Văn mẫu lớp 9: Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải (Sơ đồ tư duy)

Văn mẫu lớp 9: Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải (Sơ đồ tư duy)

Phân tích khổ thơ đầu Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải mang tới 14 bài văn hay nhất, kèm theo 4 dàn ý chi tiết và sơ đồ tư duy, giúp các em học sinh lớp 9 cảm nhận sâu sắc hơn về bức tranh thiên nhiên ngày xuân.

Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 9: Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải (Sơ đồ tư duy)

Văn mẫu lớp 9: Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải (Sơ đồ tư duy)

Bên cạnh đó, còn cung cấp một số hình ảnh, từ ngữ đáng chú ý khi phân tích khổ 1 Mùa xuân nho nhỏ, giúp các em tái hiện bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp một cách dễ dàng hơn. Mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Download.vn để ngày càng học tốt môn Văn 9.

Phân tích khổ 1 bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải

  • Sơ đồ tư duy phân tích khổ đầu Mùa xuân nho nhỏ
  • Dàn ý Phân tích khổ 1 bài Mùa xuân nho nhỏ (4 mẫu)
  • Phân tích khổ 1 mùa xuân nho nhỏ ngắn gọn
  • Phân tích khổ 1 Mùa xuân nho nhỏ
  • Bài văn phân tích khổ thơ đầu Mùa xuân nho nhỏ (11 mẫu)
  • Đoạn văn phân tích khổ đầu Mùa xuân nho nhỏ
  • Một số từ ngữ, hình ảnh cần lưu ý khi phân tích khổ 1 Mùa xuân nho nhỏ

Sơ đồ tư duy phân tích khổ đầu Mùa xuân nho nhỏ

Văn mẫu lớp 9: Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải (Sơ đồ tư duy)

Dàn ý Phân tích khổ 1 bài Mùa xuân nho nhỏ

1. Mở bài:

  • Giới thiệu bài thơ Mùa xuân nho nhỏ và tác giả Thanh Hải.
  • Nêu nhận xét khái quát về khổ đầu bài thơ.

2. Thân bài:

a) Hai câu đầu:

– Nghệ thuật đảo ngữ: “Mọc” được đặt đầu câu => Sức sống mạnh mẽ, mãnh liệt của loài hoa, của mùa xuân.

– Sự vật:

  • “Dòng sông”: Thể hiện không gian rộng lớn, khoáng đạt. Dòng sông chảy êm đềm, hiền hòa.
  • “Bông hoa”: Đại diện cho mùa xuân tươi đẹp, rực rỡ đang tới.

– Màu sắc: xanh, tím biếc => hai gam màu nổi bật, tươi sáng tô điểm cho bức tranh khung cảnh rực rỡ, tươi vui.

b) Hai câu giữa:

Âm thanh: Tiếng chim hót vui tươi, rộn ràng báo hiệu mùa xuân.

Từ “Ơi”, “chi”: m sắc ngọt ngào, mê say của con người xứ Huế.

Câu hỏi tu từ: “Hót chi mà vang trời” thể hiện niềm vui, sự háo hức chờ đợi mùa tươi đẹp nhất trong năm.

c) Hai câu cuối:

– “Giọt long lanh”:

  • Giọt sương, giọt mưa xuân buổi sớm mai sáng long lanh.
  • Giọt âm thanh của tiếng chim hót rơi vào không gian => Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác.

– Từ “hứng” thể hiện sự nâng niu, trân trọng của tác giả trước vẻ đẹp thiên nhiên.

d) Tổng kết:

* Nội dung:

– Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy sức sống với đủ màu sắc và thanh âm.

– Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân thiên nhiên, đất trời:

  • Tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc đời tha thiết đắm say.
  • Sự xốn xang, rạo rực, háo hức mong chờ khoảnh khắc đất trời vào xuân.

* Nghệ thuật:

  • Biện pháp nghệ thuật: đảo ngữ, ẩn dụ.
  • Nhịp thơ chậm, sử dụng từ ngữ địa phương ngọt ngào như tác giả đang tâm tình cùng bạn đọc.
  • Hình ảnh thơ đặc sắc, thú vị, màu sắc rực rỡ.

3. Kết bài:

  • Khái quát lại về nội dung và nghệ thuật của khổ 1 bài thơ.

Phân tích khổ 1 mùa xuân nho nhỏ ngắn gọn

Nhà thơ xứ Huế Thanh Hải được biết đến là người có giọng thơ bình dị nhẹ nhàng, có tình yêu cuộc sống tha thiết. Khi lâm bệnh nặng, ông cũng không ngừng thể hiện tình yêu đó vào trong thơ ca, nhất là ở bài “Mùa xuân nho nhỏ”. Khổ đầu tiên của tác phẩm đã miêu tả bức tranh thiên nhiên vô cùng tươi đẹp, tràn đầy sắc xuân và mang đậm phong vị của vùng đất Huế.

“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc”

Đây là hai câu thơ đầu trong bài. Khi vừa đọc lên, ta đã cảm thấy không khí mùa xuân ùa về trong hai hình ảnh bình dị, gần gũi là “dòng sông xanh” và “bông hoa tím”. Sự đối lập giữa hai hình ảnh này cho ta thấy khung cảnh rộng lớn, thoáng đãng của đất trời. Dòng sông thì dài, rộng chảy trôi êm đềm, hiền hòa bao bọc lấy bông hoa bé nhỏ. Hai tính từ chỉ màu sắc “xanh” và “tím” càng cho ta thấy nét rực rỡ, tươi vui của mùa xuân. Bầu trời xanh thăm thẳm soi màu xuống dòng sông càng làm sắc xanh thêm rực rỡ. Tô điểm trong đó là màu tím nền nã, dịu dàng đặc trưng của vùng đất Huế. Ngoài ra, động từ “mọc” được đảo lên đầu câu đã gây cho ta ấn tượng về sức sống mạnh mẽ, mãnh liệt của bông hoa. Đó dường như cũng là mong muốn của tác giả. Ông mong mình có thể thoát khỏi bệnh tật, vươn lên như bông hoa kia, dâng hiến sức sống, vẻ đẹp của mình cho cuộc đời.

Nếu như hai câu đầu miêu tả hình ảnh, màu sắc thì hai câu tiếp đã mang đến thanh âm cho mùa xuân thêm rộn ràng:

Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”

Tiếng chim hót không chỉ phá tan sự im lặng của khung cảnh, mang đến không khí vui tươi, phấn khởi mà còn tác động đến tâm trạng của thi nhân. Khi nghe tiếng chim, tâm hồn ông như trẻ lại, cảm thấy rạo rực, hồi hộp trong lòng. Đến mức, nhà thơ phải thốt lên: “Hót chi mà vang trời?”. Câu hỏi này đã thể hiện nỗi niềm yêu thiên nhiên, yêu đời tha thiết bị chôn vùi bởi bệnh tật lâu nay. Đọc bài thơ, độc giả dường như cảm nhận được chất giọng con người Huế ngọt ngào, dịu dàng văng vẳng đâu đây.

Nỗi niềm xúc động của tác giả đã hóa thành hành động:

“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”

“Giọt long lanh” ở đây có nhiều lớp nghĩa. Ta có thể hiểu đơn giản đó chính là những giọt sương, giọt mưa xuân đọng lại trên lá. Chúng trong veo, nặng trĩu như chuẩn bị rơi xuống mặt đất. Hay “giọt long lanh” cũng được hiểu theo nghĩa ẩn dụ là giọt âm thanh rơi ra từ tiếng chim. Dù mang ý nghĩa nào thì “giọt long lanh” cũng đại diện cho vẻ đẹp, sự tinh túy của đất trời. Việc đưa tay ra “hứng” những “giọt” cho ta thấy nỗi khao khát muốn được tận hưởng, ôm trọn vẻ đẹp của cuộc sống. Có lẽ khi sắp xa rời nhân thế, tác giả càng muốn được giao cảm, được nâng niu những điều bình dị trong cuộc đời.

Bằng những biện pháp nghệ thuật như ẩn dụ, đảo ngữ kết hợp với hình ảnh thơ đặc sắc, thú vị, Thanh Hải đã miêu tả một khung cảnh khoáng đạt, đầy màu sắc và tươi vui. Thông qua đó, ông cũng thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc đời đắm say và tâm trạng xốn xang, háo hức mong chờ khoảnh khắc đất trời vào xuân.

Mùa xuân là lúc vạn vật bung tỏa ra nét kiêu hãnh, rực rỡ nhất của mình. Tuy không sử dụng cách miêu tả hoa mĩ cầu kì nhưng tác giả Thanh Hải vẫn thể hiện được khoảnh khắc đất trời sắp giao hòa một cách tuyệt đẹp, sáng bừng sức sống.

Phân tích khổ 1 Mùa xuân nho nhỏ

Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là một tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Thanh Hải, bộc lộ cảm xúc của tác giả trước mùa xuân của thiên nhiên đất nước và khát vọng đẹp đẽ muốn làm một mùa xuân dâng hiến cho đời. Dù đang bị bệnh nặng, thế nhưng vì quá xúc động trước vẻ đẹp tha thiết của mùa xuân, tác giả đã sáng tác ra bài thơ. Và tất cả điều trên được thể hiện rõ nét nhất qua khổ thơ thứ nhất của bài thơ.

Bức tranh thiên nhiên mùa xuân đã được tác giả khắc họa vô cùng rõ nét trong khổ thơ đầu:

“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.”

Các hình ảnh “dòng sông” – sông Hương, “bông hoa” – khóm lục bình, và “con chim chiền chiện” đã mở ra một không gian bao la khoáng đạt, với sức xuân bao trùm khắp đất trời. Sắc xanh của dòng sông cùng với màu tím biếc của bông hoa đã gợi nên sức sống tươi tắn và mãnh liệt, với hình thức câu đối vô cùng hài hòa và là hình ảnh đặc trưng cho vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Huế. Tiếng chim chiền chiện cũng là một thanh âm sống động và tràn đầy sức sống, làm nổi bật và khổ thơ như được xuyên suốt bằng những câu hót líu lo vui tươi. Câu thơ “Mọc giữa dòng sông xanh” với động từ mọc được đảo lên đầu câu đã nhấn mạnh sức trỗi dậy, sự vươn lên của sự vật, của bông hoa trên dòng sông xanh thắm; và cũng là sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên của tác giả trước sức sống mãnh liệt và vẻ đẹp nên thơ nhường ấy. Biện pháp nghệ thuật tu từ nhân hóa trong tiếng gọi: “Ơi con chim chiền chiện” đã làm bật lên sự gần gũi, thân thiết và tình yêu đối với thiên nhiên đất trời của tác giả Thanh Hải. Bên cạnh biện pháp nhân hóa, biện pháp nghệ thuật tu từ ẩn dụ chuyển đổi cảm giác cũng đã được sử dụng thông qua hình ảnh “Giọt long lanh rơi”. Nhờ vậy, âm thanh tiếng chim trở nên có hình khối cụ thể, và âm thanh chim hót như không tan biến loãng mất vào trong không gian mà đọng lại, kết lại thành từng giọt, và cứ từ từ rơi xuống. Bất giác, tác giả đã đưa tay ra hứng lấy tiếng chim, như hứng lấy những giọt sương sớm của buổi ban mai. Nhà thơ đã dùng mọi giác quan để đón nhận và cảm nhận cái vẻ đẹp trong trẻo ấy của mùa xuân, đó là thị giác, thính giác và xúc giác, với cảm xúc say sưa và ngất ngây trước vẻ đẹp dịu dàng ấy. Động từ “hứng” đã diễn tả trọn vẹn thái độ nâng niu, trân trọng mà tác giả dùng để thu lại tiếng chim hót, thu lại sự tươi đẹp của cảnh xuân. Qua đó, ta thấy được tinh thần lạc quan yêu đời của tác giả, cho dù đang phải chịu căn bệnh nặng, nhưng vẫn nhìn đời và thiên nhiên cảnh vật bằng một tình yêu tha thiết.

Nhà thơ Thanh Hải đã thực sự đón nhận mùa xuân đất nước với tất cả sự tài hoa của ngòi bút nơi ông, sự tinh tế của một tâm hồn đầy lãng mạn thơ mộng. Với những hình ảnh độc đáo, các biện pháp nghệ thuật tu từ cùng giọng thơ tha thiết tươi đẹp, tác giả đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên mùa xuân, mùa xuân của đất nước, mùa xuân mà ông muốn khắc ghi mãi trong tim, muốn cống hiến hết mình.

Bài văn phân tích khổ thơ đầu Mùa xuân nho nhỏ

Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 1

Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.

Mở đầu khổ thơ, tác giả đã khiến người đọc có cảm giác nôn nao khi mùa xuân sắp đến. Thanh Hải đã vẻ nên bức tranh xuân muôn màu muôn vẻ của “dòng sông xanh”,” bông hoa tím biếc”, cùng với âm thanh của tiếng “chim chiền chiện”, “hót vang trời”. Hình ảnh chú chim chiền chiện báo tin xuân trong bài thơ của Thanh Hải quá đỗi tươi vui và thơ mộng, không kém gì sắc xuân trong Truyện Kiếu của Đại thi Hào Nguyễn Du:

”Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”.

Chính tiếng hót trong veo những chú chim đại diện cho mùa xuân bay lượn rợp trời đã khiến cho lòng người cũng trở nên phơi phới, rạo rực. Từ ngữ cảm thán “ơi” của tác giả làm người đọc cảm thấy như Thanh Hải đang tha thiết gọi cánh chim ấy đến gần ông hơn nữa, để tác giả có thể tận hưởng trọn niềm vui trong những ngày xứ Huế và cả Đất nước sắp vào xuân.

Mùa xuân yên vui, mùa xuân của hòa bình, mùa xuân khởi đầu cho sự sống mới của nhân dân, của Đất nước. Đồng thời, câu hỏi cảm thán của nha thơ dành cho chú chim cũng khiến người nghe cảm thấy thật xúc động, nhưng cũng thật thú vị “Hót chi mà vang trời”.

Có lẽ, trong lòng tác giả cũng đang nôn nao và cảm thấy phấn khích với tiếng chim thánh thót, tha thiết và tươi vui ấy. Câu thơ như tiếng reo vui đầy thích thú của tác giả, tưởng chừng như ông cũng đang hòa mình mà nói cười vùng với cánh chim bay trên bầu trời cao rộng kia. Hình ảnh chú chim chiền chiện dễ thương, trong trẻo ấy cũng xuất hiện trong bài thơ Con chim chiền chiện của nhà thơ Huy Cận:

Con chim chiền chiện
Hồn xanh quê nhà
Sáng nay lại hót
Tưng bừng lòng ta.
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.

Tác giả Thanh Hải đã cảm nhận trọn vẹn hương sắc của mùa xuân bằng tất cả tâm hồn và sự nồng nhiệt của tuổi trẻ, của đời người. Nếu như tác giả háo hức nhìn cánh chim bay trên bầu trời cao, thấy bông hoa tím trên dòng sông xanh, thì bây giờ lại dùng các giác quan để đón từng “giọt” sương sớm đang “long lanh rơi” xuống thật tinh khiết và tràn đầy nhựa sống.

“Tôi đưa tay tôi hứng”- cử chỉ tuy bình dị của nhà thơ nhưng lại bật lên mọi giác quan, gợi cảm đến lạ. Đó chính là nét đặc sắc trong thơ của Thanh Hải với tài hoa chuyển đổi từ thính giác và thị giác sang xúc giác. Chỉ bằng những lời thơ giản đơn, từ ngữ dung dị, mà tác giả đã vẽ lên một khung cảnh xuân với đầy đủ sắc thái tuyệt vời và chân thật nhất.

Hai từ “tôi hứng” đã thể hiện sự trân trọng và toát lên cái tôi trữ tình của tác giả trước hình ảnh mùa xuân rạng rỡ, đầy đủ sắc màu và âm thanh của xứ Huế mộng mơ, nơi đã đi vào những bài thơ và những khúc ca muôn thuở.

Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 2

Mùa xuân, mùa của vạn vật, mùa của sự sinh sôi nảy nở muôn loài. Chính bởi vẻ đẹp với những nét riêng biệt mà mùa xuân trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho rất nhiều thi nhân. Xuân Diệu, ông hoàng thơ tình đã có những vần thơ thật táo bạo về mùa xuân qua con mắt của “kẻ si tình”:

“…Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,…”

Không táo bạo như Xuân Diệu, Thanh Hải góp một tiếng thơ xuân vào khu vườn thơ ca hiện đại với thi phẩm “Mùa xuân nho nhỏ” chan chứa cảm xúc của một con người đang tận hưởng những điều tuyệt vời nhất của mùa xuân.Nổi bật trong bài thơ là khổ đầu mang rất nhiều ý nghĩa.

“Mùa xuân nho nhỏ” được viết vào tháng 11 năm 1980. Đây là thời điểm tác giả Thanh Hải đang nằm trên giường bệnh, chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo cũng là đối mặt với cái chết đang hiện hữu cận kề. Tuy vậy, qua con mắt của thi nhân và khối óc tưởng tượng của một con người yêu thiên nhiên, cảnh vật sâu sắc, Thanh Hải đã sáng tạo nên những vần thơ thật ý nghĩa. Ngay ở khổ thơ đầu tiên đã toát lên được tình yêu thiên nhiên đất trời mãnh liệt:

“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”

Khổ thơ như một bức tranh thiên nhiên đầy sắc xuân. Đó là bức tranh có những nét chấm phá, phác họa vô cùng tinh tế. Từ “mọc” xuất hiện ngay từ đầu câu thơ cho ta một ấn tượng mạnh. Một động từ mạnh xuất hiện như thể hiện sự vươn dậy, sự khỏe khoắn, một sức sống như tiềm tàng bí ẩn bỗng chốc vụt trỗi dậy. Người đọc đặt ra câu hỏi “Cái gì Mọc giữa dòng sông xanh”? Điều này gây tò mò đối với độc giả thì ngay lập tức, câu thơ thứ hai đã giải đáp điều ấy: “Một bông hoa tím biếc”. Hai câu thơ có sử dụng biện pháp đảo ngữ. Lẽ ra phải là:

“Một bông hoa tím biếc
Mọc giữa dòng sông xanh”

Việc đảo ngữ có tác dụng giúp câu thơ thêm phần đặc biệt, ấn tượng. Hai câu thơ gợi cho ta thấy với không gian mênh mông trời nước, giữa dòng sông với làn nước trong xanh, bỗng nhiên mọc lên một bông hoa. Bông hoa ấy có màu sắc tím biếc. Tuy không phải là sắc màu đỏ rực như đỏ, xanh ngắt mà là màu tím biếc. Màu tím làm nên sự thơ mộng, nhẹ nhàng, làm nên sắc xuân. Đó là vẻ đẹp tinh khôi, sáng trong mà cũng rất đỗi mộng mơ. Đó là màu tím của hoa, của thiên nhiên hay chính là sự tượng trưng cho xứ Huế thơ mộng.

Trên nền xanh của dòng sông, màu hoa tím biếc, tưởng chừng như bức họa ấy tĩnh lại. Nhưng ngay sau đó là sự xuất hiện của tiếng động:

“Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”

Trên bức tranh ấy có tiếng chim hót vang trời. Với thán từ gọi đáp “Ơi” mang đến sự gần gũi, đậm ngôn ngữ Huế. Ngôn ngữ ấy mang đến sự nhẹ nhàng, tình cảm và có nét vô cùng đáng yêu. Tiếng chim hót làm cho bức tranh chuyển trạng thái từ tĩnh sang động. Mùa xuân trong thơ của Thanh Hải là một nét đẹp đằm thắm, nhẹ nhàng, mơn man, trong sáng và đầy tinh khôi. Tất cả đều đang ở độ tràn trề sức sống.

Trước vẻ đẹp thiên nhiên ấy, tác giả không khỏi bộc lộ rõ nét cảm xúc của bản thân:

“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”

“Giọt long lanh” ở đây được hiểu với rất nhiều nghĩa khác nhau. Đó có thể là giọt sương trong buổi sớm ban mai, giọt mưa còn vương lại trên mái hiên hè sau mỗi trận mưa rả rích đêm khuya hay đó cũng có thể là giọt mang ý nghĩa tượng trưng cho hạnh phúc, cho sức sống tràn đầy. Với sự chuyển đổi cảm giác linh hoạt trong câu thơ đã đem lại sự thú vị cho câu thơ. Câu thơ cuối của đoạn đầu bài thơ lại diễn tả rõ nét hơn cảm giác ấy: “Tôi đưa tay tôi hứng”. Động từ “hứng” gợi cho ta thấy sự trân trọng. Sự trân trọng của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên, của đất trời.

Có một nhà phê bình đã từng viết về “Mùa xuân nho nhỏ” giống như “Một tác phẩm kết tinh của tâm hồn người sáng tác, vừa là sợi dây truyền cho mọi người sự sống mà nghệ sĩ mang trong lòng”. Chính tình yêu thiên nhiên da diết cùng với tinh thần lạc quan, yêu đời của tác giả Thanh Hải đã đem đến một tiếng thơ vô cùng giản dị, mộc mạc mà chan chứa xúc cảm. Không phải một mùa xuân mang sự ảm đạm, u buồn trong “Xuân” của Chế Lan Viên, cũng không phải một “Mưa xuân” của Nguyễn Bính mang đầy sự dịu dàng, nhẹ nhàng của một người con gái như đang ngỏ lời trách hờn với chàng trai hay một “Hồn xuân” của Huy Cận mang hơi thở của tình yêu. Thanh Hải đã góp vào một tiếng thơ riêng, rất riêng, rất Thanh Hải và rất ý nghĩa.

Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 3

Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải là một bài thơ miêu tả về mùa xuân rất đặc sắc và có ý nghĩa. Đặc biệt trong đoạn đầu tiên của bài thơ càng cho chúng ta thấy được mùa xuân hòa vào trong lòng người đọc rất rõ nét và sâu sắc.

Mùa xuân được xem là khoảng thời gian đẹp nhất trong năm cho nên nói đến mùa xuân là dường như chúng ta cảm thấy yêu đời hẳn lên, có lẽ chính vì vậy mà mùa xuân trở thành một đề tài quen thuộc trong thơ ca Việt Nam

Đoạn đầu bài thơ tác giả đã phác họa lên được một bức tranh xuân trước khung cảnh thiên nhiên của đất trời:

Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời

Dòng sông có màu xanh gợi nhắc một hình ảnh của những khúc sông uốn lượn quanh co của dải đất miền Trung. Trên gam màu xanh lơ nổi bật lên hình ảnh một bông hoa tím biếc, không có màu vàng của hoa mai hay là màu đỏ của hoa đào mà chỉ có một bông hoa màu tím hiện lên trước mắt. Cho thấy hình ảnh mang đậm bản sắc của xứ Huế, màu tím là màu đặc trưng của con người và đất trời Huế. Nhà thơ đã rất khéo léo khi dùng nghệ thuật đảo ngữ đưa động từ “mọc” lên ở phía đầu câu như một cách để nhấn mạnh vẻ đẹp tràn đầy sức sống của mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân của đất trời. Không chỉ có hình ảnh mà còn có âm thanh của con chim chiền chiện hót vang trời làm xao xuyến cả đất trời, cả tâm hồn của người thi sĩ bằng những từ ngữ cảm thán như “ơi, hót chi”. Một bức tranh đang suy tư bỗng đâu đó vang lên một tiếng chim hót làm sinh động hẳn lên, một con chim chiền chiện mà lại hót được vang cả trời, thực ra khoảng trời ấy chính là khoảng không gian riêng của tác giả, chính vì vậy mà chỉ có tác giả mới cảm nhận được điều đó mà thôi.

Say mê với tiếng chim mà trước mắt nhà thơ dường như xuất hiện được những giọt long lanh đang nhẹ nhàng rơi xuống “Từng giọt long lanh rơi, Tôi đưa tay tôi hứng!”.

Say sưa, ngây ngất trước vẻ đẹp bình dị và nên thơ của mùa xuân, nhà thơ bồi hồi xúc động:

Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng

Giọt mưa xuân, giọt nắng hay là giọt sương được tác giả viết là “giọt long lanh”. Theo mạch cảm xúc của nhà thơ thì đây được xem là giọt của âm thanh tiếng chim ngân vang. Bằng một cảm nhận tinh tế, nhà thơ đã hình tượng hóa tiếng chim như một sự vật có hình dáng, đây là một sự sáng tạo chỉ người có tâm hồn nhạy cảm mới có thể cảm nhận được hết cái đẹp đó.

Khi đọc bài mùa xuân nhỏ nhỏ, nhất là ở đoạn đầu tiên, chúng ta như cảm nhận được hơi thở, men rượu của mùa xuân đang lan tỏa cả vào đất trời, hòa vào thiên nhiên. Đây quả là một mùa xuân nho nhỏ mà nhà thơ Thanh Hải đã dành tặng cho đời vào những giây phút cuối của cuộc đời mình.

Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 4

Thanh Hải là nhà thơ trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Sông Hương Núi Ngự đã nuôi dưỡng tâm hồn nhà thơ trong trẻo mà đằm thắm, suốt đời gắn bó với cách mạng với quê hương đất nước tới hơi thở cuối cùng. Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là tác phẩm nổi bật của ông. Đọc bài thơ người đọc rất ấn tượng với khổ thơ đầu của bài thơ:

Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ôi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng

Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được ra đời trong hoàn cảnh rất đặc biệt trước khi nhà thơ sắp vĩnh biệt cuộc đời. Vậy mà bài thơ vẫn rất trẻ trung và đầy khát vọng cống hiến. Bài thơ được cấu tạo theo mạch cảm xúc dạt dào của tác giả. Bằng sự quan sát tinh tế các giác quan nhạy cảm nhưng hơn thế là cả một tấm lòng yêu quê hương Thanh Hải đã vẽ bức tranh xuân thật nhẹ nhàng đằm thắm giản dị nhưng hết sức thơ mộng:

Mọc giữa dòng sông xanh
…………………………. . . .
Hót chi mà vang trời

Tín hiệu mùa xuân đã về được nhà thơ cảm nhận bằng thị giác: trên dòng sông xanh của quê hương mọc lên một bông hoa tím biếc. Màu xanh của sông làm nền tô điểm cho màu hoa tím biếc. Động từ “mọc” nằm ở đầu câu thơ gợi tả sự ngạc nhiên vui thú là niềm vui hân hoan đón chào mùa xuân đến. Bông hoa tím biếc mang đặc trưng của xứ Huế thâm trầm, mang đặc trưng của chiếc áo dài Huế. Bông hoa ấy có thể là hoa lục bình hoặc hoa súng mà ta vẫn thường gặp và được cảm nhận qua sự say mê ngắm nhìn của Lê Anh Xuân:

Hoa lục bình tím cả bờ sông

(Trở về quê nội)

Sắc xanh, màu tím biếc đã tạo nên bức tranh xuân với những đường nét chấm phá mặn mà đằm thắm. Đó là bức tranh đa chiều mà nhìn vào con người như đọc được điệu hồn quê hương.

Không gian của mùa xuân được mở rộng theo chiều cao, nhà thơ vui sướng lắng tai nghe tiếng chim chiền chiện hót trên bầu trời trong trẻo. Từ “ơi” nằm ở đầu dòng thơ là tiếng gọi ngọt ngào xúc động biểu lộ niềm vui ngây ngất khi nghe âm thanh của tiếng chim. Tiếng chim chiền chiện hót gọi xuân về hay tiếng lòng náo nức của người dân xứ Huế của người dân đất Việt trước xuân sang. Tiếng chim ngân vang rung động đất trời đem niềm vui hân hoan trong lòng người.

Ngắm dòng sông ngắm bông hoa đẹp nghe tiếng chim hót nhà thơ bồi hồi sung sướng bất giác đưa tay ra hứng từng giọt âm thanh từng giọt sương sớm hay từng giọt mưa xuân long lanh:

Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng

Cử chỉ của nhà thơ bình dị mà trân trọng là cử chỉ thể hiện sự xúc động sâu xa. Đó là sự liên tưởng đầy chất thơ qua nghệ thuật chuyển đổi cảm giác thính giác thị giác xúc giác đã được huy động để cảm nhận những hình khối thẩm mỹ của âm thanh.

Huế đẹp thơ mộng đã đi vào lòng người đã đi vào thơ ca muôn thuở, mùa xuân xứ Huế đã là đề tài để thi sĩ Hàn Mặc Tử viết nên “mùa xuân chín” cách bài thơ mùa xuân nho nhỏ gần nửa thế kỉ:

Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trưa tà áo biếc
Trên giàn thiên lí bóng xuân sang

Như vậy, qua khổ thơ đầu của bài thơ Thanh Hải đã gợi lên trước mắt người đọc bức tranh thiên nhiên xứ Huế vào mùa xuân. Bức tranh ấy có bông hoa màu tím, có tiếng chim hát vang trời. Đưa đến cho người đọc cảm nhận tinh tế về mùa xuân xứ Huế.

Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 5

Thơ là cái đẹp muôn đời, cái đẹp của thiên nhiên, cái đẹp của con người. Có lẽ mùa xuân là thời gian hội tụ bao vẻ đẹp của đất nước và con người Việt Nam nên thơ xuân mới hay và đậm đà như thế. Ta bâng khuâng một nét xuân trong thơ vua Trần Nhân Tông:

Song song đôi bướm trắng
Phơi phới phấn hoa bay

(Buổi sớm mùa xuân)

Ta cảm một sắc xuân tươi xinh rực rỡ trong thơ của thi hào Nguyễn Du:

Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

(Truyện Kiều)

Ta rạo rực dõi nhìn cánh đu bay trong ngày hội xuân của làng quê thân thuộc:

Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,
Hai hàng chân ngọc duỗi song song

(Đánh đu – Hồ Xuân Hương)

Và đây là thơ xuân của Thanh Hải:

Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.

Có người đã cho rằng: “Đoạn thơ đẹp như bức tranh”. Đó là bức tranh xuân của “Huế đẹp và thơ”, quê mẹ thương yêu của thi sĩ Thanh Hải.

Hai câu thơ đầu là một sắc xuân tươi xinh rực rỡ tắm mát tâm hồn chúng ta. Vần thơ như một tiếng nói thốt lên khi ngạc nhiên chợt thấy một cảnh đẹp mà lòng xôn xao xúc động:

Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc

Có sông và hoa. Có màu “xanh” của dòng sông làm nền để tô điểm màu “tím biếc” của hoa, bông hoa xuân mới “mọc”., mới nở. Dòng sông hiện hữu trong bài thơ Thanh Hải không phải là con sông chung chung nào, mà người đọc dễ nhận ra, đó là sông Hương “bài thơ trữ tình cố đô Huế” như thi sĩ Tố Hữu tâm sự:

Hương Giang ơi, dòng sông êm
Qua tim ta, vẫn ngày đêm tự tình”..

“Bông hoa tím biếc “ mọc giữa dòng sông xanh chỉ có thể là hoa súng, hoa lục bình dân dã mà Lê Anh Xuân từng say mê ngắm nhìn sau những năm dài xa cách mới trở về quê nội:

Hoa lục bình tím cả bờ sông”.

Chữ “mọc” nằm đầu câu thơ “Mọc giữa dòng sông xanh” thể hiện một nét xuân đột hiện, một sức xuân mạnh mẽ xuất hiện xinh đẹp, non tơ, lộng lẫy như một nàng xuân trong sắc áo “ tím biếc ” kiêu sa trên cái nền xanh của dòng sông. Thanh Hải đã sử dụng hai gam màu tươi sáng để vẽ lên một nét xuân đẹp trên bức tranh xuân đẹp.

Ngắm dòng sông, bâng khuâng nhìn hoa xuân đẹp, nhà thơ khẽ reo lên khi bỗng nghe chim hót “vang trời”:

Ơi! Con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời

“Ơi ” là từ cảm thán biểu đạt sự xúc động bồi hồi của nhà thơ khi nghe chim chiền chiện hót. Tiếng chim hót là khúc nhạc đồng quê. Chim chiền chiện làm tổ trên luống cày, nó là người bạn thân thiết của nhà nông. Nghe chiền chiện hót mà mừng vui, chim báo sẽ được mùa: “Chiền chiện hót lúa tốt bời bời ” (Tục ngữ). Hai tiếng “hót chi” rất gợi cảm, là cách nói “dịu ngọt” của bà con “xứ Huế chúng mình. Qua đó, ta thấy nét xuân thứ hai được nhà thơ cảm nhận là một nét vui. Qua tiếng chim hót mà ta cảm được cái mênh mông trong sáng của bầu trời xuân. Ta cảm được tấm lòng hồn hậu của đứa con xứ Huế. Một cử chỉ rất tao nhã đáng yêu:

Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa ta tôi hứng

Không hề nói đến nắng mà ta vẫn cảm nhận được ánh hồng bình minh làm long lanh những giọt sương tròn như hòn ngọc bé tí treo trên đầu ngọn cỏ, lá cây. “Từng giọt long lanh rơi” cũng có thể là những chuỗi âm thanh, từng chuỗi tiếng chim chiền chiện từ trời cao vọng đến, “rơi” xuống? Cái cử chỉ “đưa tay… hứng” thể hiện một hồn thơ chan hoà với thiên nhiên, đất trời, tạo vật.

Thơ đích thực là một hữu hình mà mở ra trong lòng người đọc những sắc màu và chân trời bao la. Tiếng chim hót, giọt long lanh trong thơ Thanh Hải cũng vậy, nó mở ra bao thế giới về cảnh sắc ban mai trên đồng quê. Cảnh sắc thân thuộc đáng yêu biết bao:

Mặt trời càng lên tỏ
Bông lúa chín thêm vàng
Sương treo trên đầu cỏ
Sương rọi càng long lanh
Bay vút tận trời xanh
Chiền chiện cao tiếng hót“…

(“Thăm lúa”- Trần Hữu Thung)

Đoạn thơ ngũ ngôn sáu câu ba mươi chữ của Thanh Hải quả là một bức tranh xuân đẹp và tươi vui. Có bầu trời và dòng sông. Có hoa khoe sắc và chim cất tiếng hót. Có giọt sương mai long lanh. Hình ảnh con người xuất hiện trên bức tranh xuân với cử chỉ tao nhã, ung dung, với tâm hồn trong sáng, lạc quan yêu đời và giàu tình yêu thiên nhiên.

“Mùa xuân nho nhỏ” là một bài thơ xuân kiệt tác của Thanh Hải. Ông viết bài thơ này vào tháng 11 năm 1980, một tháng trước lúc ông qua đời. Có thể nói, đoạn thơ trên đây là khát vọng mùa xuân muôn đời.

Một khổ thơ trong bài “Mùa xuân nho nhỏ” cho em nhiều ấn tượng đẹp.

Mùa xuân ta xin hát…
Nhịp phách tiền đất Huế

Nam ai và Nam bình là hai điệu dân ca Huế rất nổi tiếng mấy trăm năm nay. Phách tiền là một nhạc cụ dân tộc để điểm nhịp cho lời ca, tiếng đàn tranh, đàn tam thập lục. Câu thơ “Mùa xuân ta xin hát” diễn tả niềm khao khát bồi hồi của nhà thơ đối với quê hương yêu dấu buổi xuân về. Quê hương đất nước trải dài ngàn dặm, chứa chan tình yêu thương. Đó là “ngàn dặm mình”, “ngàn dặm tình” đối với non nước và xứ Huế quê mẹ thân thương. Câu thơ của người con đất Huế quả là “dịu ngọt” vậy.

Mùa xuân là đề tài truyền thống trong thơ ca dân tộc. Giọng thơ của Thanh Hải lúc mạnh mẽ, lúc tha thiết ngân vang. Các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ. Song hành đối xứng, điệp ngữ… được vận dụng sắc sảo, tài hoa. Tình yêu mùa xuân gắn liền với tình yêu đất nước, quê hương được Thanh Hải diễn tả một cách sâu sắc, cảm động. Mỗi một cuộc đời hãy là một mùa xuân. Đất nước ta mãi mãi sẽ là những mùa xuân tươi đẹp.

Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 6

Càng đọc thơ Thanh Hải, ta càng thêm cảm thấy thú vị và say sưa. Nhất là sau khi đọc Mùa xuân nho nhỏ, ta như thấy được cả men rượu của mùa xuân đang lan tỏa vào đất trời, hòa vào trong lòng mùa xuân và trong lòng người đọc.

Mùa xuân là hoa nở trên nhành mai
Mùa xuân là chim hót trên cành cây
Mùa xuân là ánh mắt em nhìn ai
Thoáng trên mắt môi bao nụ cười…

Mùa xuân, đó có thế gọi là một khoảng thời gian tươi đẹp nhất trong năm. Nói đến mùa xuân là ta dường như đang nói đến lòng yêu đời đang cuồn cuộn chảy và những mơ ước cháy bỏng của con người trong cuộc sống. Có lẽ chính vì vậy mà từ lâu mùa xuân đã trở thành một đề tài quen thuộc của các nhà thơ. Viết về mùa xuân, thì mỗi thi nhân đều có được những vần thơ thật hay, thật đặc trưng và nhất là đều mang được tính độc đáo riêng của mình, ở đây, ta chỉ nói về hình ảnh của mùa xuân trong bài thơ quen thuộc “Mùa xuân nho nhỏ’’ của nhà thơ Thanh Hải.

Mở đầu bài thơ, tác giả đã phác họa lên một bức tranh mùa xuân trước mắt chúng ta giữa khung cảnh thiên nhiên và đất trời, vũ trụ:

Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi! Con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời…

Khung cảnh mùa xuân dần dần được hiện ra với một vẻ đẹp thật bình dị, đơn sơ nhưng cũng không kém phần nên thơ và sâu sắc. Ở đây, mùa xuân của Thanh Hải đến với ta không rực rỡ kiêu sa với cánh đào Hà Nội, với những nụ mai vàng đang phô trương sắc thắm, mà chỉ đơn giản là một bông hoa tím đang mọc lên giữa dòng sông nước xanh như lọc. Cánh hoa nghiêng mình xuống mặt nước tựa như gương ấy để nổi bật lên trên một khung trời được in bóng dưới lòng sông, với màu sắc thật nhẹ, thật hài hòa mà cũng rất dễ thương, Thanh Hải đã tạo nên cho bức tranh mùa xuân của mình một nét gì đó vô cùng độc đáo. Và bức tranh ấy lại càng được đẹp hơn, có “hồn” khi cái màu tím kia được nhà thơ tô đậm lên thành “tím biếc”. Gam màu ấy đã được tô vẽ vào bức tranh thật khéo léo, tài tình, làm cho người đọc chúng ta có thể hình dung ra ngay trước mắt cả một bông hoa tím biếc, thật nhỏ, thật xinh, nhưng dường như cũng có đủ khả năng để nhuộm tím cả bầu trời, cả không gian mùa xuân đang căng tràn sức sống. Cái màu tím ấy lan ra, chơi vơi, và khẽ lay động theo những ngọn gió xuân đang thổi lên từ lòng sông xanh mát rượi. Cảnh vật mùa xuân trong bài thơ có lẽ cũng bình dị, giản đơn, và thâm trầm, tĩnh lặng như vùng đất miền Trung quê hương tác giả. Xứ Huế vốn nổi tiếng mộng mơ với núi Ngự sông Hương, với những điệu hò mái nhì mái đẩy, giờ lại càng thêm xinh đẹp dưới ngòi bút tô vẽ của nhà thơ…

Bức tranh thiên nhiên kia nãy giờ đang tĩnh lặng như chất chứa suy tư, chợt sinh động và “sống” hẳn lên vì một nét đâm ngang của cánh chim chiền chiện:

Ơi! Con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng!

Bức tranh ấy giờ đây chợt đẹp hẳn lên và cũng độc đáo hơn vì có sự pha trộn giữa hai sắc màu: hài hoa (xanh, tím) và lung linh rực rỡ (long lanh). Câu thơ giờ cũng mang một nét gì đó lạ lùng chừng như là vô lí; con chim chiền chiện mà lại hót đến vang cả trời! Thực ra, khoảng trời ấy chính là khoảng không gian của riêng tác giả, trong tim tác giả, vì vậy mà chỉ có một mình tác giả mới cảm nhận được và nghe thấy được mà thôi. Tâm hồn nhà thơ nhỏ bé trước đất trời, chính vì vậy mà tất cả mọi cảnh của tâm hồn ấy cũng trở nên nhỏ xinh và dễ thương đến lạ: con chim nhỏ của mùa xuân nhỏ trong một khoảng không gian nhỏ. Nhưng chính cái “nhỏ” ấy đã phần nào tạo nên được nét độc đáo riêng trong thế đối lập của câu thơ. Tâm hồn ấy, trái tim ấy tuy nhỏ nhưng chỉ chính nó mới cảm nhận được hết mùa xuân của đất trời và vũ trụ thiên nhiên… Và giờ đây tiếng chim lại vang lên, tiếng chim quen thuộc của đồng quê dân dã:

Ồ !tiếng hát vui say
Con chim chiền chiện
Trên đồng lúa chiêm
Xuân chao mình bay liệng…

(Tố Hữu)

Say mê với tiếng chim, trước mắt nhà thơ dường như xuất hiện những giọt long lanh đang nhẹ nhàng rơi xuống: “Từng giọt long lanh rơi, Tôi đưa tay tôi hứng!”.

“Từng giọt long lanh”… giọt gì? Giọt nắng, giọt sương, giọt hạnh phúc, hay là giọt xuân đang êm đềm rơi xuống từ cánh chim chiền chiện nhỏ đang tung mình bay lượn để ban phát mùa xuân đến cho mọi người? Nhưng chính xác hơn nhất có lẽ là giọt tiếng chim, giọt tiếng chim mà chỉ có một mình tác giả cảm nhận được, và “trông thấy” được! Nhìn được những vật mà mắt thường không thấy có lẽ do Thanh Hải đang nhìn bằng con mắt của một nhà thơ. Tiếng chim thì nghe, nhưng ở đây tác giả lại nhìn. Hiện tượng chuyển đổi cảm giác này lẽ ra chi có được ở những người say. Câu thơ đang vô lí giờ lại bỗng nhiên hợp lí. Quả thật Thanh Hải đang say, ông say trước khung cảnh thiên nhiên vào mùa xuân thật xinh tươi, đẹp đẽ, say vì nàng chúa xuân quá diễm lệ, yêu kiều. Và từ đó trân trọng, thật nhẹ nhàng, tác giả đã đưa tay ra hứng để đón lấy những điều may mắn, cái tốt đẹp và cái “lộc” của mùa xuân đã ban tặng cho tâm hồn của mỗi con người, và đặc biệt là cho tác giả.

Càng đọc thơ Thanh Hải, ta càng thêm cảm thấy thú vị và say sưa. Nhất là sau khi đọc “Mùa xuân nho nhỏ”, ta như thấy được cả men rượu của mùa xuân đang lan tỏa vào đất trời, hòa vào trong lòng mùa xuân và trong lòng người đọc. Đây quả thật đúng là mùa một “mùa xuân nho nhỏ” mà Thanh Hải đã dâng tặng cho đời. Nếu chúng ta biết rằng Thanh Hải viết bài thơ này khi ông đang nằm trên giường bệnh, ông viết không phải vào dịp xuân… và chỉ ít tháng thôi ông đã ra đi mãi mãi… dù sao, bông hoa tím biếc chung với đời, dòng sông xanh biếc của hi vọng, của niềm tin với đời vẫn là hình ảnh nhỏ nhẹ nói với ta bao điều.

Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 7

Nói đến đề tài mùa xuân, người yêu văn thơ nước nhà nhớ ngay đến “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải. Bài thơ này được xem như sợi dây nối tiếp mạch cảm xúc của mấy mươi năm về trước. Thanh Hải viết “Mùa xuân nho nhỏ” vào thời điểm sắp kề cận cát bụi nhưng người đọc tìm thấy một tình yêu thiên nhiên đất trời mãnh liệt, luôn dâng trào ở trái tim tác giả. Ngay ở khổ thơ đầu bài thơ đã toát lên được điều đó.

“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”

Khổ thơ với chỉ bốn câu thơ đã phác họa một bức tranh với âm thanh, màu sắc, với sức xuân hài hòa, sống động. Từ “mọc” được đặt ở đầu câu với lối đảo ngữ tinh tế tạo nên sự khỏe khoắn, tạo nên sức sống tiềm ẩn, tạo nên sự vươn lên trỗi dậy. Giữa dòng sông rộng lớn, không gian mênh mông, chỉ một bông hoa thôi, một bông hoa tím biếc cũng làm nên sức xuân, cũng làm nên ánh xuân lung linh sắc màu.

Điểm nhấn của bức tranh xuân là gam màu thật hài hòa, dịu nhẹ, tươi tắn: màu xanh lam của nước sông Hương hài hòa cùng màu tím biếc của hoa, một màu tím thật giản dị, thủy chung mà cũng thật mộng mơ, quyến rũ. Đó cũng chính là màu đặc trưng của xứ Huế, một màu rất Huế.

Bỗng đâu đó tiếng chim chiền chiện hót vang trời. Với những thán từ “gọi”, “ơi”, “chi” mang chất giọng ngọt ngào, đáng yêu và đậm chất xứ Huế mang nhiều màu sắc thái cảm xúc như một lời trách yêu. Khung cảnh mùa xuân có không gian cao rộng, màu sắc tươi thắm, âm thanh vang vọng. Hót vang trời, đó là thứ thanh âm bay bổng, đằm thắm, dịu dàng. Mùa xuân trong thơ Thanh Hải chẳng có mai vàng, đào thắm cũng chẳng có muôn sắc màu rực rỡ nhưng sao mà tất cả rộ lên sắc màu và âm thanh đều đang ở độ tràn đầy nhựa sống.

Xúc cảm ngây ngất trước khung cảnh mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên, đất trời, lòng người mà say sưa, xốn xang, rộn ràng đến thế.

“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”

Giọt long lanh là tên gọi chung của tác giả dành cho giọt sương, giọt mưa, giọt nắng, giọt mùa xuân hay giọt của âm thanh, giọt của hạnh phúc. Tiếng chim chiền chiện hót vang trời nhưng không tan biến vào không trung mà ngưng đọng lại thành từng giọt âm thanh như những giọt lưu ly trong vắt, lấp lóa, chói ngời. Với bút pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác từ thính giác đến thị giác và xúc giác “hứng” đó là sự trân trọng vẻ đẹp của thi nhân đối với vẻ đẹp của sự sống, của đất trời, của chim, đó cũng là sự đồng cảm của nhà thơ trước thiên nhiên, cuộc đời.

Mùa xuân đẹp đến mức làm cho trái tim của một người gần đất xa trời phải bừng tỉnh hay chính sức sống mãnh liệt, niềm tin yêu cuộc sống và khát khao dâng hiến đến hơi thở cuối cùng của nhà thơ đã thổi vào trong từng câu chữ nhưng màu sắc và âm thanh của sự hồi sinh. Màu tím trong thơ Thanh Hải không trầm mà trở nên tươi, tiếng chim trong thơ Thanh Hải không quá rộn rã mà trong vắt, tròn đầy. Cho đến hơi thở cuối cùng tác giả vẫn có thể cống hiến cho đời, cuộc đời ông cũng chính là một mùa xuân, “Một mùa xuân nho nhỏ / Lặng lẽ dâng cho đời”.

Phân tích khổ thơ đầu bài Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 8

“Thơ ông chân chất,bình dị, đôn hậu và chân thành…Đối với nền thơ chống Mỹ của miền Nam, Thanh Hải là một trong những cây bút có nhiều đóng góp”, đó là những lời nhận xét chân thành mà Trần Hữu Tả đã dành cho nhà thơ Thanh Hải. Thanh Hải là một nhà thơ cách mạng, đi qua cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cuộc đời ông gắn liền với mảnh đất Thừa Thiên – Huế thân yêu kể cả trong những ngày tháng kháng chiến ác liệt liệt nhất. Trong cả đời thơ của mình Thanh Hải đã dành phần lớn để viết những bài thơ ca ngợi quê hương đất nước, ca ngợi cách mạng thể hiện tấm lòng muốn cống hiến hiến hết mình cho Tổ quốc, cho nhân dân. Và đến những ngày tháng cuối đời khi nằm trên giường bệnh, ông vẫn sáng tác ra những vần thơ thật hay thật tươi đẹp về mùa xuân của thiên nhiên của cuộc đời, bộc lộ sâu sắc tấm lòng tha thiết của nhà thơ với dân tộc, với đất nước. Trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ này, qua lăng kính của một người sắp từ giã thế gian người ta vẫn thấy một mùa xuân nơi xứ Huế thân yêu thật rực rỡ, thật trong trẻo và đẹp đẽ.

“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”

Thanh Hải có yêu quý mùa xuân không, đương nhiên là có, thế nhưng cái cách yêu của ông khác hẳn với cái vẻ nồng nàn, say đắm, vội vã của Xuân Diệu trong Vội vàng, cũng chẳng giống cái vẻ xanh mát, trong trẻo tràn ngập không gian với nhà thơ “quê mùa” Nguyễn Bính trong Mùa xuân xanh, lại càng xa vời với cái vẻ mơ màng, lãng mạn của nhà thơ “điên” Hàn Mặc Tử trong Mùa xuân chín. Thanh Hải viết Mùa xuân nho nhỏ khi đã sắp bước hết đời người, thế nên cái cách ông nhìn về mùa xuân cũng khác biệt. Đọc khổ thơ đầu ta thấy một mùa xuân lặng lẽ, nhưng lại tràn ngập sức sống với sự hòa phối của những gam màu sắc nét và âm thanh rõ ràng, hòa quyện lại thành một bức tranh hài hòa và vô cùng sống động, mang màu sắc tươi vui rõ rệt gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc.

Trong câu thơ đầu “Mọc giữa dòng sông xanh”, người ta ấn tượng với hai việc, đầu tiên ấy là nghệ thuật đảo ngữ, đảo động từ “mọc” lên trên đầu câu thơ để làm nổi bật động thái của sự vật, mà ở đây đó là bông hoa súng, vươn mình dậy giữa “dòng sông xanh”. Điều ấy đã đem đến cho độc giả cảm xúc về sự trỗi dậy mạnh mẽ của sự sống, của mùa xuân, giữa một không gian yên lành, phẳng lặng. Làm nổi bật vẻ đặc biệt của loài hoa mọc trên mặt nước, chứ không phải trên mặt đất, tựa như một nàng tiên “xuân” vừa gột rửa bụi trần từ năm cũ, để đón một mùa xuân mới trên thế gian. Có thể nói rằng việc đảo ngữ này của tác giả đã đem đến những hiệu ứng mạnh mẽ, gây ấn tượng sâu sắc với người đọc về cảnh tượng mùa xuân. Thứ hai nữa, hình ảnh “dòng sông xanh” đã mở ra một không gian mùa xuân rất khoáng đạt và rộng lớn, dòng sông ấy tượng trưng cho mặt đất, phẳng lặng và và hiền hòa. Sắc xanh đem đến sự trong trẻo, yên bình, tạo cảm giác thư thái, vui vẻ, tràn ngập sức sống, có cảm tưởng sắc xanh ấy đã lan tận chân trời. Thêm nữa màu xanh của dòng sông không chỉ là màu xanh của riêng mình nó mà đó còn là màu xanh của cây cối xung quanh, là màu xanh của bầu trời bát ngát, thế mới thấy mùa xuân trong thơ Thanh Hải, sâu rộng và tươi đẹp ngần nào.

Trong câu thơ tiếp “Một bông hoa tím biếc”, bông hoa ấy có lẽ là một bông hoa súng, bông hoa trang, hoặc cũng có thể là bông lục bình trôi trong “Hoa lục bình tím cả dòng sông”, chúng đều nổi danh là loài hoa mạnh mẽ kiên cường, là biểu tượng của làng quê Việt Nam, dẫu dập dềnh sóng nước nhưng vẫn giữ riêng cho mình những nét đẹp thân thương. Thêm nữa sắc tím của loài hoa này lại gợi người đọc liên tưởng đến xứ Huế mộng mơ với tà áo tím của những cô gái vùng đất kinh kỳ, nơi mà tác giả đã gắn bó và yêu thương cả cuộc đời. Hai gam màu, một xanh một tím dẫu đều là những gam màu lạnh, thế nhưng khi kết hợp lại với nhau, sắc xanh làm nền, sắc tím trở thành nét chấm phá, tô điểm, gợi ra bức tranh xuân rực rỡ, sống động, đậm vị Huế thương, rất tự nhiên, hài hòa và nền nã dịu dàng.

Bên cạnh bức họa chấm phá với nét thi pháp cổ điển, thì bức tranh xuân của Thanh Hải còn gây ấn tượng với người đọc bằng một tiếng chim lảnh lót vang trời của chú chim chiền chiện. Âm thanh ấy phá tan cái sự tĩnh lặng của cảnh vật, thổi vào không gian cái rạo rực, sôi động và yêu đời, mang đến không khí vui tươi, phấn khởi. Hơn thế nữa tiếng chim chính là đại diện cho bầu trời, nếu trong câu thơ trước chúng ta chỉ có thể mường tượng ra bầu trời thông qua màu xanh biếc của dòng sông, thì ở đây tiếng hót vang của loài chim đã mang đã mang ta đến một không gian rộng rãi và khoáng đạt thật sự đi theo cánh chim bay lượn. Như vậy bức tranh đã đủ cả trời, cả đất, rộng lớn vô cùng, khiến người ta chỉ muốn nhập vào đó mà thỏa sức bay nhảy. “Ơi con chim chiền chiện/ Hót chi mà vang trời” chính là lời cả thán tha thiết của nhà thơ trước sự thay đổi của thiên nhiên, sống dậy trong lòng người những rung cảm mạnh mẽ, thể hiện tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu mùa xuân và cuộc đời sâu nặng. Đọc hai câu thơ ấy người ta chẳng thể nghĩ nổi đó là nỗi lòng của một con người đã bước dần đến cửa tử, bởi tiếng lòng ấy sao tươi vui, sao xúc động và thích thú quá. Như vậy có thể thấy, bức tranh xuân, tiếng chim lảnh lót đã làm sống dậy cả một tâm hồn tưởng héo úa, khai mở trái tim, niềm vui sống, xóa mờ đi những đau đớn của bệnh tật và cái chết đang tới gần.

Trong khung cảnh dịu dàng, nên thơ đặc trưng của xứ Huế mộng mơ ấy, người ta thấy tác giả đã thật sự thăng hoa trong cảm xúc, ông không chỉ cảm nhận mùa xuân bằng mắt, bằng tai, mà thậm chí nhà thơ còn cảm nhận nó bằng xúc giác. Từ lúc nào mà người ta lại hứng được cả màu xuân, và vẻ đẹp của mùa xuân kết thành giọt rơi xuống trao tặng cho người yêu xuân như thế. Từ “long lanh” ấy mang đến cho chúng ta nhiều liên tưởng là giọt sương sớm, giọt mưa phùn, hay là tiếng chim trên trời cao kết lại, là giọt nắng, giọt nước sông xanh, là giọt tình xuân,… Nhưng tất cả đó đều mang dáng dấp và hơi thở của mùa xuân dịu dàng, và chỉ người nghệ sĩ có tấm lòng rộng mở mới có thể đón nhận và thấm đẫm những thứ tuyệt vời mà tạo hóa đã ban tặng, để nó thấm đẫm vào hồn người. Cảnh “Tôi đưa tay tôi hứng” chính là thái độ trân trọng, yêu thương, nâng niu vẻ đẹp của thiên nhiên, của đất trời, của mùa xuân bằng tất cả tấm lòng rạo rực, vui sướng. Thanh Hải “hứng” lấy mùa xuân ấy để cảm nhận, để khắc ghi vào lòng, đây là mùa xuân của Huế, mùa xuân của quê hương, mai sau có về đất mẹ ông vẫn mãi mang cả tình xuân của Huế đi theo, trân trọng hết lòng.

Như vậy chỉ bằng khổ thơ đầu trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải ta đã cảm nhận được bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp và tràn đầy sức sống, với không khí dịu dàng đằm thắm đậm chất Huế. Bên cạnh đó là tình cảm chân thành, tha thiết của tác giả với mùa xuân của quê hương đất nước, thể hiện tấm lòng sâu nặng với cuộc đời, với Tổ quốc, nơi mà ông dành trọn trái tim cống hiến cho đến tận lúc ra đi.

….

Đoạn văn phân tích khổ đầu Mùa xuân nho nhỏ

“Mùa xuân nho nhỏ” là bài thơ rất đặc sắc. Khổ một của bài thơ đã thể hiện cảm xúc của Thanh Hải trước mùa xuân thiên nhiên, đất trời. Ở hai câu mở đầu, tác giả đã viết: “Mọc giữa dòng sông xanh/Một bông hoa tím biếc”. Ta thấy sức sống mãnh liệt của mùa xuân được thể hiện ở ngay động từ “mọc” đặt ở đầu câu. Nghệ thuật đảo ngữ đã nhấn mạnh sự trỗi dậy mạnh mẽ của bông hoa bé nhỏ, tạo ra ấn tượng đặc biệt trong lòng người đọc. Từ hình ảnh một bông hoa nở giữa dòng sông, ta thấy được khung cảnh rộng lớn, thoáng đãng của đất trời. Dòng sông ấy chảy trôi êm đềm và hiền hòa, đem lại cảm giác yên bình, thư thái cho tác giả. Điểm xuyết vào đó là hai gam màu “xanh”, “tím” làm tăng thêm phần rực rỡ cho khung cảnh mùa xuân. Tiếng chim chiền chiện trong hai thơ tiếp theo đã phá tan sự im lặng của cảnh vật. Tiếng hót rộn rã khiến cho không khí thêm phần vui tươi, phấn khởi. Tác giả cảm thấy rạo rực, hồi hộp chờ mong đến độ phải thốt lên câu hỏi: “Hót chi mà vang trời” rồi có hành động “Từng giọt long lanh rơi/Tôi đưa tay tôi hứng”. “Giọt long lanh” ở đây có thể là giọt sương mùa xuân, cũng có thể là giọt âm thanh của chú chim đang cất tiếng hót. Dù mang nghĩa gì đi chăng nữa thì tác giả cũng đã đưa tay ra, “hứng” những giọt ngọc ấy bằng thái độ nâng niu, yêu thương, trân trọng nhất. Qua khổ đầu tiên của bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, Thanh Hải đã thể hiện tình yêu thiên nhiên, sự rung cảm mạnh mẽ trước mùa xuân tươi đẹp của đất trời.

Một số từ ngữ, hình ảnh cần lưu ý khi phân tích khổ 1 Mùa xuân nho nhỏ

– Mọc: Ngôn từ “mọc” được đưa lên đầu câu nhấn mạnh đến sức sống mãnh liệt của bông hoa tím biếc nhưng cũng chính là sức sống mãnh liệt của thiên nhiên, đất trời xứ Huế ngày xuân.

– Bông hoa tím biếc: Vẻ đẹp thơ mộng, lãng mạn của thiên nhiên mùa xuân. Hơn nữa, sắc tím còn là nét đặc trưng của xứ Huế mộng mơ, trầm tư, cổ kính.

– Ơi: Tiếng gọi thân thân, trìu mến

– Hót chi: Chi là ngôn ngữ địa phương của người miền Trung. Hót chi thể hiện sự da diết, tha thiết của tác giả trước tiếng hót vang trời của tiếng chim chiền chiện.

– Giọt long lanh: Gợi nhiều liên tưởng. Ở đây có thể hiểu là giọt long lanh của những giọt sương sớm, cũng có thể hiểu là những giọt âm thanh. Như vậy, tác giả đón nhận mùa xuân bằng thị giác và xúc giác

– Hứng: Thái độ trân trọng, nâng niu.

…..

>> Tải file để tham khảo các mẫu còn lại!

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *