Văn mẫu lớp 11: Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Chí Phèo (7 mẫu)

Văn mẫu lớp 11: Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Chí Phèo (7 mẫu)

Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Chí Phèo mang đến 7 mẫu cực hay. Giúp cho các em học sinh tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức về nội dung và nghệ thuật tác phẩm Chí Phèo.

Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 11: Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Chí Phèo (7 mẫu)

Văn mẫu lớp 11: Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Chí Phèo (7 mẫu)

Chí Phèo thật sự là một kiệt tác, thể hiện đầy đủ nhất tài năng nghệ thuật xuất sắc, độc đáo của nhà văn Nam Cao. Bút pháp điển hình hoá đạt tới trình độ bậc thầy trong xây dựng nhân vật. Vậy dưới đây là giá trị nội dung và nghệ thuật trong Chí Phèo hay nhất mời các bạn theo dõi. Bên cạnh đó các bạn xem thêm phân tích nhân vật Chí Phèo.

Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Chí Phèo

    Đề bài: Trình bày và phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao trong chương trình học Ngữ văn lớp 11 tập 1.

    Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Chí Phèo – Mẫu 1

    I. TRUYỆN NGẮN CHÍ PHÈO

    – Chí Phèo lúc đầu được Nam Cao đặt tên là Cái lò gạch cũ, khi ra mắt độc giả lần đầu, để “câu khách”, nhà xuất bản tự ý đổi tên thành Đôi lứa xứng đôi (in trong tập Đôi lứa xứng đôi, gồm 11 truyện ngắn, NXB Đời mới, Hà Nội, 1941). Sau này, khi in lại trong tập Luống cày (Hội Văn hoá cứu quốc xuất bản, Hà Nội, 1946), Nam Cao đặt lại tên truyện là Chí Phèo.

    – Chí Phèo là truyện ngắn xuất sắc nhất của Nam Cào và được coi là một kiệt tác của văn xuôi hiện đại Việt Nam. Qua truyện ngắn này, có thể thấy được bút pháp hiện thực độc đáo, mới mẻ và tinh thần nhân đạo sâu sắc của Nam Cao. Đoạn trích trong SGK tuy đã lược bớt vài đoạn vì chuyện quá dài, nhưng người đọc vẫn có thể hình dung được toàn bộ câu chuyện và nắm được tinh thần tác phẩm.

    II. NỘI DUNG

    l. Cuộc đời cùng quẫn của Chí Phèo

    – Vốn là một đứa trẻ bị bỏ rơi “trần truồng và xám ngắt trong một váy đụp để bên cái lò gạch bỏ không”, Chí Phèo được người làng nhặt về và chuyền tay nhau nuôi, lớn lên Chí đi làm canh điền cho lý Kiến, bị ông lý ghen rồi đẩy vào tù.

    – Ở tù ra, Chí Phèo biến đổi hẳn, từ một anh nông dân hiền lành, lương thiện, hắn trở thành một kẻ côn đồ cả về tâm tính lẫn ngoại hình: “cái đầu thì trọc lóc cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất câng câng”, ngực và cánh tay “đầy những nét chạm trổ” người ta thấy hắn “ngồi ở chợ uống rượu với thịt chó suốt từ sáng đến chiều”, và “cứ rượu xong là hắn chửi”, có khi còn “lăn lộn dưới đất, vừa kêu vừa lấy mảnh chai cào vào mặt” để “ăn vạ”,…

    – Một lần đến nhà bá Kiến rạch mặt ăn vạ, Chí Phèo bị ông bá dụ dỗ, giao cho việc đi đòi nợ đội Tảo, từ đó hắn trở thành tay sai đắc lực của bá Kiến. Chí Phèo không ý thức được mình đã biến thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”, “làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện”, bởi vì hắn làm tất cả những việc người ta sai hắn làm trong lúc say. Mà những cơn say của hắn thì triền miên, không bao giờ chấm dứt, “hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say… đập đầu rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say…”. Đến cái mặt của hắn cũng biến đồi, “không còn phải là mặt người: nó là mặt một con vật lạ”, nó “vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio”, nó “vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là sẹo”.

    Cuộc đời chí Phèo tiêu biểu cho số phận bi thảm của những người nông dân cùng khố trong xã hội cũ. Thế lực của bọn cường hào ác bá ở thôn quê kết hợp với nhà tù thực dân đã đẩy người nông dân lương thiện vào con đường lưu manh hoá, dẫn đến sự huỷ hoại cả nhân tính lẫn nhân hình.

    2. Ước muốn được trở lại làm người lương thiện của Chí Phèo:

    – Cuộc đời Chí Phèo sẽ mãi mãi ngập sâu trong tội ác nếu không có sự gặp gỡ với thị Nở. Giữa người đàn bà đần độn, “xấu ma chê quỷ hờn” và một gã đàn ông “chỉ sống bằng cướp giật và dọa nạt” đã nảy xinh một tình cảm trong sáng nhất của loài người: tình yêu. Tình cảm ấy đã thức dậy ở Chí Phèo niềm khao khát về một mái ấm gia đình giản dị, yên bình “chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải…”. Chí Phèo và thị Nở đã nhất định lấy nhau để sống một cuộc đời lương thiện như bao nhiêu người khác.

    – Con đường hoàn lương của Chí Phèo đã gặp ngay trở ngại đầu tiên: bà cô của thị Nở. Định kiến về Chí Phèo – “một thằng không cha”, “chỉ có một nghề là rạch mặt ra ăn vạ” – đã khiến bà cô coi việc thị Nở định lấy Chí Phèo là một sự “nhục nhã” không thể chấp nhận được. Bà trút tất cả sự uất ức vào thị Nở. Và thị Nở, trong cơn giận dữ, tìm đến Chí Phèo và “trút vào mặt hắn tất cả lời của bà cô”.

    – Chí Phèo sửng sốt, hấn uống thật say để đến nhà thị Nở “đâm chết cái con khọm già nhà nó”, nhưng bước chân quen đường trong cơn say lại đưa hắn đến nhà bá Kiến. Khác với mọi lần, Chí không nhận tiền mà dõng dạc yêu cầu: “Tao muốn làm người lương thiện”. Trong cơn say, Chí Phèo vẫn tỉnh táo nhận ra: Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa”. Con đường trở lại làm người lương thiện của Chí Phèo đã hoàn toàn bế tắc, bằng trực giác, Chí đã nhận đúng mặt kẻ thù, hắn xông vào đâm chết bá Kiến và tự kết liễu đời mình.

    Nam Cao đã nhận ra ngay trong những con người tưởng như đã mất hết nhân tính vẫn còn le lói chút ánh sáng của lương tri. Mô tả con đường hoàn lương đau đớn, bi kịch không được làm người của Chí Phèo, nhà văn đã thể hiện một tấm lòng nhân đạo sâu sắc, đầy sự cảm thông đối với lớp người dưới đấy”.

    III. NGHỆ THUẬT

    1. Xây dựng tính cách điển hình sắc nét

    – Nhân vật Chí Phèo: Đây là hình tượng thành công nhất của ngòi bút hiện thực Nam Cao. Chí Phèo không chỉ điển hình cho một bộ phận cố nông bị lưu manh hoá mà nhân vật này còn mang ý nghĩa khái quát rộng lớn: cuộc đời và số phận của Chí thể hiện một quy luật có tính phổ biến trong xã hội cũ là quy luật bần cùng hoá, rồi đi đến lưu manh hoá của những người dân lành. Trong tác phẩm, Chí Phèo hiện hình thành “con quỷ dữ” chuyên đập phá, kêu gào, chửi bới, rạch mặt ăn vạ với những cơn say triền miên, bất tận… Đó là tính cách riêng của Chí, nhưng con đường tha hoá của Chí Phèo cũng là con đường của những năm Thọ, binh Chức,… trong tác phẩm. Mỗi người một cảnh, họ đều là nạn nhân của bọn cường hào ác bá (ở đây là bá Kiến) và là sản phẩm của nhà tù thực dân. Còn những thế lực bạo tàn đó thì hiện tượng Chí Phèo vẫn còn tiếp diễn, không phải vô cớ mà tác giả đã nhắc lại hình ảnh “cái lò gạch bỏ không” ở cuối truyện. Với ngòi bút phân tích tâm lí sắc sảo, Nam Cao đã khắc hoạ thành công hình tượng Chí Phèo, một nhân vật điển hình vừa có tính riêng sinh động vừa mang tính chung phổ biến. Nét đặc sắc riêng của hình tượng Chí Phèo còn được khắc họa sâu sắc hơn trong bi kịch của nhân vật. Khi lương tri thức tỉnh, Chí thèm khát được trở lại làm người lương thiện thì lại bị chính cái xã hội của những người lương thiện chối bỏ. Lần đầu tiên, cơn giận dữ của Chí Phèo mang nỗi uất hận đau đớn của một kẻ không được làm người. Sự thức tỉnh của Chí Phèo là một phát hiện sâu sắc, đầy tính nhân đạo của Nam Cao khi xây dựng nhân vật điển hình.

    – Nhân vật bá Kiến: Bên cạnh Chí Phèo, bá Kiến cũng là một tính cách điển hình chân thực và sinh động. Người ta không thể quên được “cái cười Tào Tháo” của cụ bá cùng những toan tính nham hiểm của nhân vật này: “Hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông, nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn. Hãy đập bàn đập ghế, đòi cho được năm đồng, nhưng được rồi thì lại vứt trả lại năm hào “vì thương anh túng quá”. Vừa xảo quyệt, gian hùng vừa đê tiện, bá Kiến là nhân vật tiêu biểu cho lớp cường hào ác bá (những đội Tảo, tư Đạm, bát Tùng,…) Ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng, những kẻ có quyền sinh quyền sát, tha hồ làm mưa làm gió ở làng quê. Có thể nhận ra bàn tay của bá Kiến trong việc xô đẩy người dân lương thiện vào cảnh khốn cùng rồi biến họ thành tay sai gây tai hoạ cho chính những người lương thiện. Bá Kiến và những kẻ như hắn mới thực là “con quỷ dữ” giấu mặt của làng Vũ Đại.

    Từ tác phẩm, nhưng nhân vật điển hình như Chí Phèo, bá Kiến đã bước thẳng vào cuộc sống, tên nhân vật đã trở thành tên gọi chung cho loại người mang tính cách tương tự như nhân vật trong tác phẩm. Điều thú vị là những danh xưng ấy còn tồn tại dai dẳng cho đến ngày nay.

    2. Cốt truyện độc đáo, các tình tiết giàu kịch tính, luôn biến hoá mang lại nhiều bất ngờ cho người đọc: Dù không được kể theo trình tự thời gian nhưng lại lịch và diễn biến cuộc đời của mỗi nhân vật đều được xâu chuỗi rất logic và sinh động (các sự kiện trong cuộc đời Chí Phèo được chắp nối qua lời trần thuật và dòng hồi ức rải rác trong truyện). Hầu như mỗi tình tiết đều ẩn chứa rất nhiều sự bất ngờ (chỉ một lời ngọt nhạt mà bá Kiến đã dẹp yên được sự ăn vạ ầm ĩ của Chí Phèo), có nhiều chi tiết tưởng như ngẫu nhiên nhưng hoá ra lại là những móc xích bên trong nối vào nhau chặt chẽ (chi tiết Chí Phèo xăm xăm đến nhà thị Nở nhưng bước chân lại dẫn hắn đến nhà bá Kiến, chi tiết thị Nở liếc nhìn bụng và nghĩ đến “cái lò gạch bỏ không”,…). Hành động quyết liệt của Chí Phèo và cái chết bi thảm của Chí là bước kết thúc bất ngờ nhưng nhất quán với sự phát triển của tính cách nhân vật.

    3. Cách dẫn chuyện linh hoạt và vô cùng hấp dẫn: Đoạn mở đầu rất độc đáo gây ấn tượng mạnh bị lối trần thuật nửa trực tiếp, có sự đan xen giữa lời người kể chuyện (“Hắn vừa đi vừa chửi…”) với độc thoại của nhân vật (Ờ! Thế này thì tức thật!..J. Tác giả đã phá vỡ trật tự thông thường, dùng lối tự sự theo dòng nội tâm nhân vật để thuật lại diễn biến sự việc. Vì thế, trong lời trần thuật, hiện tại và hồi ức cứ lồng ghép vào nhau (đoạn mở đầu, đoạn tả Chí Phèo “bâng khuâng tỉnh dậy sau một cơn say rất dài” ở cuối truyện,…), lời người kể và lời nhân vật có khi nhập vào nhau khiến cho điểm nhìn trần thuật cũng thay đổi một cách linh động (lúc thì câu chuyện được thuật lại bằng một cái nhìn khách quan từ bên ngoài, lúc lại chuyển hoá thành điểm nhìn chủ quan của nhân vật từ bên trong). So với dung lượng của một truyện ngắn thì đây là một chuyện tương đối dài, nhưng nó không hề nhàm chán bởi cách dẫn chuyện luôn biến ảo cùng những độc thoại nội tâm sinh động (chẳng hạn độc thoại nội tâm của Chí Phèo sau cơn tỉnh rượu).

    Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Chí Phèo – Mẫu 2

    Giá trị nội dung

    – Tố cáo xã hội phong kiến bất công khiến con người sinh ra là người mà lại không được làm người

    – Thông qua đó nhấn mạnh hình ảnh và bản chất tốt đẹp của người dân lao động ngay cả khi tưởng họ đã bị xã hội tàn bạo cướp đoạt tất cả.

    Giá trị nghệ thuật

    – Nghệ thuật điển hình hoá nhân vật

    – Nghệ thuật miêu tả tâm lí tài tình

    – Nghệ thuật trần thuật, kết cấu mới mẻ, linh hoạt, phóng túng

    – Ngôn ngữ, giọng điệu sinh động

    – Cốt truyện độc đáo, các tình tiết giàu kịch tính.

    Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Chí Phèo – Mẫu 3

    Giá trị nội dung

    – Tác giả tố cáo xã hội phong kiến bất công, đã khiến con người sinh ra là người mà không được làm người

    – Tác giả muốn thể hiện bản chất tốt đẹp của người dân lao động ngay cả khi tưởng họ đã bị xã hội tàn bạo cướp đoạt tất cả

    Giá trị nghệ thuật

    – Xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình

    – Khắc họa sinh động các yếu tố ngôn ngữ hành động tâm lí ngoại hình

    – Nghệ thuật trần thuật, kết cấu mới mẻ, linh họat, phóng túng

    – Cốt truyện với các tình huống chi tiết gay cấn, hấp dẫn

    Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Chí Phèo – Mẫu 4

    Giá trị nội dung

    – Qua truyện ngắn Nam Cao đã khái quát một hiện tượng xã hội ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám: một bộ phận nông dân lương thiện bị đẩy và tình trạng lưu manh hóa.

    – Nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thể xác tâm hồn của người nông dân lương thiện đồng thời khẳng định bản chất lương thiện ngay trong khi họ bị vùi dập mất cả nhân hình lẫn nhân tính

    – Chí Phèo là tác phẩm có giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc

    Giá trị nghệ thuật

    – Tác phẩm thể hiện tài năng truyện ngắn bậc thầy của Nam Cao: xây dựng nhân vật điển hình bất hủ; nghệ thuật trần thuật linh hoạt, tự nhiên mà vẫn nhất quán chặt chẽ; ngôn ngữ trần thuật đặc sắc

    Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Chí Phèo – Mẫu 5

    Giá trị nội dung trong tác phẩm Chí Phèo của Nam cao

    – Giá trị hiện thực

    Sự đàn áp, bóc lột và tàn ác của bọn thực dân, phong kiến đối với những người nông dân trong xã hội xưa

    Số phận của người nông dân Việt Nam trước cách mạng lại vô cùng thê thảm, bần cùng và trở thành lưu manh. Họ bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa và cái chết là điều tất yếu để giải thoát họ khỏi những đau khổ.

    – Giá trị nhân đạo

    + Lời kết án đanh thép xã hội thực dân, phong kiến tàn bạo đã phá cả thể xác và tâm hồn người nông dân lao động hiền lành, chất phác.

    >> Dẫn chứng: Hình ảnh thu nhỏ của cả một xã hội với tất cả các tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ chính là chân dung của những kẻ như Bá Kiến, như bà cô Thị Nở, như những người dân làng Vũ Đại.

    + Niềm cảm thông, chia sẻ, đau xót khi chứng kiến những con người hiền lành, lương thiện bị dày vò, tha hóa thành con quỷ dữ của cả làng Vũ Đại.

    >> Dẫn chứng: Kể cả khi Chí Phèo đã khao khát quay trở về làm người lương thiện thì xã hội ích kỉ, hẹp hòi kia cũng sẽ không chừa chỗ lại cho hắn. Hắn chỉ còn một con đường duy nhất là cái chết để giữ lại sự lương thiện cuối cùng trong con người mình.

    + Khẳng định niềm tin của tác giả vào bản chất lương thiện của những người nông dân

    >> Dẫn chứng: Ngay cả khi họ bị vùi dập, mất cả nhân hình lẫn nhân tính thì khao khát được sống, được yêu thương và hạnh phúc cũng chưa bao giờ bị dập tắt trong họ

    + Là lời cảnh báo của tác giá với số phận của những người nông dân Việt Nam trước Cách mạng, nếu không thay đổi thì cuộc sống của họ cũng sẽ bế tắc, tuyệt vọng, tha hóa, lưu manh hóa và cái chết sẽ là điều không thể tránh khỏi.

    >> Dẫn chứng: Điều ấy được thể hiện qua chi tiết Thị Nở nhìn nhanh xuống dưới bụng và lời dự báo về một Chí Phèo con sẽ ra đời.

    Giá trị nghệ thuật trong tác phẩm Chí Phèo của Nam cao

    Nghệ thuật điển hình hoá nhân vật:

    Chí Phèo, Bá Kiến là những điển hình đặc sắc trong tác phẩm. Vừa sinh động, độc đáo, không lặp lại, các nhân vật này mang sức khái quát cao cho mối xung đột diễn ra khốc liệt ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng, đặc biệt là nhân vật Chí Phèo. Hắn là điển hình sinh động cho những người nông dân cố cùng bị hủy hoại, tha hoá đến tận cùng bởi thế lực tàn bạo -> xây dựng nhân vật điển hình sắc nét.

    Nghệ thuật miêu tả tâm lí tài tình

    Trong truyện ngắn đã tạo nên những đoạn văn tuyệt bút. Số phận và bi kịch của Chí Phèo được đào sâu cực độ qua những đoạn văn hay như đoạn Chí Phèo thức tỉnh sau đêm say rượu gặp Thị Nở; đoạn Chí Phèo bị cự tuyệt tình yêu…

    Cốt truyện độc đáo, các tình tiết giàu kịch tính, luôn biến hoá mang lại nhiều bất ngờ cho người đọc

    Kết cấu vòng tròn, khép kín đã tạo nên chiều sâu cho thiên truyện: Mở đầu truyện bằng hình ảnh đứa bé trần truồng xám ngắt nằm bên chiếc lò gạch cũ, kết thúc bằng hình ảnh Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng mình và thoáng nghĩ đến một cái lò gạch xa xôi vắng người qua lại…

    => Kết cấu này cho thấy số phận bế tắc, quẩn quanh không lối thoát của kiếp người trong xã hội bóc lột. Chí Phèo chết nhưng còn bao nhiêu số kiếp Chí Phèo sẽ lại tái diễn?

    Ngôn ngữ, giọng điệu sinh động

    Ngôn ngữ, giọng điệu của Nam Cao được thể hiện một cách sinh động, đa dạng trong truyện ngắn này. Ngòi bút hiện thực vừa tỉnh táo, khách quan, sắc lạnh lại vừa đằm thắm, trữ tình như hòa quyện, xuyên thấm vào nhau.

    Ngoài ra, giọng trần thuật cũng thay đổi phù hợp với diễn biến tâm lý nhân vật, khi thì dùng lời kể trực tiếp, khi thì nửa trực tiếp, khi lại có sự đan xen giữa hai giọng kể trên một cách nhịp nhàng, nhuần nhuyễn (dẫn chứng: đoạn văn mở đầu tác phẩm, đoạn miêu tả tâm trạng khi ăn bát cháo hành, đoạn độc thoại nội tâm của Bá Kiến).

    Cách dẫn chuyện linh hoạt và vô cùng hấp dẫn

    Đoạn mở đầu rất độc đáo gây ấn tượng mạnh bởi lối trần thuật nửa trực tiếp, có sự đan xen giữa lời người kể chuyện (Hắn vừa đi vừa chửi…) với độc thoại của nhân vật (Ờ! Thế này thì tức thật!…).

    Tác giả đã phá vỡ trật tự thông thường, dùng lối tự sự theo dòng nội tâm nhân vật để thuật lại diễn biến sự việc. Vì thế, trong lời trần thuật, hiện tại và hồi ức cứ lồng ghép vào nhau (đoạn mở đầu, đoạn tả Chí Phèo “bâng khuâng tỉnh dậy sau một cơn say rất dài” ở cuối truyện,…), lời người kể và lời nhân vật có khi nhập vào nhau khiến cho điểm nhìn trần thuật cũng thay đổi một cách linh động (lúc thì câu chuyện được thuật lại bằng một cái nhìn khách quan từ bên ngoài, lúc lại chuyển hoá thành điểm nhìn chủ quan của nhân vật từ bên trong).

    So với dung lượng của một truyện ngắn thì tác phẩm Chí Phèo tương đối dài, nhưng nó không hề nhàm chán bởi cách dẫn chuyện luôn biến ảo cùng những độc thoại nội tâm sinh động (chẳng hạn độc thoại nội tâm của nhân vật Chí Phèo sau cơn tỉnh rượu).

    Kết luận

    Những cảm nhận và đánh giá khái quát về giá trị của nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm Chí Phèo.

    Có thể nêu ra suy nghĩ và liên tưởng của em về tác phẩm.

    Nghệ thuật bài Chí Phèo – Mẫu 6

    Xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo: Nam Cao sở trường về miêu tả tâm lí nhân vật; có khả năng đi sâu vào nội tâm diễn tả những diễn biến tâm lí phức tạp của nhân vật.

    Việc xáo trộn trình tự thời gian đã tạo nên sự phóng khoáng trong cách dựng truyện, đặc biệt là tạo nên sức hấp dẫn, gây sự chú ý và hứng thú theo dõi liên tục cho người đọc. Hình ảnh “cái lò gạch cũ bỏ hoang” xuất hiện ở đầu và kết thúc tác phẩm gọi là kết cấu vòng, giúp người đọc đào sâu thêm tầng nghĩa mà nhà văn muốn gửi gắm: Chừng nào còn tồn tại một xã hội kiểu làng Vũ Đại, còn kiểu người như Bá Kiến thì chừng ấy sẽ còn kiểu người như Chí Phèo.

    Ngôn ngữ truyện: tác giả đan xen lời nhân vật và lời người kể chuyện. Điều này giúp cho nhà văn dễ dàng lách sâu vào thế giới nội tâm phức tạp và tinh tế của nhân vật.

    Ngôn ngữ giản dị, diễn đạt độc đáo. Kết cấu truyện mới mẻ, tưởng như tự do nhưng lại rất chặt chẽ, lôgic. Cốt truyện và các tình tiết hấp dẫn, biến hóa giàu kịch tính.

    Phân tích giá trị nghệ thuật trong Chí Phèo – Mẫu 7

    Nam Cao là một nhà văn luôn thành công ở hai phương diện của sáng tác đó là khám phá về nội dung và phát minh sáng tạo về hình thức. Chính điều đó đã nâng tầm vóc nhà văn Nam Cao thành một nhà văn lớn, một tác gia lớn của nền văn xuôi hiện đại.

    Truyện ngắn Chí Phèo (1941) đã được xếp vào hàng kiệt tác bởi Nam Cao đã “khơi những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những gì chưa có” cả về nội dung và nghệ thuật. Ở tác phẩm này nhà văn Nam Cao đã thể hiện được một trình độ bậc thầy về nghệ thuật xây dựng nhân vật sống động, khám phá miêu tả sâu sắc tâm lí nhân vật, kết cấu tác phẩm một cách độc đáo và có một vốn ngôn ngữ phong phú sinh động cho mọi loại hinh nhân vật. Theo dõi từng trang truyện ngắn đặc sắc này chúng ta sẽ thấy rất rõ tài nghệ đó của Nam Cao.

    Nói đến văn xuôi là nói đến nghệ thuật xây dựng nhân vật, mỗi nhà văn có một cách thể hiện khác nhau và thành công ở những mức độ khác nhau. Đối với nhà văn Nam Cao ở tác phẩm này thì ông đã xây dựng được thành công cả tuyến nhân vật chính diện và phản diện và không những thành công mà thành công ở cấp điển hình.

    Về các nhân vật phản diện nhà văn tập trung vào ba nhân vật đó là Bá Kiến, Lí Cường và Đội Tảo. Trong đó tác giả tập trung khắc hoạ bản chất của nhân vật Bá Kiến, Bá Kiến thức sự là một con hổ biết cười. Đối với một con mồi như Chí Phèo khi thì Bá Kiến nhỏ nhẹ để làm mềm nhũn Chí Phèo, có khi thì Bá Kiến dọa nạt bằng những lời lẽ có gang có thép. Ngoài cái thủ đoạn đó thì Bá Kiến được tác giả liệt kê ra nhiều thủ đoạn thâm độc xảo quyệt. Với những nét khắc họa đó nhà văn đã dựng lên được một Bá Kiến rất sống động, rất điển hình cho bọn cường hào ác bá ở nông thôn trước cách mạng tháng tám.

    Về nhân vật chính diện nhà văn tập trung vào hai nhân vật và mối quan hệ của hai nhân vật đó là Chí Phèo và Thị Nở. Hai nhân vật này có số phận khác nhau nhưng lại làm sáng tỏ cho nhau. Trong đó Thị Nở thực chất là nhân vật để làm nổi bật con người Chí Phèo, bi kịch Chí Phèo. Chí Phèo hiện hình dưới ngòi bút của Nam Cao có số phận rất duyên từ xuất thân đến đời sống, nhưng Chí Phèo là nhân vật điển hình vì bên cạnh Chí Phèo còn có Năm Thọ, Binh Chức là những hình đồng dạng với Chí Phèo. Có thể khẳng định thành công nhất về mặt nghệ thuật của tác phẩm Chí Phèo là xây dựng được hai điển hình văn học, trong đó điển hình nổi bật nhất là nhân vật Chí Phèo.

    Nói đến văn xuôi là nói đến nhân vật, nói đến nhân vật là nói đến tâm lí tính cách nhân vật, nói đến tác phẩm Chí Phèo là người ta nghĩ ngay đến cái tinh tế của nhà văn trong việc phát hiện ra được những nét tâm lí rất thật rất đúng của những con người tưởng là không có những nét tâm lí đó. Mỗi nhân vật sở dĩ thành công bởi những nét tâm lí tính cách khác nhau. Tâm lí của Bá Kiến là biết tâm lí của người đời, biết mềm nắn rắn buông, tâm lí của vợ Bá Kiến là hiếu kì lẳng lơ, tâm lí của người nông dân là sợ tai họa.

    Khả năng miêu tả tâm lí sâu sắc nhất của Nam Cao trong tác phẩm này là đã khám phá được diễn tả được tâm lí của nhân vật chính đó là Chí Phèo và Thị Nở. Người đọc rất tâm đắc với nhà văn rất cảm phục nhà văn khi Nam Cao phát hiện được tâm lí của Chí Phèo khi gặp Thị Nở. Khi Chí Phèo nhận được bát cháo hành từ tay Thị Nở, Chí Phèo từ ngạc nhiên rồi sau đó là mắt ươn ướt cảm động và tiếp đến là có cái gì đó như là ăn năn muốn làm hoà với mọi người rồi làm nũng với Thị như với mẹ đó là những nét tâm lí rất thật của những con người muốn được tái sinh. Cái sâu sắc của Nam Cao chính là chỗ đó.Một biểu hiện nghệ thuật độc đáo của tác phẩm đó là cách tổ chức kết cấu tác phẩm. Đó là một cách kết cấu vừa linh hoạt vừa độc đáo vừa đa dạng. Cái độc đáo đầu tiên của kết cấu tác phẩm là tác giả đã đảo ngược thời gian đi từ hiện tại rồi đến quá khứ rồi đến hiện tại.

    Một biểu hiện của kết cấu không mới nhưng lại rất hợp lí ở tác phẩm này đó là kết cấu theo lối khép kín. Nhà văn mở đầu tác phẩm bằng một lò gạch cũ nơi Chí Phèo ra đời rồi kết thúc tác phẩm cũng một lò gạch cũ với một sự liên tưởng một Chí Phèo con sắp ra đời. Cái vòng luẩn quẩn của cuộc đời Chí Phèo vẫn cứ tiếp diễn đó là vòng luân hồi nhưng lại bế tắc. Ý nghĩa của tác phẩm toát ra rất sâu sắc từ kết cấu này.

    Ngoài hai kiểu kết cấu trên nhà văn đã tổ chức được một sự đa dạng của hành văn khi thì độc thoại khi thì đối thoại, khi thì kể, khi thì tả, khi thì tường thuật.

    Một phương diện nghệ thuật mà nhà văn rất thành công ở truyện ngắn Chí Phèo, đó là cách sử dụng ngôn ngữ rất phù hợp với từng đối tượng nhân vật. Ngôn ngữ của bọn Bá Kiến, Lí Cường là ngôn ngữ của bọn bề trên khi mềm mỏng khi đánh rắn rất biến hoá. Ngôn ngữ của các nhân vật như Chí Phèo, Thị Nở thì rất quê mùa có khi là tục tằn thô lỗ đó là loại ngôn ngữ phù hợp với tính cách nhân vật. Nhìn chung tác phẩm viết về đề tài người nông dân nên ngôn ngữ mà tác giả sử dụng trong tacs phẩm là loại ngôn ngữ bình dân chân quê, rất phù hợp với cảnh và tình của tác phẩm.Truyện ngắn Chí Phèo là một trong những truyện ngắn xuất sắc tiêu biểu của văn học hiện thực trước cách mạng tháng tám nói chung của nhà văn Nam Cao nói riêng.

    Tác phẩm này thành công trên nhiều phương diện cả nội dung và hình thức, nhưng đặc biệt nhất vẫn là nghệ thuật xây dựng kết cấu tác phẩm. Cùng một vấn đề rất phổ biến của xã hội lúc bấy giờ nhưng với tài nghệ của mình Nam Cao dẫn điển hình hoá được cả hai loại nhân vật chính diện và phản diện. Đọc tác phẩm này chúng ta vừa cảm phục được cái tâm của tác giả lại vừa cảm phục cái tài của tác giả. Cái tâm và cái tài đó là tiền đề để nhà văn thành công ở tác phẩm này.

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *