Phân tích nhân vật Thị trong truyện ngắn Vợ nhặt

Phân tích nhân vật Thị trong truyện ngắn Vợ nhặt

Phân tích nhân vật Thị trong Vợ nhặt của Kim Lân gồm 24 bài văn mẫu siêu hay. Qua phân tích Thị các bạn học sinh có thể lựa chọn cho mình một cách tiếp cận, một giọng điệu văn thích hợp, để sau đó nó trở thành kiến thức tâm đắc của chính mình.

Bạn đang đọc: Phân tích nhân vật Thị trong truyện ngắn Vợ nhặt

Phân tích nhân vật Thị trong truyện ngắn Vợ nhặt

Phân tích nhân vật Thị hay nhất

TOP 24 bài Phân tích người vợ nhặt cực chất dưới đây được viết rất hay với văn phong rõ ràng, dễ hiểu có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, sẽ giúp các em học môn Ngữ văn tốt hơn và có sự chuẩn bị tốt hơn khi học. Bên cạnh đó để nâng cao kỹ năng viết văn các em xem thêm: phân tích nhân vật A Phủ, phân tích bà cụ Tứ.

Phân tích nhân vật Thị trong Vợ nhặt

    Sơ đồ tư duy phân tích người vợ nhặt

    Phân tích nhân vật Thị trong truyện ngắn Vợ nhặt

    Dàn ý phân tích nhân vật Thị

    I. Mở bài

    • Giới thiệu tác giả Kim Lân: là cây bút chuyên viết Truyện ngắn, ông am hiểu sâu sắc đời sống của người nông dân và thường tập trung viết về họ.
    • Vợ nhặt là một trong số những truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân của ông. Nhân vật đóng vai trò quan trọng trong tác phẩm này chính là người vợ nhặt.

    II. Thân bài

    1. Lai lịch

    • Không có quê hương gia đình: có thể thấy nạn đói năm 1945 đã khiến biết bao con người bị dứt khỏi quê hương, gia đình.
    • Tên tuổi cũng không có và qua tên gọi “vợ nhặt”: thấy được sự rẻ rúng của con người trong cảnh đói.

    2. Chân dung

    – Ngoại hình: quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt.

    – Lần thứ nhất: khi nghe câu hò vui của Tràng, Thị đã vui vẻ giúp đỡ, đây chính là sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo.

    – Lần thứ hai:

    • Thị sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị hơn, khi được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”.
    • Khi nghe tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ cùng về”, Thị đã theo về thật bởi trong cái đói khổ, đó là cơ hội để Thị bấu víu lấy sự sống.

    – Nhận xét: cái đói khổ không chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách con người. Người đọc vẫn cảm thông sâu sắc với Thị vì đó không phải là bản chất mà do cái đói xô đẩy.

    3. Phẩm chất

    – Có khát vọng sống mãnh liệt:

    • Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết về Tràng, chấp nhận theo không về không cần sính lễ vì Thị sẽ không phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ.
    • Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố cu”, Thị “nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội sống.

    – Thị là người ý tứ và nết na:

    • Trên đường về, Thị cũng rón rén e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, Thị ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.
    • Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ khi chưa xác lập được vị trí trong gia đình.
    • Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào Thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng nghịu.
    • Sáng hôm sau, Thị dậy sớm quét tước nhà cửa, không còn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.
    • Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt Thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào miệng thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không buồn làm bà buồn.

    – Nhận xét: cái đói có thể cướp đi nhân phẩm trong khoảnh khắc nào đó chứ không vĩnh viễn cướp đi được tâm hồn con người.

    – Thị còn là người có niềm tin vào tương lai: kể chuyện phá kho thóc trên Thái Nguyên, Bắc Giang để thắp lên hy vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.

    – Nêu cảm nhận chung về hình tượng người vợ nhặt sau khi phân tích.

    III. Kết bài

    • Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện độc đáo, xây dựng hình tượng nhân vật thành công, ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, …
    • Tác phẩm chứa đựng giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc: người đọc hiểu và cảm thông với cảnh ngộ thương tâm, rẻ rúng của người lao động trong nạn đói, tố cáo thực dân, phát xít, ngợi ca khát vọng sống trong cảnh cơ cực.

    Xem thêm: Dàn ý phân tích người vợ nhặt

    Phân tích nhân vật Thị trong Vợ nhặt hay nhất – Mẫu 1

    Có ai đó nói rằng: “Người phụ nữ là một nửa thế giới”. Và quả thật, hình ảnh người phụ nữ luôn có sức hấp dẫn lạ kỳ trong văn học. Chúng ta đã gặp không ít những số phận người phụ nữ bi thương trong các tác phẩm văn học Việt Nam, đó là một nàng Vũ Nương oan khuất, một nàng Kiều bi kịch, một Chị Dậu tủi hờn… Nhưng khi tiếp cận với dòng văn học cách mạng, vẫn những người phụ nữ ngày xưa ấy lại được trao cho sức sống mới mạnh mẽ, đứng dậy làm chủ đời mình. Một trong những nhân vật văn học nữ tiêu biểu cho hình ảnh đó là thị trong truyện ngắn “Vợ nhặt của” Kim Lân. Thị được khắc họa và hình dung rõ những nét tâm lý, diễn biến tâm trạng trong đoạn theo Tràng về nhà tối trước đến sáng hôm sau. Qua nhân vật này, ta thấy được phần nào vẻ đẹp của người lao động trước cách mạng.

    Được nhắc đến như một cây bút chuyên viết truyện ngắn, Kim Lân rất có duyên viết về con người và làng quê Việt Nam, nhất là vùng đồng bằng Bắc Bộ. Dù viết về phong tục hay con người, trong tác phẩm của Kim Lân ta vẫn thấy thấp thoáng cuộc sống con người của làng quê Việt Nam nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn yêu đời, thật thà, chất phác mà thông minh, hóm hỉnh, tài hoa. “Vợ nhặt” là truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân in trong tập “Con chó xấu xí” (1962). Tiền thân của truyện ngắn là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được viết ngay sau cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và bị thất lạc bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại vào năm 1954, ông dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này. Truyện xoay quanh nhân vật Tràng – nghèo khó, xấu xí nhưng lại nhặt được vợ – thị giữa những năm tháng của nạn đói. Diễn biến tâm trạng thị từ khi theo Tràng về vào đêm hôm trước đến sáng hôm sau có nhiều chuyển biến phức tạp, đồng thời bộc lộ nhiều vẻ đẹp của người lao động trước cách mạng.

    Khi viết về nhân vật thị, Kim Lân có vẻ khá kiệm lời. Thị hiện lên trong tác phẩm với con số không tròn trĩnh: Không tên tuổi, không quê quán, không nghề nghiệp, không người thân, không gia đình. Vẻ ngoài của thị được miêu tả vô cùng thảm hại: “Áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Chỉ qua hai lần gặp gỡ, bốn bát bánh đúc, mấy câu bông đùa, thị đã theo không Tràng về làm vợ. Thị bấu víu lấy Tràng như người sắp chết đuối vớ được phao trong bể lũ nạn đói khốn khổ. Trên đường về nhà Tràng, thị bị trẻ con và người dân trong xóm nhòm ngó, chỉ trỏ, thị “ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia”. Hành động và tâm trạng của thị được tác giả mở ra và đào sâu từ đó.

    Nếu ở những lần đầu gặp gỡ, thị hiện lên là một người phụ nữ chao chát, chỏng lỏn, không có ý tứ thì khi trở thành vợ Tràng, thị có những thay đổi bất ngờ. Về đến nơi, thị “lẳng lặng theo hắn vào trong nhà”, đảo mắt nhìn “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”. Thị nén một tiếng thở dài. Không hẳn tiếng “thở dài” ấy là bởi nhìn thấy cảnh nghèo túng xác xơ của nhà Tràng. Thị chắc thừa hiểu và đoán được hoàn cảnh của một người đi kéo xe bò thuê. Thị theo về nhưng trong lòng vẫn chưa dứt khoát lắm. Thị theo như một sự liều mình. Nhưng khi đặt chân vào ngõ, khi không thể thêm lần thay đổi được tình cảnh, phải thực sự chấp nhận cuộc sống mới dù cuộc sống đó có thế nào đi nữa, thì một tiếng thở dài là không tránh khỏi. Thị “nén” tiếng thở dài. Đó là hành động ý nhị, giữ cho Tràng chút thể diện, cũng là để an ủi mình chấp nhận số phận. Khi bước vào nhà, sau tấm phên rách, “những niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất” đập vào mắt thị. Nghe Tràng giải thích: “Không có người đàn bà, nhà cửa thế đấy!”, thị chỉ “nhếch mép cười nhạt nhẽo”. Hành động của thị là khinh bỉ ư? Không phải. Chính Kim Lân trong một lần phỏng vấn đã thanh minh cho thị. Ông nói: “Thị “nhếch mép” nhạt nhẽo vì ý khác. Thị tủi cho cái thân phận của thị, thân phận theo trai vì đói: thị biết thị theo Tràng chỉ vì đói và như thế không xứng đáng gì với tư cách người đàn bà trong gia đình Tràng vừa gán cho”. Rõ ràng, thị là người đàn bà có suy nghĩ sâu xa, ý thức sâu sắc về thân phận của mình. Dẫu có thất vọng đôi chút về hoàn cảnh của người tự khoe “rích bố cu” nhưng thị hiểu rằng ngoài Tràng, sẽ chẳng có ai cứu vớt thị, chẳng có ai dám “đèo bòng” trong cái “tao đoạn” này.

    Trong khi Tràng suốt ruột chờ mẹ về để thưa chuyện, thị ở trong nhà chỉ dám “ngồi mớm ở mép giường”. Thị đã có sẵn mặc cảm về thân phận mình cho nên đã chấp nhận hoàn cảnh sống với đôi mắt vô hồn nhìn “bần thần” đâu đó. Thị chỉ dám ngồi ở mép giường. Tư thế “ngồi mớm ở mép giường” và hai tay vẫn không rời cái thúng, chứng tỏ thị hơn ai hết hiểu rõ số phận của mình. Cái dáng ngồi cũng chênh vênh như cuộc đời thị lúc này. Hẳn thị đang lo lắng và cả đôi chút sợ hãi. Sợ khi ở một nơi hoàn toàn xa lạ, lo vì chắc gì mẹ Tràng đã chấp nhận cho thị về làm vợ Tràng. Nếu mẹ Tràng không đồng ý, cuộc đời thị sẽ đi về đâu. Thị làm ta nhớ đến số phận long đong của những người phụ nữ, nhất là phụ nữ trong xã hội xưa:

    “Thân em như trái bần trôi
    Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu”

    Hay

    “Buồn trông ngọn nước mới sa,
    Hoa trôi man mác, biết là về đâu?”

    Kiều, thị hay bao người con gái vô danh trong ca dao đều có số phận mong manh, trôi nổi, đều bị những cơn sóng dữ của cuộc đời xô đẩy không thương tiếc. Những khác với những người con gái trong xã hội cũ chỉ biết cam chịu và chấp nhận, thị đã mạnh mẽ đứng lên tự giành lấy sự sống cho mình. Đây cũng là vẻ đẹp mới của con người, nhất là người phụ nữ trong văn học hiện đại khác với văn học thời kì trước đó.

    Khi mẹ Tràng về, thị không ngồi nữa mà đứng dậy vừa thể hiện tâm trạng lo lắng, vừa cho thấy thái độ tôn trọng bà cụ Tứ của thị. Thị chào hai lần, lễ phép. Không còn thấy thị vồ vập, vô duyên khi bị cái đói dồn ép nữa, bây giờ thị mẫu mực, lễ phép, ngoan hiền, mang tâm trạng của một nàng dâu mới khép nép trước mặt mẹ chồng. Đứng trước bà cụ Tứ, trông thị rất đáng thương: “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt”. Nghe bà cụ Tứ nói: “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân” thị “vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ”. Đó là tâm trạng của một người con gái lấy chồng không một quả cau, một lá trầu, không lễ rước cưới hỏi. Tủi cho cảnh ngộ. Tủi cho duyên số. Thật đáng thương bao! Chỉ trong một buổi tối ngắn ngủi, thông qua diễn biến tâm trạng, Kim Lân đã cho người đọc thấy được những những vẻ đẹp khuất lấp của thị. Thị hiện lên trong tâm thức người đọc là nạn nhân cái đói nhưng ẩn sâu trong vỏ bọc xấu xí và khốn khổ là một cô gái sâu sắc, lễ phép, ý tứ, thấu hiểu lẽ đời. Thị là đại diện cho vẻ đẹp thuần hậu, chất phác những cô gái Việt Nam từ bao đời:

    “Thân em như củ ấu gai,
    Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen.
    Ai ơi nếm thử mà xem!
    Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi.”

    Tối theo Tràng về, thị đã bộc lộ nhiều nét tính cách tốt đẹp. Đến sáng hôm sau, tâm trạng và hành động của thị càng thể hiện rõ điều đó. Nàng dâu mới rất biết ý tứ: Dậy sớm cùng mẹ chồng quét tước, thu dọn nhà cửa sạch sẽ gọn gàng, xây đắp tổ ấm hạnh phúc. Thị đã thay đổi hoàn toàn qua điểm nhìn của Tràng: “Tràng nom thị hôm nay khác hẳn, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực….” Tiếng chổi quét sân của Thị “kêu sàn sạt trên mặt đất” tưởng như niềm vui đang xôn xao trong lòng Thị? Thị “lẳng lặng” đi vào bếp dọn bữa ăn sáng. Nhà văn không miêu tả kĩ nội tâm nhân vật thị, chỉ để hình ảnh thị hiện lên qua con mắt và cảm nhận của những nhân vật khác. Tràng cảm thấy vợ mình “khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực”. Bà cụ Tứ đã có “nàng dâu mới”, Tràng đã có vợ. Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Hẳn tâm trạng thị cũng thoải mái và vui vẻ thì mới có thể truyền cảm giác ấy đến mẹ con Tràng.

    Trong bữa cơm ngày đói đón nàng dâu dù chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi người được hai bát lưng đã hết nhẵn” nhưng không khí gia đình vẫn rất đầm ấm. Khi được mẹ chồng đãi món “chè khoán” “ngon đáo để”. “Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại”. Thị nhận ra ngay đó là cháo cám rất đắng, chát, khó ăn nhưng thị không biểu hiện gì là không vui hay không vừa ý. Thị vẫn “điềm nhiên và vào miệng”. Đây là một chi tiết rất đắt, vừa thể hiện sự tinh tế, sâu sắc trong nhận thức vừa là sự khéo léo trong cách cư xử của người đàn bà tưởng như vô học nọ. Chị hiểu ra cơ sự của mẹ con Tràng nhưng chị không muốn làm mất đi niềm vui của người mẹ chồng già nua, tội nghiệp. Thị nuốt thẳng miếng cháo cám vì sợ mẹ phiền lòng. Hơn nữa trong sâu thẳm suy nghĩ của thị, thị chấp nhận cuộc sống khổ cực dẫu tương lai còn mờ tịt. Để có bữa cháo cám này, để giành giật lấy sự sống này, thị đã phải đánh đổi cả danh dự và nhân phẩm. Bởi vậy hơn ai hết, thị khát khao được sống, khát khao có được hạnh phúc, khát khao được yêu thương. Thị bây giờ mang một tâm thế khác, tâm thế của một người vợ, một cô con dâu đảm đang, đúng mực, vun vén cho gia đình nhỏ của mình. Thị hướng tới một tương lai tươi sáng khi người phụ nữ này chính là người nói nhiều nhất về đoàn người đi phá kho thóc của Nhật. Thị đã khai sáng cho Tràng và bà cụ Tứ để rồi hình ảnh đoàn người đi phá kho thóc và lá cờ đỏ sao vàng cứ xuất hiện mãi trong tâm trí của Tràng. Ta cảm thấy nhân vật vợ Tràng, “nàng dâu mới” cũng là người truyền tin cách mạng. Bỏ qua hết những khó khăn, hiện lên nơi thị, lan tỏa đến Tràng, bà cụ tứ là niềm vui, niềm hy vọng vào tương lai tươi sáng hơn.

    Mặc dù nhân vật thị không được nhà văn Kim Lân tập trung nhiều bút lực, nhưng thông qua tâm trạng thị, ta thấy ánh lên vẻ đẹp của người lao động trước cách mạng. Nhà văn không đặt tên cho thị, đó cũng là một dụng ý nghệ thuật. Không có tên tuổi nhưng thị là hiện thân, là đại diện cho những người dân bình dị. Cái đói là một phép thử khắc nghiệt của nhân cách. Ở đó, người lao động hiện lên với tình người, với lòng ham sống mãnh liệt. Tràng hay bà cụ Tứ, đặc biệt là thị đều hướng mình tới một tương lai tươi sáng hơn. Trước cách mạng, người nông dân chưa có đường lối, chưa được định hướng rõ ràng về con đường giải phóng nhưng họ vẫn luôn kiên cường, mạnh mẽ và tin tưởng vào một tương lai tốt đẹp hơn. Thị siêng năng trong công việc nhà cửa, lễ phép, đúng mực với bà cụ Tứ, nhạy cảm, tinh tế và sâu sắc. Đó chính cũng chính là những phẩm chất tốt đẹp của con người lao động Việt Nam. Thể hiện vẻ đẹp của con người lao động là biểu hiện cơ bản của giá trị nhân đạo – giá trị cốt lõi mà Kim Lân muốn thông qua tác phẩm, thông qua nhân vật truyền tải đến bạn đọc. Với “Vợ nhặt”, Kim Lân từng tâm sự: “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn sống, sống cho ra con người”. Thị vẫn sống, sống cho ra một con người như thế.

    Bằng cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, không kịch tính nhưng sự sắp xếp các chi tiết gây được sự hứng thú, tò mò cho người đọc cùng với ngôn ngữ gần gũi, giản dị, mộc mạc mang đậm dấu ấn của vùng nông thôn Bắc Bộ và bút pháp miêu tả tâm lí, thế giới nội tâm nhân vật tinh tế. Kim Lân đã khéo léo xuất hiện mà bộc lộ hết tâm trạng và những phẩm chất tốt đẹp của mình. Kim Lân chú trọng khắc họa hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc hiểu được tâm lý của người phụ nữ.Thị tuy bị cái đói làm méo mó cả nhân hình và nhân cách nhưng khi được sống trong tình người, tâm trạng thị đi từ buồn tủi, lo lắng, mặc cảm đến tràn đầy hy vọng, thị được trở lại với bản chất tốt đẹp của mình, cũng là vẻ đẹp của người lao động Việt Nam trước cách mạng.

    Kim Lân là nhà văn viết ít, nhưng các tác phẩm của ông đều đem đến những giá trị to lớn. Nói như nhà văn Nam Cao thì “một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình…Nó làm cho người gần người hơn”. Trong truyện ngắn “Vợ nhặt” quả thực Kim Lân để thị “đau đớn” trong cái đói và vượt qua bờ cõi giới hạn của nhân phẩm và danh dự để rồi được trở về “phấn khởi” trong vòng tay bác ái của Tràng, của bà cụ Tứ . Thông qua tình huống nhặt vợ trớ trêu, dở khóc dở cười, tác giả ngầm khẳng định một chân lý: “Sự sống nảy sinh từ cái chết, hạnh phúc hiện hình từ trong những hy sinh, gian khổ, ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy”. (Nguyễn Khải)

    Phân tích về nhân vật Thị – Mẫu 2

    Đề tài về số phận của người phụ nữ luôn được ví như “mảnh đất màu mỡ”, được nhiều tác giả khai thác trong các tác phẩm của mình. Đến với văn chương trung đại, ta được thấy sự đức hạnh, tài hoa mà cũng thật bi thương, bất hạnh của họ qua “Chuyện người con gái Nam Xương”, “Truyện Kiều”. Trong kháng chiến, ta ca ngợi vẻ đẹp của những người phụ nữ kiên cường, anh dũng, trung hậu qua “Người mẹ cầm súng”, “Bếp lửa”, “Những ngôi sao xa xôi”,… Nhà văn Kim Lân thì có một góc nhìn khác. Với “Vợ nhặt”, ông đã đưa đến hình ảnh của người con gái có số phận đáng thương, gần như bị tha hóa bởi nạn đói nhưng vẫn luôn khao khát, hi vọng về tương lai. Đó chính là “thị”, một trong những nhân vật trung tâm của câu chuyện.

    Xuyên suốt truyện ngắn, Kim Lân không hề giới thiệu thị là ai. Cô không có quê hương, gia đình, không có hoàn cảnh xuất thân hay danh tính rõ ràng. Cô xuất hiện trong đám con gái “ngồi vêu ra” trước cửa nhà kho để nhặt những hạt rơi vãi, hay ai có việc gì cần thì gọi đi làm. Đến cả cái tên cô cũng không có. Nhà văn chỉ gọi cô là “thị” – một danh từ chung dùng cho tất cả những người phụ nữ. Người đọc có thể hiểu được thị chính là đại diện cho số phận của rất nhiều những cô gái khác trong nạn đói, phải lưu lạc đầu đường xó chợ, không nơi nương tựa. Nhưng may mắn hơn, thị được anh cu Tràng “nhặt” về làm vợ. Từ “nhặt” đã cho ta thấy sự rẻ mạt của con người trong thời kì đó. Con người như vật vô giá trị sống lang thang, được “nhặt” về như cọng rơm, cọng rác ngoài đường.

    Chính vì nạn đói mà ngoại hình của thị chẳng thể nào khá được. Dáng người của thị “gầy sọp”, “quần áo thì tả tơi như tổ địa”. Trên “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” chỉ nhìn thấy hai con mắt. Ngực thì gầy lép. Thị cũng giống như rất nhiều người dân khác lúc đó, vì không có cái ăn nên người trông ốm yếu, nghèo nàn, đáng thương.

    Cái đói, cái nghèo không chỉ làm cho ngoại hình của con người biến dạng, xấu xí mà cả tính cách cũng trở nên ích kỉ, chua ngoa hơn. Thị cũng thế. Khi Tràng buông lời trêu chọc, thị cong cớn không tin. Thế nhưng chỉ cần có “cơm trắng mấy giò”, cô liền “lon ton lại đẩy xe cho Tràng”, lại còn “liếc mắt cười” đầy tình tứ. Lần thứ hai gặp lại, thị “chạy sầm sập đến” chỗ Tràng, “đứng trước mặt hắn sưng sỉa”, chất vấn anh tại sao lại nuốt lời. Thậm chí, thị còn từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị hơn, làm no cái bụng đang đói meo của mình. Sau khi nghe thấy lời mời “Đấy, muốn ăn gì thì ăn”, thị lại “đon đả”, hai con mắt lập tức “sáng lên”. Rồi, Thị ăn một chập bốn bát bánh đúc. Ăn xong, Thị lại chấp nhận lời bông đùa của Tràng mà theo anh về làm vợ. Đọc đến đây, độc giả nhận thấy rằng thị chắc hẳn là người đàn bà đanh đá, chua ngoa, sẵn sàng vì miếng ăn mà đánh đổi, chẳng còn để tâm đến thể diện hay thái độ ý tứ, nết na mà người con gái cần có. Thế nhưng ẩn sâu bên trong cô lại là nét hiền thục, e thẹn đã bị cái đói làm cho lu mờ đi. Tính cách ấy chỉ được bộc lộ khi thị theo Tràng về nhà. Trên đường đi về, cô vô cùng ngượng nghịu “đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”, “Thị có vẻ rón rén, e thẹn”, “chân nọ bước díu cả vào chân kia”. Vào đến nhà, cô chỉ dám ngồi ở mép giường. Gặp bà cụ Tứ, cô cũng rất ngại ngùng, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Trải qua một ngày có quá nhiều thay đổi, sáng hôm sau, thị trở thành người vợ hiền hậu, đúng mực. Cô chẳng còn vẻ chao chát, chỏng lỏn ngày trước mà cùng mẹ chồng dọn dẹp lại ngôi nhà. Nghe lời mẹ “lẳng lặng đi vào bếp” lấy đồ ăn. Thậm chí, nhìn thấy nồi cháo cám, “mắt thị tối lại” nhưng cô vẫn điềm nhiên cho vào miệng. Chi tiết này đã thể hiện sự ý tứ, tôn trọng mẹ chồng của thị. Chính ra, thị cũng là người con gái nết na, hiền thục. Nhưng có lẽ những tháng ngày lang thang đã cướp đi vẻ đẹp ấy của cô, biến cô trở thành người đàn bà chua ngoa, đanh đá, không có lòng tự trọng. Từ đó, người đọc thấy được cái nghèo, cái đói có thể che lấp đi mặt tốt của con người nhưng không thể hoàn toàn xóa bỏ những điều tốt đẹp ấy.

    Tuy khó khăn là thế nhưng ta vẫn phải dành lời khen cho thị vì cô luôn giữ được khát vọng sống mãnh liệt. Tuy mới chỉ gặp Tràng hai lần, không biết anh ta là ai nhưng Thị vẫn chấp nhận theo anh về nhà. Cô biết rằng người đàn ông cho mình ăn này sẽ là “cọng rơm” cứu mạng cô, cưu mang cô trong nạn đói. Miễn chỉ cần có một chỗ trú khi trời mưa giông bão, cô không cần đến sính lễ hay đám cưới. Khi nhìn thấy gia cảnh nhà Tràng, tuy thất vọng nhưng Thị vẫn “nén một tiếng thở dài”, chấp nhận lựa chọn của để mình có cơ hội sống tiếp. Không chỉ có khát vọng sống mãnh liệt, thị còn có niềm tin vào tương lai tươi sáng. Cô đã kể lại câu chuyện Việt Minh phá kho thóc của Nhật trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang cho Tràng và bà cụ Tứ nghe. Từ đó, gieo vào lòng họ hi vọng về tương lai ấm no, hạnh phúc.

    Để miêu tả thị một cách chân thực, Kim Lân đã sử dụng nghệ thuật miêu tả tâm lí sắc sảo, lối kể chuyện tự nhiên, độc đáo cùng với những ngôn ngữ giản dị, mộc mạc. Ngoài ra, tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn cũng giúp cho nhân vật bộc lộ những nét tính cách, phẩm chất thú vị. Lai lịch, ngoại hình và sự biến đổi trong tính cách của thị cũng phần nào cho ta thấy được hiện thực xã hội khi đó. Nhân dân ta bị thực dân Pháp và phát xít Nhật bóc lột nặng nề. Mạng sống con người như rơm rác, cái đói khiến con người bị tha hóa về cả ngoại hình lẫn tính cách. Từ nhân vật thị, nhà văn cũng muốn thể hiện khát khao về quyền được sống, về hạnh phúc lứa đôi, về cuộc đời ấm no, hạnh phúc của tất cả người dân thời bấy giờ.

    Thị là một nhân vật độc đáo, khác lạ trong truyện ngắn của Kim Lân nói chung và nền văn học Việt Nam nói riêng. Không đi theo logic về những số phận bi kịch thông thường, cô được nhà văn xây dựng với một hình tượng đáng thương nhưng vẫn sáng lên khát vọng mãnh liệt. Tuy chỉ là người vợ được “nhặt” về nhưng chính Thị đã khiến anh cu Tràng trở thành người đàn ông chín chắn, đem lại làn gió mới cho xóm ngụ cư, cho gia đình bà cụ Tứ. Từ đó, tác giả muốn gửi gắm niềm hi vọng vào sức mạnh của tình người, của tương lai tươi sáng cho dân tộc.

    Phân tích Người vợ nhặt ngắn gọn – Mẫu 3

    Người vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Kim Lân dù không phải nhân vật trung tâm nhưng lại giữ một vị trí cực kì quan trọng trong toàn bộ tác phẩm. Có thể nói với nhân vật này, thì giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm mới được hoàn chỉnh hơn.

    Nếu như nhân vật Tràng vẫn còn có một mẹ già, một xóm ngụ cư, một công việc để kiếm sống qua ngày, chờ đến ngày xua tan được cái đói, cái khổ. Thì người vợ nhặt toàn bộ “trắng tay”. Cô tha phương cầu thực, trên người giá trị nhất chỉ còn có bộ quần áo. Hình dáng người đàn bà hiện lên cũng hết sức thảm thương: “cái ngực lép nhô lên” “áo quần tả tơi như tổ đỉa” “thị gầy sọp” “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt” hai con mắt thiếu sức sống “trũng hoáy” lại. Trong không khí u ám, nặng nề, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người” “người chết như ngả rạ” “người sống xanh xám như những bóng ma”. Và dường như cánh cửa thần chết cũng đang dần mở ra với thị.

    Không chỉ bị biến đổi về ngoại hình, mà nhân cách, tính nết của thị cũng có những thay đổi đáng lo ngại theo chiều hướng tiêu cực. Vốn là một người phụ nữ, ai có thể ngờ rằng người con gái đó vì miếng ăn dám đánh đổi cả danh dự của bản thân. Lần đầu tiên, nghe thấy câu dao của Tràng thị lấp tực chạy tới, híp mắt cười tình. Nhưng sợ trơ trẽn còn được đẩy lên một nấc nữa khi lần sau gặp lại, thị “sưng sỉa” chạy thẳng đến chỗ Tràng mà mắng.

    Rồi đến khi được Tràng thiết đãi bánh đúng, bao nhiêu sự dịu dàng, e thẹn đã biến đi đâu mất cả, thi cắm đầu vào ăn bốn bát bánh đúc, không hề ngẩng đầu, không hề trò chuyện. Toàn bộ cái nữ tính, nhân cách của thị đã bị phá hủy vì miếng ăn. Và còn lạ lùng hơn nữa, khi Tràng chỉ trêu đùa “có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” nào ngờ thị theo về thật. Cuộc hôn nhân cả một đời người, vậy mà thị quyết định thật chóng vánh. Cái đói có thể hủy hoại nhân cách, hủy hoại thiên tính nữ của một con người khủng khiếp đến vậy sao?

    Chỉ vì cái đói mà thi sẵn sàng đem trao thân gửi phận cho một người mà mình chỉ mới gặp gỡ hai lần. Thậm chí trò chuyện cũng chỉ mới tính trên đầu ngón tay. Lòng ham sống đã khiến thị đi đến quyết định liều lĩnh, khi có một cơ hội sống, thị cố gắng bám víu vào nó bằng bất kể giá nào, gạt bỏ mọi nghi lễ, gạt bỏ cái e dè của người con gái. Hành động ấy cũng cho thấy một tinh thần khỏe mạnh, long yêu cuộc sống và ham sống của người phụ nữ nông dân này. Đồng thời cũng là lời lên án gay gắt nhất về sự độc ác của bọn đế quốc, phát xít đã đầy con người đến bước đường cùng.

    Dù viết về người phụ nữ đánh mất những nét đẹp của bản thân, nhưng Kim Lân không hề khinh thường, dè bỉu mà là một tấm lòng cảm thông, trân trọng. Sau sự trơ trẽn ấy ta vẫn thấy một người phụ nữ dịu dàng, e ấp, đảm đang. Trên đường trở về, cắp cái thúng con, thị khép nép bên cạnh Tràng, ngại ngùng hi bị những đứa trẻ trêu. Và đặc biệt trong giờ phút người con dâu mới gặp mẹ chồng nàng vô cùng lo lắng, sợ hãi.

    Sự thay đổi đó, cũng khiến một chàng trai ngờ nghệch như Tràng có thể nhận ra: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn gì vẻ chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ngoài phố”. Đồng thời, thị cũng hết sức chăm chỉ, tháo vát. Dưới đôi bàn tay của người phụ nữ đảm đang nhà cửa được dọn dẹp sạch sẽ, ngôi nhà lại có thêm một sức sống mới.

    Và một điều đặc biệt là không phải Tràng hay người mẹ mà chính là cô vợ nhặt là người đầu tiên nói về lá cờ Việt Minh, về kho thóc Nhật. Đằng sau người phụ nữ tưởng như bị phá hủy hoàn toàn về nhân tính ấy, lại là một con người có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ đến như vậy. Và cũng không phải ngẫu nhiên mà Kim Lân lại giao trọng trách nói những vấn đề quan trọng, về tương lai tốt đẹp cho nhân vật vợ nhặt. Bởi không ai khác, đây là nhân vật có sức sống mạnh mẽ nhất trong tác phẩm, cũng là nhân vật có số phận bi thương nhất. Bởi vậy để cho nhân vật là người phát ngôn về tương lai, về hy vọng cũng là cách thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Kim Lân.

    Nhân vật vợ nhặt được đặt vào một tình huống truyện đặc biệt, trong tận cùng cái đói và cái chết, nhân vật bộc lộ những tính cách, những ước mơ khao khát sống mãnh liệt của mình. Không chỉ vậy, nhân vật còn mang tính chất kết nối, tạo nên sự liền mạch giữa các sự kiện trong tác phẩm. Với nhân vật người vợ nhặt, không chỉ là sáng tạo thành công của Kim Lân mà nó còn cho thấy giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc nhất của ông.

    Nhân vật Thị trong Vợ nhặt – Mẫu 4

    Khắc họa hình tượng người phụ nữ, các nhà văn thường lựa chọn những người phụ nữ tài sắc mà số phận cùng cực bị đẩy đến đường cùng. Ta từng bắt gặp những người phụ nữ lận đận trong ca dao, một nàng Kiều trong những lời thơ của Nguyễn Du, hay hình ảnh chị Dậu trong đêm tối không lối thoát… Nhưng với Kim Lân, nhà văn lại chọn một hình tượng người phụ nữ đặc biệt. Đó là hình ảnh một người phụ nữ được nhìn nhận trong nạn đói khủng khiếp, vì miếng cơm mà sẵn sàng đánh đổi cả lòng tự trọng, liều mình theo một người đàn ông xa lạ về làm vợ chỉ với bốn bát bánh đúc. Thế nhưng, ở người phụ nữ ấy, Kim Lân vẫn phát hiện ra những vẻ đẹp tưởng chừng như đã bị cái đói che khuất đi. Cùng phân tích nhân vật Thị trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân

    Truyện ngắn Vợ nhặt được sáng tác năm 1954 với tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư. Tác phẩm viết về cái đói và hiện thực khốc liệt của nạn đói 1945 nhưng thể hiện niềm tin vào cuộc sống và tình yêu thương đùm bọc lẫn nhau giữa những con người nghèo khổ như chính Kim Lân đã nói “Khi tôi viết, ý tưởng thường trực trong tôi là những người nói dù thế nào đi chăng nữa vẫn luôn khao khát cuộc sống tốt hơn, vẫn tin tưởng một cách mơ hồ vào cuộc sống tương lai”.

    Vợ nhặt kể về một gia đình nghèo trong nạn đói năm 1945. Tràng là một thanh niên chưa vợ, sống cùng mẹ trong xóm ngụ cư. Trong lúc cái đói lên đến đỉnh điểm và tung hoành khắp nơi, anh lại dắt về một người vợ. Bà cụ Tứ – mẹ Tràng cũng rất bất ngờ về điều này nhưng bà nhanh chóng hiểu ra mọi chuyện và chấp nhận người đàn bà xa lạ này là con dâu.

    Có nàng dâu mới cuộc sống gia đinh Tràng bắt đầu có sự thay đổi. Dù bữa cơm ngày đói thảm hại nhưng cũng không khiến cho mọi người mất niềm tin vào tương lai. Đặc biệt, niềm tin ấy càng được tô đậm hơn qua câu chuyện người vợ nhặt kể về đoàn người phá kho thóc cứu đói. Và người vợ nhặt, trong câu chuyện này, đóng một vai trò rất quan trọng vừa lại nạn nhân bi thảm của nạn đói, vừa là người mang đến niềm tin ánh sáng tương lai cho gia đình bà cụ Tứ.

    Trong quá trình phân tích nhân vật Thị (người vợ nhặt), ta thấy người phụ nữ này hiện lên với một số điểm chính. Thị là người có hoàn cảnh éo le, là nạn nhân của nạn đói, là một người phụ nữ khát khao hạnh phúc, khao khát cuộc sống bình dị. Bên cạnh đó, Thị cũng là người làm thay đổi cách nghĩ của Tràng và cũng là người mang đến niềm tin cho cả gia đình.

    Nhân vật thị xuất hiện không tên tuổi, không gốc gác, không gia đình. Tất cả những thông tin về thị đều là một số không tròn trĩnh, thậm chí là không có một cái tên rõ ràng chỉ được gọi là “thị, ả, người đàn bà”. Cách xây dựng nhân vật như vậy gợi một thân phận mờ nhạt, đáng thương. Và có lẽ thân phận ấy không chỉ của riêng thị mà còn của rất người những con người khác trong nạn đói. Thị chỉ như một mảnh đời trôi dạt, vô danh và hèn mọn.

    Cái đói đã làm cô thay đổi quá nhiều về cả nhân hình và nhân tính. Về nhân hình, lần trước gặp Tràng, thị còn hồn nhiên “liếc mắt, cười tít”, đon đả với anh nhưng đến lần thứ hai thì chính Tràng cũng ngạc nhiên về sự thay đổi của thị “hôm nay thị rách quá, quần áo tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”.

    Còn về nhân cách thì thị quên đi cả sự ý tứ của một người phụ nữ mà trở nên suồng sã đến bất ngờ “sầm sập chạy đến”, “sưng sỉa”, “cong cớn” mà trách mắng Tràng “Điêu! Người thế mà điêu”. Thị đã buông ra những lời nói có phần trơ trẽn sống sượng gợi ý Tràng để được ăn. Khi Tràng đồng ý thì “hai con mắt trũng xoáy của thị tức thì sáng lên” và “ngồi sà xuống…cắm đầu ăn một chập bốn bánh bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở”.

    Khi phân tích nhân vật Thị, người đọc nhận ra đó là hình tượng đáng thương hơn đáng giận. Cái đói, cái chết dồn con người vào bước đường cùng sẵn sàng làm tất cả. Thị còn chấp nhận theo không Tràng về làm vợ sau khi ăn bốn bát bánh đúc và một câu nói nửa đùa nửa thật của người đàn ông xa lạ này. Lúc này, thị không được khắc họa với những dằn vặt nội tâm hay với những ước mơ hoài bão mà mọi hành động suy nghĩ của thị chỉ quẩn quanh miếng ăn, cái đói, cái chết.

    Đó là thân phận bị rẻ rúng, bị cái đói đẩy đến đường cùng. Đây cũng chính là số phận điển hình cho những người nông dân trong nạn đói bị cái ăn dày vò, bất chấp cả phẩm giá. Bức chân dung của một người phụ nữ không được nhìn qua con mắt của một người đang yêu – Tràng, không hề được đẽo gọt mà nó hiện lên một cách thật trần trụi.

    Cuối cùng, cô đã liều lĩnh nhắm mắt đưa chân khi theo Tràng về làm vợ vì lúc này cô cần một chỗ dựa, cần một miếng ăn để tồn tại và cần một mái ấm gia đình. Phân tích nhân vật Thị, ta thấy hình ảnh cô dâu vu quy trong ngày đói cũng thật xót xa. Cô đi sau Tràng “chừng ba bốn bước”, “cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàn nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt” với một vẻ “rón rén, e thẹn”.

    Không còn là người đàn bà sỗ sàng như ban nãy để được đòi ăn, mà giờ cái vẻ rón rén ấy chính là biểu hiện của lòng tự trọng, ý thức về phẩm giá của mình. Thị ý thức được rằng mình là người vợ theo không, không có chút tôn nghiêm nào và đây cũng là con đường duy nhất. Tràng trở thành điểm tựa, cái phao duy nhất mà thị có thể bám víu vào trong lúc này.

    Cô rất lo lắng, ngập ngừng và có chút thất vọng khi về đến nhà Tràng. Nhìn xung quanh nhà Tràng thì có thể đoán được gia cảnh của Tràng cũng không khá khẩm hơn thị là bao nhiêu. Bởi “cái nhà vắng teo, đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi có dại”, vào trong nhà thì thấy “mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa, hai cái ang nước vẫn để khô cong dưới gốc ổi, đống rác mùn tung bành ngay giữa lối đi”.

    Trước tình cảnh ấy, Thị“đảo mắt nhìn xung quanh, cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài”. Ngôi nhà là nơi sự sống được ấp ủ, nâng niu, vậy mà ở đây, ngôi nhà của mẹ con bà cụ Tứ tiêu điều hoang lạnh như cạn cùng sự sống khiến cho thị đành ngậm ngùi. Dáng ngồi “mớm xuống mép giường”, có cái gì đó lo lắng, bất an, chông chênh đến tội nghiệp, hoang mang cho những ngày tháng tương lai sau này.

    Thị cũng chẳng biết quyết định theo người đàn ông này có đúng hay không, chẳng biết những ngày tháng sau này sẽ như thế nào. Phân tích nhân vật Thị ta cũng nhận ra, khi chấp nhận theo không một người xa lạ về làm vợ, thị đã phó mặc số phận của mình cho cuộc đời. Nhưng cuộc đời lại trêu ngươi thị một lần nữa. Người đàn ông hào phóng sẵn sàng cho thị bốn bánh đúc chỉ qua vài lời bông lơn hóa ra gia cảnh cũng không khá hơn thị là bao, vẫn phải chạy vạy từng bữa ăn. Thị thương cho cuộc đời mình nhưng rồi cũng đành phải chấp nhận.

    Và nỗi niềm của Thị lúc này đây ngoài buồn tủi cho số phận mình, Thị còn rất bất an. Bởi cô không biết liệu mẹ Tràng có chấp nhận một người xa lạ như cô về làm dâu, có chấp nhận cưu mang thêm một miệng ăn trong căn nhà vốn đã khốn đốn nhiều này. Vì thế, khi mẹ Tràng về, thị đã là người chủ động cất lời chào. Trước mặt mẹ chồng, thị càng rụt rè khép nép hơn, dù thị chủ động gọi bà là “u” nhưng chỉ dám “đứng nguyên một chỗ không nhúc nhích”.

    Dáng vẻ “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt” ấy cũng khiến bà mẹ già xót xa, ái ngại. Chính cái dáng vẻ ấy của thị, đã khiến bà cụ Tứ động lòng thương. Với con mắt của một người từng trải, bà cụ hiểu tất cả mọi chuyện đang diễn ra. Bà nhìn thị không bằng ánh mắt dò xét như mẹ chồng thông thường, cũng không nhìn thị với ánh mắt khinh rẻ mà bà cảm thông hết mực cho số phận của thị.

    Khi chính thức trở thành vợ của Tràng, thị đã có những thay đổi bất ngờ hay có lẽ đó mới chính là con người thật của thị trước khi bị cái đói làm mờ mắt. Cô thức dậy sớm cùng mẹ chồng quét dọn nhà cửa, thay đổi cách xưng hô với Tràng “sao nhà biết” và “nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực, không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh.”

    Phân tích nhân vật Thị, ta thấy trong hoàn cảnh này thì Thị đã bắt đầu biết vun xén cho cái gia đình nhỏ của mình. Đặc biệt, thị tỏ ra rất bình thản trước bữa ăn ngày đói. Khi nhận chén cám – “chè khoáng” từ tay mẹ chồng, ban đầu “hai con mắt thị tối lại” nhưng rồi “điềm nhiên và vào miệng”. Cô chấp nhận số phận hiện tại và cũng không muốn làm bà mẹ thêm tủi cực, xót xa.

    Phân tích nhân vật Thị để thấy dù có hoàn cảnh bất hạnh nhưng thị đã may mắn tìm được những con người giàu tình yêu thương sẵn sàng cưu mang thị, mang đến cho thị hơi ấm của tình người, của cuộc sống. Chính điều ấy đã trả lại cho thị bản chất tốt đẹp và thắp sáng lên trong thị khát khao tình yêu, khát khao một cuộc sống hạnh phúc

    Xuất hiện ở nơi mà nạn đói hiện ra với những hình ảnh thảm khốc nhất, nhưng có ai ngờ sự xuất hiện của thị đã mang đến một luồng gió mới cho nơi đây. Tiếng cười nói, trêu chọc từ lâu vốn đã im bặt bởi cái đói hiển hiện bởi cái chết đang đến dần thì hôm nay bỗng vang lên. Trẻ con thích thú trêu chọc “chông vợ hài”, còn những người dân xóm ngụ cư thì ngạc nhiên bán tán xôn xao. Không khí đã có phần bớt u ám, ảm đạm hơn.

    Không chỉ ảnh hưởng đến người dân xóm ngụ cư này, mà sự xuất hiện của thị còn mang đến sức sống hy vọng cho gia đình Tràng. Căn nhà cũng thay đổi không còn xiêu vẹo nữa mà thay vào đó là “nhà cửa sân vườn hôm nay đều được quét nước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng.

    Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã được đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi được kín nước đầy ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã được hót sạch”.

    Và thị còn khiến Tràng thấy mình nên người trưởng thành hơn, bắt đầu biết sống có trách nhiệm hơn với gia đình. Với bà cụ Tứ, thị đã thắp lên một ngọn lửa niềm tin, lạc quan. Phân tích nhân vật Thị ta thấy, niềm tin ấy tuy nhỏ bé nhưng âm ỉ và bất diệt cứ lớn dần lên trong lòng bà cụ. Bà cũng cùng con dâu vui vẻ dọn dẹp sân nhà đón chào một cuộc sống mới.

    Nó khiến bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường “cái mặt bủng beo, u ám của bà bỗng rạng rỡ hẳn lên”. Bữa cơm ngày đói thảm thương với nồi cháo với nhúm rau chuối thái rối nhưng cũng đủ để gắn kết những con người này lại với nhau tạo nên một không khí gia đình ấm cúng, hòa hợp.

    Điều quan trọng hơn, thị còn đem đến tin tức về cách mạng. Thị là người đầu tiên kể cho cả nhà nghe câu chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người dân không chịu đóng thuế nữa mà đi phá kho thóc của Nhật chia cho người đói. Câu chuyện ấy khiến Tràng thấy ân hận và tiếc rẻ khi mình không tham gia vào đoàn người đi phá kho thóc mà Tràng từng gặp. Thị đã mang lại nguồn sáng là người báo tin cách mạng. Và điều ấy đã dự cảm trước sự thay đổi trong tương lai.

    Hình tượng nhân vật người vợ nhặt được khắc họa một cách chân thật từ ngoại hình tính cách cho đến số phận. Phân tích nhân vật Thị để thấy đây là hình tượng có ý nghĩa tiêu biểu cho thân phận tội nghiệp cho những người nghèo đói, cho khát vọng sống mãnh liệt và ước muốn có một mái ấm gia đình trong hoàn cảnh nghiệt ngã.

    Phân tích nhân vật Thị để thấy khi được sống trong sự yêu thương, đùm bọc, chở che, cô trở về đúng với bản chất tốt đẹp của mình gợi lên sự đồng cảm, trắc ẩn cho người đọc. Người phụ nữ ấy xuất hiện trong tác phẩm tuy không mang vẻ đẹp kiêu sa lộng lẫy nhưng lại mang đến một cảm giác ấm áp, mang đến làn gió tươi mát cho căn nhà u ám đang bên bờ vực của cái chết.

    Người vợ nhặt chính là đại diện tiêu biểu cho số phận con người trong nạn đói thảm khốc năm 1945. Qua đó, nhà văn đã lên án tố cáo tội ác dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Đồng thời, Kim Lân còn thể hiện sự đồng cảm xót xa cho số phận những con người nghèo khổ. Nhưng Kim Lân dù khắc họa họ là những nạn nhân khổ đau của nạn đói nhưng vẫn hiện lên những vẻ đẹp trong cuộc sống bình dị đời thường. Đó là vẻ đẹp của tình yêu thương. Và còn là vẻ đẹp của khát khao hạnh phúc, trong hoàn cảnh tối tăm vẫn hướng về một tương lai tươi sáng.

    Phân tích Thị trong Vợ nhặt – Mẫu 5

    Kim Lân (sinh năm 1920, mất năm 2007) là cây bút chuyên viết truyện ngắn của nền văn học Việt Nam. Thế giới nghệ thuật của ông chủ yếu tập trung ở khung cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân. Có lẽ vì sinh ra trong gia đình có hoàn cảnh khó khăn nên ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lý của những người nông dân nghèo, những con người gắn bó tha thiết với quê hương và cách mạng. Trong kho tàng tác phẩm của ông, truyện ngắn Vợ nhặt là tác phẩm xuất sắc nhất, và trong đó nhân vật Thị là nhân vật đem lại nhiều ấn tượng sâu sắc cho độc giả.

    Nhân vật người vợ nhặt được Kim Lâm xây dựng là một người phụ nữ không tên tuổi, không gốc gác, quê quán, không người thân, họ hàng. Tác giả gọi nhân vật bằng đại từ phiếm chỉ “Thị”, “ả”, “người đàn bà” cho thấy thân phận mờ nhạt, đáng thương của nhân vật, nhưng đây cũng là cách mà tác giả gợi đến cho người đọc hình ảnh của bất cứ người đàn bà khốn khổ, nghèo đói, cùng đường và liều lĩnh trong xã hội thời đó. Chỉ vài câu miêu tả ngắn ngủi, Kim Lân đã cho thấy sự hiện hình của cái đói trên khuôn mặt Thị: “Áo quần tả tơi như tổ đỉa, Thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.” Không chỉ là hình dáng bên ngoài, đến cả vẻ dịu dàng, nữ tính thiên bẩm của người phụ nữ ở Thị cũng bị cái đói bóp méo đến thảm hại. Thị đanh đá, táo bạo đến mức trơ trẽn, thậm chí vứt bỏ liêm sỉ.

    Lần đầu tiên gặp Tràng, khi nghe câu hò của Tràng: “Muốn ăn cơm trắng mấy giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh”, Thị đã vùng đứng dậy đẩy xe cho Tràng. Ở lần gặp thứ hai, Thị sưng sỉa đến mắng Tràng vì không giữ lời hứa, Thị từ chối lời mời ăn trầu của Tràng để được ăn một thứ có giá trị hơn. Khi được mời ăn thì Thị mắt sáng lên, không ngại ngùng mà “ngồi sà xuống ăn một chập bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Trong con mắt của chúng ta, Thị sao mà vô duyên, trơ trẽn quá. Nhưng ôi chao, đó đâu phải bản chất của Thị, là cái đói cái khổ cào cấu ruột gan đã khiến Thị quên hẳn ý tứ, đánh mất đi sự e thẹn vốn có của người con gái trước mặt một người đàn ông mới quen. Khi nghe Tràng nói bông đùa: “Này nói đùa chứ, có về ở với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” mà “Thị về thật”. Có thể thấy, đến cả việc lấy chồng, theo một người đàn ông về nhà chung sống cả đời Thị cũng quyết định theo bản năng, dù cho ánh nhìn và những lời bàn tán của người dân xóm ngụ cư đang nhắm thẳng vào Thị khiến Thị xấu hổ, tủi nhục. Tuy nhiên, từ chi tiết này ta cũng có thể thấy hình ảnh một người con gái có lòng ham sống mãnh liệt. Thị đồng ý theo Tràng là để được sống chứ không phải loại đàn bà con gái lẳng lơ. Thị không cần mai mối, không cần cưới hỏi, không cần mâm cao cỗ đầy, Thị theo Tràng về nhà chỉ với hy vọng có miếng ăn.

    Về tới nhà Tràng, thấy cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại, trong nhà, niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất, thì chị ta không khỏi chán nản, thất vọng: “Thị đảo mắt nhìn xung quanh, cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài”. Hóa ra gia cảnh của anh chàng mới ban trưa còn vỗ vỗ vào túi khoe rích bố cu là thế này đây! Chị còn biết làm sao được nữa? Việc đã rồi! Thất vọng, buồn tủi, chua xót quá nên mặc cho Tràng lăng xăng, đon đả, chị ta chỉ nhếch mép cười nhạt nhẽo. Tràng mời ngồi, chị ta chỉ “ngồi mớm xuống mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”.

    Khi gặp bà cụ Tứ – mẹ của Tràng, Thị lại quay về dáng vẻ khép nép, e thẹn của người con gái mới về nhà chồng. Nếu như hôm qua, cái đói đã làm mất đi những gì là nữ tính ở chị thì hôm nay, chỉ sau một bữa ăn no, một đêm ngủ ấm dưới mái nhà bình yên thì vẻ đẹp ấy đã trở về với Thị. Thị bắt đầu vun vén cho tổ ấm của mình: “Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng.Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch”. Thị như một cơn gió mát lành thổi vào cuộc sống u ám của hai mẹ con Tràng, khiến sự sống trở về với người, với cảnh. Sự thay đổi ấy khiến Tràng không khỏi ngạc nhiên: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Còn bà cụ Tứ thì “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo, u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Vẻ đẹp tiềm tàng của người vợ nhặt này còn thể hiện qua một chi tiết rất nhỏ trong bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng, khi được mẹ chồng đưa cho bát chè cám “đắng nghét, nghẹn bứ nơi cổ họng”, hai con mắt chị ta thoảng tối lại, nhưng ngay sau đó, chị điềm nhiên và vào miệng. Đây là một chi tiết rất đắt, thể hiện sự tinh tế trong nhận thức và sự khéo léo trong cách cư xử của người đàn bà tưởng chừng như đanh đá, trơ trẽn. Chị hiểu ra cơ sự của mẹ con Tràng nhưng chị không muốn làm mất đi niềm vui của người mẹ chồng già nua, tội nghiệp. Cuối cùng cảnh Thị kể việc ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế mà đi phá kho thóc của Nhật đã bộc lộ những suy nghĩ và hướng nhìn mới của Thị, người đàn bà này không cam chịu cuộc đời đói kém, và có lẽ trong một mai thị sẽ cùng chồng là Tràng đi phá kho thóc, theo cách mạng để giải phóng cuộc đời, tìm kiếm một tương lai tươi sáng hơn.

    Nhân vật Thị trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân là nhân vật đại diện cho hàng ngàn người phụ nữ nói riêng và hàng triệu người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945. Đây là một nhân chứng có ý nghĩa tố cáo, lên án tội ác tày trời của Nhật và Pháp khi gây ra nạn đói khủng khiếp đẩy nhân dân ta vào cảnh lầm than, không được sống đúng nghĩa là một con người. Cũng qua tác phẩm này, nhà văn Kim Lân đã khắc họa nên hình ảnh người vợ nhặt vô cùng thành công. Tác giả chú trọng khắc họa từng hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc hiểu được tâm lí của người phụ nữ. Nhà văn lựa chọn được những chi tiết rất phù hợp để bộc lộ số phận cũng như vẻ đẹp của nhân vật. Từ đó làm nổi bật lên những phẩm chất quý giá của người phụ nữ Việt Nam dù họ không có vẻ ngoài đẹp đẽ hay ở trong hoàn cảnh lầm than.

    Phân tích nhân vật Vợ nhặt – Mẫu 6

    Trong tác phẩm Vợ nhặt người vợ đã không thực sự được khai thác nhiều. Nhưng với nhân vật này, tác giả Kim Lân cũng gửi đến những thông điệp đầy ý nghĩa và nhân văn, đã thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của tác giả.

    Người vợ nhặt được cũng được xây dựng là người phụ nữ nghèo khổ, cơ cực, túng quẫn. Thị không có bất cứ giá sản gì, ngay cả cái tên cũng không có, nếu Thị chỉ được gọi một cách chung chung và đầy rẻ rúng chính là vợ nhặt. Thị không có nhà cửa, hai lần đã gặp Tràng chỉ thấy thị vất vưởng nơi đầu đường xó chợ. Thị không có họ hàng, cũng không có nghề nghiệp. Trong hoàn cảnh toàn dân Việt Nam đang phải oằn mình chống đã lại nạn đói, thị không có bất cứ một chỗ dựa nào, thị sống trong sự dồn đuổi của những cái chết, hàng ngày, hàng giờ, và cái đói đã biến thị trở nên xanh xao, hốc hác, gò má cao, không còn một chút sự sống.

    Chính hoàn cảnh đã bị đẩy đến bước đường cùng, đã khiến cho thị đánh mất lòng tự trọng của chính bản thân. Nỗi ám ảnh về cái đói, và cái chết không chỉ vắt kiệt sự sống của người đàn bà nghèo mà còn xói mòn cả nhân cách, nhân phẩm của thị, nó được thể hiện rõ qua hai lần gặp gỡ với nhân vật Tràng. Lần thứ nhất, gặp Tràng vốn là người đã không quen biết, chỉ vì một câu hò vu vơ, nàng Thị đang ton ton chạy ra, híp mắt cười tình, rồi đẩy xe bò cho anh Tràng. Mãnh lực của miếng ăn quá lớn, khiến thị đánh mất sự e dè, và thẹn thùng vốn có.

    Lần thứ hai gặp lại sự trơ trẽn, đã vô duyên đã đánh mất cả lòng tự trọng. Sau lần gặp gỡ đầu, không có bất cứ một lời hẹn ước nào cả, nhưng khi gặp lại Tràng, thi sầm sập chạy đến, đứng trước mặt mà nói là: “Điêu! Điêu. Người thế mà điêu”. Và chỉ đến khi nhận được lời mời cho đi ăn, thì thị đã không còn chút ý tứ, ngồi xuống cắm đầu ăn một chặp hết cả bốn bát bánh đúc. Những câu văn ngắn diễn tả hành động ăn uống thô tục, đã lỗ mãng của thị. Nỗi ám ảnh của cái đói đã khiến thị trở nên táo bạo, và liều lĩnh. Nhân cách, lòng tự trọng là đáng quý nhất đối với con người đã bị bán rẻ vì miếng ăn. Đó là hiện thực đau xót mà không chỉ có cô vợ nhặt mới vậy, mà rất nhiều người dân Việt Nam rơi vào tình cảnh này. Và liều lĩnh nhất là chỉ có một câu nói đùa của Tràng, cô đã theo anh về làm vợ nagy. Trong hoàn cảnh không còn đâu để bấu víu đó , thì dù có là vợ nhặt cô cũng chấp nhận để thoát khỏi được sự truy đuổi của thần chết.

    Cũng như nhân vật Tràng, sau khi đã lập gia đình, người vợ nhặt đã có sự thay đổi vô cùng lớn. Đầu tiên là sự thay đổi tâm lý, tính cách, trên đường về nhà, trước sự để ý của người dân, thị cắp cái thúng con, e dè, ngại ngùng và đi cạnh Tràng. Những biểu hiện ở dáng điệu đó cho thấy cái sự xấu hổ, ngượng ngùng trong tâm lý của thị. Đó cũng là biểu hiện đầu tiên là đánh dấu sự trở lại của nữ tính, sự trơ trẽn, chỏng lỏn đã không còn như trước. Trong lòng cô vợ nhặt còn dấy lên niềm lo lắng cho tương lai và về đến nhà, nhìn thấy ngôi nhà xiêu vẹo, đầy những cỏ dại vây xung quanh, với cái ngực lép của thị nhô lên, nén một tiếng thở dài. Vào đến nhà, cô ngồi ghế ở mép giường, tay ôm chặt cái thúng.

    Trước mặt mẹ chồng, cô cũng đã lễ phép chào hỏi, tay mân mê tà áo đã rách bợt đi. Những hành động, cử chỉ của thị thể hiện một sự tâm lí dễ hiểu đó là sự e thẹn khi lần đầu tiền đối diện với người mẹ chồng. Song cũng bộc lộ phần nào sự lễ phép, dịu dàng trong những cách giao tiếp với người lớn tuổi. Những biểu hiện này một lần nữa cho thấy, đó là cái chỏng lỏn chỉ là sản phẩm của sự xô đẩy của hoàn cảnh, còn trong thẳm sâu bản chất đó thì vẫn là tâm hồn đầy nữ tính.

    Sự thay đổi rõ nhất trong cái tính cách chính là buổi sáng đầu tiên sau khi thị đã lấy chồng. Qua cái nhìn của nhân vật Tràng, khi thị hôm nay đã khác hẳn, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, rất đúng mực, không còn chao chát, chỏng lỏn như mấy lần gặp ở ngoài tỉnh. Những thay đổi trong cảm nhận của Tràng xuất phát từ việc làm hết sức giản dị mà ý nghĩa mà cô vợ đã nhặt đã làm: dậy sớm, cùng mẹ dọn dẹp, quét tước nhà cửa,… khi đó Thị đã đem đến màu sắc tươi sáng vào căn nhà lạnh lẽo, u ám của Tràng. Tất cả những hành động đó cũng đã cho thấy sự đảm đang, tháo vát của cô đã cùng cho thấy thị thực sự yêu thương, trân trọng tổ ấm gia đình, và có khát vọng thật mãnh liệt vào hạnh phúc gia đình.

    Không chỉ biến chuyển trong tính cách mà thị còn có một sự biến chuyển trong nhận thức. Hạnh phúc đối với người vợ nhặt quả không hề dễ dàng, và bởi sự dồn đổi của cái đói và cái chết. Đêm tân hôn của hai vợ chồng cũng phải diễn ra trong tiếng khóc tỉ tê của nhiều những gia đình có người chết. Bữa cơm đầu tiên đón cô dâu mới chính là nồi cháo cám mặn chát, và lõng bõng là nước. Nhưng chính lúc ấy, trong tâm hồn thị vẫn còn có niềm tin mãnh liệt vào tương lai.

    Không phải ngẫu nhiên, trong ba nhân vật nhà văn Kim Lân lại chọn thị chứ không phải hai nhân vật còn lại nói về khởi nghĩa, đã phá kho thóc Nhật. Có lẽ bởi một người dám đánh đổi tất cả, và kể cả trở thành vợ nhất để được sống, thì khát vọng sống, hạnh phúc ở họ là không thể đi hủy diệt. Dù không nói rõ về tương lai, nhưng ở một con người đã ham sống, ở một tinh thần khỏe khoắn như người vợ nhặt, Kim Lân cũng cho thấy tinh thần hăng hái, chắc chắn là Thị sẽ theo cách mạng.

    Nhân vật người vợ nhặt được tác giả Kim Lân đặt vào tình huống hết sức độc đáo, từ đó nhân vật bộc lộ tâm trạng, với cách hành xử của bản thân. Nhân vật được tập trung khắc họa ở cử chỉ, nơi hành động qua đó làm bật lên vẻ đẹp của người vợ nhật.

    Bằng ngòi bút tin yêu và trân trọng, nhà văn Kim Lân đã dựng lên một chân dung bất hủ của văn học. Người vợ nhặt chính là nạn nhân tiêu biểu nhất của nhiều người nạn đói năm 1945, nạn đói đã làm nhòe mờ nhân cách, với lòng tự trọng của nhân vật. Nhưng ẩn sâu trong con người ấy vẫn chính là một người phụ nữ đầy dịu dàng, nữ tính, và biết vun vén có khao khát hạnh phúc mãnh liệt, đồng thời cũng là người có niềm tin và có những mãnh liệt vào tương lai.

    Phân tích Thị trong Vợ nhặt – Mẫu 7

    Nhân vật “Thị” là một trong thành công đặc sắc của Kim Lân trong nghệ thuật phân tích tâm trạng của người phụ nữ cùng khổ trong nạn đói năm Ất Dậu 1945.

    Nhân vật vợ Tràng đã được miêu tả bằng những nét ám ảnh, xót thương, và có vai trò tô đậm tư tưởng nhân đạo của tác phẩm Vợ Nhặt.

    Trận đói đã đang diễn ra vô cùng khủng khiếp. Người chết đói như ngả rạ khi quạ bay vù lên như những đám mây đen trên bầu trời. Đoàn người chạy đói từ những vùng Nam Định, rồi Thái Bình đội chiếu lũ lượt như những bóng ma xanh xám, đã nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Mùi gây của xác người thị cũng chạy đói “ngồi vêu ra” cùng với mấy chị con gái nơi cửa nhà kho. Không họ tên, và không rõ quê quán, tuổi tác. Chắc cha mẹ và anh chị em đã chết đói cả rồi? Cái đói đã cướp đi của tất cả và lần đầu nghe Tràng hò “muốn ăn cơm trắng mấy giò…”, Thị đã bị mấy cô bạn “đẩy vai”. Thị “cười như nắc nẻ” cong cớn nói với Tràng rằng: “Này nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?”. Thị “liếc mắt cười tít” làm cho anh cu Tràng này “thích lắm”. Lần sau, Thị gặp lại Tràng thì thay đổi hẳn. Áo quần rách tả tơi như tổ đỉa và Thị gầy sọp đi. Khuôn mặt lưỡi cày đã xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Dưới chân Thị là vực thẳm, đó là chết đói! Thị “sưng sỉa” trách Tràng là “điêu”, “leo lẻo cái mồm hẹn xuống thế mà đã mất mặt!”. Thấy Tràng vỗ vào cái túi khoe “rích bố cu”, và hai con mắt “trũng hoáy” của Thị tức thì đã sáng lên. Thị “đon đả” với anh cu Tràng: “Ăn thật nhá!”. Thị đã ăn cắp liền một chặp bốn bát bánh đúc rồi thở, và lời khen: “Hà, ngon!”. Cũng biết đùa, và biết trêu giai như phần đông các cô gái khác, khi nói với Tràng rất lẳng lơ: “Về chị ấy thấy hụt thì bỏ bố!”. Chỉ có một câu nói tầm phào của Tràng “làm đếch gì có vợ…”, thế là Thị đã theo về ngay, “Thị về thật”. Khi đứng trong cái nhà “vắng teo… rúm ró” của người mẹ con Tràng, Thị đảo mắt nhìn xung quanh, thất vọng “cái ngực gầy lép nhô hẳn lên, đã nén một tiếng thở dài”.

    Từ dáng điệu, đến cử chỉ đến cách ăn nói đối đáp, Thị vừa cong cớn, vừa thô lỗ và sỗ sàng. Thị đã nhịn đói nhiều ngày và bị cái đói hành hạ đến chết đói là điều cầm chắc là cần được ăn để sống. Thị cần có nơi nương tựa để khỏi chết đói của bản chất tốt đẹp của người con gái đã bị nạn đói, khi cái đói khủng khiếp cướp mất đi, che lấp đi họ thật đáng thương! Thị có khác gì người ăn mày nọ không:

    “Ăn mày là ai? Ăn mày là ta!
    Đói cơm rách áo hóa ra ăn mày!”

    (Ca dao)

    Bản chất của người con gái đói khổ ấy không rõ họ tên này không phải là xấu. Cách kể, cách tả của Kim Lân rất đôn hậu, và nhiều bao dung, thương cảm, đem đến cho ta nhiều xúc động ấy.

    Chỉ qua một ngày một đêm, và sau khi đã thành vợ của Tràng, thành “nàng dâu mới” của bà cụ Tứ, ta đã thấy nhân vật này có những biểu hiện, những tình cảm tốt đẹp như bao người phụ nữ khác. Dù cho kề bên cái chết, cô gái này đã vẫn khao khát hạnh phúc, muốn được sống trong mái ấm của gia đình, một mái ấm tình thương, đã có chồng con như những người đàn bà may mắn khác. Trước cái nhìn tò mò của những bà con xóm chợ, Thị “ngượng nghịu, với chân nọ bước dịu cả vào chân kia”. Nghe bọn trẻ con nó gào lên: “Anh Tràng ơi! Chông vợ hài”, Thị “nhíu đôi mày lại”, rồi đưa tay hướng lên “xóc xóc lại tà áo”. Chưa gặp bà cụ Tứ, Thị rất băn khoăn và thực sự lo lắng “mặt bần thần”. Đứng trước mặt mẹ chồng, trông Thị rất đáng thương và bỡ ngỡ: “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt”.

    Nghe bà cụ Tứ đã nói: “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây để cho đỡ mỏi chân” Thị “vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ”. Đó chính là tâm trạng của một người con gái lấy chồng không một quả cau, một lá trầu và không cưới. Tủi cho cảnh ngộ. Tủi cho duyên số đó thật đáng thương!.

    Thị cũng có rất nhiều biểu hiện rất nữ tính “hay đáo để”. Cái “liếc mắt cười tít” lần đầu gặp Tràng. Cái phát đánh đét vào lưng vào Tràng với tiếng mắng yêu: “Khỉ gió”. Một lời trách nhẹ chồng là: “… chuyện đại thế, đợi sốt cả ruột”. Một cái củng vào trán Tràng rồi kèm theo câu nói yêu: “Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!”. Sau bao tháng ngày, chạy đói, và sống vất vưởng lang thang nơi đầu đường xó chợ, cái chết đói đến dần, Thị cũng đã trở thành vợ của Tràng, dù còn nhiều thử thách lo lắng, nhưng Thị sẽ có sự đổi đời. Niềm vui trong tối tân hôn thể hiện cảm động với niềm khát khao hạnh phúc của một người phụ nữ trong khi đói khát hoạn nạn. Hạnh phúc muộn màng bằng nhưng đáng quý giá biết bao! Ngòi bút hóm hỉnh của Kim Lân thể hiện biết bao trân trọng trước niềm vui hạnh phúc và sự đổi đời của nhân vật vợ chồng Tràng.

    Nhân vật vợ Tràng có nhiều thay đổi tốt đẹp đã dậy sớm cùng mẹ chồng quét tước, thu dọn nhà cửa sạch sẽ gọn gàng, và xây đắp tổ ấm hạnh phúc. Tiếng chổi quét sân của Thị đã “kêu sàn sạt trên mặt đất” tưởng như niềm vui đang xôn xao trong lòng Thị và khi Thị “lẳng lặng” đi vào bếp dọn bữa ăn sáng, Tràng cảm thấy vợ mình rất là đáng yêu. Bà cụ Tứ đã có “nàng dâu mới”, khi Tràng đã có vợ. Nhà thêm người, thêm bát đũa, và thêm nhân lực. Thị đã đem sinh khí, với thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng cũng Nghe tiếng trống thúc thuế, khi Thị nói với mẹ chồng và chồng: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không có chịu đóng thuế nữa ta cả kho thóc của Nhật chia cho những người đói nữa đấy”. Qua đó, ta cảm thấy nhân vật vợ Tràng là “nàng dâu mới” cũng là người truyền tin cách mạng.

    Vai trò nhân vật vợ Tràng trong câu truyện “Vợ nhặt” là một nhân chứng tố cáo, lên án tội ác tày trời của Nhật và Pháp gây ra nạn đói năm 1945 làm hơn hai triệu đồng bào ta đã bị chết đói. Nạn đói do chúng gây ra khủng khiếp cũng đã hạ thấp nhân phẩm con người, cướp đi mọi giá trị của con người biến người và con gái như một thứ đồ rẻ rúng có thể “nhặt” được!

    Nhân vật vợ Tràng gầy đói xác xơ, khi về làm dâu bà cụ Tứ phải mặc áo quần rách như tổ đỉa, với bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng là một bữa cháo cám – hình ảnh ấy, và tình tiết ấy thật đáng thương. Và đó cũng là nỗi đau, là nỗi nhục của nhân dân ta trong cảnh lầm than nô lệ.

    Nhân vật vợ Tràng trong truyện “Vợ nhặt” cũng đã nói lên một sự thật ờ đời. Trong đói khổ hoạn nạn, kề bên cái chết, khi nhân dần ta vẫn khao khát được sống ấm no và hạnh phúc. Những người nghèo khổ đã biết dựa vào nhau, rồi san sẻ vật chất và tình thương cho nhau để vượt qua thử thách nơi khắc nghiệt, vươn tới ấm no hạnh phúc và sự đổi đời với niềm tin và sự: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”… Cũng như bà cụ Tứ, anh cu Tràng, và nhân vật vợ Tràng đã có vai trò thể hiện tư tưởng nhân đạo ở tác phẩm “Vợ nhặt”.

    Phân tích Thị trong Vợ nhặt – Mẫu 8

    Trong nền văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn những năm trước cách mạng và những năm đầu sau cách mạng tháng tám, Kim Lân là một trong những cái tên nổi bật nhất khi viết về đề tài người nông dân trong xã hội cũ. Dù có số lượng tác phẩm hạn chế, thế nhưng hầu như tác phẩm nào của Kim Lân cũng hay và có nhiều giá trị, là cơ sở xếp nhà văn vào một trong 9 tác giả tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Điểm sáng và đáng lưu ý nhất trong các tác phẩm của Kim Lân ấy là giọng văn nhẹ nhàng, tình cảm, các tác phẩm của ông chủ yếu tập trung làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của người, hướng đến một lối thoát nhân văn cho những kiếp người lầm than khốn khổ, chứ không tập trung tái hiện hiện thực khắc nghiệt đau thương của xã hội cũ. Vợ nhặt là một trong số những tác phẩm nổi tiếng và xuất sắc nhất của Kim Lân, đặt trong bối cảnh đất nước những ngày đau thương nhất – nạn đói năm 1945. Nhân vật vợ Tràng là một trong những kiếp người khốn khổ tột cùng, cái đói đã khiến thị tàn tạ, xơ xác, để nên xấu xí trong mắt người đời, thế nhưng khi tìm hiểu sâu về nhân vật này ta mới phát hiện ra ở thị cũng có những phẩm chất tốt đẹp, đáng quý.

    Nhân vật thị là một người đàn bà không tên, không tuổi, không quê quán, gốc gác, không gia đình, và cũng chẳng ai biết thị từ đâu đến, cả cuộc đời trước khi gặp Tràng của thị dường như chẳng có gì để nhắc người ta nhớ đến. Cái hoàn cảnh khốn khổ của thị, chính là hoàn cảnh chung của rất nhiều người nông dân trong nạn đói năm 1945, tại cái thời điểm mà kiếp người rẻ rúng như cọng rơm cọng rác nhặt ngoài đường. Không chỉ nghèo khó, không lai lịch, tên tuổi mà trên người thị còn mang đủ những bất hạnh của một người đàn bà, thị không có một nhan sắc xinh đẹp, và cái đói khổ nó lại càng làm cho cái nhan sắc xấu xí ấy thêm phần thảm hại, người ta bắt gặp thị trong bộ ““áo quần tả tơi như tổ đỉa”, người ngợm “gầy xọp”, “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, rồi “cái ngực gầy lép nhô lên” và “hai con mắt trũng hoáy”. Bấy nhiêu những nét vẽ ấy cũng đủ để thấy bản thân thị cũng đang bước dần những bước cuối đến cái nghĩa địa của cuộc đời như nhiều số phận khốn khổ khác trong nạn đói kinh hoàng.

    Đã không có một ngoại hình hấp dẫn, nhưng cách nói năng, hành động của thị cũng khiến người ta mang nhiều phản cảm. Khi nghe anh Tràng hò mấy câu đùa cho khuây khỏa, nghe thấy có cái ăn thị đã cong cớn, mỉa mai, rồi cũng chẳng biết ngại ngần thị sấn tới tranh đẩy xe với Tràng, “liếc mắt, cười tít”. Tuy nhiên sau bữa đẩy xe phụ, mà không được cái ăn, khi gặp lại Tràng thị đã sưng sỉa, chỉ thẳng vào mặt Tràng mà mắng “Điêu, người thế mà điêu”. Khi nghe thấy anh Tràng đãi ăn “hai con mắt trũng hoáy của thị sáng lên”, điệu dáng đon đả, đổi hẳn thái độ. Và rồi thị cúi đầu ăn một chặp 4 bát bánh đúc không thèm chuyện trò gì, ăn xong thì lấy đôi đũa quệt ngang miệng, thở “hà”. Quả thực trước giờ chưa từng thấy người đàn bà nào trước mặt một người đàn ông lạ mới gặp hai lần mà có thể thoải mái, thậm chí đến mức vô duyên, trơ trẽn, hành động táo bạo và bất chấp vì miếng ăn như thị. Nạn đói nó khiến cho tâm hồn và nhân cách con người trở nên rẻ rúng, thiểu não quá. Nhưng đến khi xét kỹ lại, nhìn lại những hành động của nhân vật thị một cách nhân văn hơn, ta mới nhận ra rằng, thực tế khi đứng trước cái chết, cái đói, và đứng trước viễn cảnh hàng triệu người đang chết như ngả rạ trước mặt khó ai có thể bình tĩnh và cư xử một cách bình thường nổi. Ai mà không sợ chết, thị cũng sợ chết, và ngay lúc này đây khi gặp Tràng khi phải đối diện với lưỡi hái của tử thần mà lại bắt được cọng rơm cứu mạng, thì những khao khát được sống sót của thị bùng cháy. Thị bất chấp tất cả để có được miếng ăn, vứt bỏ hết liêm sỉ, nhân cách chỉ vì được sống, quyết không buông bỏ cuộc sống dễ dàng. Không chỉ có khao khát sống mãnh liệt mà bản thân thị còn có những khao khát được hạnh phúc, được có một mái ấm, một tấm chồng để nương tựa những lúc khó khăn như này. Thành thử ra chỉ với một câu nói nửa đùa nửa thật “Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”, mà thị đã không ngần ngại nhận lời, trở thành người vợ mặt dày, mày dạn theo không Tràng. Đối với thị bây giờ cỗ bàn, đám rước đám hỏi chẳng còn quan trọng, miễn sao là có được một chỗ trú chân, một gia đình và qua được cái đói thì mọi chuyện đều có thể cho qua hết. Thế là thị đã nên vợ nên chồng với Tràng bằng những niềm hy vọng mới mẻ, thị mong rằng cái người trước mắt đã có thể sảng khoái mà đãi mình 4 bát bánh đúc, thì hẳn sau chung sống hắn cũng sẽ tử tế với mình, được nhiêu đó cũng đủ mãn nguyện rồi. Như vậy bên cạnh ý nghĩa nhân văn trong sự kiện thị theo không Tràng, thì Kim Lân cũng phản ánh một hiện thực đau xót của xã hội lúc bấy giờ: giá trị con người dường như đã xuống đến mức âm, thậm chí còn không bằng cọng rơm cọng rác, để đến nỗi những người làng trông thấy Tràng dẫn vợ về họ còn cho đó là “của nợ”.

    Những tưởng thị trời sinh đã đanh đá, chỏng lỏn và sưng sỉa nhưng khi nhìn thấy dáng vẻ của thị sau khi làm vợ Tràng ta mới nhận ra rằng, sự vô duyên, ghê gớm của thị chỉ là một cái vỏ bọc bảo vệ thị trong nạn đói, thực tế rằng thị cũng là một người phụ nữ có nhiều phẩm chất tốt đẹp được giấu kín sau dáng vẻ tàn tạ, khốn khổ kia. Trên đường trở về nhà với Tràng, thị bỗng trở nên “e thẹn, rón rén”, đầu cúi xuống, cái nón tà nghiêng nghiêng che nửa đi khuôn mặt đang ngại ngùng, đúng với dáng vẻ của một cô dâu khi bước về nhà chồng. Gặp phải cảnh trêu chọc của đám trẻ con, ánh nhìn ái ngại của những người làng, thị thấy khó chịu, tủi cho phận mình là một người vợ theo không, thành thử ra thị càng trở nên bối rối “ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả chân kia”, nom đến thương vô cùng. Khi đến nhà Tràng khung cảnh xác xơ, tiêu điều của một căn nhà tạm, không có bàn tay người đàn bà săn sóc, không khỏi khiến thị thất vọng, buồn lòng, bởi có lẽ thị đã hy vọng về một ngôi hà tươm tất, đủ đầy hơn, để cuộc đời thị từ đây bớt khổ sở. Nhưng cảnh trước mắt kém quá xa so với những gì thị tưởng tượng, tuy nhiên thị không vì thất vọng mà phàn nàn với Tràng, thị bỗng trở thành một người đàn bà nhẫn nhịn và tế nhị “cái ngực gầy lép nhô hẳn lên, rồi nén một tiếng thở dài”. Thị đã cất hết cái thất vọng, buồn bã của mình vào lòng, không để Tràng biết, quyết tâm cùng người chồng mới cưới xây dựng gia đình, phấn đấu vượt qua cái nghèo cái khó. Khi ra mắt mẹ chồng, thị đã rất phải phép mà chào bà cụ Tứ, khi tưởng cụ không nghe thấy thị đã chào thêm lần nữa, dáng điệu khép nép, ngại ngùng, thực sự thị đã lột xác trở thành một nàng dâu hiền lành, e ấp, khác hẳn với dáng bộ của người đàn bà đanh đá, chua ngoa ở chợ tỉnh.

    Sau đêm tân hôn, thị lột xác trở thành một người phụ nữ của gia đình, đảm đang tháo vát, gánh lấy cái trách nhiệm thu xếp nhà cửa, đem đống quần áo rách ra sân hong, gánh nước, quét sân, gom rác đem vứt, rồi dọn cơm,… Không khí gia đình trở nên hòa hợp vui vẻ và có nhiều hy vọng hơn cả. Đặc biệt khi đối diện với nồi cháo cám đắng ghét, nghẹn bứ nơi cổ họng của bà cụ Tứ, “đôi mắt thị tối lại” nhưng vẫn “điềm nhiên và vào miệng”, không nói năng hay tỏ thái độ gì. Cách cư xử tế nhị ấy của thị, đã bộc lộ một nét tính cách khác của thị ấy là sự thấu hiểu và cảm thông cho người mẹ già thương con, thị hiểu rằng vì nghèo quá không có gì đãi con nhân ngày tân hôn thế nên bà cụ tội nghiệp mới cố kiếm một nồi cháo cám. Và trong không khí gia đình vui vẻ ấy, thị không muốn phá hỏng nó, khiến cho bà cụ trở nên bối rối. Cuối cùng cảnh thị kể việc ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế mà đi phá kho thóc của Nhật đã bộc lộ những suy nghĩ và hướng nhìn mới của thị, người đàn bà bà này không cam chịu cuộc đời đói kém, và có lẽ trong một mai thị sẽ cùng chồng là Tràng đi phá kho thóc, theo cách mạng để giải phóng cuộc đời, tìm kiếm một tương lai tươi sáng hơn.

    Nhân vật thị trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân là nhân vật đại diện cho hàng triệu kiếp người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945. Tuy nhiên sống trong cảnh khốn khổ cùng đường nhưng thị vẫn giữ cho mình được những vẻ đẹp tâm hồn quý giá, tiêu biểu nhất ấy là niềm khao khát được sống, khao khát hạnh phúc, niềm hy vọng vào một tương lai mới tốt đẹp hơn. Bộc lộ rõ nét tư tưởng nhân văn, nhân đạo mà tác giả muốn truyền tải trong tác phẩm của mình.

    Phân tích nhân vật người vợ nhặt – Mẫu 9

    Trong kí ức của mỗi người Việt Nam, nạn đói năm Ất Dậu vẫn là một cơn ác mộng khó quên. Cũng từ đó, miếng cơm manh áo từ nỗi đau hiện thực trở thành đề tài sáng tác của những nhà văn. Thân phận những con người trở nên tầm thường, đến cả chuyện hạnh phúc lứa đôi cũng là chuyện rẻ rúng. Tất cả những điều đó đều được ghi lại bằng ngòi bút của Kim Lân qua nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên.

    Trước tiên, ta thấy Thị là nạn nhân của nạn đói với cuộc sống trôi nổi, bấp bênh. Là nhân vật vô danh, người vợ nhặt là đại diện chung của số phận của những người phụ nữ không may sinh ra trong hoàn cảnh bất hạnh. Người phụ nữ ấy không tên, không tuổi, không quê hương, không quá khứ. Từ đầu đến cuối tác phẩm, Kim Lân chỉ ban tặng cho nhân vật này những cách gọi tên rất chung chung như “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”. Thị xuất hiện một cách bạo dạn, đáng thương trong hai lần gặp Tràng. Thị “ngồi vêu ra” lẫn trong đám con gái ngồi chờ nhặt hạt thóc rơi. Thị ton ton chạy lại đẩy xe tiếp Tràng với hi vọng được “kiếm ăn” nhưng thất bại. Từ sự cong cớn, liếc mắt cười tít, Thị chuyển sang vẻ tiều tụy, hốc hác vì cái đói trong lần gặp thứ hai “Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Tràng dường như không thể nhận ra thị. Cùng với sự thay đổi về hình thức, cái đói đã xóa đi cái hồn nhiên hóm hỉnh của thị khi gặp Tràng, chị biến thành một người phụ nữ “đon đả”, táo bạo và liều lĩnh. Thị đói đến mức cắm đầu ăn bốn bát bánh đúc liền “Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng”. Kim Lân đã khắc họa hình ảnh một người phụ nữ thật đáng thương! Từ ngoại hình đến cử chỉ, hành động, thị đều hiện lên trên trang giấy với sự khắc khổ, nhếch nhác, tội nghiệp. Cái đói chẳng những tàn hại dung nhan mà còn tước đoạt cả tính cách và nhân phẩm của thị. Vì đói mà trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “sưng sỉa”.. Cái đói khiến thị quên đi việc giữ gìn ý tứ và lòng tự trọng của con gái. Càng tội nghiệp hơn khi cái đói buộc thị phải trở thành “người vợ nhặt” sau một câu nói nửa đùa nửa thật “này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cũng về”. Thế là xong một câu chuyện tình, một cuộc hôn nhân! Sự lãng mạn chỉ là điều không tưởng. Đang trên bờ vực của cái chết, thị còn lựa chọn nào hơn? Trong suy nghĩ của thị, Tràng như một cái phao cứu sinh, cứu thị ra khỏi sự đói khát của thế kỉ. Cái đói đã làm cho thị và biết bao người dân lúc bấy giờ rẻ rúng như vậy. Có ai ngờ được hạnh phúc lứa đôi được xây đắp bằng bốn bát bánh đúc và một lời nói bông đùa? Nhưng trong hoàn cảnh “người chết như ngả rạ”, “không khí ẩm lên mùi ẩm thối của rác tưởi và mùi gây của xác người” thì hạnh phúc tầm thường, đơn sơ kia cũng đáng quý biết bao.

    Bên cạnh đó, Thị còn là người phụ nữ với lòng ham sống mãnh liệt. Thị đồng ý theo không Tràng là vì để được sống chứ không phải là lẳng lơ. Khát vọng sống mãnh liệt thúc giục thị phải tìm ra lối thoát cho hoàn cảnh thương tâm. Niềm lạc quan lạc sống ấy chính là một phẩm chất đáng quý mà nói như Kim Lân: “Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý thức khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”. Thị đến với Tràng trước hết làm tìm một chỗ nương tựa trong đói kém. Bởi thế, thị không thể giấu nổi sự thất vọng thầm kín trước gia cảnh thảm thương của gia đình Tràng “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Thị đảo mắt nhìn quanh, cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài”. Trên đường về nhà chồng, trước những lời bàn tán xôn xao, những chỉ trỏ chòng ghẹo của người dân ngụ cư, người vợ nhặt cảm thấy xấu hổ, ngượng nghịu đến mức “chân nọ bước díu cả vào chân kia”. Về đến nhà chồng, thị thất vọng trước cảnh nhà quá tồi tàn, khổ sở nhưng cố nén lại tất cả vào trong suy nghĩ. Trong tiếng thở dài ấy không chỉ có nỗi thất vọng mà còn xen cả lo toan, ý thức trách nhiệm, bổn phận của mình trong việc xây dựng cuộc sống gia đình về sau..

    Nhân vật Thị còn để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc bởi những phẩm chất tốt đẹp. Vào trong nhà, thị e thẹn “ngồi mớm” vào mép giường và chào u một cách lúng túng. Khác với vẻ chao chát, cong cớn, chỏng lỏn ban đầu, thị bây giờ là nàng dâu mới với đầy đủ sự ý tứ, cung kính, mực thước. Chính tình cảm yêu thương, sự đùm bọc sẻ chia trong cơn hoạn nạn đã khiến con người sống tốt hơn, ý thức sâu sắc hơn về bổ phận và trách nhiệm của mình. Sáng hôm sau, thị dậy sớm để cùng mẹ chồng dọn dẹp trong ngoài. Đến cả chính Tràng cũng phải ngạc nhiên: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Trong bữa cơm đón nàng dâu mới bữa cơm thảm hại ngày đói, thị vẫn vui vẻ bằng lòng với bát cháo cám đắng chát. Thị là một cơn gió mới trong gia đình. Hiện thực khắc nghiệt, xót xa “người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại” nhưng thị vẫn “điềm nhiên và vào miệng”. Hoàn cảnh đấy, ai cũng phải cất lại nỗi tủi hờn bên trong để vui vầy cũng hạnh phúc bình dị, đơn sơ. Sự lạc quan được gói trọn trong lời của bà cụ Tứ: “Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”. Bên cạnh đó, người vợ nhặt còn là người phụ nữ thông minh hiểu biết. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị tỏ ra ngạc nhiên hỏi mẹ chồng “Ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à?” Câu nói của thị làm Tràng ngờ ngợ vỡ ra trong suy nghĩ “hắn đang nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật”, “trong ý nghĩ của hắn vụt ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm éo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”…

    Điểm nhấn nghệ thuật ở người vợ nhặt chính là nghệ thuật khắc họa nhân vật của nhà văn Kim Lân. Tác giả đã đặt nhân vật trong tình huống “lạ”, “éo le”; diễn biến tâm lí được khắc họa qua các sự kiện với sự quan sát tỉ mỉ, tinh tế qua hệ thống ngôn ngữ giản dị, mộc mạc.

    Như vậy, nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân là một nhân vật tiêu biểu cho hình tượng người phụ nữ lao động nghèo khổ, đáng thương. Nhưng dù bị đẩy vào hoàn cảnh khốn cùng, thị vẫn ngời sáng bởi lòng ham sống, những phẩm chất tốt đẹp và niềm tin tưởng ở tương lai.

    …………..

    Tải file tài liệu để xem thêm bài văn phân tích nhân vật Thị

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *