Văn mẫu lớp 10: Đóng vai Trọng Thủy và kể lại truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy

Văn mẫu lớp 10: Đóng vai Trọng Thủy và kể lại truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy

Hóa thân thành Trọng Thủy kể lại câu chuyện truyện An An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy ngắn gọn gồm gợi ý và 9 bài văn hay, ấn tượng nhất.

Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 10: Đóng vai Trọng Thủy và kể lại truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy

Thông qua 9 bài đóng vai Trọng Thủy kể lại câu chuyện các em học sinh lớp 10 có thêm nhiều tư liệu tham khảo, dễ dàng tiếp thu kiến thức từ cơ bản đến nâng cao, rèn luyện nâng cao kỹ năng viết văn hóa thân vào nhân vật ngày một tốt hơn. Vậy sau đây là nội dung chi tiết 9 bài hóa thân thành Trọng Thủy kể lại câu chuyện, mời các bạn cùng theo dõi tại đây.

Đóng vai Trọng Thủy kể lại câu chuyện hay nhất

    Dàn ý đóng vai Trọng Thủy kể truyện An Dương Vương

    Văn mẫu lớp 10: Đóng vai Trọng Thủy và kể lại truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy

    I. Mở bài:

    – Trọng Thủy xưng tôi giới thiệu về sự về sự xuất thân cả mình.

    – Dùng lời Trọng Thủy, dẫn dắt vào câu chuyện

    II. Thân bài:

    1. Trọng Thủy kể về lí do xuất hiện của mình trên mảnh đất Âu Lạc

    – Cha ta thất bại trong cuộc chiến xâm lược Âu Lạc do đất nước này có vũ khí lợi hai.

    – Nuôi lòng uất hận và chí phục thù, thôn tính bằng được Âu Lạc, cha sai ta sang ở rể và làm gián điệp. Ban đầu không chấp nhận, sau đó nhận ra được ý đồ của cha nên bằng lòng.

    2. Trọng Thủy kể về quá trình lừa dối Mị Châu.

    – Ban đầu sang Âu Lạc chỉ với tham vọng lấy cắp nỏ thần, tiêu diệt Âu Lạc, nhưng không ngờ tôi lại đem lòng yêu Mị Châu.

    – Tuy nhiên, tình riêng không thắng nổi chí lớn, ta buộc phải lừa dối Mị Châu.

    + Dụ Mị Châu dẫn đi thăm thú Âu Lạc, ngắm nhìn báu vật quốc gia

    + Phát biểu một vài cảm nhận về đất nước Âu Lạc: rộng lớn, thành trì kiên cố, thành cao hào sâu.

    + Mị Châu kể cho ta về quá trình xây thành và chế nỏ: Ban đầu rất vất vả, khó khăn nhưng được Rùa Vàng giúp đỡ

    → Ta nắm được toàn bộ về đặc điểm của đối thủ

    + Lợi dụng lòng tin của Mị Châu để học cách sử dụng nỏ thần.

    + Trước sự ngây thơ, cả tin của Mị Châu, lừa dối nàng để đuổi cùng giết tận

    + Ta đã nói những lời dự báo với nàng nhưng Mị Châu không chút nghi ngờ

    + Nàng rắc lông ngỗng chỉ đường cho ta đuổi theo.

    3. Trọng Thủy kể về quá trình đánh chiếm Âu Lạc

    – Mang nỏ thần về, vua cha vô cùng sung sướng lập tức đem quân đánh Âu Lạc

    – An Dương Vương chủ quan vẫn đinh ninh có bảo vật trong tay bên coi thường, điềm nhiên đánh cờ.

    – Cha con ta đem quân đuổi theo vết lông ngỗng của Mị Châu đến bờ biển thì mất dấu vết.

    4. Trọng Thủy kể về cái chết của Mị Châu và quyết định tự vẫn của mình.

    – Ta bắt tên lính còn sống sót tra hỏi thì được biết An Dương Vương đã rẽ sừng tê 7 tấc theo Rùa Vàng xuống biển. Mị Châu bị Rùa Vàng kết tội nên bị vua cha chém chết, trước khi chết nàng đã khấn để bày tỏ lòng trong sạch của mình. Máu của nàng chảy xuống biển trai sò ăn phải đều hóa ngọc.

    – Ta ôm xác Mị Châu mà khóc, lòng đau khổ, xót xa ân hận vô cùng.

    – Vì quá thương nhớ nàng, khi đi tắm nhìn xuống giếng, thấy bóng nàng, ta đã nhảy xuống. Trước khi xuống gặp nàng, ta khấn nếu nàng chịu tha thứ cho ta, hãy đem ngọc trai đem rửa xuống giếng nước thì ngọc sẽ sáng hơn.

    III. Kết bài:

    Tưởng tượng một kết thúc mới cho câu chuyện.

    Đóng vai Trọng Thủy kể lại câu chuyện – Mẫu 1

    Khi ấy, cha ta Triệu Đà mong muốn chiếm lấy mảnh đất Âu Lạc để mở rộng bờ cõi đất nước, vua cha có thể thống lĩnh hàng trăm hàng nghìn người. Với ước muốn ấy vua cha ta đã chuẩn bị một đội quân tinh nhuệ để tiến hành cuộc chiến mở rộng lãnh thổ. Lại được biết bên nước Âu Lạc xây thành mãi mà vẫn đô, ngày này tháng nọ trôi qua mà vẫn không xong nên cha càng thấy làm mừng. Cha từng nói với ta có lẽ đây chính là ý trời, thiên thời địa lợi, nhân hòa có đủ cả ngay lập ta sẽ đem quân tiến đánh nội trong ngày mai.

    Triệu Đà cha ta cùng với đội quân của mình tiến đánh Âu Lạc nhưng ngạc nhiên hay khi đặt chân lên mảnh đất đó một chiếc thành xây dựng kiên cố sừng sững trước mắt. Vua cha sững sờ không thể tin vào mắt mình thế nhưng với đội quân đông đảo cha ta quyết tâm chiếm thành cho kì được. Đội quân một tiến đến cổng thành để phá cổng, đội quân hai sẵn sàng giương cung bắn lên thành, đội quân phía sau tiếp tế cho hai đội quân trước. Cha ta mình cưỡi voi tay cầm thanh gươm lẫm liệt ngồi chỉ huy. Những tưởng với số quân đông áp đảo cha ta có thể chiến thắng trở về nhưng không. Vua cha lại phải sững sờ trước chiến thắng của một nước thiếu quân lực yếu Âu Lạc.

    Số quân trở về còn lại rất ít, chẳng biết từ đầu hàng trăm mũi tên bay từ phía thành ra mũi nào mũi nấy trúng vào hàng trăm người. Người trúng thì chết ngay tức khắc. Vua cha rút quân về nước kể lại cho ta nghe câu chuyện đó. Người tức giận hồi lâu trấn tĩnh lại bèn nghĩ ra một cách đó là giả vờ xin hòa để cầu thân. Vua cha sai ta sang cầu hôn người con gái duy nhất của vua Âu Lạc. Vì đất nước vì vua cha ta cũng chiều lòng chấp nhận.

    Khi đến thành Cổ Loa ta được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của một người con gái xinh đẹp. Nàng là Mị Châu, ánh mắt nàng thăm thẳm, làn da trắng và một đôi môi đẹp. Ta đã mến nàng từ cái nhìn đầu tiên. Yêu nàng là thế, say đắm với nhan sắc nàng là thế nhưng ta không thể quên nhiệm vụ. Ở lâu trong cung điện của vua An Dương Vương ta bắt đầu hỏi về bí mật nọ. Vợ ta – Mị Châu ngây thơ trong sáng không có chút nghi ngờ gì kể lại cho ta nghe tất cả. Chiếc nỏ ấy là vuốt rùa vàng thần Kim Quy, nàng còn cho ta xem và cho biết chỗ cất. Một hôm nhân cơ hội không có ai ta đã lấy trộm được chiếc nỏ thần rồi biện cớ về nước thăm cha. Trong những ngày tháng là vợ chồng ta thực sự yêu nàng Mị Châu vì thế trước khi đi ta có dặn nàng nếu có chuyện gì xảy ra thì hãy mặc áo lông ngỗng rắc trên đường đi để ta tìm đến nàng.

    Ngay khi đem được chiếc nỏ thần trở về vua cha lập tức đem quân đánh chiếm Âu Lạc. Vua An Dương Vương không thấy nỏ thần đâu, số quân thiệt hại ngày càng nhiều, thành Cổ Loa thất thủ. Vua liền cưỡi ngựa cùng con gái mình chạy trốn trước. Mị Châu làm đúng như lời ta dặn, cha ta và ta cứ theo dấu vết lông ngỗng mà theo. Khi hết dấu lông ngỗng cũng là lúc ta nhìn thấy nàng nằm trên bờ cát vết chém ở cổ ứa ra những giọt máu đỏ đậm như một nỗi căm phẫn. Ta thương xót ôm nàng vào lòng mà thét lên.

    Sau những ngày tháng mất nàng thì hồn ta cũng như đã chết. Ruột ta đau, lòng ta quặn, ngày qua ngày, tháng qua tháng không ăn không uống. Một hôm nọ ta thẫn thờ đứng trước giếng soi lại mình để thấy tội lỗi mà ta đã dành cho người con gái thương yêu nhất. Ta nhìn thấy nàng, vui vẻ mừng rỡ ta lao xuống ôm nàng vào lòng với tất cả nỗi nhớ và sự hối hận.

    Đóng vai Trọng Thủy kể lại câu chuyện – Mẫu 2

    Tôi là Trọng Thuỷ, con trai vua Triệu Đà ở phương Bắc. Sau khi An Dương Vương, vua nước Âu Lạc xây xong Loa Thành được một thời gian thì cha tôi kéo quân sang đánh chiếm. Vì An Dương Vương có nỏ thần Kim Quy, bắn một phát chết hàng vạn người nên quân lính của cha tôi bại trận, bỏ chạy về Trâu Sơn, không dám đánh nhau nữa. Biết không thể thắng, cha tôi bèn cầu hoà, chờ dịp khác.

    Không bao lâu, cha tôi xin An Dương Vương gả con gái yêu là Mị Châu cho con trai mình. Tưởng cha tôi thực tâm hoà hiếu, An Dương Vương vui lòng nhận lời và còn cho tôi ở rể trong Loa Thành. Trước khi sang Âu Lạc, cha tôi đã dặn dò rất kỹ và trao cho tôi nhiệm vụ phải do thám bằng được bí mật của nỏ thần.

    Lúc đầu, để thuận lợi cho công việc, tôi phải vờ tỏ vẻ yêu mến Mị Châu, nhưng dần dần, trước nhan sắc tuyệt trần và tính tình hiền dịu của nàng, tôi đã say mê từ khi nào chẳng biết. Chúng tôi sống hoà hợp, hạnh phúc bên nhau. Tuy vậy, tôi vẫn không quên việc trọng đại mà cha tôi giao phó.

    Vào một đêm trăng đẹp, tôi dâng rượu quý, cố chuốc cho An Dương Vương uống thật say. Khi mọi người đã ngủ, tôi tỉ tê hỏi Mị Châu về chỗ cất giấu nỏ thần và ngỏ ý muốn được xem tận mắt. Nàng vui vẻ dẫn tôi đi và còn chỉ cho tôi biết nỏ thần thiêng là cái lẫy bằng vuốt Rùa vàng. Tôi ngầm làm một cái lẫy giả giống hệt, thay thế vào đó.

    Lấy được lẫy thần, tôi viện cớ về thăm cha ít lâu. Lúc chia tay, tôi nói với Mị Châu: “Tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa mẹ cha không thể dứt bỏ. Nay ta trở về thăm cha, nếu như đến lúc hai nước thất hoà, Nam Bắc cách biệt, ta muốn tìm nàng, lấy gì làm dấu?”. Mị Châu rơi lệ, ngậm ngùi đáp: “Thiếp phận nữ nhi, nếu gặp cảnh li biệt thì đau đớn khôn xiết. Thiếp có chiếc áo gấm lông ngỗng, thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ rứt lông mà rắc ở ngã ba đường để làm dấu, như vậy sẽ có thể cứu được nhau.”

    Tôi về nước dâng lẫy thần cho cha. Cha tôi mừng lắm, lập tức cất binh sang đánh chiếm Âu Lạc. Đoàn quân đông mấy chục vạn người ầm ầm tiến sát Loa Thành mà không thấy An Dương Vương chống trả. Lúc cha tôi dẫn đầu đạo quân nhằm cửa thành xông tới thì An Dương Vương mới sai mang nỏ thần ra bắn. Thấy nỏ không còn hiệu nghiệm, ông bèn đặt Mị Châu lên lưng ngựa rồi bỏ chạy về phương Nam.

    Tôi cùng một số binh lính cứ theo dấu lông ngỗng mà đuổi. Tới bờ biển thì không thấy bóng dáng An Dương Vương đâu cả, chỉ có xác Mị Châu nằm bên vũng máu, đầu lìa khỏi cổ. Đau đớn khôn cùng, tôi mang xác nàng về an táng ở Loa Thành. Ngày ngày, tôi phủ phục bên mộ nàng mà than khóc, thương tiếc khôn nguôi. Tôi tự trách và giận mình ghê gớm. Vì tôi lừa dối nàng mà nàng vô tình mắc tội tiếp tay kẻ thù, dẫn đến thảm hoạ nhà tan, nước mất. Tội lỗi của tôi là không thể tha thứ. Tôi chỉ có thể lấy cái chết để đền tội mà thôi. Bất chợt tôi nghĩ đến cái giếng trong Loa Thành, nơi tôi và nàng cách đây chưa lâu thường cùng nhau soi bóng.

    Đóng vai Trọng Thủy kể lại câu chuyện – Mẫu 3

    Văn mẫu lớp 10: Đóng vai Trọng Thủy và kể lại truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy

    Lòng ta quặn thắt khi nhìn thấy thi thể nàng, ta đứng lặng hồi lâu nhìn dòng máu đỏ thẫm chảy xuống biển. Ta một kẻ vô tâm đã không nhận ra tình yêu Mị Châu dành cho mình, ta một kẻ mù quáng vì quyền lực. Nàng chết rồi ta biết phải sống sao, cuộc đời ta biết sẽ đi về đâu khi thiếu tình yêu thương, sự quan tâm chăm sóc của nàng. Ta không còn đứng vững nữa, ta ôm xác nàng Mị Châu mà khóc. Ông trời đã trêu đùa tình yêu của ta và nàng quá rồi…

    Ta vẫn còn nhớ ngày vua cha (Triệu Đà) thất bại thảm hại sau đợt tấn công với vua An Dương Vương nước Âu Lạc, khuôn mặt cha sa sầm, ánh mắt bừng bừng giận dữ. Âu Lạc vốn là vùng đất phía Nam đất nước ta, đó là nơi thiên nhiên, sản vật vô cùng phong phú, tốt tươi, thuận tiện giao thương buôn bán. Từ lâu vua cha ta đã muốn chiếm vùng đất đó. Nhưng quân đội Âu Lạc rất tài giỏi, vũ khí tối tân nên nhiều lần cha ta đem quân tấn công mà chỉ nhận về thất bại. Ta là con cả, nhưng cũng không biết làm gì hơn, chỉ biết động viên cha dưỡng sức, luyện tập quân đội chờ đến lần sau.

    Sau mấy ngày, bỗng nhiên cha ta gọi ta vào ngự phòng nói chuyện riêng. Cha yêu cầu ta hãy sang nước Âu Lạc lấy nàng Mị Châu và phải lấy cho bằng được bí mật của đất nước Âu Lạc về đây. Phận làm con lại là bề tôi, ta không thể nào làm trái ý cha. Ta nhận lời mà lòng đầy băn khoăn, bởi ta không biết nàng Mị Châu là ai, ta không yêu nàng sao có thể nên duyên, và liệu ta có thể làm tròn sứ mệnh mà vua cha giao cho.

    Ngày ta và vua cha nhận được lời đồng ý kết duyên của vua An Dương Vương ta và cha vô cùng sung sướng. Ta luôn nghĩ rằng An Dương Vương không quên lòng dạ phương Bắc, luôn hòng chiếm phương Nam nên sẽ không bao giờ đồng ý. Nào ngờ… Vậy là ông trời đã giúp cha con ta một bước. Cha con ta nhanh chóng chuẩn bị lễ vật, cử hành hôn lễ và cũng là để sớm thực hiện âm mưu như đã trù tính trước đó.

    Trước khi sang Âu Lạc ta đã tìm hiểu qua về nàng Mị Châu – vợ tương lai của ta. Nàng là người con gái xinh đẹp, hiền thục, nết na lại là con duy nhất của vua An Dương Vương nên rất được cưng chiều.

    Ngày diễn ra hôn lễ, ai cũng vui mừng, nhất là vua cha ta, bởi kế hoạch của ông đã từng bước thành công. Còn ta lòng nặng trĩu ưu tư và lo lắng, sứ mệnh cao cả đó liệu ta có thể hoàn thành, và sau khi hoàn thành ta biết sẽ phải cư xử ra sao với nàng Mị Châu.

    Sau lễ kết kết hôn ta chính thức trở thành con rể của nước Âu Lạc, theo phong tục nơi đây ta về sống cùng Mị Châu. Nàng là người con gái dịu dàng, nữ tính, trong sáng và vô cùng thơ ngây. Nàng yêu ta, chăm lo cho ta, điều này ta biết rõ, từng ánh mắt, từng lời nàng nói tràn đầy âu yếm và tin yêu. Ta luôn đáp lại nàng bằng sự hời hợt, ta lấy nàng là nhiệm vụ nên yêu nàng cũng chỉ là một công việc. Thực lòng ta chưa bao giờ yêu Mị Châu thật tâm. Chỉ vì lúc ấy ý nghĩ chiếm đoạt bảo vật của Âu Lạc quá lớn đã khiến đầu óc ta lu mờ, ta không ngờ rằng ta đã yêu nàng tự lúc nào không hay.

    Rồi ngày ấy cũng đến, nhân cơ hội An Dương Vương ra ngoài đi săn, ta đã thủ thỉ tâm tình và xin Mị Châu cho xem trộm nỏ thần. Thoáng trên gương mặt nàng ta thấy có sự thay đổi, nàng nhìn thẳng mắt ta rồi vội quay đi ngay. Có lẽ nàng đã nhận ra chăng? Nhưng vì tình yêu với ta quá lớn, nên nàng đã mù quáng mà cho ta xem nỏ thần, mọi việc diễn ra đúng như kế hoạch, ta đã đánh tráo được lẫy nỏ khác thay cho lẫy Rùa Vàng mà Mị Châu không hề hay biết. Xong việc ta nói dối với nàng về thăm cha:

    Đóng vai Trọng Thủy kể truyện An Dương Vương – Mẫu 4

    Tôi là Trọng Thủy – hoàng tử của một đất nước xinh đẹp và luôn được vua cha yêu thương và tin tưởng hết mực. Cạnh bên vương quốc của tôi là một nước Âu Lạc phát triển phồn thịnh nổi danh với thành Cổ Loa vững chắc. Cha tôi vì tham vọng mà dùng mọi cách để cướp nước Âu Lạc và gây ra cho tôi một nỗi đau khổ không thể nào tả được.

    Lần đầu tiên cha tôi đem quân sang đánh thì vua An Dương Vương có một loại vũ khí thần kì bắn một phát thì có hàng ngàn mũi tên bay ra. Thế là cha tôi thất bại nhưng ý định cướp nước Âu Lạc vẫn luôn nhen nhún trong người ông và ngày càng phát triển lớn mạnh như một ngọn lửa bùng cháy, sôi sục. Sau vài ngày suy nghĩ, vua cha gọi tôi đến và bảo tôi đi ở rể cho vua An Dương Vương. Tôi quá bất ngờ vì điều này nhưng sau khi nắm rõ “ý đồ” của cha thì tôi đã tuân lệnh làm theo.

    Cha cùng tôi sang nước Âu Lạc xin hòa và muốn tỏ thành ý kết bang giao hai nước. Thế là vua An Dương Vương đã chấp nhận và từ đó tôi phải rời xa quê hương để đi ở rể. Vợ của tôi đó là Mị Châu – Công chúa nước Âu Lạc. Mị Châu xinh đẹp tuyệt trần, quả giống như tên của nàng là một viên ngọc lung linh cao quý nhưng vẫn có những lúc nhẹ nhàng, trong sáng. Qua những ngày tháng sống bên Mị Châu, với cái tính tình dễ thương kia thì trái tim tôi đây có vẻ như đã rung động trước nàng. Nhưng tôi đây còn mạng trọng trách bên mình, lời cha khó cãi, tôi đành chôn giấu tình cảm ấy mà làm theo lời cha. Một hôm khi đang cùng Mị Châu đi dạo vườn Ngự quyển thì tôi thấy có một tảng đá xem có vẻ kì lạ nên tôi nghi ngờ. nỏ thần đang được cất giấu trong ấy. Tối hôm ấy, tôi không sao ngủ được, tôi biết rằng, sáng mai đây tôi phải dùng lời ngon ngọt để dỗ dành người vợ thân yêu cho mình xem trộm bí mật. Ta biết là có lỗi với nàng nhưng Mị Châu ơi nàng tha lỗi cho ta, ta không thể vì tình cảm cá nhân mà làm hỏng việc lớn của vua cha giao cho. Lúc này trái tim tôi như thắt lại, cõi lòng tôi như tê tái, nhưng thôi hãy cố thực hiện xong nhiệm vụ rồi mới nhìn đến chuyện vợ chồng.

    Sáng hôm sau, tôi rũ Mị Châu ra vườn bắt bướm, ngắm hoa. Mị Châu thích lắm, nàng cười tươi như hoa, rạng rỡ trước ánh ban mai ấm áp. Tôi và Mị Châu đuổi bắt nhau khắp khu vườn. Tôi cố tình chạy đến bên hòn đá kia và vấp té. Nàng chạy lại và lo lắng cho tôi vô cùng. Trong lúc Mị Châu không để ý tôi lấy tay thử gõ vào mặt đá thì quả thật bên trong là một cơ quan bí mật. Tôi cố giả vờ như không biết gì và tìm cách hỏi Mị Châu về hòn đá kì lạ này. Sau một lúc nói chuyện Mị Châu đã cho tôi biết nỏ thần đã được giấu bên trong. Với gương mặt và thái độ tò mò như thật của tôi đã làm Mị Châu tin và đưa tôi vào đây xem nỏ thần. Đúng là một loại vũ khí thần kì nên luôn được cất giữ rất kín đáo để che mắt mọi người, chỉ có những người lân cận của vua mới biết được cách vào. Mị Châu đi lại bên tảng đá nhìn xuống chậu hoa Tường Vi đang nở rộ. Nàng nhẹ nhàng dùng tay xoay chậu hoa sang phải một vòng, bên trái một vòng, bổng tảng đá dịch chuyển mở ra bên trong một hang động u tối. Tôi và Mị châu đi đến nơi cất giữ nỏ thần, tôi nhìn rõ đến từng chi tiết một, con mắt tôi như muốn dán vào đấy. Tôi diện cớ chân lại đau và cùng Mị Châu quay lại tẩm cung. Tôi âm thầm sai người làm giả một cái nỏ giống hệt như vậy và đánh tráo nỏ thần. Vào đêm hôm trước khi lên đường giao nỏ thần cho cha tôi, tôi và Mị Châu đã tâm sự với nhau đến khuya, tôi lấy đôi mắt nhẹ nhàng âu yếm nhìn người vợ xinh đẹp đáng thương mà hỏi:

    Đóng vai Trọng Thủy kể truyện An Dương Vương – Mẫu 5

    Văn mẫu lớp 10: Đóng vai Trọng Thủy và kể lại truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy

    Sau khi xin hòa với vua An Dương Vương, cha ta đã rất tức giận và nuôi lòng hận trù chờ cơ hội để sang xâm lược thêm một lần nữa. Có lẽ ông ấy nhất quyết phải chiếm được Âu Lạc mới hả dạ. Ta đã làm tròn nghĩa vụ của một người con với cha, của một hoàng tử với đất nước, nhưng ta đã mất đi người vợ thủy chung và yêu thương ta hết mực. Mị Châu, ta thật có lỗi với nàng. Ta không xứng đáng để được nàng gọi là chồng nữa.

    Chỉ vì lòng tham muốn chiếm được Âu Lạc, cha ta đã lập âm mưu lấy trộm chiếc nỏ thần để đánh gục vua An Dương Vương. Chiếc nỏ ấy do Rùa Vàng tặng cho vua sau khi giúp ngài xây thành Cổ Loa để bảo vệ đất nước. Vua cha ta đã đem quân sang xâm chiếm Âu Lạc, bị vua An Dương Vương dùng nỏ thần đánh lại, quân lính và binh sĩ tan tác, thu to, đành phải cầu hòa. Ít lâu sau, cha đã đưa ta đến cầu hôn Mị Châu – con gái vua nước Âu Lạc. Phận làm con ta phải nghe lời cha, dù trong lòng cũng có phần áy náy, nhưng làm sao ta có thể tạo phản được. Vua An Dương Vương không chút nghi ngờ, gả người con gái mà mình hết mực yêu thương cho con trai của kẻ đã từng xâm chiếm nước mình. Lễ cưới đã diễn ra, vua An Dương Vương nghĩ rằng từ nay mối quan hệ giữa hai nước sẽ trở nên thân thiết hơn, và không có chuyện xâm lấn xảy ra nữa. Về phần Mị Châu, Nàng thật hiền dịu, nết na, xinh đẹp, lại yêu thương ta thật lòng. Ta không nỡ lừa dối nàng. Nhưng lệnh vua cha đã giao. Ta buộc phải tìm mọi cách để Mị Châu cho xem trộm chiếc nỏ thần của vua An Dương Vương. Đúng như kế hoạch, cha ta đã sai người làm một chiếc nỏ giống y đúc chiếc nỏ thần để ta tráo đổi. Vua An Dương Vương và Mị Châu không hề hay biết.

    Năm ấy, cha ta đem quân xâm chiếm Âu Lạc một lần nữa. Vua An Dương Vương chủ quan, cậy có chiếc nỏ thần nên vẫn ung dung không hề lo lắng. Nhưng còn đâu chiếc nỏ thần nữa. Khi phát hiện ra chiếc nỏ giả thì đã quá muộn. Vua đành phải dẫn theo Mị Châu chạy trốn. Theo đúng lời hẹn ước lúc trước, Mị Châu đã rắc lông ngỗng ở mỗi đoạn đường rẽ để làm dấu cho ta tìm theo. Nào ngờ, tới bờ biển, rùa vàng ngoi lên thét lớn: “Kẻ nào ngồi sau ngựa, chính là giặc đó”. Ngay lập tức, vua An Dương Vương vung kiếm giết chết Mị Châu. Có nỗi đau nào khi chính tay mình phải giết đứa con gái mà mình hết mực yêu thương? Lỗi là tại ta. Ta đã phụ lòng nàng. Mị Châu chết, máu nàng chảy xuống biển, trai sò ăn phải đều biến thành ngọc đúng như lời nàng đã thề nguyền trước lúc chết. Thật tội nghiệp cho người con gái dịu dàng, nết na và chung thủy nghĩa tình. Nàng không có tôi. Chính ta là người đã gây nên cái chết bi thảm cho nàng. Ta sẽ chôn xác nàng bên cạnh Loa Thành. Dù cuộc hôn nhân này do cha ta sắp đặt, nhưng nàng là một người con gái rất tuyệt vời, nàng đã yêu thương ta thật lòng. Vậy mà ta lại dối lừa nàng, khiến nàng phải chịu kết cục bi thương này. Hình bóng nàng lúc nào cũng quẩn quanh hiện hữu trước mắt ta. Làm sao có thể cho nàng sống lại được nữa để ta chuộc lỗi với nàng đây?

    Có lẽ, nàng đang ở dưới giếng sâu kia, ta sẽ đến với nàng, để thực hiện tình nghĩa phu thê với nàng, không phụ lòng nàng đã chung thủy với ta. Ta nhảy xuống giếng, xác ta đã chết, nhưng linh hồn vẫn còn đây. Ta gặp lại Mị Châu trong hình hài của những viên ngọc trai. Nàng sáng và đẹp lấp lánh. Ta nguyện làm nước giếng này để rửa sạch nỗi oan cay đắng cho nàng.

    Đóng vai Trọng Thủy kể truyện An Dương Vương – Mẫu 6

    Trong lòng ta thật sự đang rất rối loạn. Từng tiếng vó ngựa vang như từng nhát đao lớn sắc lẹm cứa vào tâm trí. Vốn là một hoàng tử của vùng đất Hải Nam, nơi vua cha ta – Triệu Đà – ngự trị, ta chưa từng trải qua cảm giác này bao giờ. Trọng Thuỷ – ta – đang lần theo dấu lông ngỗng trên áo nàng…

    Chuyện bắt đầu từ khi vua cha quyết định đem quân xâm lược Âu Lạc. Âu Lạc vốn là một vùng đất trù phú mà cha và ta để ý từ lâu. Như ta được biết thì vua nước này là An Dương Vương. Ông đã dời thành từ vùng núi hiểm trở xuống đồng bằng đất đai màu mỡ. Ta đương nhiên ủng hộ quyết định của vua cha. Kể từ khi Âu lạc xây xong thành Cổ Loa, vị trí nằm gọn trong đồng bằng vốn xanh tươi, thuận tiện phát triển, nay càng dễ dàng đổ bộ quân mình xuống đó. Chắc chắn thương vong sẽ ít hơn khi đánh ở miền đồi núi gập ghềnh. Và thế là cha lên đường ngay mà không chần chừ.

    Tuy nhiên, sự việc không thành công như mong đợi. Bên phía Âu Lạc, vua An Dương Vương đã sử dụng một thứ vũ khí mạnh vượt tầm suy đoán của bên ta. Cha ta giao chiến chẳng bao lâu thì thua lớn, phải rút về Trâu Sơn, đắp lũy nhưng không dám manh động đối chiến. Trước cái nỏ với sức công phá cực kì lớn, quân ta phải xin hoà. Liên tục mấy ngày sau thất bại, vua cha quả thật ăn không ngon, ngủ không yên. Lòng ta cũng nặng trịch khi vua cha cứ nhíu mày mãi. Nhiều đêm liên tiếp, ta thấy đèn bên phòng cha vẫn bập bùng sáng. Cha hao tâm tổn sức nhiều như vậy, ta có khuyên người giữ gìn sức khoẻ bao nhiêu, người cũng chỉ gật đầu cho qua… Cho đến một ngày, cha đưa ra một quyết định khiến ta không khỏi trăn trở.

    Cha muốn có một cuộc hôn nhân hữu nghị giữa hai nước. Chính ta sẽ là người lấy công chúa Âu Lạc, thậm chí ta phải sang đó ở hẳn một thời gian. Trở về phòng sau khi bàn chuyện với cha, ta ngồi xuống, nhắm mắt lại. Liệu cái cảm giác bấy giờ là đang vui hay đang buồn? Ta trầm ngâm hay ta đang rạo rực… Trước giờ chỉ mải mê lâm trận, trăm phương ngàn kế dốc sức đem về chiến thắng khiến vua cha vui lòng. Nay lại phải thành thân để tính toán của cha được trọn vẹn… Cả đêm ấy ta không thể chợp mắt nổi. Ta có quá nhiều câu hỏi, suy đoán: “Nàng là ai? Nàng như thế nào? Liệu ta làm như lời cha thì nàng sẽ phản ứng ra sao? Liệu sau này khi mọi chuyện đã thành thì mối quan hệ này sẽ đi về đâu? Nhưng không! Ta đã vội vàng rồi. Liệu An Dương Vương có đồng ý cuộc hôn nhân này không mới là điều đáng lo trước tiên. Nếu ông ta không đồng ý, mọi việc không trót lọt… Mà nếu ông ta ưng thuận thì bước tiếp theo sẽ phải làm gì?…”

    Những suy nghĩ, tính toán cứ đè nặng tâm trí ta cho đến ngày ta cùng cha đem sính lễ sang Âu Lạc và nhận được sự chấp thuận nhanh chóng của vua An Dương Vương. Ta lấy thật sự bất ngờ trước thái độ bình thản đến vô tư của vua nước Âu Lạc. Ông đã quên cha và ta là ai rồi sao? Ông cười thoải mái. Ông đã quên ý định muốn xâm chiếm Âu Lạc của cha và ta rồi sao? Ông niềm nở tiếp đón, thậm chí cha mới chỉ ngỏ ý, ông như đã hiểu ra, đồng ý gật đầu ngay. Ông đã quên cha và ta có tham vọng lớn như thế nào rồi sao? Chẳng chút đề phòng, ông gọi ngay con gái ra. Ông đã rất điềm tĩnh. Ông đang tự tin ư?… Dòng suy nghĩ của ta bỗng nghẹn lại. Bao suy tính chồng chéo, bao thấp thỏm lo âu, bao cá nhíu mày nặng nề của ta như tiêu tan trước vẻ đẹp của nàng. Một vẻ đẹp dịu dàng, thanh nhã, thoát tục.

    – Mị Châu, bái kiến Triệu Vương và Trọng Thuỷ hoàng tử. – Vua An Dương Vương cười lớn, thoải mái nói.

    – Dạ… – Giọng nói thật trong vang lên.

    Giọng nói ấy sao mà mềm mại đến thế. Dường như nàng chỉ cần cất lời lên đã đủ ru nhẹ tâm hồn ta vậy. Mị Châu, tên nàng thật đẹp, thật mỏng manh, yêu kiều. Còn nàng, nàng vận bộ áo hồng phớt như cánh hoa chớm nở còn e ấp, thẹn thùng, nhẹ nhàng mà thơm đến mê say. Ôi không! Ta thật là…! Ta đã quá đắm chìm trong vẻ đẹp ấy. Mặt ta nóng bừng khi nàng tới gần. Đó là giờ khắc ta thật sự hiểu lời truyền trong thiên hạ, thật sự hiểu thế nào là “anh hùng không qua nổi ải mĩ nhân”. Ta thấy Mị Châu khẽ mỉm cười. Nụ cười ấy sao mà đẹp đến thế! Ôi không! Ta lại mất cảnh giác rồi!…

    Hôn lễ giữa nàng và ta nhanh chóng được tổ chức. Giờ phút được vận bộ hỉ phục đỏ thắm, lòng ta bỗng nhen lên chút mãn nguyện ngọt ngào, như mừng vui, như say đắm lại thấp thỏm, lo âu không đoán được cảm xúc, suy nghĩ của nàng qua ánh mắt long lanh. Rồi cuộc sống sau này sẽ ra sao? Liệu ta có hoàn thành được nhiệm vụ quan trọng ấy?…

    Dần dần, ta nhận ra Mị Châu ngây thơ hơn ta tưởng rất nhiều, so với ta, một lòng đầy toan tính… Ở lại Cổ Loa một thời gian, phải chăng ta quen dần với giọng nói trong như ngọc của nàng, quen dần với nụ cười ngây ngốc đến đáng yêu, quen với cách nàng chăm sóc ta, quen với những cử chỉ yêu thương đằm thắm, quen với sự chân thật của nàng… Ta thật sự, thật sự đã coi nàng như một phần không thể thiếu của mình. Xa một chút đã nhớ, ở gần lại càng muốn trân trọng, nâng niu… Ta vốn ở đây vì toan tính của cha, vì tham vọng của cha, thân phận là một hoàng tử, ta muốn lập công lớn báo đáp quốc gia… Vậy mà giờ lại yêu thương nàng…

    Thế rồi thời khắc đã đến! Mục đích mà cha muốn đưa ta vào cuộc hôn nhân này cuối cùng cũng sắp chín muồi. Cảm nhận được tình yêu vô điều kiện của Mị Châu, ta hiểu đã đến lúc nàng nguyện trao cho ta tất cả. Cho dù có là bí mật quốc gia! Cho dù nàng có là phận công chúa cao quý, là công chúa của Âu Lạc hùng mạnh. Ta ngỏ ý với nàng rằng ta muốn xem vũ khí thần thông quảng đại mà đã khiến Âu Lạc thắng nước ta khi xưa. Và đúng như cha dự tính, mọi việc đâu vào đó cứ thế diễn ra. Ta ngầm làm một lẫy nỏ khác thay thế rồi đem nỏ thần về. Chiếc nỏ với vuốt của Rùa Vàng, chiếc nỏ chứa bí mật quốc gia cuối cùng cũng nằm trong tay ta. Ta nhanh chóng đem nỏ giả trả cho Mị Châu, cất vào chỗ cũ rồi nói dối nàng ta phải về phương Bắc thăm cha. Ánh mắt gợn nước của nàng chớp nhẹ rồi cụp xuống. Nàng buồn khi xa ta. Ta bỗng chần chừ, bâng khuâng, không biết nên làm gì, nên nói gì trước ánh mất ấy. Đáng lẽ ra nàng không nên biết về cuộc tấn công bất ngờ. Đáng lẽ ta nên bỏ mặc nàng và về ngay báo tin cho cha ta rằng đã hoàn thanh nhiệm vụ, nhưng… Mãi lâu sau, ta mới chua xót nói:

    – Tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa mẹ cha không thể dứt bỏ. Ta nay trở về thăm cha, nếu như đến lúc hai nước thất hoà, Bắc Nam cách biệt, ta lại tìm nàng, lấy gì làm dấu?

    Nàng khẽ đáp:

    – Thiếp phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt li thì đau đớn khôn xiết. Thiếp có áo gấm lông ngỗng thường mặc trên mình, đi đến đâu cũng sẽ dứt lông mà rắc ở ngã ba đường mà làm dấu, như vậy có thể cứu được nhau.”

    Và giờ ta đang lần theo dấu lông ngỗng đó. An Dương Vương chủ quan, ỷ lại nỏ thần nên đã mất nước vào tay vua cha. So với cái đắc ý, thản nhiên khi trước có lẽ bây giờ đang phi nước đại đưa Mị Châu đi trốn. Mị Châu… Nàng giờ ra sao rồi? Những ngày vắng ta, nàng có ăn ngon, ngủ đủ, có lần nào bỏ bữa vì không có ta ăn cùng? Nàng giờ có an toàn không? Vua An Dương Vương định đưa nàng đi đâu? Mắt ta đau đáu nhìn xuống ngã ba đường lần theo dấu lông ngỗng. Phải, ta có mừng. Mừng vì giúp vua cha chiếm được Âu Lạc. Nhưng ta lo lắng nhiều hơn. Ta lo cho một người còn ngây thơ lắm, còn chưa biết bảo vệ bản thân. Liệu rằng Mị châu có buồn vì nước mất, hối hận vì đã đưa ta lẫy nỏ?… Thế rồi, một màu đỏ tang thương hiện ra trước mắt.

    – Mị Châu!

    Ta gọi, ta lớn giọng dần lên. Rồi ta gào lên. Nhưng nàng vẫn nằm đó… Mị Châu của ta! Nàng đã bị ai chém… Ta vội nhảy xuống khỏi ngựa. Mắt ta mờ đi. Ta đã làm gì? Ta ôm chặt lấy cơ thể lạnh lẽo của nàng.

    – Ta không tin! Không tin! Mị Châu, tỉnh lại đi! Tỉnh dậy đi Mị Châu! Ta đây! Ta về rồi đây. Tỉnh lại đi Mị Châu!…”

    Hôm đó, cái tên Mị Châu không biết đã được ta gọi lên bao nhiêu lần, hét lên bao nhiêu lần. Ta cứ ngồi đó, ôm nàng, lay nàng, cố ngăn nước mắt tràn ra nhưng bất lực, làm loang lổ màu đỏ trước mắt. Ta đem nàng về hoả táng ở Loa Thành, xác nàng bỗng biến thành ngọc thạch. Rõ ràng cha đã nắm trong tay Âu Lạc. Ta lại là hoàng tử lập công lớn. Ta vui còn không xuể. Nhưng ta vui thật sao? Ta ngàn vạn lần muốn chứng minh cho Mị châu thấy ta bị kẹt giữa đại sự đất nước với hạnh phúc cá nhân như thế nào. Ta tiến thoái lưỡng nan, nàng có thấu hiểu? Nhưng nàng đã xa ta. Giọng nói nhỏ nhẹ của nàng, tiếng cười e thẹn còn văng vẳng bên tai ta… Nhiều đêm sau, ta không sao yên lòng. Hễ mở mắt lại muốn kiếm tìm xung quanh hình bóng của nàng. Hễ nhắm mắt lại mường tượng nàng đang gần bên, làn môi mềm, bờ vai mảnh khảnh… Ta nhớ nàng…

    Lâu sau, đến một ngày, hình bóng Mị Châu hiện lên dưới làn nước trong giếng sâu trong thành. Ta đưa tay ra, nó lại biến mất. Ta khao khát chạm vào bờ má hồng, bóng nàng lại trôi xa… Ta chẳng thiết gì nữa, cứ thế lao đầu xuống giếng. Trước khi mất hoàn toàn ý thức, ta còn nghe loáng thoáng tiếng nháo nhác của các công công: “Hoàng tử! Hoàng tử…!” Ta mặc kệ. Thế rồi ta thấy nàng…

    Đóng vai Trọng Thủy kể truyện An Dương Vương – Mẫu 7

    Tôi là Trọng Thủy, con trai của Triệu Đà. Ngày xưa sau khi thua trận An Dương Vương, cha tôi tức lắm, lấy lòng oán hận, căm thù và tìm mọi cách trả thù. Cha tôi xin hòa bằng cách ngỏ ý cầu hồn với Mị Châu – con gái vua An Dương Vương.

    Dụng ý của cha tôi là sẽ dùng tôi làm mật thám trong việc đánh chiếm nước Nam để rửa hận ngày xưa. Ngay khi vua An Dương Vương chấp thuận điều nghị hòa và bằng lòng nhận lời cầu hôn của tôi. Cha tôi lấy làm mừng biết bao.

    Cưới nàng về, vợ chồng hay tâm sự. Thế là một hôm, trong lúc hàn huyên, tôi cố tình dò hỏi Mị Châu kể lại cho mình nghe chuyện xây thành Cổ-Loa và chiếc nỏ thần. Chuyện là thế này:

    Thời cha nàng – vua An Dương Vương, dân chúng xây thành Cổ Loa ngăn chặn giặc phương Bắc. Xây mãi không xong, nhà vua bèn lập đàn cầu tế.Trong lúc đó, một vị thần hiện ra dưới bóng con rùa vàng – gọi là thần Kim Quy- và dạy ông cách xây thành. Thành xây xong, thần Kim Quy còn tặng nhà vua chiếc nỏ thần để bắn địch. Kì lạ thay, mũi tên bắn đến đâu là chết cả trăm, cả vạn tên địch, nhờ đó mà năm xưa dân phương Nam có thể thắng được giặc phương Bắc.

    Tôi tò mò và hứng thú đòi vợ cho xem nỏ thần, xem xong, tôi hí hửng đem chuyện về kể cho cha nghe. Cha dặn dò tôi nhất định phải lấy được chiếc nỏ thần và tráo vào đó chiếc khác.

    Một hôm, nhân lúc nàng Mị Châu sơ ý, tôi lấy trộm chiếc nỏ thần và thay một chiếc giả vào đó, rồi xin phép vua cha An Dương Vương về phương Bắc thăm cha mẹ.

    Lúc ra đi, tôi căn dặn vợ:

    – Trong lúc ta vắng nhà, nếu có chiến tranh nàng hãy mặc áo lông ngỗng vào. Khi chạy giặc, nàng đừng quên rắc lông ngỗng xuống đường. Ta sẽ theo vết lông ngỗng đi tìm nàng.

    Về tới nhà, tôi liền giao chiếc nỏ thần cho cha. Nắm được chiếc nỏ thần trong tay, cha tôi lập tức kéo quân sang đánh nước Nam. Thấy giặc kéo đến, An Dương Vương không tỏ vẻ sợ hãi, bình tĩnh lấy nỏ thần ra bắn. Nhưng lạ thay, đoàn giặc vẫn ào ào xông tới trước mặc dù các mũi tên bắn ra. Nỏ thần đã trở thành vô hiệu. Hoảng sợ, nhà vua bèn ôm Mị Châu lên sau yên ngựa chạy trốn về hướng Nam. Mị Châu ngồi sau yên ngựa, rứt lông ngỗng rắc xuống đường. Nhà vua chạy đến đâu, giặc theo vết lông ngỗng rượt theo đến đó.

    Đến núi Mộ Dạ cụt đường, vua An Dương Vương định tự tử thì thần Kim Quy hiện lên bảo:

    – Tâu bệ hạ, giặc ngồi ngay sau lưng nhà vua đấy!

    An Dương Vương quay lại, thấy Mị Châu, hiểu ra sự việc, bèn tức giận rút gươm chém chết con gái. Sau đó, nhà vua phi ngựa nhảy xuống biển tự tử.

    Theo dấu lông ngỗng, tôi tới được chân núi Mộ Dạ thì thấy Mị Châu chỉ còn là một xác không hồn.

    Quá hối hận về việc mình đã làm, tôi ôm xác vợ khóc nức nở, rồi gieo mình xuống một giếng gần đó.

    Hiện nay gần thành Cổ Loa, giếng đó vẫn còn. Khách bộ hành đi qua dừng chân nhìn xuống đáy giếng nước trong veo, không khỏi bùi ngùi nhớ lại câu chuyện thương tâm của cặp vợ chồng Mị Châu – Trọng Thuỷ

    An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy là truyền thuyết đẹp của người xưa với chủ đề dựng nước và giữ nước, để lại cho đời sau bài học cảnh giác chính trị sâu sắc và thấm thía. Dân gian ta có câu:

    “Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu
    Trái tim nhầm chỗ để trên đầu
    Nỏ thần vô ý trao tay giặc
    Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu”.

    Trong vai Trọng Thủy kể truyện An Dương Vương – Mẫu 8

    Chìm đắm trong sự nuối tiếc hối hận muộn màng Trọng Thủy. Tôi – người đã nội gián giúp vua cha Triều Đà xâm chiếm Âu Lạc, người đã khiến người vợ yêu dấu của mình Mị Châu bị chính cha ruột giết chết vẫn ngày đêm nghĩ về nàng. Chính vì vậy, khi tôi đi ra giếng mà Mị Châu hay tắm nhìn thấy bóng nàng mà lao xuống giếng sâu để rồi mong sau này gặp được Mị Châu trong sự đau thương bi ai dưới thủy cung lộng lẫy đẹp vô ngần.

    Tưởng chừng đây vẫn là nơi đáy giếng sâu lạnh lẽo nhưng khi tôi mở mắt lại thấy một thế giới khác đẹp đẽ lung linh kì lạ mà tôi từng biết, chưa từng nhìn qua. Đang trong sự hoang mang hơi bất ổn của mình bỗng nhiên có một vị thần cá đến nói với tôi.

    Long Vương chính vì thấu hiểu tấm lòng ngài luôn luôn nghĩ tốt Mị Châu nên đã đưa ngài đến đây. Mời ngài theo ta đến thủy cung.

    Đến bây giờ tôi mới hiểu ra thì ra đây là thủy cung và Mị Châu – nàng ấy đang ở đây ta có thể gặp lại nàng có thể giải thích nỗi lòng mình cho nàng hiểu. Trên lưng thần cá tôi vượt qua những rặng san hô hùng vĩ nhiều màu sắc lung linh tuyệt đẹp vô cùng. Mọi vật không ngừng hoạt động từng đàn cá khổng lồ bơi lượn tạo thành những dòng sóng ngầm dưới đáy đại dương, đâu đó dưới đáy kia là những con cá đuối, cua tôm chậm rãi kiếm mồi thật sống động. Nhưng hơn hết một kệu đài nguy nga lộng lẫy đang dần hiện ra trước mắt tôi người người tấp nập như đang chuẩn bị hội tiệc linh đình. Theo sau thần cá tôi vào gặp Long Vương cảm tạ người ơn cứu mạng rồi đi xung quanh trốn kiếm hình bóng người con gái trong lòng bấy lâu.

    Dạo bước một lúc xung quanh thủy cung bất chợt tôi lại xúc động trước bóng hình người con gái đẹp sắc kia. Nàng trông vẫn vậy vẫn đẹp vô ngần nhưng phần nào không còn ngây thơ trong sáng nữa mà là sự thận trọng già dặn hơn. Cũng phải thôi là tại tôi khiến nàng có cảnh nước mất nhà tan. Nàng hình như nhìn thấy ta đi liền đi đến lại gần giọng chua ngoa.

    Không phải người hưởng vinh quang phú quý trên kia hay sao khi đã cướp mất nước ta khiến cho ta thành kẻ bất hiếu bất trung hay sao.

    Lời nói của nàng thật cay nghiệt làm sao như những mũi dao ghim vào lòng ta vậy. Nhưng cũng đúng thôi bởi ta là kẻ tạo phản ta là nội gián, cướp đi hạnh phúc của nàng. Dù sao ta cũng là chồng nàng người chung chăn chung gối suốt bấy lâu người mà nàng yêu thương mà tôi liền cất lời.

    Mị Châu xin nàng hãy tha lỗi cho ta xin nàng hãy trở về bên ta cùng ta sống một cuộc sống hạnh phúc ở dưới này. Chẳng phải ta và nàng có bao nhiêu kỉ niệm vợ chồng hay sao, chả phải tình yêu ta trao nàng to lớn biết chừng nào. Nàng mất đi ta không ngày nào không nghĩ đến nàng, không giây nào chưa từng hối hận nuối tiếc về ngày sai lầm ấy.

    Nói đến đây, Mị Châu cũng rơi nước mắt ta biết nàng vẫn còn thương ta vẫn còn nhớ đến ta, nói giọng oán trách.

    Vậy ta sao chàng lại lừa dối thiếp lại lợi dụng lòng tin mà thiếp trao cho chàng.

    Ta vội vàng giải thích

    Đúng là khi xưa ta đã từng đến Âu Lạc chỉ vì mục đích là nội gián tìm hiểu nguyên nhân mà tại sao nước ta lại không đánh thắng nước nàng. Nhưng rồi khi ở cùng nàng ta đã bị tấm lòng trong sáng của nàng cảm hóa ta day dứt vô cùng. Một bên là trách nhiệm với đất nước một bên là nạn nhân ta phải chọn gì đây. Sau khi trộm được nỏ thần nước ta đánh thắng nhưng thực sự lòng ta chưa một giây nào vui sướng nàng có biết không? Nàng hãy hiểu cho ta hãy tha thứ cho ta để hai ta được trở về xưa cũ.

    Mị Châu vẫn không ngừng khóc tôi cũng vậy nắm lấy tay nàng mong nàng tha thứ, trái tim tôi đã đau dứt khi thấy nàng khổ tâm như vậy mong chờ vào câu trả lời của nàng.

    Thiếp hiểu được lòng chàng rồi, thiếp biết được nỗi day dứt trong lòng chàng. Nhưng chàng ơi! hạnh phúc đã trôi qua thì không thể nào lấy lại được bởi thời gian nó là vĩnh cửu nó là thứ đáng sợ khủng khiếp. Cũng như lỗi lầm mà thiếp đã gây ra cho đất nước Âu Lạc. Bây giờ thiếp tự cho mình hạnh phúc cùng chàng. Vậy còn nhân dân bách tính Âu Lạc thì sao, ai sẽ cho họ. Mong chàng đừng mong chờ thiếp nữa, thiếp xin lỗi chàng.

    Trái tim ta lại rỉ máu lại đau đớn khi cánh tay nàng đã rút hình bóng nàng lại càng xa nhưng ta hét lên nói với nàng lần cuối cùng.

    Mị Châu đời đời kiếp kiếp ta vẫn yêu nàng. Đợi kiếp sau ta và nàng sẽ không phải hoàng tử hay công chúa, không phải người phương Bắc và người phương Nam nữa mà sẽ là những con người bình thường ta sẽ đến tìm nàng cùng nàng sống nốt hạnh phúc dở dang này.

    Cứ thế chúng tôi chia tay nhau tôi biết rằng cả hai cùng hướng tới ước mơ gặp lại nhau đó mong rằng nước biển mặn mà xanh đẹp này sẽ xóa nhòa cuốn đi những sai lầm mất mát này của tôi cuốn đi sự đau thương, vết máu lòng này. Rồi như thế tôi đã chết đi hóa đá nằm sâu thẳm dưới lòng đại dương này nhưng tấm lòng nguyện ước ấy không phai nhòa.

    Tình yêu chính là liều thuốc hạnh phúc của con người là tình cảm mà không ai có thể thiếu. Ai ai cũng đều mong mình được sống trong hạnh phúc cùng người mình yêu thương nhưng không phải ai cũng có thể không phải tình yêu nào cũng chấp nhận. Đôi lúc ta cần phải biết hi sinh vì tập thể tránh để như Mị Châu ” trái tim lầm lỡ để trên đầu” để rồi nước mất nhà tan gây bao đau thương cho cả dân tộc. Đồng thời cũng cần phải thận trọng tránh cả tin nếu không kết quả chỉ có bi thương đau khổ mà thôi.

    Đóng vai Trọng Thủy kể về cuộc sống dưới thủy cung sau khi gặp Mị Châu

    Sau khi biết được người vợ thân yêu của mình đã phải chết bi thảm. Trọng Thủy vô cùng đau khổ, dằn vặt và hối hận vì mình đã gây ra cái chết của Mị Châu. Suốt ngày, chàng thẫn thờ, ngẩn ngơ như người mất hồn. Rồi một hôm, chàng như thấy bóng dáng Mị Châu thấp thoáng trong làn nước giếng Loa Thành nên đã lao đầu xuống giếng mà chết.

    Giếng Loa Thành nổi tiếng là sâu nên Trọng Thủy rơi mãi mà không chạm đáy. Khi rơi xuống, Trọng Thủy đã bị va đầu vào đá, chảy nhiều máu và bất tỉnh, không còn biết gì nữa. Khi Trọng Thủy tỉnh dậy, chàng thấy mình đang ở một nơi rất lạ. Chàng con đang ngồi băn khoăn không hiểu chuyện gì xảy ra thì thấy có một con cá chép vàng to đi thẳng bằng đuôi, hai vây của nó cầm giáo trông rất kì lạ. Con cá tiến lại gần và cất tiếng nói:

    – Thưa! Long Vương chúng tôi thấy xác ngài trôi dạt đến tận ngoài biển Đông này, đã thương tình vẩy nước thần cho ngài sống lại. Nay ngài khỏe lại, Long Vương có lời mời ngài đến gặp mặt.

    Trọng Thủy đáp ngay:

    – Ổ! Ra là vậy! Ta đang băn khoăn không biết mình đang ở đâu. Được rồi, ngươi hãy dẫn ta đến diện kiến Long Vương.

    Thế là cá chép vàng dẫn chàng đi đến chỗ Long Vương. Trước mặt chàng là một thế giới rộng lớn, xung quanh là nước với những loại tảo biển, san hô và các loại sinh vật tuyệt đẹp nơi biển cả, mà chàng chưa bao giờ được thấy. Có những đàn cá nối đuôi nhau, vui đùa nhảy múa…Đến diện kiến Long Vương, Trọng Thủy cám ơn Long Vương về ơn cứu mạng. Chàng cũng bày tỏ nỗi lòng mình và thỉnh cầu được gặp Mị Châu. Thấu hiểu được nỗi lòng của Trọng Thủy, Long Vương khéo léo sắp xếp cho chàng gặp Mị Châu. Vậy là họ đã được gặp nhau. Trọng Thủy chạy lại nắm tay Mị Châu. Nàng rất đỗi bất ngờ khi thấy Trọng Thủy đến tìm gặp mình. Tim nàng thổn thức. Đứng trước mặt Trọng Thủy, Mị Châu rất muốn được ôm lấy chàng. Nhưng rồi, nàng cố nén lòng, bình thản gạt tay Trọng Thủy ra:

    – Người kia! Người đã xuất sắc hoàn thành nhiệm vụ giúp Triệu Đà thôn tính nước Âu Lạc, sao không ở trên đó hưởng cuộc sống vinh hoa phú quý mà lại xuống tìm gặp ta làm gì?

    Từng câu, từng chữ trong lời nói đanh thép của Mị Châu như từng vết dao cứa vào lòng Trọng Thủy khiến trái tim chàng đau nhói. Đau khổ, chàng cất tiếng:

    – Ôi Mị Châu yêu dấu! Sao nàng lại có thể phũ phàng đến thế. Ta biết ta sai, ta rất hối hận và dằn vặt bản thân mình. Nhưng xin nàng hãy hiểu cho tình cảm của ta đối với nàng, xin nàng hãy tha thứ cho ta.

    Mị Châu đang rất khổ tâm, con tim nàng như bị giằng xé. Nàng rất muốn tha thứ cho Trọng Thủy, nhưng nàng lại nhớ đến tội bất trung với nước, bất hiếu với cha mà mình đã gây ra, Mị Châu cất tiếng hỏi:

    – Cớ sao chàng lại nhẫn tâm lừa dối ta khiến ta đau khổ? Ta thật ngây dại, vì tình yêu mà nghe theo mọi sự sắp đặt của chàng.

    Trọng Thủy đau khổ, xót xa, ân hận:

    Nàng ơi, mong nàng hiểu cho ta, ta không thể nào làm khác được. Ta không dám chống lại mệnh lệnh của vua cha. Quả thật, lúc đầu ta rắp tâm lừa dối cha con nàng, nhưng sau một thời gian chung sống với nhau, ta đã thật sự yêu nàng – một cô gái hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng. Làm sao ta có thể quên được nàng, vợ chồng một ngày nên tình, nên nghĩa. Lúc ta nhận ra sự tàn bạo , nghiệt ngã của chiến tranh phi nghĩa, thì đã quá muộn rồi. vì mù quáng tuân theo lệnh của vua cha mà ta đã trở thành tội đồ, kẻ phản bội đáng bị người đời lên án, ta còn phải trả giá bằng chính hạnh phúc của mình. Mị Châu ơi! Lần nữa ta cầu xin sự rộng lòng tha thứ của nàng.

    Mọi vật xung quanh tĩnh lặng như đang đồng cảm thương xót cho số phận đôi vợ chồng trẻ này. Nước mắt Mị Châu vẫn lã chã tuôn rơi. Nàng vừa giận, vừa thương. Trọng Thủy – một nạn nhân khốn khổ của cuộc chiến tranh phi nghĩa tàn ác. Nhưng lí trí đang mách bảo nàng quyết không để “trái tim lầm chỗ để trên đầu” lần nữa, nàng dịu giọng:

    – Thôi, chàng đừng nói nữa, dù sao cũng cám ơn tình cảm chân thành của chàng dành cho ta. Nhưng ra không thể tha thứ cho chàng – kể tội đồ của nước Âu Lạc. Ta không thể! Từ nay chàng đừng đến tìm gặp ta nước, ta không muốn !

    Trái tim Trọng Thủy như đang tan vỡ thành nhiều mảnh. Chàng đau khổ muốn chết. Chàng khẩn khoản cầu xin Mị Châu lần nữa:

    – Mị Châu ơi! Xin nàng hãy tha thứ cho ta. Ta đã biết tội của mình rồi, đã ân hận lắm rồi. Dù ta phải chịu nhiều hình phạt, cực hình, đau khổ đến nhường nào nữa, cũng mong nàng tha thứ và mong được gặp nàng

    Mị Châu nhất quyết cự tuyệt Trọng Thủy. Rồi cả Mị Châu và cung điện tự nhiên biến mất. Trọng Thủy còn lại trơ trọi một mình . Buồn rầu, khổ não, Trọng Thủy mong ước nước biển ngàn năm sẽ xóa sạch lỗi lầm của mình.

    – Mị Châu, ta ao ước biết bao đến một lúc nào đó, ta và nàng sẽ gặp lại nhau, một nơi rất xa. Khi ấy không còn những cuộc chiến tranh giữa các dân tộc. Ta và nàng sẽ không còn kẻ Bắc người Nam nữa, và rồi tình yêu sẽ trở lại giữa hai ta.

    Vừa dứt lời, Trọng Thủy hóa thành một bức tượng đá, vĩnh viễn nằm lại dưới đáy đại dương.

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *