TOP 4 bài Thuyết minh Hoàng Lê nhất thống chí hay, đặc sắc nhất, giúp các em học sinh lớp 9 thấy được những chiến công vang đội, những phẩm chất anh hùng của vua Quang Trung Nguyễn Huệ.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 9: Thuyết minh tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí
Với 4 bài thuyết minh Hoàng Lê nhất thống chí – Hồi thứ 14, các em sẽ có thêm những thông tin thú vị về tác giả, về thể loại, hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí để viết văn thuyết minh thật hay. Bên cạnh đó, có thể tham khảo thêm bài Phân tích hình tượng vua Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí, kể lại đoạn trích Hoàng Lê nhất thống chí. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Download.vn:
Thuyết minh Hoàng Lê nhất thống chí hay nhất
Dàn ý Thuyết minh Hoàng Lê nhất thống chí
1. Mở bài:
- Giới thiệu tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí.
2. Thân bài:
a. Giới thiệu chung về tác phẩm:
- Khái quát chung tác phẩm: được viết bằng chữ Hán, ghi lại sự thống nhất của vương triều Lê.
- Thể loại: được viết bằng thể chí, là một lối văn ghi chép lại sự vật sự việc.
- Nội dung: viết về giai đoạn lịch sử biến động của xã hội phong kiến Việt Nam, khoảng 30 năm từ thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX.
- Dung lượng: gồm 17 hổi, đoạn trích là phần lớn hồi thứ 14 viết về sự kiện Quang Trung đại phá quân Thanh.
b. Thuyết minh nội dung đoạn trích:
* Đoạn trích đã tái hiện hình tượng của người anh hùng áo vải Quang Trung từ khi “lên ngôi hoàng đế” đến khi đại phá 25 vạn quân Thanh xâm lược.
– Vua Quang Trung là một người có suy nghĩ và hành động quyết đoán:
- Khi nghe tin “quân Thanh vào Thăng Long”, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ “định thân chinh cầm quân đi ngay” để tiêu diệt quân xâm lược.
- Nghe lời các tướng sĩ khuyên ngăn, phải lên ngôi vua để “yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người”, ông bèn “đắp đàn ở trên núi Bân”, “tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi” và “lên ngôi hoàng đế”.
– Ông là một vị vua có trí tuệ sáng suốt, nhạy bén:
- Chiêu mộ binh lính ở Nghệ An.
- Biết lòng quân chưa vững, ông tự mình “cưỡi voi ra doanh yên ủi quân lính” và ra lời phủ dụ khích lệ tinh thần dân tộc, ý chí căm thù giặc của quân sĩ.
- Hiểu điểm mạnh điểm yếu của tướng sĩ; thưởng phạt phân minh.
– Quang Trung là một vị vua có tầm nhìn xa trông rộng:
- Chưa đánh quân Thanh nhưng ông đã tính sẵn “phương lược tiến đánh” và khẳng định “chẳng qua mươi ngày có thể đuổi được người Thanh”.
- Ông còn tính toán cả những sách lược ngoại giao lâu dài, tránh cho nhân dân ta khỏi loạn lạc chiến tranh.
– Quang Trung là vị vua thao lược, có tài dụng binh như thần:
- Thế hiện qua việc hành quân thần tốc của đội quân Tây Sơn, chỉ 5 ngày đã đi được chặng đường từ thành Phú Xuân đến Nghệ An.
- Cùng quân sĩ tiến ra bắc. Đến sông Thanh Quyết, ông cho người tiêu diệt hết toán binh do thám của quân Thanh.
- Tối ngày mùng 3 tháng Giêng, ông cho bao vây làng Hà Hồi, rồi “bắc loa” đe doạ quân Thanh khiến chúng sợ hãi phải ra hàng.
- Mờ sáng ngày mồng 5, ông cưỡi voi tiến sát đồn Ngọc Hồi, sau đó cho quân dùng “khiên rơm” che chắn và đánh “giáp lá cà” với quân địch.
- Kết quả: quân Thanh thảm bại “giày xéo lên nhau mà chết”, thái thú Sầm Nghi Đống “tự thắt cổ chết”.
c. Đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích:
- Cách kể chuyện xen cùng với miêu tả khiến cho các sự vật, sự việc cùng hình tượng người anh hùng Quang Trung hiện lên vô cùng sống động và chân thực.
- Quang Trung được xây dựng bằng cảm hứng sử thi.
- Các sự kiện lịch sử trong truyện được kể lại hết sức khách quan, chân thật, cùng với ngôn ngữ tự sự và các biện pháp so sánh, đối lập được sử dụng linh hoạt.
d. Ý nghĩa của tác phẩm:
- Tái hiện giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam từ thời chúa Trịnh Sâm lên ngôi đến khi Nguyễn Ánh lên ngôi vào năm 1802.
- Tái hiện chân thực, sống động, khách quan hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ với chiến công đại phá 25 vạn quân Thanh xâm lược.
3. Kết bài:
- Khẳng định giá trị của tác phẩm.
Thuyết minh Hoàng Lê nhất thống chí
Quang Trung là một vị vua áo vải vô cùng tài ba trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Sau khi ông qua đời, có rất nhiều tác phẩm thơ ca, các vở kịch, sân khấu, … được viết lên nhằm ca ngợi công lao to lớn của ông như Văn tế vua Quang Trung, Ai tư vãn của công chúa Ngọc Hân, Vua Quang Trung của Phan Trần Chú, … thế nhưng nổi tiếng nhất thì phải kể đến tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí” của nhóm tác giả Ngô gia văn phái.
Hoàng Lê nhất thống chí được viết bằng chữ Hán, tác phẩm đã ghi lại quá trình thống nhất của vương triều nhà Lê. Tác giả của tác phẩm này là Ngô gia văn phái, một nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì, ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội). Hai tác giả chính của Hoàng Lê nhất thống chí là Ngô Thì Chí và Ngô Thì Du. Tác giả Ngô Thì Chí sinh năm 1753 mất năm 1788, là em ruột của Ngô Thì Nhậm. Ông làm quan dưới triều của Lê Chiêu Thống. Tương truyền ông tuyệt đối trung thành với nhà Lê. Ông cũng là người dâng lên “Trung hưng sách” bàn kế khôi phục nhà Lê lên vua Lê Chiêu Thống. Theo nhiều tài liệu được ghi lại thì ông là tác giả của phần Chính biên – 7 hồi đầu tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí. Tác giả Ngô Thì Du sinh năm 1772 mất năm 1840, là anh em con chú con bác với Ngô Thì Chí. Ông là tác giả của 7 hồi kế tiếp trong tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí. Ba hồi còn lại trong tác phẩm là những sự việc có tính chắp vá, tương truyền có thể là do Ngô Thì Thuyết (hoặc Thiến) – một người khác thuộc nhóm tác giả dòng họ Ngô thì viết lại hoặc có thể là một tác giả vô danh khác.
Hoàng Lê nhất thống chí được viết bằng thể chí, là một lối văn ghi chép lại sự vật sự việc. Ngoài ra ta cũng có thể coi tác phẩm là một cuốn tiểu thuyết lịch sử được viết theo lối chương hồi, chịu ảnh hưởng của văn chương Trung Quốc cũng như nét đặc trưng văn sử bất phân của văn học trung đại Việt Nam. Nếu xét về độ chân thực của lịch sử trong tác phẩm thì Hoàng Lê nhất thống chí có thể được xếp vào thể loại kí sự lịch sử. Tuy nhiên nếu xét về hình thức hay cách mà các tác giả xây dựng các hình tượng nhân vật, cách miêu tả, kể chuyện,… thì tác phẩm lại mang đậm chất của một tiểu thuyết.
Nội dung của tác phẩm là những sự kiện ghi chép lại sự thống nhất của chiều đại nhà Lê cũng như tái hiện giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội phong kiến Việt nam vào khoảng 30 năm cuối thế kỉ XVIII, vài năm đầu thế kỉ XIX. Tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí gồm tất cả 17 hồi. Đoạn trích trong sách giáo khoa là phần lớn của hồi 14, viết về sự kiện khi vua Quang Trung lập nên kỳ tích đại phá 25 vạn quân Thanh xâm lược.
Về nội dung, thông qua đoạn trích hồi thứ 14 của tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí, ta có thể thấy rõ hình tượng của vua Quang Trung, vị vua áo vải, từ lúc ông “tế cáo trời đất”, “lên ngôi hoàng đế”, hành quân đến Nghệ An chiêu bình rồi thẳng tiến tới kinh thành Thăng Long, đánh tan giặc Thanh. Hình ảnh của vua Quang Trung hiện lên trong tác phẩm đầu tiên là qua lời kể gián tiếp của người nữ hầu của Hoàng Thái Hậu với sự thán phục trước một con người tài ba xuất chúng. Khi được tin “quân Thanh đến Thăng Long”, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lúc bấy giờ vô cùng giận dữ, “định thân chinh cầm quân đi ngay”, tự mình tiêu diệt quân địch. Thế nhưng được mọi người khuyên ngăn nên ông quyết định “đắp đàn ở trên núi Bân”, “tế cáo trời đất cùng các thần sông thần núi”, “lên ngôi hoàng đế”, lập nên nhà Tây Sơn để “giữ lấy lòng người” yên ổn. Đây là hành động cho thấy được sự quyết đoán mạnh mẽ của vua Quang Trung. Ngay sau đó, ông tức tốc hành quân ra Bắc, qua Nghệ An thì chiêu binh “kén lính” để có thể hành động tiến công vào Thăng Long ngay trong Tết Nguyên Đán. Bởi ông hiểu rõ đó là thời điểm mà quân Thanh lơ là phòng bị nhất. Hơn thế, Quang Trung cũng hiểu rõ sức mạnh của ý chí, tinh thần, thế nên ông đã thân chinh “cưỡi voi ra doanh yên ủi quân lính” rồi truyền lời phủ dụ của mình, khích lệ tinh thần yêu nước, lòng căm thù giặc ngoại xâm cho các binh sĩ của mình: “Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa?…Các người đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cũng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng lên công lớn. Chớ nên quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng”. Hơn thế, khi hai tướng Sở và Lân mang roi chịu tội, ông cũng phân tích rõ tình hình quân địch, thế núi thế sông của thành Thăng Long cũng như điểm mạnh điểm yếu của từng người, nêu ra nguyên nhân thất bại mà không hề trị tội. Đó là nghệ thuật dùng người vô cùng tinh tế của vua Quang Trung. Thông qua những điều đó, ta có thể thấy ông là một người có trí tuệ sáng suốt và nhạy bén vô cùng.
Ngay từ lúc hành quân ra Bắc, Quang Trung đã định sẵn những “phương lược tiến đánh” quân Thanh và khẳng định “chẳng qua mươi ngày có thể đuổi được người Thanh”. Hơn thế, ông còn đã tính đến các kế sách ngoại giao sau này khi thắng trận để tránh cho dân chúng rơi vào cảnh lầm than loạn lạc: “Nhưng nghĩ chúng là nước lớn gấp mười nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế việc binh đao không bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân”. Đây là suy nghĩ của một người có tầm nhìn xa trông rộng, một vị vua tài đức vẹn toàn, luôn lo lắng, suy nghĩ cho nhân dân. Đến khi Quang Trung tiến đánh Thăng Long, ta mới thấy rõ được sự thao lược, tài cầm quân, dụng binh như thần của ông. Chỉ trong vòng 7 ngày, Quang Trung đã hành quân thần tốc từ kinh thành Phú Xuân ra tới tận kinh thành Thăng Long. Ông còn hẹn với các tướng rằng: “hẹn đến ngày mồng 7 năm mới thì vào thành Thăng Long, mở tiệc ăn mừng”. Một vị vua tài giỏi, mưu lược như thần, đã cùng đội quân của mình đánh bại đội quân hơn 25 vạn người của nhà Thanh. Đầu tiên, ông cho bắt hết quân do thám của giặc Thanh rồi sau đó, “ngày mùng 3 tháng giêng năm Kỷ Dậu (1789)”, ông đã “lặng lẽ” cho quân “vây kín” làng Hà Hồi rồi truyền “bắc loa” mà đe doạ quân giặc khiến chúng phải sợ hãi xin hàng. Tới ngày mồng 5, ông cùng quân sĩ “tiến sát đồn Ngọc Hồi”, dùng khiên rơm đánh “giáp lá cà” với quân giặc. Quân Thanh lơ là, “chống không nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết”. Thái thú Sầm Nghi Đống cũng “tự thắt cổ chết”, “quân Thanh đại bại”, quân Tây Sơn hoàn toàn thắng lợi, đánh tan được hơn 25 vạn quân Thanh xâm lược nước ta.
Về mặt nghệ thuật, Hoàng Lê nhất thống chí đã gây ấn tượng với người đọc bằng cách kể chuyện xen cùng với miêu tả khiến cho các sự vật, sự việc cùng hình tượng người anh hùng Quang Trung hiện lên vô cùng sống động và chân thực. Hình tượng Nguyễn Huệ hiện lên qua từng trang truyện mang đậm màu sắc sử thi. Các sự kiện lịch sử trong truyện được kể lại hết sức khách quan, chân thật, cùng với ngôn ngữ tự sự và các biện pháp so sánh, đối lập được sử dụng linh hoạt khi so sánh trạng thái, vị thế của quân ta và giặc.
Mặc dù ở vị thế đối địch và không làm quan dưới triều Tây Sơn, nhưng các tác giả của Ngô gia văn phái đã tái hiện rất khách quan giai đoạn lịch sử cùng hình ảnh của người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ vô cùng chân thực, hào hùng trong chiến công đại phá quân Thanh.
Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái đã cho ta thấy rõ giai đoạn lịch sử từ khi chúa Trịnh Sâm lên ngôi chúa đến khi Nguyễn Ánh lên ngôi vua năm 1802. Đồng thời nó cũng tái hiện rõ hình ảnh người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ rất hào hùng, chân thực. Tác phẩm nói chung và hồi 14 nói riêng sẽ luôn là những chương truyện lịch sử hay, đúng đắn, thể hiện niềm tự hào dân tộc vô cùng mạnh mẽ.
Thuyết minh tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí – Mẫu 1
Hoàng Lê nhất thống chí là văn bản viết về những sự kiện lịch sử, mà nhân vật chính tiêu biểu – anh hùng Quang Trung (Nguyễn Huệ). Ông có một nét đẹp của vị anh hùng dân tộc trong chiến công đại phá quân thanh, với sự dũng mãnh, tài trí, tầm nhìn xa trông rộng thì Quang Trung quả là một hình ảnh đẹp trong lòng dân tộc Việt Nam.
Một con người có hành động mạnh mẽ và quyết đoán: từ đầu đến cuối đoạn trích, Nguyễn Huệ luôn luôn là người hành động một cách xông xáo mạnh mẽ, nhanh gọn, có chủ đích và rất quả quyết. nghe tin giặc đã chiếm thành Thăng Long, mất cả một vùng đất đai rộng mà ông không hề nao núng, “ định thân chinh cầm quân đi ngay”. Rồi trong vòng chỉ một tháng, Nguyễn Huệ đã làm bao nhiêu việc lớn: “tế cáo trời đất”, “lên ngôi hoàng đế”, “đốc suất đại binh’’ ra Bắc gặp gỡ “người cống sĩ ở huyện La Sơn”, tuyển mộ quân lính và mở các cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng. Hơn thế nữa ông còn có một trí tuệ sáng suốt, nhạy bén:
Sáng suốt trong việc phân tích tình hình thời cuộc và thế tương quan chiến lược giữa ta và địch. Đưa ra lời phủ dụ có thể coi như bài hịch ngắn mà ý tứ thật phong phú, sâu xa, có tác động kích thích lòng người yêu nước và truyền thống quật cường của dân tộc.
Sáng suốt nhạy bén trong việc xét đoán và dùng người, thể hiện qua cách xử trí với các tướng sĩ tại Tam Điệp, khi Sở và Lân mang gươm trên lưng chịu tội. ông rất hiểu sở trường sở đoản của các tướng sĩ, khen chê đều đúng người đúng việc.
Cùng với ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng Quang Trung đã làm lên trang lịch sử hào hùng cho dân tộc. chỉ mới khởi binh đánh giặc chưa dành lại được tấc đất nào, vậy mà mà Quang Trung đã nói chắc như đinh đóng cột “ phương lược tiến đánh đã có tính sẵn”, lại còn tính sẵn cả kế hoạch ngoại giao sau khi chiến thắng nước lớn gấp 10 lần nước mình, để có thể dẹp chuyện binh đao, cho nước nhà yên ổn mà nuôi dưỡng lương thực.
Tài dùng binh như thần: cuộc hành binh thần tốc do vua Quang Trung chỉ huy đến nay vẫn còn làm chúng ta kinh ngạc. ngày 25 tháng chạp bắt đầu xuất binh ở phú xuân( Huế), một tuần lễ sau đã ra tận Tam Điệp cách Huế 500 km. vậy mà đến đêm 30 tháng chạp hành quân ra Bắc vừa đi vừa đánh giặc vậy mà ông hoạch định là mồng 7 tháng giêng sẽ vào ăn tết ở Thăng Long, trong thực tế đã vượt mức hai ngày. Hành quân xa và đầy gian khổ như vậy nhưng cờ nào đội ấy vẫn chỉnh tề, răm rắp nghe theo chỉ huy.
Hình ảnh Quang Trung lẫm liệt trong chiến trận: Hoàng đế Quang Trung thân chinh cầm quân đánh giặc không phải chỉ trên danh nghĩa. Ông là một tổng chỉ huy chiến dịch thật sự hoạch định phương lược tiến đánh, tổ chức quân sĩ, tự mình thống lĩnh mũi tên tiến công, cưỡi voi đi đốc thúc, xông pha trước hòn tên mũi đạn, bày mưu tính kế. Đội quân của vua Quang Trung không phải là đội quân thiện chiến, lại vừa trải qua những ngày hành quân cấp tốc, không có thì giờ nghỉ ngơi, vậy mà dưới sự lãnh đạo tài tình của vị chỉ huy này đã đánh những trận thật đẹp, thắng áp đảo kẻ thù (bắt sống hết quân do thám của địch ở phú Xuyên, giữ được bí mật để tạo thế bất ngờ, vây kín làng Hạ Hồi…) trận đánh Ngọc Hồi cho ta thấy rõ tài trí về chiến lược phong thái lẫm liệt của vua Quang Trung (khói tỏ mù trời cách gang tấc không thấy gì mà chỉ nổi bật hình ảnh của vua Quang Trung..có sách ghi chép lại áo bào đỏ của ông sạm đen khói súng..)
Từ những đoạn trích trên ta thấy hiện về trong lịch sử một nhân vật xuất chúng: lẫm liệt oai phong, văn võ song toàn đã ghi vào trang lịch sử vẻ vang của dân tộc, làm sáng ngời truyền thống dân tộc, ngàn đời sau vẫn nhắc tên người anh hùng áo vải Quang Trung.
Thuyết minh tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí – Mẫu 2
Nguyễn Huệ – người anh hùng áo vải ở đất Tây Sơn là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Người anh hùng áo vải ấy với thiên tài quân sự của mình đã đánh tan ba mươi vạn quân Thanh xâm lược, khiến cho lũ bán nước cầu vinh ê chề nhục nhã. Có thể nói hồi thứ mười bốn trong tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí” của nhóm Ngô gia văn phái đã phản ánh khá đầy đủ chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ. Càng đọc chúng ta càng khâm phục tài năng xuất chúng của người anh hùng áo vải đất Tây Sơn ấy.
Chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ, trước hết được miêu tả gián tiếp qua lời người con gái hầu hạ trong cung vua, tâu với bà Hoàng Thái hậu. Mặc dù vẫn xem Nguyễn Huệ là “giặc”, gọi Nguyễn Huệ bằng “hắn” nhưng người cung nhân ấy cũng không giấu được sự thán phục của mình trước tài năng xuất chúng của Nguyễn Huệ. Đây là một đoạn trong lời tâu của cung nhân: Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam ẩn hiện như quỷ thần không ai có thể lường hết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn…”. Trong khi nói những lời ấy, chắc người cung nhân đã chọn lời lẽ vừa phải, thích hợp chưa dám bộc lộ hết ý nghĩ của mình về Nguyễn Huệ, nhưng một người vốn xem Nguyễn Huệ là “giặc” thán phục đến như thế đủ biết Nguyễn Huệ tài năng đến mức nào.
Ngay những người thuộc nhóm Ngô gia văn phái vốn theo “chính thống”, phần nào bị quan điểm “chính thống” chi phối, trước thiên tài của Nguyễn Huệ vẫn phải ca ngợi Nguyễn Huệ một cách trung thực, khách quan. Qua việc miêu tả trực tiếp cuộc hành quân thần tốc, tác giả đã cho mọi người thấy tài năng quân sự xuất chúng của người anh hùng áo vải Tây Sơn.
Được tin quân Thanh kéo vào Thăng Long, Nguyễn Huệ giận lắm, định cầm quân đi ngay. Nhưng Nguyễn Huệ đã biết nghe theo lời khuyên của mọi người, cho đắp đàn ở núi Bân tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi, lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu Quang Trung. Lễ xong mới hạ lệnh xuất quân. Điều này chứng tỏ mặc dù tài năng hơn người nhưng Nguyễn Huệ rất biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến người khác. Riêng phẩm chất ấy của ông cũng đáng để chúng ta kính nể, học tập. Việc Nguyễn Huệ tự mình đốc xuất đại binh tiến ra Thăng Long vào đúng thời điểm Tết Nguyên đán cũng chứng tỏ phần nào tài năng quân sự của ông. Bởi vì đó là thời điểm kẻ thù ít đề phòng nhất, dễ lơ là cảnh giác nhất. Nguyễn Huệ rất hiểu sức mạnh tinh thần, ông không chỉ có tài cầm quân mà còn có tài hùng biện. Trong lời dụ của mình, ông đã khích lệ được lòng yêu nước, căm thù giặc, truyền thống chống ngoại xâm cho tướng sĩ: Quân Thanh sang xâm lược nước ta, hiện ở Thăng Long các ngươi đã biết chưa? …
Người phương Bắc không phải giống nòi nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân ta, vơ vét của cải người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các Ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc”. Lời dụ của Quang Trung có sức thuyết phục không kém “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn. Một điều mà các tác giả “Hoàng Lê nhất thống chí” hết sức khâm phục Nguyễn Huệ là tài dùng người.
Tiêu biểu là việc cử Ngô Thời Nhậm ở lại làm việc với các tướng Sở và Lân. Sự việc diễn ra đúng như dự đoán của Nguyễn Huệ. Ngô Thời Nhậm đã phát huy vai trò của mình “Biết nín nhịn để tránh mũi nhọn”, “bên trong thì kích thích lòng quân, bên ngoài thì làm cho giặc kiêu căng”. Nguyễn Huệ còn dự đoán chính xác những sự việc sắp xảy ra. Ông là một người đầy tự tin: “Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn, chẳng qua mười ngày có thể đuổi được người Thanh. Nhưng ông cũng luôn luôn đề phòng hậu hoạ: “Quân Thanh thua trận ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế việc binh đao không bao giờ dứt”. Và ông đã dự định chọn người “khéo lời lẽ” để “dẹp việc binh đao” đó cũng là Ngô Thời Nhậm.
Qua cách nghĩ của vua Quang Trung, ta thấy ông không chỉ nhìn xa trông rộng mà còn hết lòng vì dân. Ông không muốn dân phải luôn luôn chịu cảnh binh đao xương rơi máu chảy. Trong khi tiến quân ông cũng chọn cách tránh cho quân sĩ đỡ phải tổn thất: ”Vua truyền lấy sáu chục tấm ván, cử ghép liền ba tấm làm một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín. Quân Thanh nổ súng bắn ra chẳng trúng người nào cả. Đó là cái giỏi, cũng là cái tâm của người cầm quân.
Thuyết minh tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí – Mẫu 3
Quang Trung là người anh hùng mạnh mẽ, quyết đoán, có tầm nhìn xa trông rộng : Khi ông nhận được tin toàn bộ đất từ biên ải đến thành Thăng Long đều rơi vào tay giặc, đó là một biến cố lớn của đất nước. Vậy mà ông không hề nao núng mà định thân chinh cầm quân đi ngay, nhưng ông cũng rất sẵn lòng nghe lời nói phải của bề tôi, nên ông đã dừng lại, hoàn thành cả núi việc trong vòng 1 tháng: trước hết ban lệnh ân xá khắp trong ngoài; chính bị hiệu lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Quang Trung; đồng thời chuẩn bị xong phương lược tiến đánh và có cả kế hoạch cho 10 năm tới trong hòa bình.
Qua những trang viết chân thực, ta còn cảm nhận được Quang Trung là người có trí tuệ sáng suốt, thiên tư nhạy bén: Điều đó được thể hiện qua việc ông xét xử bề tôi. Ông phân tích thấu đáo, chỉ rõ tội trạng của Sở và Lân rồi tha tội chết cho họ, ban thưởng cao cho Ngô Thì Nhậm.
Đặc biệt trí tuệ và tài năng của ông còn được thể hiện trong lời dụ lệnh quân sĩ trước khi lên đường. Đọc lời dụ lệnh của Quang Trung ta như nghe thấy niềm tự tôn dân tộc trong bài thơ Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt. Có cả lời thúc giục, động viên tướng sĩ quyết chiến quyết thắng vang dội núi sông trong Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn. Và cả âm hưởng hùng tráng đến muôn đời trong Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi.
Vua Quang Trung còn là một người chỉ huy có tài cầm quân. Chúng ta hãy cùng theo dõi từng bước tiến hành quân của nghĩa quân Tây Sơn: Ngày 25/12 hạ lệnh xuất quân, vậy mà ngày 29 đã đến Nghệ An. Ngày 30 mở tiệc khao quân, tối 30 tiếp tục lên đường. 3/1 chiếm đồn Hà Hồi. 5/1 chiếm đền Ngọc Hồi và đến thành Thăng Long trước 2 ngày so với dự định. Bước tiến không tính bằng năm bằng tháng, mà tính bằng ngày bằng giờ, cả đoàn quân lớn như vậy dưới sự chỉ huy của người anh hùng như triều dâng sóng dậy và cho đến nay chúng ta vẫn phải kinh ngạc.
Nhưng có lẽ đẹp nhất trong trái tim người đọc đó là hình ảnh người anh hùng Quang Trung trong chiến trận. Trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, có nhiều ông vua đã từng thân chinh cầm quân. Nhưng nắm quyền tổng chỉ huy và trực tiếp xông pha trận mạc thì chỉ có Quang Trung. Hồi thứ 14 đã ghi lại vẻ đẹp tuyệt vời đó:
Trong ánh sáng tờ mờ, khói toả, vua Quang Trung mặc áo bào đỏ lẫm liệt trên lưng voi chỉ huy trên chiến trận. Với chiến thuật linh hoạt, khi thì xuất quỷ nhập thần, khi thì phô trương thanh thế, ra lệnh dần đội quân thành hình chữ nhật, tất cả tiến lên giáp lá cà cầm dao ngắn chém bừa, thật là một hình tượng chiến trận hào hùng, gợi cho ta nhớ tới khí thế của nghĩa sĩ trong bài văn tế của Nguyễn Đình Chiểu:
“Kẻ đâm ngang, người chém ngược
Làm cho mã tà, ma lí kinh hồn”
Với sức mạnh đạp cửa xông vào liều mình như chẳng có, tướng từ trên trời rơi xuống, tướng từ dưới đất chui lên khiến cho quân Thanh cuống cuồng như chảo nóng, dẫm đạp lên nhau chạy trốn. Tướng giặc Sầm Nghi Đống thắt cổ tự vẫn, còn Tôn Sĩ Nghị người không thèm mặc áo giáp, ngựa không thèm gióng lên cứ nhằm hướng Bắc mà chạy.