Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh của Phạm Đình Hổ gồm dàn ý chi tiết, cùng 4 bài văn mẫu, giúp các em học sinh lớp 9 tham khảo, hiểu sâu sắc hơn về đoạn trích để viết bài phân tích hay hơn.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh
Với 4 bài phân tích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh cho chúng ta thấy rõ về cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa cùng với nạn nhũng nhiễu của quan lại triều đình thời bấy giờ. Hy vọng, qua đó sẽ giúp các em tham khảo, củng cố kiến thức để đạt được kết quả cao trong học tập.
Phân tích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh ngắn gọn
Dàn ý phân tích Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh
1. Mở bài
- Giới thiệu về tác phẩm “Vũ Trung tùy bút”
- Giới thiệu đoạn trích “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh”.
2. Thân bài
– Thói ăn chơi hưởng lạc xa hoa, vô độ của chúa Trịnh Sâm
- Chúa cho xây dựng nhiều đình đài, cung điện ở nhiều nơi “phủ Tây Hồ, núi Dũng Thúy, núi Trầm” chỉ để thỏa thú vui chơi, đèn đuốc.
→ Sư xây dựng vì mục đích cá nhân này gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của nhân dân.
- Thường xuyên tổ chức những cuộc vui chơi ở bờ Tây Hồ “mỗi tháng ba bốn lần” -> huy động nhiều người, binh lính, nhạc công dàn quanh, bày trò “mua bán như ở trong chợ”–> Lố lăng, giả dối, tốn kém.
- Thu vén hết những loài “trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch” trong dân gian để làm đẹp cho phủ chúa.
- Vì công việc thu vén ấy mà điều động nhiều người, “cả một cơ bình” → Tốn kém, kì công.
→ Phạm Đình Hổ đã ghi chép tỉ mỉ, chân thực về thú ăn chơi của chúa Trịnh Sâm mà không một lời bình
- Sự ăn chơi ấy báo hiệu cho sự sụp đổ của vương triều.
– Sự nhũng nhiễu của đám quan lại dưới quyền
- Sự ăn chơi, hưởng lạc, thú vui của vua chúa đưa đến một đám những kẻ nịnh bợ, nhũng nhiễu dân chúng.
- Mượn cớ “phụng thủ”, bày trò cướp trắng trợn những “chậu hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay” trong dân gian.
- Bày trò dọa nạy, “nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm”
- Sai tay chân cướp cây cảnh, hoặc phá tường nhà người ta mang đi, hoặc sai người “cắt phăng” để dàn cảnh đòi tiền.
→ Tìm các loại báu vật dâng chúa nhưng thực chất là vơ vét của dân làm của riêng.
- Tác giả kể câu chuyện của nhà mình (cây lê cao vài mươi trượng, nở hoa trắng xóa thơm lừng, hai cây lựu trắng đỏ) phải chặt đi vì sự bọn quan lại nhũng nhiễu.
→ Bộc lộ kín đáo sự phê bình, phê phán của tác giả với thói ăn chơi của vua chúa. Đồng thời cảm thông với những người dân trong xã hội.
3. Kết bài
- Nghệ thuật: Lối ghi chép chân thực, cụ thể, sống động.
- Miêu tả chân thực cuộc sống xa hoa của vua chúa và thói nhũng loạn của quan lại
- Bộc lộ kín đáo cảm xúc của mình.
- Đoạn trích mang giá trị nghệ thuật, hiện thực sâu sắc.
Phân tích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh – Mẫu 1
“Vũ Trung tùy bút” là tác phẩm gồm tám mươi tám mẩu chuyện nhỏ, được ghi chép tùy hứng, tản mạn bàn về lễ nghi phong tục, … hay về những việc xảy ra ở xã hội những năm đầu thời Nguyễn của tác giả Phạm Đình Hổ. Trong đó, “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” là đoạn trích được trích ra từ tập sách chữ Hán này. Đoạn trích tuy ngắn gọn nhưng đã ghi chép thật chân thực, cụ thể, sinh động những thú vui xa hoa, hưởng thụ của vua chúa, cùng với đó là sự nhũng nhiễu của bọn quan lại dưới thời Lê – Trịnh. Đồng thời, thông qua đó, ông muốn lên án, tố cáo một xã hội thối nát từ tận cùng, khiến cho dân chúng không thể yên ổn.
Mở đầu đoạn trích, bằng ngòi bút chân thực, không câu nệ của Phạm Đình Hổ, người đọc chúng ta được chứng kiến một cuộc sống ăn chơi với những thú vui chơi xa xỉ của chúa Trịnh Sâm cùng với bọn quan hầu cận. Vốn là một vị chúa, Trịnh Sâm phải quan tâm đến triều đình, giải quyết các quyết sách cùng nhà vua. Nhưng không, Trịnh Sâm không hề quan tâm đến việc triều chính, hắn chỉ lo hưởng thụ cuộc sống xa hoa, lãng phí. Chúa Trịnh cho xây dựng đền đài, cung điện bên bờ Tây Hồ để phục vụ mỗi lần vua ra chơi. Cái việc “xây dựng đình đài”, cung điện liên miên ấy chỉ để thỏa mãn cái thú chơi đèn đuốc, “đi chơi ngắm cảnh đẹp” của chúa. Không chỉ ở Tây Hồ, chúa còn cho xây dựng ở nhiều nơi chúa thường lui tới như núi Tử Trầm, núi Dũng Thúy. Đi tới đâu cũng kéo theo việc xây dựng đình đàm gây hao tốn công sức và tiền của của người dân nghèo.
Ở đây, Phạm Đình Hổ đặc biệt miêu tả lại một cuộc dạo chơi của chúa ở phủ Tây Hồ. Khi chúa đến phủ Tây Hồ để thăm thú, chúa Trịnh Sâm thường “ngự ở li cung”, binh lính thì “dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ”, các quan lại, nội thần thì “đều bịt khăn, mặc áo đàn bà, bày bách hóa quanh hồ bán”. Lúc thuyền chúa ngự tới đâu, lại có những kẻ đại thần ghé vào hàng quán ấy mua đồ “như ở cửa hàng trong chợ. Ở “gác chuông chùa Trấn Quốc hay dưới bóng cây bến đá nào đó”, bọn nhạc công phải ngồi tấu nhạc mua vui. Phải nói, cuộc vui chơi ấy thật giả dối và lố lăng hết sức. Vậy mà mỗi tháng, nó diễn ra tới tận “ba bốn lần”. Thật tốn kém tiền của đến vô cùng!
Ngòi bút khách quan, chân thực của Phạm Đình Hổ đã cho chúng ta thấy một bức tranh về cuộc sống ăn chơi, hưởng lạc đầy giả dối, nực cười, lố lăng của vua chúa và quan lại thời Lê – Trịnh. Những thú chơi tiêu khiển ấy không chỉ khiến người khác cảm thấy lố lăng mà còn làm hao tốn tiền của, công sức của những người dân lao động trong xã hội lúc bấy giờ nữa. Thông qua những ghi chép cụ thể này, Phạm Đình Hổ âm thầm tố cáo xã hội, vua chúa cùng tầng lớp quan lại chỉ biết hưởng thụ cuộc sống xa hoa mà không quan tâm gì đến dân chúng cũng như các vấn đề của xã hội thời bấy giờ.
Không chỉ có thú hưởng lạc giả dối, lố lăng, khác người, chúa Trịnh Sâm và bọn quan lại còn có thú chơi cây cảnh cũng thật dị thường. Khắp cung vua, “bao nhiêu loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu cây hoa cảnh chốn nhân gian” đều có, nhưng đều là những đồ vật bị vua “thu lấy”, đoạt lấy một cách hết sức trắng trợn. Bằng những từ ngữ sống động, Phạm Đình Hổ cũng khắc họa lại công cuộc đem một cây đa to nhiều cành lá về tô điểm cho cung vua. Nào là phải có “một cơ binh mới khiêng nổi”, nào là “bốn người đi kém, đều cầm gươm, đánh thanh la, đốc thúc quân lính khiêng cho đều tay”. Chỉ một thú chơi thôi mà phải huy động tới một cơ binh hàng trăm người để mang về cho phủ chúa. Thú chơi ấy thật mất nhiều công sức, thời gian và tiền bạc.
Chưa kể, trong phủ, bốn bề đều “điểm xuyết bày vẽ hình non bộ, trông như bến bể đầu non”, rồi những loài chim, loài vượn, đều được phủ chúa hết sức thu về, bày vẽ trong đó, khiến cho phủ lúc nào cũng ồn ào như “trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn”. Đây cũng là một sự bộc lộ cảm xúc rất kín đáo, tế nhị của Phạm Đình Hổ về thú chơi trong phủ chúa. Ông cảm thấy dù trong phủ chúa có thật nhiều chim muông, thú lạ, cây cảnh đẹp, nhưng lại vang lên những tiếng kêu thật như tiếng “tan đàn”, “mưa sa bão táp”, đều là những điều không may. Bởi tiếng kêu của chim, tiếng hú của vượn, phải chăng là tiếng than của muôn loài đang bị nhốt trong lồng cũi, là tiếng của thiên nhiên, vạn vật đang giận dữ kêu than? Đó như là lời dự đoán về sự sụp đổ của một triều đại đã thối nát từ tận xương tủy, chỉ biết ăn chơi, biết hưởng lạc, sa đọa trên mồ hôi, công sức, máu thịt của nhân dân!
Phạm Đình Hổ không chỉ để ý ghi chép về thói ăn chơi vô độ, nhố nhăng của vua tôi Trịnh Sâm mà còn để ý ghi chép cả thói nhũng nhiễu của những kẻ làm quan dưới trướng Trịnh Sâm nữa. Đó là những kẻ nổi lên, được trọng dụng bởi thói nịnh nọt, là tay sai đắc lực trong công cuộc hưởng lạc của vua. Chính thói ăn chơi, hưởng lạc ấy của chúa Trịnh đã tạo ra đám tham quan với thói nịnh bợ, nhũng nhiều. Điển hình, để lấy được những vật quý báu của dân chúng trong dân gian “chậu hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay”, chúng bày trò, “nhờ gió bẻ măng”, biên hai chữ “phụng thủ” để mà cướp đi một cách trắng trợn. Không chỉ thế, chúng còn lẻn vào nhà người ta, “cắt phăng” những cây cảnh, chậu hoa ấy rồi giá họa, bắt dân chúng bỏ của ra mà kêu để không bị buộc tội. Với những cây cối to lớn, bọn quan lại còn sai người phá hủy tường để khiêng ra, gây tổn thất với tiền của của người dân. Thế nhưng, chúng ỷ thế giúp vua bày những trò sa hoa, được vua chúa hậu thuẫn nên càng tác quái, hoành hành hơn nữa. Chúng mượn cớ đi tìm vật báu dâng lên vua, nhưng thực chất đang vơ vét tiền của của dân chúng để làm của riêng, vậy nên mới bày trò để những nhà giàu phải “bỏ của ra kêu oan” hay phải tự tay đập bỏ núi non bộ, phá hủy cây cảnh.
Để chính minh cho tính chân thực của câu chuyện, tác giả còn kể lại câu chuyện của chính gia đình mình. Vốn nhà Phạm Đình Hổ ở Hà Khẩu, Thọ Xương có cây lê “cao vài mươi trượng, lúc nở hoa, trắng xóa thơm lưng”, rồi có trồng hai cây lựu trắng và đỏ rất đẹp, nhưng vì sợ thói nhũng nhiều của bọn quan lại dưới trướng chúa Trịnh mà “bà cung nhân” nhà ông phải sai người chặt đi để tránh bị bọn chúng quấy nhiều.
Bằng những câu chứ chân thực, cụ thể mà sống động, Phạm Đình Hổ qua đó, kín đáo bộc lộ thái độ phê phán, phê bình thói ăn chơi hưởng lạc của vua chúa, dẫn đến sự nhũng loạn của đám quan lại dưới quyền. Ông cũng bày tỏ sự cảm thông sâu sắc với những số phận con người bị áp bức dưới triều đại phong kiến này.
Với lối ghi chép rất chân thực của mình, “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” của Phạm Đình Hổ đã phơi bày cuộc sống xa hoa với những thú chơi rất giả dối, lố lăng cùng thói nhũng nhiễu dân chúng của vua chúa và quan lại dưới thời vua Lê chúa Trịnh. Không chỉ vậy, ông còn ngầm gửi vào đó sự phê phán về xã hội đương thời thối nát và đứng về phía những người dân bị áp bức. Đoạn trích vừa giàu tính hiện thực, sinh động với những sự việc người thật việc thật, vừa giàu giá trị nghệ thuật.
Phân tích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh – Mẫu 2
Cùng với “Hoàng Lê nhất thống chí” của nhóm tác giả Ngô gia văn phái và “Thượng kinh kí sự” của Lê Hữu Trác, “Vũ Trung tùy bút” của Phạm Đình Hổ là thiên kí tiêu biểu xuất sắc trong mảng văn xuôi giàu giá trị hiện thực của nền văn học trung đại Việt Nam, ở thế kỉ XVIII. Dưới con mắt tinh anh của người viết sử, Phạm Đình Hổ đã ghi chép thật chi tiết, khách quan, chân thực về đời sống xã hội thời kì bấy giờ trên rất nhiều phương diện: nghi lễ, phong tục, tập quán… Trong đó, tiêu biểu có đoạn trích “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh”, tác giả đã ghi chép lại những điều mắt thấy tai nghe về đời sống xa hoa của vua chúa và sự nhũng nhiễu của bọn quan lại thời Lê – Trịnh. Qua đó, phản ánh một xã hội thối nát, gián tiếp thể hiện thái độ lên án vua chúa quan lại Lê – Trịnh và bộc lộ niềm thương cảm với cuộc sống của nhân dân thời kì bấy giờ.
Tiếp đến, nhà văn chỉ ra nỗi thống khổ của nhân dân trước sự tham lam nhũng nhiễu của vua chúa quan lại Lê – Trịnh. Tác giả đã dẫn ra những chi tiết sự việc vô cùng chân thực, kèm theo những bình phẩm, đánh giá để làm nổi bật lên sự yếu hèn, nhu nhược, tham lam, ích kỉ của vua chúa quan lại, khi chúng dựa vào quyền thế để tìm và cướp lấy những vật quí báu trong thiên hạ. Đối với chúa: trong mỗi lần dạo chơi li cung, bao nhiêu trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn nhân gian, chúa đều ra sức thu lấy, không thiếu thứ gì. Có khi lấy cả cây đa cổ thụ, cành lá rườm rà, từ bên bắc chở qua sông đem về, “phải một cơ bình mới khiêng nổi”. Trong phủ chúa bày vẽ, trang trí đủ loại “hình núi non bộ trông như bến bể đầu non”. Đặc biệt là cảnh đêm nơi vườn chúa ngự: “Mỗi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu, vượn hót ran khắp bốn bể, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất thường”. Câu văn không chỉ đơn thuần là cảnh thực, tả khung cảnh tự nhiên trong phủ chúa mà ẩn sau đó chính là “triệu bất thường”. Nhà văn đã dự báo về cái điềm chẳng lành của triều đại Lê – Trịnh tất sẽ bại vong, suy tàn. Và như một lẽ tất yếu của lịch sử, mọi sự việc đi ngược lại với lợi ích của nhân dân thì tất yếu sẽ bị đào thải. Đó là vào năm 1782, chúa Trịnh Sâm qua đời, nội bộ lục đục, binh biến nổ ra, kinh thành Thăng Long bị đốt phá hoang tàn. Vua Quang Trung – Nguyễn Huệ đã dẫn quân ra Bắc chinh phạt, cơ nghiệp của triều đại Lê-Trịnh sụp đổ hoàn toàn.
Còn đối với quan lại trong phủ chúa, bọn chúng thường “mượn gió bẻ măng”, dựa vào quyền thế của chúa mà cướp đoạt, nhũng nhiễu, vơ vét của dân bằng những thủ đoạn tráo trở, vừa ăn cắp lại vừa la làng. Chúng dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt khiếu hay thì biên ngay vào hai chữ “phụng thủ”. Đêm đến thì trèo tường vào nhà dân lấy phăng đi, rồi vu vạ buộc cho tội giấu vật cung phụng để dọa lấy tiền. Thậm chí, có hòn đá hay cây cối gì to quá, bọn chúng còn phá nhà hủy tường của người dân để mà khiêng ra cho bằng được. Nhà giàu thì bị họ vu vạ cho là giấu vật cung phụng, thường phải bỏ tiền bỏ của ra mà kêu van chí chết, có khi phải tự tay đập bỏ núi non bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để khỏi bị tai bay vạ gió.
Đoạn văn cuối, tác giả kể lại sự việc xảy ra chính trong gia đình của mình: Mẹ của tác giả vì sợ hãi, muốn tránh sự phiền hà của quan lại mà đành phải tự chặt đi cây lê và hai cây lựu quí trong vườn nhà mình. Chi tiết này có tác dụng làm tăng tính xác thực, sinh động, thuyết phục. Đồng thời gián tiếp thể hiện thái độ phê phán, bất bình trước cuộc sống xa hoa, hưởng lạc và bản chất yếu hèn, nhu nhược và tham lam, độc ác của vua chúa quan lại Lê Trịnh nửa cuối thế kỉ XVIII.
Tóm lại, “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” là một tác phẩm độc đáo, có giá trị đặc biệt quan trọng. Các sự việc được tác giả đưa ra cụ thể, chân thực (có thời gian, địa điểm rõ ràng), miêu tả tỉ mỉ, chi tiết và có kèm theo những lời bình, cảm xúc, thái độ phê phán. Tất cả đều có giá trị phản ánh khách quan bản chất hiện thực xã hội đương thời. Vì thế, chuyện không chỉ có giá trị văn học mà còn là tư liệu lịch sử quí giá. Đồng thời, qua tác phẩm, người đọc cũng thấy được công lao đóng góp của Phạm Đình Hổ đối với thể loại tùy bút, bước đầu chỉ ra những đặc điểm của thể loại này: ghi chép sự việc cụ thể, chân thực, sinh động.
Phân tích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh – Mẫu 3
Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh được trích từ Vũ Trung tùy bút của Phạm Đình Hổ. Tác phẩm đã ghi lại một cách chân thực bức tranh trong phủ chúa Trịnh Sâm với thói ăn chơi xa xỉ, vô độ; sự hống hách ngang ngược của bọn quan lại, đồng thời cho thấy cuộc sống khốn khổ của nhân dân.
Trước hết tác giả phác họa bức tranh ăn chơi xa xỉ trong phủ chúa Trịnh và các quan lại hầu cận. Để chứng minh thói ăn chơi vô độ của chúa Trịnh Sâm, Phạm Đình Hổ đã liệt kê trên nhiều phương diện. Trước hết, chúa cho xây dựng nhiều đền đài, cung điện để thỏa mãn thú “đi chơi ngắm cảnh đẹp”, việc xây dựng triền miên hết năm này qua năm khác, không chỉ hao tiền tốn của mà còn bòn rút hết sức lực của người dân, khiến cuộc sống của họ cùng cực, đói khổ. Không chỉ vậy, chúa Trịnh còn thường rong chơi, trong một tháng dạo chơi trên hồ đến ba bốn lần. Những cuộc dạo chơi đó còn phải huy động rất nhiều người hầu, kẻ hạ “binh lính dân hầu vòng quanh bốn mặt hồ” sẵn sàng thực hiện mệnh lệnh của chúa. Chúa Trịnh còn bày ra nhiều trò giải trí lố lăng, tốn kém tiền bạc như cho các nội thần ăn mặc giả đàn bà bày hàng bán quanh hồ, thuyền ngự dạo trên hồ, thỉnh thoảng lại ghé vào mua bán. Thực là một cảnh lố lăng, kệch cỡm chưa từng có trong lịch sử nước nhà. Đến sự việc thứ ba thì càng đáng trách hơn nữa, không chỉ bày ra những trò chơi kệch cỡm, phủ chúa còn ngang nhiên cướp đoạt trắng trợn những “loài trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch và chậu hoa cây cảnh” trong dân gian mang về phủ chúa. Để làm rõ hơn điều đó, tác giả lấy dẫn chứng hết sức chân thực về việc di chuyển một cây cổ thụ: “cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng, phải một cơ bình mới khiêng nổi” ấy vậy mà phủ chúa nhất quyết phải đem cho được cây cổ thụ ấy về. Những việc làm, hành động đó càng cho thấy rõ hơn sự ngang ngược, lộng hành của chúa Trịnh Sâm. Cuối đoạn văn, tác giả đã khẳng định: “Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu, vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất thường”. Đây là những suy nghĩ, cảm nhận được nhà văn trực tiếp bộc lộ. Suốt cả đoạn văn phía trước ông chỉ kể lại, trần thuật lại bằng giọng đều đều bình bình, không nhấn nhá, không cảm xúc, nhưng đến đây ông cũng phải cất lên tiếng thở dài não nùng. Những kẻ thức giả, có hiểu biết sẽ nhận ra rằng đây là những dấu hiệu bất thường, báo hiệu sự suy yếu tất dẫn đến bại vong của một triều đại. Triều đại chỉ lo ăn chơi, hưởng lạc, chà đạp lên đời sống người dân ắt sẽ sụp đổ.
Người xưa vẫn thường nói rằng: “Thượng bất chính , hạ tắc loạn” tức để nói nếu bề trên làm việc không nghiêm túc, làm những điều sai trái thì tất yếu kẻ bề dưới cũng vì thế mà làm theo. Trong phủ chúa Trịnh, mọi việc đã diễn ra đúng như vậy. Chúa Trịnh tham lam, chỉ lo hưởng lạc nên tất yếu sinh ra những kẻ hầu cận, quan cấp dưới ỷ thế mà ức hiếp dân lành, chúng dùng nhiều thủ đoạn để nhũng nhiễu, vơ vét của nhân dân. Bọn hoạn quan bày trò cướp đoạt, vu cáo, phá hoại tài sản của người dân trắng trợn. Chúng “dò xem” nhà nào có vật quý thì biên ngay vào hai chữ “phụng thủ”. Ở đoạn văn này tác giả sử dụng hàng loạt động từ, kết hợp với miêu tả cho thấy sự ngang ngược, bất nhân của chúng: “trèo qua tường thành lẻn ra” “lấy phăng đi” “buộc tội”,… đó là hành động của kẻ cướp, chúng vừa ăn cắp, vừa la làng. Những người bị vu vạ phải chạy vạy tiền của hoặc tự tay phá đi “núi non bộ” “cây cảnh” để không rước tai vạ vào thân. Người dân phải chịu biết bao bất công, phi lí. Để làm cho đoạn văn tăng tính xác thực, Phạm Đình Hổ kể một chuyện xảy ra với chính gia đình mình. Gia đình nhà ông có cây lê cao lớn, đẹp đẽ, lúc hoa nở trắng xóa, thơm lừng; ngoài ra còn có trồng hai cây lựu trắng và lựa đỏ lúc ra quả rất đẹp nhưng bà cung nhân cũng phải sai chặt đi. Đoạn văn cuối tác phẩm đã góp phần tố cáo, tăng ý nghĩa phê phán với bọn quan lại lúc bấy giờ.
Tác phẩm không chỉ hấp dẫn ở nội dung đặc sắc mà còn gây hứng thú cho bạn đọc ở ngòi bút tài hoa. Phạm Đình Hổ đã ghi chép một cách chân thực những gì mình đã chứng kiến. Ngôn ngữ, giọng điệu tự nhiên, trôi chảy, không bị gò bó bởi cốt truyện. Kết hợp hài hòa giữa kể và tả vạch trần bộ mặt xấu xa, độc ác, bất nhân của chúa Trịnh và bè lũ tay sai.
Với thể tùy bút linh hoạt, phóng khoáng Phạm Đình Hổ đã ghi lại một cách chân thực, sinh động khung cảnh sinh hoạt sa đọa, lối sống xa hoa, vô độ trong phủ chúa và sự lộng hành, nhũng nhiễu của bọn quan lại dưới quyền. Đằng sau bức tranh đó còn cho thấy đời sống khổ cực, bị đè nén, áp bức của nhân dân.
Phân tích Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh – Mẫu 4
Phạm Đình Hổ (1768 – 1839), quê ở tỉnh Hải Dương. Ông sinh ra trong một gia đình làm quan cuối thời Lê – Trịnh. Phạm Đình Hổ là người rất tài giỏi. Điều này được minh chứng rất rõ khi ông còn rất nhỏ, khi còn đi học. Ông sáng tác rất nhiều văn thơ chữ Hán có giá trị về nhiều mặt. Nổi bật nhất phải kể đến tác phẩm “Vũ trung tùy bút”, đây là tác phẩm gắn liền với tên tuổi của Phạm Đình Hổ. Trong đó, Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh là một trang tùy bút nổi bật trong tác phẩm.
Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh được viết dựa vào câu chuyện khoảng năm Giáp Ngọ – Ất Mùi. Đó là những ngày tháng nhung lụa của chúa Trịnh Sâm. Trịnh Sâm sống trong xa hoa, quyền quý với những thú vui sa đọa. Điều này được thể hiện rõ qua những chi tiết như Chúa thích đi chơi ngắm cảnh đẹp, tháng ba bốn lần. Việc đón tiếp Chúa cũng phải linh đình long trọng không thua kém bất kì lễ hội nào. Thuyền Chúa dừng lại đâu thì các quan lại ghé vào bờ mua bán tấp nập. Chùa Trấn Quốc đã trở thành nơi hòa tấu nhạc, mua vui của lũ nhạc công ở cung đình. Đình, điện được xây dựng, trùng tu để thỏa mãn cuộc sống ăn chơi trác táng của vua chúa cũng như bọn quan lại Lê – Trịnh. Tất cả kinh tế, tiền của của nhân dân đều phục vụ cho mục đích đó của chúng.
Sống trong xa hoa, hưởng lạc nên từ chúa đến lũ quan lại đều trở thành những “lũ cướp” trắng trợn nhân dân. Phạm Đình Hổ đã khắc họa rất cụ thể, chi tiết về thú vui chơi đến táo bạo, khác lạ bóc lột nhân dân của chúa Trịnh Sâm “thu lấy trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch và chậu hoa cây cảnh ở chốn nhân gian không thiếu một thứ gì”. Có những cây to, khó chở phải điều động nhân lực và vận chuyển vô cùng vất vả về đến phủ Chúa. Trong phủ chúa, vườn tược đều được điểm xuyết những loại cây quý được đưa từ khắp nơi về. Cuộc sống xa hoa, trác táng không bao giờ bền vững, kéo dài. Đó chính là lí do của sự sụp đổ ngai vàng của Chúa. Năm 1782, chúa Trịnh Sâm qua đời, cảnh loạn binh xảy ra, Nguyễn Huệ khởi nghĩa khiến sự nghiệp của họ Trịnh tan biến trong chớp mắt.
Cảnh loạn lạc xảy ra khắp mọi nơi. Lũ hoạn quan với những thủ đoạn thâm độc đã ngang ngược phá hủy đồ đạc, công trình của triều đình. Lũ nhà giàu thì mưu mô, xảo quyệt. Nhiều gia đình phải li tán, gặp khó khăn về mọi mặt.
Trước tình hình đó, tác giả cũng đề cập phần ít đến việc gia đình mình. Mẹ Phạm Đình Hổ là bà cung nhân phải sai người chặt cây lê “cao vài mươi trượng, lúc nở hoa trắng xóa thơm lừng”, hai cây lựu trắng, lựu đỏ lúc ra quả trông rất đẹp.
Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh là một câu chuyện có thật do chính tác giả quan sát và ghi chép lại. Đây là một câu chuyện có giá trị to lớn về mọi mặt, đặc biệt là giá trị lịch sử với những chi tiết, sự kiện lịch sử nổi bật. Chính ngòi bút sắc lạnh nhưng có phần sâu cay, chua xót đã góp phần tạo nên nội dung ý nghĩa của câu chuyện. Trải qua nhiều năm tháng nhưng giá trị của câu chuyện vẫn còn mãi đối với người đọc và là một trong những câu chuyện nổi bật thuộc thể loại tùy bút.
Vào phủ chúa Trịnh là tác phẩm nổi tiếng của Lê Hữu Trác, bên cạnh bài làm văn Phát biểu cảm nghĩ của em khi đọc Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh, học sinh và giáo viên tham khảo thêm các bài làm văn mẫu khác như Phân tích đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh, Cảm nghĩ về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh, Giá trị hiện thực của Vào phủ chúa Trịnh, Tìm hiểu đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh, hay cả phần Soạn bài Vào phủ Chúa Trịnh.