội xe không kính sừng sững hiện lên trong tầm vóc những anh hùng cho ta nhiều ngưỡng mộ.

    Phân tích 4 khổ đầu Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Mẫu 3

    Nhớ khi mình ốm giữa rừng
    Vị thuốc Hùng tìm qua ba trái núi
    Quả khế rừng nấu con cá suối
    Thương mình Hùng hóa trẻ đi câu.
    (Nấm mộ và cây trầm, thơ Nguyễn Đức Mậu)

    Những câu thơ trên nói về sự gian khổ, hi sinh, vượt lên tất cả những thiếu thốn về vật chất là tình đồng chí, đồng đội. Với những người lính ở rừng, những năm tháng ấy, tình đồng chí đồng đội thật ít nơi nào sánh bằng. Sau này, Phạm Tiến Duật cũng đã viết về những khó khăn, gian lao vất vả mà những người lính phải trải qua. Họ vượt qua những khó khăn ấy bằng niềm tin yêu, lạc quan. Trong bốn khổ thơ đầu bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” ta có thể thấy rõ những khó khăn, vất vả mà người lính Trường Sơn phải băng qua.

    Nhan đề bài thơ thu hút người đọc ở cái vẻ lạ, độc đáo. Nhìn vào nhan đề ta đã thấy nổi bật lên hình ảnh những chiếc xe không kính, những chiếc xe ấy xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. Hai chữ “bài thơ” thêm vào cho ta thấy rõ hơn cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả – muốn nói về chất thơ của hiện thực khốc liệt thời chiến tranh, chất thơ của tuổi trẻ hiên ngang, dũng cảm vượt lên những gian khổ của thời chiến.

    Trong bài thơ nổi bật lên hình ảnh những chiếc xe không kính vẫn băng ra chiến trường. Hai câu thơ đầu là lời giải thích cho sự cố có phần không bình thường ấy:

    Không có kính không phải vì xe không có kính
    Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.

    Lời thơ tự nhiên đến mức buộc người ta phải tin ngay vào sự phân bua của các chàng trai lái xe dũng cảm. Chất thơ của câu thơ này hiện ra chính trong vẻ tự nhiên đến mức khó ngờ của ngôn từ. Câu thơ rất gần với văn xuôi lại có giọng thản nhiên, ngang tàng giúp thu hút người đọc vào vẻ đẹp khác lạ của nó. Hình ảnh “bom giật, bom rung” vừa giúp ta hình dung được một vùng đất từng được mệnh danh là “túi bom” của địch vừa giúp ta thấy được sự khốc liệt của chiến tranh và đó chính là nguyên nhân để những chiếc xe vận tải không có kính. Các điệp ngữ không có… không phải… không có, bom giật, bom rung đã làm cho âm điệu thơ hùng tráng, gợi tả không khí chiến trường ác liệt. Vần thơ đã gợi nên những chiếc xe vận tải quân sự mang đầy thương tích chiến tranh, và hình ảnh người chiến sĩ can trường trong khói lửa.

    Hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi bật hình ảnh những chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn. Thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu lại là hoàn cảnh để người lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, đặc biệt là lòng dũng cảm, tinh thần bất chấp gian khổ, khó khăn.

    Ung dung buồng lái ta ngồi
    Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

    Họ là chủ nhân của những chiếc xe không kính nên khi miêu tả về họ, nhà thơ đã khắc hoạ họ với những ấn tượng, cảm giác cụ thể, sinh động khi ngồi trên những chiếc xe không kính trong tư thể “nhìn trời, nhìn đất, nhìn thẳng” qua khung cửa xe đã không còn kính chắn gió. Cái ngồi “ung dung” đàng hoàng làm chủ tình thế. Một cái nhìn khoáng đạt, bao la giữa chiến trường “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Nhịp thơ 2/2/2 kết hợp với điệp từ “nhìn” đã thể hiện tuyệt đẹp một tư thế chiến đấu rất đĩnh đạc, hào hùng của người lính trẻ trong mưa bom, bão đạn. Người lái xe như được tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài:

    Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
    Thấy con đường chạy thẳng vào tim
    Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
    Như sa, như ùa vào buồng lái.

    Những câu thơ tả thực tới từng chi tiết, diễn tả cảm giác về tốc độ của những chiếc xe đang lao nhanh trên đường. Không có kính chắn gió, các anh đối mặt với bao khó khăn, nguy hiểm, nào “gió vào xoa mắt đắng” rồi “sao trên trời”, “chim dưới đất” đột ngột, bất ngờ như sa, như ùa – rơi rụng, va đạp, quăng ném… vào buồng lái, vào mặt mũi, thân mình. Những hình ảnh gió, con đường, sao trời, cánh chim vừa thực vừa thơ, là cái thi vị nảy sinh trên những con đường bom rơi đạn nổ. Hiện thực thì khốc liệt, nhưng người chiến sĩ cảm nhận nó bằng một tâm hồn trẻ trung, lãng mạn, nhạy cảm với cái đẹp – một nghị lực, một bản lĩnh phi thường. Đặc biệt hình ảnh “Con đường chạy thẳng vào tim” là một khái quát đặc sắc của con đường trái tim. Đường Trường Sơn, con đường giải phóng miền Nam, chính là con đường của trái tim. Những câu thơ trên hé lộ diện mạo tinh thần thầm kín của người chiến sĩ.

    Sau gió xoa mắt đắng là bụi. Bốn chữ “ừ thì có bụi” như một tiếng mặc kệ cất lên, biểu thị một thái độ sẵn sàng chấp nhận. Bụi làm những mái tóc xanh trở nên trắng như người già, bụi làm mặt lấm cũng chẳng cần rửa:

    Không có kính, ừ thì có bụi
    Bụi phun tóc trắng như người già,
    Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
    Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha!

    Giọng ngang tàn, bất chấp giữa đường Trường Sơn đầy bom đạn, đèo dốc, gió bụi, mưa có thể gây bao khó khăn. Tình cảnh của các anh được miêu tả rất chân thực: “mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời”, nhưng người chiến sĩ đã bình thường hóa cái không bình thường đó và vượt lên cùng tất cả sự cố gắng, và tinh thần trách nhiệm rất cao. Họ chấp nhận gian khổ như một điều tất yếu, khó khăn không mảy may ảnh hưởng đến tinh thần của họ. Hình ảnh của họ mang một vẻ đẹp kiên cường. Những chi tiết nghệ thuật hóm hỉnh thể hiện tinh thần lạc quan, hồn nhiên, yêu đời của tiểu đội xe không kính.

    Vậy đấy, hai khổ thơ mở đầu tả thực những khó khăn, gian khổ mà những người chiến sĩ lái xe Trường Sơn đã trải qua. Trong khó khăn, các anh vẫn ung dung, hiên ngang, bình tĩnh nêu cao tinh thần trách nhiệm, quyết tâm gan góc chuyển hàng ra tiền tuyến. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, đoàn xe vẫn lăn bánh bình thường. Lời thơ nhẹ nhõm, trôi chảy như những chiếc xe vun vút chạy trên đường.

    Tiểu đội xe không kính đã xông pha trong cảnh “bom giật, bom rung” đã nếm trải nhiều gió bụi, vô cùng gian khổ, các anh còn hành quân trong mưa:

    Không có kính, ừ thì ướt áo
    Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
    Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
    Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.

    Trước thử thách mới, người chiến sĩ vẫn không nao núng. Các anh càng bình tĩnh, dũng cảm hơn, “mưa tuôn, mưa xối xả”, thời tiết khắc nghiệt, dữ dội nhưng đối với họ tất cả chỉ là “chuyện nhỏ”, chẳng đáng bận tâm, chúng lại như đem lại niềm vui cho người lính. Chấp nhận thực tế, câu thơ vẫn vút lên tràn đầy niềm lạc quan sôi nổi: “không có kính ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo”. Những tiếng “ừ thì” vang lên như một thách thức, một chấp nhận khó khăn đầy chủ động, một thái độ cứng cỏi. Dường như gian khổ hiểm nguy của chiến tranh chưa làm mảy may ảnh hưởng đến tinh thần của họ, trái lại họ xem đây là một dịp để thử sức mình như người xưa xem hoạn nạn, khó khăn để chứng tỏ chí làm trai.

    Những vần thơ ít chất thơ nhưng càng đọc thì lại càng thấy thích thú, giọng thơ có chút gì nghịch ngợm, lính tráng. Ta nghe như họ đương cười đùa, tếu táo với nhau vậy. Có lẽ với những năm tháng sống trên tuyến đường Trường Sơn, là một người lính thực thụ đã giúp Phạm tiến Duật đưa hiện thực đời sống vào thơ ca – một hiện thực bộn bề, một hiện thực thô ráp, trần trụi, không hề trau chuốt, gọt rũa. Đấy phải chăng chính là nét độc đáo trong thơ Phạm Tiến Duật. Và những câu thơ gần gũi với lời nói hằng ngày ấy càng làm nổi bật lên tính cách ngang tàng của những anh lính trẻ hồn nhiên, yêu đời, trẻ trung. Đó cũng là một nét rất ấn tượng của người lính lái xe Trường Sơn. Cái cười sảng khoái vô tư, khác với cái cười buốt giá trong bài thơ “Đồng chí”, nụ cười hồn nhiên ấy rất hiếm khi gặp trong thơ ca chống Pháp, nụ cười ngạo nghễ của những con người luôn luôn chiến thắng và tràn đầy niềm tin.

    Như vậy, những người lính Trường Sơn đã băng qua những gian nan, vất vả, những chông gai để tiến vào miền Nam phía trước, để chi viện cho chiến trường thân yêu. Họ quên đi cái nhọc nhằn của bản thân, trên môi họ lúc nào cũng nở nụ cười tươi thắm, nụ cười tin vào chiến thắng ngày mai.

    Cảm nhận 4 khổ đầu “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”

    Trải suốt chiều dài lịch sử văn học, hình tượng đất nước đã bắt nhịp trái tim của không biết bao nhiêu nghệ sĩ để đi vào thơ với vẻ đẹp thiêng liêng và niềm tin yêu sâu sắc. Hồn thiêng đất nước, tinh thần dân tộc hào hùng được bắt nguồn từ “Nam quốc sơn hà”, “Hịch tướng sĩ”… tiếp nối bền vững qua mỗi thời kỳ. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật mang nhựa sống của đời lính trẻ trên những đoàn xe bon bon trên dặm đường đã chấm phá một nét họa tươi đẹp về chủ đề người bộ đội cụ Hồ.

    Phạm Tiến Duật là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Ông thường viết về đề tài người lính và những cô gái thanh niên xung phong. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là bài thơ được sáng tác vào năm 1969, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra vô cùng ác liệt, đặc biệt tuyến đường Trường Sơn đã trở thành trọng điểm bắn phá của máy bay Mỹ. Bài thơ được in trong tập “vầng trăng quầng lửa”.

    Xưa nay, tàu xe khi đưa vào thơ ca thường lãng mạn hoá, mĩ lệ hoá nhưng khi đến với thơ Phạm Tiến Duật, ta lại thấy những chiếc xe trần trụi hơn bao giờ hết.

    Không có kính không phải vì xe không có kính
    Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi

    Câu thơ đầu với điệp từ “không” liên tiếp như một lời thông báo xe không kính không phải là do nhà sản xuất tạo ra, vốn dĩ nó cũng có kính. Xe bị tàn phá bởi bom của kẻ thù, bởi sự khốc liệt của chiến tranh.

    Ung dung buồng lái ta ngồi
    Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

    Phép đảo ngữ đặt từ “ung dung” lên đầu làm nổi bật tư thế vững chãi của người lính lái xe. Tâm thế điềm tĩnh, tự tin của họ không phải tự nhiên mà có, họ phải trải qua gian lao, thử thách, rèn luyện mới có được. Điệp từ “nhìn” cùng nhịp thơ đều đặn 2/2/2 một lần nữa khẳng định tinh thần dũng cảm, hiên ngang, bất khuất của những người lính lái xe. Đặc biệt là cái nhìn thẳng- cái nhìn không hề né tránh, run sợ trước khó khăn, thử thách.

    Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
    Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
    Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
    Như sa, như ùa vào buồng lái

    Bởi vì xe không có kính chắn gió nên các chiến sĩ phải đối mặt với bao khó khăn thử thách của thiên nhiên: nào là gió lùa mắt đắng, nào là cánh chim trời đột ngột bất ngờ. Điệp từ “nhìn” kết hợp với nghệ thuật nhân hóa ẩn dụ đã tô đậm những khó khăn gian khổ mà người lính phải trải qua trên những cung đường Trường Sơn. Đồng thời cũng nhấn mạnh sự thiếu thốn của những chiếc xe ngày đêm băng ra chiến trường.

    “Không có kính, ừ thì có bụi,
    Bụi phun tóc trắng như người già
    Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
    Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

    Không có kính, ừ thì ướt áo
    Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
    Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
    Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.”

    Thiên nhiên đó là sự khắc nghiệt của gió, mưa, bụi. Không có kính chắn gió, các anh phải đối mặt với tất cả những khó khăn thử thách ấy: nào gió lùa mất đắng, nào cánh chim trời đột ngột bất ngờ. Điệp từ “nhìn” kết hợp với những động từ “sa, ùa” càng tô đậm những khó khăn gian khổ mà người lính phải trải qua trên cung đường Trường Sơn. Nhưng với một thái độ ngang tàn bất chấp khó khăn gian khổ và tinh thần quả cảm những người lính lái xe buông những lời chắc gọn “không có… ờ thì” như một lời nói thường, biến những khó khăn thành điều thú vị. Bằng giọng thơ tiểu táo và nghệ thuật nhân hóa ẩn dụ “Gió xoa mắt đắng” đã làm cho hiện thực gian khổ bị mờ đi, hóa ra không có kính không phải là dở mà lại là cái hay bởi qua ô cửa kính vỡ người lính được giao hoà trực tiếp với thiên nhiên, họ không hề cô đơn mà hình như cả đất trời, cả những ánh sao, cả thiên nhiên, cả vũ trụ đang cùng người lính băng qua tiền tuyến.

    Nghệ thuật điệp cấu trúc “không có kính Ừ thì” đã nhấn mạnh thái độ ngang tàn, thách thức, xem nhẹ bất chấp khó khăn gian khổ của những chàng trai trẻ. Bom đạn của kẻ thù không làm các anh chùn bước thì gió bụi mưa sa của đáng kể gì. Giọng ngang tàn đó còn thể hiện rõ qua các hình ảnh thơ “phì phèo châm điếu thuốc”, “cười haha”. Những người lính đã bình thường hóa những điều tưởng chừng không bình thường, họ chấp nhận gian khổ như một điều tất yếu. Hình ảnh thơ so sánh “bụi phun tóc trắng như người già” và “mưa tuôn mưa xối như ngoài trời” là cách ví von đầy dí dỏm, vui tươi, sôi nổi: trên con đường ra trận những mái đầu xanh của các chàng trai trẻ đã bị bụi đường nhuộm trắng, đã bị mưa làm ướt như đứng giữa trời. Đây chắc chắn hình ảnh của những chàng trai trẻ ở độ tuổi mười tám, đôi mươi. Họ vô cùng tếu hóm “phì phèo châm điếu thuốc”, “cười haha”. Tâm hồn sôi nổi ấy gợi một cảm giác nhẹ nhõm thanh thản, xua tan mọi khó khăn.

    Hòa bình dân tộc được lấp đầy bằng bom đạn, giết chóc và hy sinh. Quả đúng như vậy, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đã mang đến cho người đọc“con người và thời đại” của một thời chống Mĩ oanh liệt, hào hùng. Qua đó, ta thấy được tinh thần người chiến sĩ bất tử, một thời đại bất tử. Cảm ơn nhà thơ Phạm Tiến Duật – người đã tạc tháng năm lịch sử vào hồn người.

    Bình giảng 4 khổ đầu “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”

    Từ nơi em gửi đến nơi anh
    Những đoàn quân trùng trùng ra trận
    Như tình yêu nối lời vô tận
    Đông Trường Sơn, nối Tây Trường Sơn…

    “Những đoàn quân trùng trùng ra trận” được nhà thơ Phạm Tiến Duật nói đến trong bài thơ Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây là hàng ngàn, hàng vạn thanh niên, thanh nữ Việt Nam ào ào ra trận với khí thế “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” thời chống Mỹ, trong đó có những tiểu đội xe không kính trên con đường mòn Hồ Chí Minh.

    Bài thơ về tiểu đội xe không kính được Phạm Tiến Duật viết năm 1969, hơn 30 năm sau người đọc vẫn cảm thấy hừng hực không khí chiến trường và khí thế ra trận của những chiến sĩ trong binh đoàn vận tải quân sự. Ở bốn khổ thơ đầu, giọng thơ mạnh mẽ hùng hồn vang lên như một tráng ca anh hùng:

    Không có kính không phải vì xe không có kính
    Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.

    Hai câu đầu như một lời hỏi – đáp rất hồn nhiên tự nhiên của người lính Chiếc xe vận tải vốn có kính nhưng trong bom đạn “kính vỡ đi rồi”. Các điệp ngữ: “không có… không phải… không có”, “bom giật, bom rung” đã làm cho âm điệu thơ hùng tráng, gợi tả không khí ác liệt chiến trường, vần thơ đã làm hiện lên những chiếc xe vận tải quân sự mang đầy thương tích chiến tranh, và hình ảnh người chiến sĩ can trường, dày dạn kinh nghiệm trong khói lửa.

    Một tư thế chiến đấu rất đẹp:

    Ung dung buồng lái ta ngồi
    Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

    Cái ngồi “ung dung” đàng hoàng làm chủ tình thế. Một cái nhìn khoáng đạt bao la giữa chiến trường: “Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Nhịp thơ 2/2/2 với điệp từ “nhìn” đã thể hiện tuyệt đẹp một tư thế chiến đấu rất đĩnh đạc hào hùng của người lính trẻ trong mưa bom bão đạn của giặc Mỹ.

    Khổ thơ thứ hai mở ra một không gian rộng lớn, những cung đường chiến lược phía trước. “Nhìn thấy gió…”, “nhìn thấy con đường…”, rồi “nhìn thấy sao trời…”; các điệp ngữ ấy có giá trị gợi tả tiểu đội xe không kính, nối đuôi nhau hành quân ra chiến trường. Xe không kính, xe phóng băng băng, nên “gió vào xoa mắt đắng”. Chữ “đắng” chuyển đổi cảm giác, một cách viết tài hoa. Sao trời và cánh chim mà người chiến sĩ “thấy” tưởng “như sa vào buồng lái” đã diễn tả thật hay tốc độ phi thường của tiểu đội xe không kính ra trận trong mọi thời gian đêm ngày, trên mọi địa hình gian khổ:

    Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim:

    Như sa như ùa vào buồng lái.

    Sau gió “xoa mắt đắng” là bụi. Bốn chữ “ừ thì có bụi” như một tiếng “mặc kệ” cất lên, biểu thị một thái độ sẵn sàng chấp nhận. Bụi làm cho những mái tóc xanh trở thành “tóc trắng như người già”. “Mặt lấm” cũng chẳng cần vội rửa. Cách hút thuốc “phì phèo”, tiếng “cười hu ha” là những chi tiết nghệ thuật hóm hỉnh thể hiện tinh thần lạc quan, hồn nhiên, yêu đời của tiểu đội xe không kính:

    Không có kính, ừ thì có bụi,
    Bụi phun tóc trắng như người già,
    Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
    Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

    Tiểu đội xe không kính đã xông pha trong cảnh “bom giật bom rung”, đã nếm trải nhiều gió bụi, vô cùng gian khổ, các anh còn hành quân trong mưa. Hai câu thơ nối tiếp xuất hiện như tiếng nói của người lính coi thường mọi thử thách:

    – Không có kính, ừ thì có bụi,
    – Không có kính, ừ thì ướt áo.

    Mưa rừng dữ dội, vả lại xe không kính, gian khổ không thể nào kể xiết: “Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời”. Trong gian khổ các anh vẫn hiên ngang xông tới chi viện cho chiến trường miền Nam phía trước:

    Không có kính, ừ thì ướt áo,
    Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
    Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
    Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.

    Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. Con người và thời đại được nói đến trong đoạn thơ trên là những chiến sĩ lái xe can trường và dũng cảm, lạc quan và yêu đời, trẻ trung và hồn nhiên trong gian khổ và nguy hiểm trên con đường chiến lược Trường Sơn thời đánh Mỹ. Tiểu đội xe không kính tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng của tuổi trẻ Việt Nam trong chống Mỹ cứu nước.

    Đoạn thơ trên đây hội tụ bao vẻ đẹp nghệ thuật. Câu thơ mang màu sắc văn xuôi thơ hiện “chất lính” thời máu lửa. Các điệp từ, điệp ngữ, các hình ảnh về chiếc xe không kính, về tư thế lái xe, về cái nhìn, mái tóc, nụ cười,… đã diễn tả thật đẹp chí khí anh hùng của tiểu đội xe không kính, đồng thời làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, hào hùng mang âm điệu anh hùng ca. Bom, gió, bụi, mưa được nhà thơ nói đến đã diễn tả đầy ấn tượng về gian khổ, ác liệt chiến trường. Trên cái nền ấy, hình tượng tiểu đội xe không kính sừng sững hiện lên trong tầm vóc những anh hùng cho ta nhiều ngưỡng mộ.

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *