Nghị luận lòng yêu nước trong bài thơ Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến mang đến dàn ý và 5 bài văn mẫu siêu hay. Qua tài liệu này giúp các bạn học sinh có thêm nhiều gợi ý học tập, củng cố kỹ năng viết văn ngày một tốt hơn.
Bạn đang đọc: Nghị luận lòng yêu nước trong bài thơ Câu cá mùa thu
Bài thơ Câu cá mùa thu không chỉ mở ra bức tranh mùa thu đẹp đẽ, bình dị nơi làng quê Việt Nam mà còn bộc lộ tình yêu nước thầm kín cùng những trăn trở, suy tư về cuộc đời, thế sự của nhà thơ. Để hiểu rõ hơn về lòng yêu nước của Nguyễn Khuyến mời các bạn cùng theo dõi 5 bài văn mẫu dưới đây của Download.vn nhé.
Nghị luận lòng yêu nước trong bài thơ Câu cá mùa thu
Dàn ý nghị luận lòng yêu nước trong bài Câu cá mùa thu
a. Mở bài
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm
– Trích đề: Tấm lòng yêu quê hương, đất nước trong bài Thu điếu
b. Thân bài:
– Tình yêu quê hương đất nước được thể hiện qua sự gắn bó sâu nặng, tình yêu tha thiết của tác giả với quê hương thông qua việc dựng lên một bức tranh làng cảnh rất đẹp, rất đặc trưng cho khung cảnh mùa thu nông thôn Bắc Bộ.
+ Mùa thu gợi ra với hai hình ảnh vừa đối lập vừa cân đối hài hoà “ao thu”, “chiếc thuyền câu” bé tẻo teo; ⇒ bộc lộ rung cảm của tâm hồn thi sĩ trước cảnh đẹp mùa thu và của tiết trời mùa thu, gợi cảm giác yên tĩnh lạ thường.
+ Tiếp tục nét vẽ về mùa thu giàu hình ảnh, đan xen là những chuyển động nhẹ nhàng ⇒ Nét đặc sắc rất riêng của mùa thu làng quê được gợi lên từ những hình ảnh bình dị, đó chính là “cái hồn dân dã”.
+ Cảnh thu đẹp một vẻ bình dị nhưng tĩnh lặng và đượm buồn ⇒ Không gian của mùa thu làng cảnh Việt Nam được mở rộng lên cao rồi lại hướng trực tiếp vào chiều sâu, không gian tĩnh lặng và thanh vắng
– So sánh điểm giống và điểm khác khi tác giả sử dụng các hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ với các tác phẩm khác, các nhà thơ khác.
– Tình yêu nước thể hiện qua nỗi buồn lắng, suy tư của nhà thơ. Xét trong bối cảnh chung của đất nước, cũng như hoàn cảnh chung của nhà thơ nỗi buồn ấy cũng thể hiện nhân cách cao khiết và lòng yêu nước của nhà nho Nguyễn Khuyến. Ông đã cảm nhận rõ sự bất lực của mình trước thời cuộc nhưng quyết không theo đòi lũ bán nước đồng thời, dứt khoát rời khỏi chốn quan trường. Thái độ bất hợp tác với giặc và nỗi buồn đau cho tình cảnh của đất nước cũng là biểu hiện của lòng yêu nước của nhà thơ.
⇒ Nói câu cá nhưng thực ra không phải bàn chuyện câu cá, sự tĩnh lặng của cảnh vật cho cảm nhận về nỗi cô quạnh, uẩn khúc trong tâm hồn nhà thơ, đó là tâm sự đầy đau buồn trước tình cảnh đất nước đầy đau thương
c. Kết bài
– Đánh giá ý nghĩa của vấn đề.
– Rút ra bài học cho bản thân.
Nghị luận lòng yêu nước trong Caau cá mùa thu – Mẫu 1
Nguyễn Khuyến được mệnh danh là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”. Hình ảnh làng quê bình dị, mộc mạc hiện lên sống động qua mỗi trang thơ Nguyễn Khuyến. Nổi bật nhất trong sự nghiệp thơ ca của ông có thể kể đến chùm 3 bài thơ thu, mà nổi tiếng nhất là bài thơ Câu cá mùa thu. Bài thơ không chỉ mở ra bức tranh mùa thu đẹp đẽ, bình dị nơi làng quê Việt Nam mà còn bộc lộ tình yêu nước thầm kín cùng những trăn trở, suy tư về cuộc đời, thế sự của nhà thơ.
Bức tranh mùa thu trong mắt thi nhân thật hồn hậu, đẹp đẽ, trong ngần. Phải chăng chính bởi tình yêu tha thiết mà tác giả dành cho quê hương mới viết nên những vần thơ sáng trong, tinh khiết đến như vậy.
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Bức tranh mùa thu được mở ra qua hình ảnh ao thu, chiếc thuyền câu- đó đều là những hình ảnh bình dị, quen thuộc của cuộc sống nơi làng quê. Ao thu tĩnh lặng, nhỏ bé với làn nước ” trong veo” cùng hình ảnh người câu cá gợi nét thanh bình, yên ả của một làng quê. Tiết trời se lạnh được đặc tả qua tính từ “lạnh lẽo” và cách gieo vần “eo”: trong veo, tẻo teo. Chiếc thuyền câu bé nhỏ giữa không gian tĩnh lặng tạo nên nét hài hoà giữa cảnh- người.
Nhà thơ Nguyễn Khuyến khắc họa bức tranh thu qua những đường nét, sự vận động cụ thể của làn nước, thuyền câu, lá vàng, sóng biếc, tầng mây, ngõ trúc,… Những con sóng xanh trong gợn nhẹ lăn tăn giữa mặt hồ, chiếc lá vàng “đưa vèo” theo chuyển động của gió. Tất cả thật nhẹ nhàng, uyển chuyển mà cũng đầy duyên dáng, mê hoặc. Câu thơ tả cảnh với những hình ảnh bình dị cùng nghệ thuật xếp đặt đầy tinh tế làm cho câu thơ không chỉ gợi liên tưởng về khung cảnh làng quê mà còn khơi dậy bao cảm xúc. Dường như, ta cảm nhận được sự thanh thoát của làn gió, nét mơn man của mặt hồ yên ả, sự yêu kiều của chiếc lá bé xinh. Cái nhỏ bé của chiếc thuyền “bé tẻo teo” hoà trong cái tĩnh lặng của không gian càng làm bức tranh thu trở nên đặc biệt hơn bao giờ hết. Sắc biếc của sóng, sắc vàng của lá, sắc xanh của mây trời hoa trong âm thanh nhỏ bé của tiếng lá rơi, của sóng gợn, tiếng cá đớp dưới chân tạo và tiếng lòng của tâm hồn thi sĩ tạo nên một bức tranh thu có đủ sắc, thanh, cảnh, tình trong đó.
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
Dường như, tác giả đang say mê, chìm đắm trong cảnh thiên nhiên trong ngày thu mê dại. Cảm quan tinh tế của một tâm hồn thi sĩ đã tạo nên một mùa thu trong ngôn từ như thực tại, đầy đẽ đẽ và mê đắm. Bức tranh ấy không phải hấp dẫn người đọc bởi sự hoang dại hay hùng vĩ, mênh mông của cảnh sắc thiên nhiên mà nó làm say mê bởi vẻ đẹp bình dị vốn có của cảnh vật làng quê. Tình yêu nước như hoà vào dòng chảy của tâm hồn, hòa vào dòng chảy của tự nhiên, của quê hương. Tình yêu nước hòa trong tình yêu thiên nhiên, yêu làng cảnh của đất Việt.
Bức tranh mùa thu qua nét vẽ của Nguyễn Khuyến tuy đẹp nhưng buồn. Không biết tại bởi thu luôn mang dư vị của trầm tư hay lòng người sẵn mối suy tư, mang trong mình thanh âm của nỗi buồn lớn lao nữa? Bởi ai đó đã từng nói rằng:
” Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Trong cuối bài thơ, hình ảnh người đi câu và công việc được tái hiện với nét chấm phá:
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Người đi câu ngồi “tựa gối ôm cần” đầy trầm lặng, suy tư phải chăng là hiện thân của chính tác giả. Lời thơ gửi gắm trong đó tâm sự thầm kín của một người luôn lắng lo cho quê hương, đất nước. Lời thơ chan chứa những suy tư về trách nhiệm của bản thân tác giả đối với quê hương, đất nước mình, trước cảnh loạn lạc, không an của đất nước, Nguyễn Khuyến nào thể làm ngơ mà vui với thú vui của riêng mình. Bởi thế mà trong một số tác phẩm khác của mình, ông cũng đã tỏ bày:
“Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già
Xuân về ngày loạn càng lơ láo”
Mượn tiếng cuốc kêu mà thổ lộ tâm sự:
“Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ”
Trong cảnh nhân dân lầm than, nỗi đau vong quốc nào có thể nguôi trong tâm khảm thi nhân, nỗi lo lắng cho vận mệnh dân tộc và ý thức trách nhiệm với đất nước chẳng thể nào vơi được. Bài thơ viết về thu mà thấm đượm lòng yêu nước của một văn nhân giàu tình cảm, thiết tha với cội nguồn quê hương. Thu điếu bằng tất cả vẻ đẹp vốn có của nó về nghệ thuật và nội dung đã mang đến cho người đọc những cảm xúc khôn tả về tình người, tình đời trong đó.
Nghị luận lòng yêu nước trong bài Câu cá mùa thu – Mẫu 2
Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) là một nhà nho có học vấn uyên thâm, có cốt cách thanh cao, có tấm lòng yêu nước thương dân nhưng bất lực trước thời cuộc. Với những bài thơ bình dị, hồn hậu về cảnh vật và cuộc sống con người vùng Bắc bộ, Nguyễn Khuyến được mệnh danh là “nhà thơ của dân tình làng cảnh Việt Nam”. Bài thơ Câu cá mùa thu (thu điếu) là tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Khuyến trong thời gian ẩn cư ở quê nhà.
Nguyễn Khuyến là người có phẩm chất trong sạch, mặc dù ra làm quan nhưng nổi tiếng là thanh liêm, chính trực. Nhiều giai thoại kể về đời sống và sự gắn bó của Nguyễn Khuyến đối với nhân dân. Ông là người có tâm hồn rộng mở, giàu cảm xúc trước cuộc sống và gắn bó với thiên nhiên. Nguyễn Khuyến ít viết về mùa xuân mà mà tình cảm đặc biệt cho mùa thu. Có lẽ do tâm hồn bất mãn với thời cuộc, muốn tìm một nơi để an trú tinh thần, mùa thu chính là một lựa chọn hiển nhiên đối với ông.
Mùa thu là mùa của sự tàn phai, rất phù hợp với tâm trạng Nguyễn Khuyến lúc này. Cảnh thu yên tĩnh, tình thu nồng nàn gợi lên cái hồn cổ xưa của muôn năm xa lạ. Nguyễn Khuyến với cái tài của một người vốn gắn bó với đồng ruộng không cần dụng cong gì mà đã nắm bắt được cái hồn tinh tế ấy:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối buông cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Cảnh sắc mùa thu: Điểm nhìn của thi nhân: điểm xuất phát là thuyền câu trên ao thu với són biếc, lá vàng → hướng lên trời cao → hướng ra xa thấy ngõ trúc quanh co → trở lại xuất phát điểm thuyền câu, ao thu.
Cảnh thu được đón nhận từ gần thấp đến cao, xa rồi từ cao, xa trở lại gần: bao quát mọi hướng của không gian thu để nhận thấy tất cả các vẻ đẹp của cảnh sắc mùa thu.
Bức tranh cảnh sắc mùa thu hiện ra với những nét đặc trưng vốn có của nó. Cảnh thu vừa trong sáng vừa tĩnh lặng. Trong sáng với mặt “nước trong veo”, làn “sóng biếc”, với “bầu trời xanh ngắt” . Đó là một bức tranh thu cổ điển với thi đề, thi liệu quen thuộc (thu thuỷ, thu thiên) nhưng lại rất gần gũi, thanh sơ. Tĩnh lặng với khung cảnh vắng vẻ, đường đi không một bóng người. Âm thanh rất mơ hồ làm không gian thêm quạnh vắng (cá đâu đớp động dưới chân bèo). Những chuyển động rất nhẹ, rất khẽ (sóng hơi gợn tí, lá khẽ đưa vèo, tầng mây lơ lửng, cá đâu đớp động dưới chân bèo) khơi gợi thêm sự tĩnh lặng của cảnh vật.
Bức tranh thu hài hoà, cân đối về màu sắc, hình khối và đường nét. Màu sắc hiện lên với gam màu chủ đạo là màu xanh gợi không khí se lạnh của mùa thu; một chút màu vàng của lá, màu trắng của mây khiến bức tranh thêm sinh động.
Đường nét, hình khối cân đối cũng được gọt giũa, bố trí hết sức tài tình với “ao thu nhỏ”, “chiếc thuyền câu”. Theo đó cũng bé tẻo teo và dáng người cũng thu nhỏ lại. Đường nét mảnh mai, tinh tế với đường uốn lượn của ngõ trúc, đường gợn của sóng.
Cảnh mùa thu đẹp, buồn, tĩnh lặng, dân dã, thanh sơ, gần gũi, rất tiêu biểu cho mùa thu của làng quê Bắc Bộ. Có lẽ nhà thơ đã quá kiệm lời khi nói quá ít về cảnh thu tuyệt đẹp và tĩnh lặng như tờ ấy. Ông như sợ nếu chạm khẽ hay khẽ rung cũng có thể làm đổ vỡ bức tranh tuyệt vời hiếm gặp ấy. Như một bức tranh thủy mặc đơn sơ mà ấn tượng, cảnh thu lập tức nằm gọn trong tâm hồn người đọc, ẩn náu để rồi lan tỏa miên man.
Tình thu hòa quyện trong trời xanh nước biếc: tác giả cách cảm nhận cảnh thu hết sức tinh tế bằng một tâm hồn thuần khiết của người gắn bó tha thiết với thiên nhiên, đất nước. Ông nâng niu tất cả, giữ gìn tất cả với những vẻ đẹp đáng quý của nó. Mọi thứ xa hoa đều bị gạt bỏ, chỉ còn lại đây chất đơn sơ, mộc mạc mà thắm đượm nghĩa tình.
Bức tranh mùa thu tĩnh lặng, u buồn cũng là tâm trạng về thời thế đầy uẩn khúc của tác giả. Ông chọn vần “eo”, một “tử vận” vốn rất oái oăm, khó làm để biểu đạt cảnh vật. Với vần “eo” gây cấn ấy, không gian càng trở nên vắng lặng, nhỏ dần, phù hợp với tâm trạng đầy uẩn khúc: veo-teo-tèo-teo-beo.
Từ “vèo” biểu thị của dòng thời gian đang trôi nhanh, rất nhanh. Và như thế, cuộc đời, thế cuộc cũng đổi thay nhanh chóng. Thoáng chốc, đời người đã bước sang tuổi xế chiều. biết bao ước muốn, khát vọng chưa được hoàn thành. Người nho sĩ với khát vọng kinh bang tế thế, trị nước bình thiên hạ, muốn cứu đời, làm đổi thay thời thế nhưng giờ nhìn lại đã thấy xa vời quá đỗi, bất lực nhìn dòng thời gian trôi đi.
Tựa đề bài thơ gây một sự chú ý đặc biệt. Câu cá mùa thu mà không chú ý đến chuyện câu cá, chỉ quan sát thiên nhiên, lắng nghe, hoà mình với thiên nhiên. Chủ đề trữ tình xuất hiện trong tư thế ngồi bất động “tựa gối buông cần”. Đó là tư thế thu mình lại, không phải để chờ đợi mà là để suy tu. Cõi lòng nhà thơ đang tĩnh lặng tuyệt đối.
Bài thơ kết lại trong cái động rất nhỏ của tiếng cá “cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Chữ “đâu” diễn tả cái giật mình thảng thốt, cái ngơ ngác kiếm tìm như người mất phương hướng.
Bài thơ thể hiện vẻ đẹp của một tâm hồn gắn bó với thiên nhiên đất nước. Dù ở quê nhà nhưng vẫn thấy lạc lõng, cô đơn trước thực tại. Lạc lõng là bởi không thực hiện được chí nguyện của người đi học. Lạc lõng là bởi nỗi lòng sâu thẳm ấy không thể thổ lộ cùng ai. Chỉ có đất trời mới thấu hiểu. Đó cũng là tấm lòng yêu nước thầm kín nhưng không kém phần sâu sắc của Nguyễn Khuyến vậy.
Câu cá mùa thu rất thành công với lớp ngôn ngữ giản dị, trong sáng, giàu giá trị biểu cảm. Cách miêu tả cảnh vật tinh tế với bút pháp điểm nhãn đầy tính nghệ thuật. Từ láy tạo hình lơ lửng, tẻo teo… thể hiện mạnh mẽ sức mạnh tạo hình. Cách gieo vần eo gợi sự nhỏ hẹp của không gian thu ở làng quê, sự vắng lặng, thu nhỏ dần của không gian, phù hợp với tâm trạng đầy uẩn khúc. Hơn thế, nhà thơ còn sử dụng nhiều từ chỉ mức độ độc đáo: lạnh lẽo, trong veo, bé tẻo teo, hơi gợn tí, khẽ đưa vèo, lơ lửng, xanh ngắt, vàng teo, quanh co,…Kếp hợp với bút pháp thủy mặc Đường thi và vẻ đẹp thi trung hữu hoạ của bức tranh phong cảnh. Vận dụng tài tình nghệ thuật đối thanh đối ý. Mùa thu câu cá thật xứng đáng là một tuyệt phẩm đặc sắc của làng thơ Việt Nam từ xưa đến nay.
Mùa thu câu cá đã thể hiện sự cảm nhận và nghệ thuật gợi tả tinh tế của Nguyễn Khuyến về cảnh sắc mùa thu đồng bằng Bắc Bộ, đồng thời cho thấy tình yêu thiên nhiên, đất nước, tâm trạng thời thế và tài thơ Nôm của tác giả.
Nghị luận lòng yêu nước trong bài Câu cá mùa thu – Mẫu 3
Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội như những người Cộng sản vẫn ra rả bấy lâu nay thì chúng ta sẽ mất nước vào tay những kẻ bên kia biên giới nhân danh chủ nghĩa xã hội đã âm thầm lấn chiếm của ta từng mét đất ở biên cương, đã trắng trợn cướp của ta từng hải lí biển ở ngoài khơi. Và Nhà nước Việt Nam cộng sản cũng vì chủ nghĩa Xã hội thản nhiên cắt đất đai hương hỏa của cha ông ta cho nước cộng sản cùng ý thức hệ!
Yêu nước là yêu từ hơi may của đất trời Việt Nam:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
(Nguyễn Đình Thi)
Yêu từ mùi trầu thơm nồng của mẹ: Xin mẹ cứ nhai trầu / Cho buổi chiều yên tĩnh (Thanh Thảo). Thì đất nước Việt Nam mãi mãi còn là của người Việt Nam. Nguyễn Khuyến (1835 –1909) là một người yêu nước như vậy.
Yêu từ cánh bèo trên mặt ao đìu hiu mùa thu, Nguyễn Khuyến đã từ chức quan thời đất nước đã rơi vào tay giặc Pháp để về giữ nước bằng cách hòa vào nhân dân, đắm trong thiên nhiên đất nước. Trở về vui buồn cùng dân là khi Nguyễn Khuyến đã ở vào mùa thu cuộc đời. Soi mùa thu đời mình vào mùa thu đất nước, Nguyễn Khuyến đã để lại những bài thơ đặc sắc nhất về mùa thu Việt Nam, để lại chiếc bóng lồng lộng trong mùa thu Việt Nam.
Mỗi lần nhận ra hơi may se se trong ngọn gió thu về, tôi lại bâng khuâng nhớ Nguyễn Khuyến. Nhìn màn sương bảng lảng chiều thu, tôi lại thấy chiếc bóng Nguyễn Khuyến đơn độc giữa những chiếc lá vàng tả tơi rụng rơi.
Sinh năm 1835, đỗ tiến sĩ năm 1871 khi mới ba mươi sáu tuổi, một con đường công danh rạng rỡ mở ra trước mặt ông Nghè trẻ tuổi, tài hoa và có chí là Nguyễn Khuyến. Nhưng Nguyễn Khuyến chỉ làm quan có mười hai năm rồi cáo bệnh rũ áo từ quan lui về Vườn Bùi chốn cũ vừa muốn buông xuôi mọi nhẽ, vừa canh cánh không yên:
Lúc hứng uống thêm ba chén rượu
Khi buồn ngâm láo một câu thơ!
Chí bình sinh của kẻ làm trai được cửa Khổng sân Trình giáo dục là Tu thân –Tề gia –Trị quốc – Bình thiên hạ, học hành thấu đáo đạo lý ở đời, ổn định gia thất, đỗ đạt khoa bảng rồi gánh vác việc dân việc nước. Đó là cách bộc lộ lòng trung quân ái quốc, cách mang tài năng và chí trai ra giúp ích cho đời.
Con người đã dành gần ba mươi năm của cuộc đời vào việc học hành tích lũy kiến thức, rèn luyện đức độ và tài năng đâu phải để về nhà tựa gối buông cần! Con người đã vài lần thi hỏng, bốn khoa thi cử không đâu cả nhưng vẫn quyết chí lều chõng và đã đỗ cao không phải chỉ để lấy tiếng! Con người đã nhiều lần tỏ ra rất bằng lòng, rất kiêu hãnh về việc đỗ đạt và làm quan. Rất bằng lòng nên: Rằng lão, rằng quan tớ cũng ừ, và Rằng quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu. Và rất kiêu hãnh:
Cờ biển Vua ban cho ngày trước
Khi đưa thầy con rước đầu tiên.
Thế mà con người ấy đã bỏ dở con đường hoạn lộ giữa tuổi bốn mươi tám suy nghĩ đã chín chắn, tứ thập bất hoặc, lẽ đời đã thấu đáo, đã kín mọi đường mọi nhẽ, không còn điều gì phải hoang mang, nghi ngại, cái tuổi đã gần tới ngũ thập tri thiên mệnh, tuổi thấu được mệnh trời đất, đã nhìn ra khắp thiên hạ. Tuổi trí lực đang chín, đang làm việc, suy xét tốt nhất lại rũ áo từ quan để trở về mà day dứt: Ơn Vua chưa chút báo đền / Cúi trông hổ đất, ngửa lên thẹn Trời! Trở về với nỗi buồn, nỗi phẫn của kẻ chưa thỏa chí: Khi buồn ngâm láo một câu thơ.
Khi Nguyễn Khuyến phải rũ áo từ quan là lúc triều đình nhà Nguyễn ươn hèn khiếp nhược đã nhục nhã kí với Pháp hòa ước Harmand đặt Việt Nam dưới sự bảo hộ của Pháp. Kí hòa ước này, một lần nữa triều đình Huế đã kí bản giao kèo đánh đổi cả sinh mệnh đất nước, cả số phận dân tộc cho Pháp để giữ lấy cái ngai vàng mục ruỗng của mình. Từ đây dải đất Việt Nam ngàn lần yêu thương đã thuộc về người Pháp. Từ đấy vua quan nhà Nguyễn chỉ là một đám bù nhìn, một lũ tay sai cho bọn cướp nước, chỉ còn là một lũ hề của lịch sử, của sân khấu chính trị: Vua chèo còn chẳng ra gì / Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề!
Không thể trơ mặt ra mà cố đấm ăn xôi, không thể nhẫn tâm làm thứ hề ấy:
Nếu trơ như đá thì đau khổ
Còn chút lương tâm mới khó nguôi!
Lương tâm này với cái chính trường đã thành sân khấu hề kia chẳng thể chấp nhận nhau được nữa:
Cờ đương dở cuộc không còn nước
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng!
Thôi về đi để khỏi bán mình cho danh lợi, để lánh xa chốn bon chen! Về đi để giữ trọn tấm lòng trung trinh với núi sông đất nước, giữ sạch lương tâm với đời:
Về nơi vườn rộng lòng ta thỏa
Việc thế nghe qua chỉ mỉm cười!
Cả những ai còn chút lương tâm, còn chút lòng yêu nước thương dân, còn chút lòng tự trọng, thôi cũng về đi:
Thu qua bác Huyện bỏ về rồi
Nay đến ông Thương cũng tháo lui.
Về sống với nhân dân, với bà con làng xóm, với những con người bình dị, chân chất, những người nếu có tên gọi riêng thì cũng chỉ là những chú Đáo, mẹ Mốc, ông Từ. Về sống với thiên nhiên đất nước, với ngõ trúc, ao thu. Bây giờ chỉ có những thứ quan như Nguyễn Hữu Độ, Hoàng Cao Khải cam tâm làm tay sai cho giặc. Làm quan như thế là đối lập với nhân dân. Trở về để hòa vào với đất nước, hòa vào với nhân dân, quan nhất thời, dân vạn đại, hòa vào với cái vạn đại, cái vĩnh cửu. Từ đây Nguyễn Khuyến gắn bó cả đời mình với những người dân Sớm trưa dưa muối cho qua bữa, gửi cả hồn mình vào cảnh sắc thiên nhiên Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Có trở về như thế Nguyễn Khuyến mới nhận ra được ở cảnh sắc quê hương cái riêng biệt, cái hồn vía Việt Nam. Vì thế chỉ đến Nguyễn Khuyến, cái hồn của thiên nhiên Việt Nam mới được nhận ra, mới được ghi nhận bằng ngôn ngữ nôm na của những người dân bình dị. Trước Nguyễn Khuyến, mùa thu Việt Nam đã đi vào thơ ca khá nhiều nhưng mùa thu trong thơ vịnh của những nhà thơ khoa bảng còn quá xa lạ với hiện thực thiên nhiên Việt Nam, lại càng xa lạ với lời ăn tiếng nói đầy biểu cảm của người dân Việt Nam khi mùa thu Việt Nam đầy bâng khuâng gợi cảm lại diễn tả bằng hình ảnh ước lệ vay mượn xa lạ, bằng ngôn từ khoa trương, hào nhoáng, sáo rỗng và vô hồn:
Lác đác ngô đồng
Nhạn về ải Bắc
Giếng ngọc sen tàn
Rừng phong lá rụng
Tuyết đưa hơi lạnh
Gió phẩy mưa băng
Bên hoa triện ngọc
Dưới lệ rèm châu
Những cảnh sắc không có trong không gian nhiệt đới Việt Nam. Những ngôn từ không có trong từ vựng của người dân nước Việt chân chất, mộc mạc. Có sự trở về với dân gian của Nguyễn Khuyến, thơ ca Việt Nam mới thực sự có mùa thu Việt Nam.
Nguyễn Khuyến có đến ba bài thơ mùa thu Việt Nam. Thu vịnh là buổi sáng chớm thu. Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao, vòm trời mấy tầng cao và xanh ngắt là vẫn còn không gian của mặt trời sáng chói huy hoàng từ mùa hè rớt lại. Thu điếu là buổi chiều thu tàn, không khí đìu hiu và lạnh lẽo của Thu điếu chỉ có ở cuối thu. Thu ẩm là buổi tối giữa thu, Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe. Buổi tối mùa thu gợi cảm quá nên phải có rượu, Độ năm ba chén đã say nhè. Mỗi bài là một bức tranh khá tiêu biểu về mùa thu. Mỗi bài là một cung bậc tình cảm của một tâm hồn đa cảm trước tiết thu gợi cảm. Mỗi bài là một chiếc bóng Nguyễn Khuyến soi vào thiên nhiên đất nước. Mỗi bài có một vị trí tình cảm, một giá trị nghệ thuật riêng. Bài nào cũng hay. Bài nào cũng thấm đẫm tình yêu của Nguyễn Khuyến với đất trời quê hương. Tiêu biểu hơn cả cho mùa thu ở làng quê Việt Nam là bài Thu điếu:
Đây là mùa thu ở làng quê miền Bắc bởi vì chỉ ở làng quê miền Bắc mới thực sự có sự khác biệt xuân, hạ, thu, đông, mỗi mùa một sắc thái riêng biệt. Miền Trung mùa thu là mùa mưa lũ lụt lội, nước sông cuồn cuộn phù sa và nước mưa làm đục ngầu ao hồ nên không thể có Ao thu lạnh lẽo nước trong veo. Ở miền Nam chỉ có hai mùa phân biệt theo mưa nắng, mùa mưa và mùa khô. Mùa khô đã chang chang nắng nhưng mùa mưa cũng nắng mưa đan xen, chợt mưa, chợt nắng. Dù có mùa mưa, mùa khô nhưng mùa nào cũng nắng nóng. Mưa đã ồn ào, nắng lại càng nồng nàn, không thể có không gian sâu lắng và tĩnh lặng của Ao thu lạnh lẽo nước trong veo.
Xuân, hạ, thu, đông, mỗi mùa một không gian tâm linh, mỗi mùa một thế hiệu tình cảm. Mùa xuân náo nức. Mùa hạ khắc khoải. Mùa thu bâng khuâng. Mùa đông hiu hắt. Ao thu lạnh lẽo nước trong veo. Bâng khuâng quá! Bâng khuâng vì không gian yên tĩnh đến hoang vắng! Không có gì khuấy động nước ao mới trong veo đến thế! Những gì là vẩn, là đục đã chìm xuống, lắng lại cả rồi! Những gì khuấy động trong lòng cũng đã chìm xuống, lắng lại cả rồi nên mới có thể Việc thế nghe qua chỉ mỉm cười! Mùa thu của đất trời nhưng cũng là mùa thu của tâm hồn, mùa thu của cuộc đời Nguyễn Khuyến. Nguyễn Khuyến nhìn mùa thu của đất trời cũng là nhìn vào mùa thu của hồn mình, mùa thu của đời mình.
Mùa thu ấy yên tĩnh lắm, thanh thản lắm! Thuyền chỉ một chiếc thôi chứ không phải là hai, ba để mà xôn xao đối đáp. Phần động cũng chỉ động ở mức thấp nhất. Mặt nước chỉ hơi gợn. Chiếc lá chỉ khẽ đưa. Những nhịp dao động này như những hơi thở cố nén xuống càng làm tăng thêm sự tĩnh mịch của không gian. Người ngồi câu là một người đã từng trải, đã vượt qua mọi sự nhốn nháo trường đời, đã rũ bỏ mọi bon chen ham hố chốn danh lợi mới có thể thanh thản và điềm tĩnh đến thế, mới có thể tựa gối buông cần im phắc đã lâu chẳng được gì vẫn không bận tâm, vẫn không sốt ruột. Xem như thế đủ biết người đi câu không phải vì mục đích kiếm cá mà chỉ là để được đắm mình vào thiên nhiên đất nước, đắm mình trong tiết thu sâu lắng và say đắm.
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo. Đọc một câu đã thấy đìu hiu cô quạnh. Đọc cả bài càng thấy cô quạnh đìu hiu. Đây là mùa thu đã gần tàn, mùa đông đang gần đến. Trong tiết trời lạnh lẽo, se xắt, mọi vật như cố thu nhỏ lại còn vòm trời thì cứ rộng mãi ra. Cảnh vật hiện ra đều ở dạng đơn chiếc, đều thu vào cá thể. Một mảnh ao. Một chiếc thuyền. Một người ngồi câu lặng lẽ. Một chiếc lá khẽ rơi. Con thuyền bé tẻo teo, đến con sóng cũng chỉ hơi gợn tí. Mọi vật đều nhỏ nhoi, bé bỏng giữa cái mênh mông quạnh vắng của không gian cao rộng Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt và sâu hút Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Sau mùa xuân ồn ào của tuổi thơ bầy đàn, sau mùa hạ rạo rực của tuổi thanh niên lứa đôi mới đến mùa thu yên tĩnh của ý thức cá nhân. Đó là mùa thu của cuộc đời Nguyễn Khuyến.
Trong bài giới thiệu cho tập Thơ văn Nguyễn Khuyến của nhà xuất bản Văn Học in năm 1971, nhà thơ Xuân Diệu viết: Sao lắm ao thế? Cả huyện Bình Lục là xứ đồng chiêm rất trũng kia mà. Nhiều ao cho nên ao nhỏ, ao nhỏ thì thuyền câu cũng theo đó mà bé tẻo teo. Xuân Diệu là người bình thơ hay nhất Việt Nam ở thời của ông. Với tất cả lòng kính trọng đối với một nhà thơ có tài và một người thẩm thơ tinh tế, tôi phải xin thưa lại rằng Xuân Diệu viết như thế là mới thấy phần vật chất, phần thể xác của câu thơ Nguyễn Khuyến, của cảnh sắc trong thơ Nguyễn Khuyến. Rõ ràng ao thì phải nhỏ. Nếu lớn đã gọi là hồ. Ở ao không thể có thuyền lớn. Nhưng vấn đề không phải ở phần xác cụ thể, thô thiển đó. Trong không gian đất trời bâng khuâng cô quạnh của mùa thu, trong cõi lòng yên tĩnh, sâu lắng của Nguyễn Khuyến, dù có chiếc thuyền lớn có sức chở hàng nghìn tấn đi nữa thì nó cũng chỉ bé tẻo teo mà thôi!
Cô quạnh, yên tĩnh, sâu lắng của không gian mùa thu. Cô quạnh, yên tĩnh, sâu lắng tự trong lòng người tựa gối buông cần:
Đời loạn đi về như hạc độc
Tuổi già hình bóng tựa mây côi!
Cõi lòng Nguyễn Khuyến trong mùa thu đất nước, trong mùa thu cuộc đời ông đấy! Đọc câu thơ Nguyễn Khuyến viết về cõi lòng mình càng thấy bóng ông đơn độc mà lồng lộng trong mùa thu Việt Nam. Mùa thu ở làng quê Việt Nam thật đồng điệu với cõi lòng Nguyễn Khuyến. Ta mới hiểu vì sao Nguyễn Khuyến có cả thơ về mùa xuân, mùa hè, mùa đông nhưng thơ mùa thu của ông nhiều hơn cả, hay hơn cả. Nguyễn Khuyến là một mùa thu Việt Nam cô quạnh và se buồn. Mùa thu ấy đã trở thành cổ điển và bất tử trong văn chương Việt Nam.
Bây giờ mỗi khi nghĩ đến Nguyễn Khuyến tôi vẫn hình dung ra một ông già ôm cần câu ngồi bó gối trên chiếc thuyền nan mỏng manh như một chiếc lá đậu chếch trên mặt nước ao lặng lẽ. Lòng thuyền sau lưng ông già không có một con cá nào, cũng chẳng hề có giỏ đựng cá, chỉ có mấy chiếc lá vàng rụng xuống đó tự bao giờ, mặt lá vẫn còn láng bóng, vàng hoe. Mấy chiếc lá vàng nhắc ta biết mùa thu đã về. Mấy chiếc lá vàng cũng cho ta biết rằng ông ngồi đó đã lâu lắm rồi. Và ông còn ngồi đó không biết đến bao giờ nữa.
Bóng Nguyễn Khuyến cứ lồng lộng trong mọi mùa thu buồn Việt Nam ở cái thuở nhân dân chưa được làm chủ đất nước của mình, chưa được làm chủ vận mệnh của chính mình. Ông ngồi đó có u buồn nhưng thật điềm tĩnh bởi ông hiểu và tin ở đất nước này, nhân dân này. Ông là phần yên tĩnh của đất nước đang trong cơn xáo động, vật vã quyết liệt. Cõi lòng yên tĩnh đến thế, tâm hồn cao cả sáng trong đến thế Nguyễn Khuyến mới có thể chối bỏ chức quan trông coi việc Sử trong cung đình nhà Nguyễn để trở về với Thu điếu, với Khổ nhiệt, với Hung niên. . . , trở về với cuộc sống gian nan vất vả của người dân thường để giữ cho mình vẫn còn là con người Việt Nam chân chính, được yêu đất nước của mình, được yêu nhân dân của mình và được sống giữa tình yêu của nhân dân:
Chú Đáo làng bên lên với tớ
Ông Từ xóm chợ lại cùng ta.
Nghị luận lòng yêu nước trong bài Câu cá mùa thu – Mẫu 4
Nguyễn Khuyến sinh ra và lớn lên ở một vùng quê yên ả. Phần lớn cuộc đời nhà thơ gắn bó với mảnh đất Yên Đổ, mà hình ảnh của nó đã in đậm lên từng trang thơ với những nét hết sức tiêu biểu. Thông qua các tác phẩm của ông, ta cảm nhận được ở đó tấm chân tình với quê hương, đất nước mình của một người được mệnh danh là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” (Xuân Diệu).
Cả bài thơ là một bức tranh làng quê Bắc Bộ thu nhỏ với những nét thật đặc trưng và ấn tượng:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
…
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.
Bức tranh mùa thu được mở rộng theo nhiều chiều kích mà mỗi chiều kích lại có những khoảnh khắc gieo vào lòng người rất nhiều ấn tượng. Người câu cá thực ra lại là người ngoạn cảnh, người suy tư và cũng nhờ đó mà ta hiểu được phần nào tâm sự của vị “Tam nguyên Yên Đổ” nổi tiếng.
Bức tranh thiên nhiên mở đầu với hình ảnh của ao thu.
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Những dấu hiệu đầu tiên báo hiệu một buổi đi câu là ao thu và thuyền câu. Ta bắt gặp một hình ảnh quen thuộc thường gặp ở vùng chiêm trũng đồng bằng Bắc Bộ: những chiếc ao nhỏ nhắn, tĩnh lặng đến độ làm cho “nước trong veo”. Ao thu lạnh, ao thu nhỏ và ao thu trong và có lẽ vì thế mà chiếc thuyền câu cũng phải trở nên “bé tẻo teo” cho hợp cảnh. Chiếc thuyền được đặt trong một không gian tĩnh lặng, dường như ngay từ đầu đã nằm trong chủ ý của tác giả, chỉ là một phần trong đó chứ không làm khuấy động bầu không khí vốn có của cảnh. Bức tranh ngay từ đầu đã hiện lên với những đường nét thật hài hòa.
Từ viễn cảnh, nhìn bao quát toàn bộ cảnh ao thu, bức tranh thu về cận cảnh với hình ảnh của sóng. Chỉ là “sóng biếc theo làn hơi gợn tí”, nghĩa là chỉ là những gợn lăn tăn, rất nhẹ. Câu thơ tả nhưng có sức gợi. Nhìn sóng người ta còn như cảm nhận được làn gió cũng đang mơn man rất nhẹ trong không gian, trên mặt hồ. Mơn man nhẹ đủ để sóng nước chỉ gợn lên đôi chút. Lại thêm một nét nữa của mùa thu không muộn là mất đi bầu không khí mùa thu tĩnh lặng đang bao trùm lên không gian. Trong tất cả những sự chuyển động chậm rãi ấy, chiếc lá xuất hiện đột ngột nhưng chỉ làm bức tranh lại có thêm một nét chấm phá thật nhẹ:
“Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Đọc câu thơ người ta còn nhận ra nhịp chuyển động trước khi tiếp đất (mà cũng có thể là tiếp mặt nước – và đặt trong không gian đó hình ảnh chiếc lá “khẽ đưa vèo” càng trở nên đẹp hơn). Phải là người có tâm hồn tinh tế nhạy cảm lại đang chìm đắm, say sưa trong cảnh vật mới có thể nắm bắt được nét vẽ rất động nhưng cũng rất nhẹ ấy của bức tranh thiên nhiên. Từ xa tới gần, bức tranh lại tiếp tục được mở rộng lên cao, ra xa:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
Không biết tại khí thu vốn mang trong nó vị buồn hay lòng người sẵn mối suy tư mà vô hình chung, tất cả cảnh vật hiện lên trong bức tranh đều có một cái gì đó lạnh lẽo, lẻ loi, vắng vẻ. Tất cả đều đượm buồn. Chắc cũng vẫn là cái màu da trời xanh ngắt trong “Thu ẩm”, màu xanh rất đặc trưng của khí thu vùng nhiệt đới, khí thu vùng đồng bằng Bắc Bộ nhưng ở đây nó không trở nên “gắt” như trong câu hỏi “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” mà hài hoà hơn cùng với tầng mây trôi lơ lửng. Không gian vắng, lạnh nhưng rất sáng.
Một lần nữa, góc nhìn của nhân vật trữ tình lại có sự thay đổi khi nhìn ra xa, tới những ngõ trúc quanh co uốn lượn, vẫn không có sự xuất hiện của con người. Chỉ là “khách vắng teo” dường như để tạo nên sự tĩnh lặng đến tuyệt đối, chỉ có tác giả – người câu cá – đối mặt với cả một bầu không gian mùa thu buồn. Không biết bởi lòng người mang sẵn nhiều tâm sự nên mang điều ấy, mang cái nhìn ấy gieo vào cảnh vật hay cảnh vật dường như cũng đồng cảm với tâm sự của con người mà thay đổi theo mà giữa con người và cảnh vật có một sự hài hoà cao độ. Người ta thấy bức tranh mùa thu trở nên hoàn toàn tĩnh lặng đến độ:
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Bài thơ mang tựa đề là “Thu điếu” (Câu cá mùa thu) mà đến tận cuối bài thơ, hình ảnh người đi câu và công việc đi câu mới được nhắc tới. Nhưng ngay cả lúc này, cũng vẫn là hình ảnh một người đi câu trầm lặng ngồi “tựa gối ôm cần”. Tư thế ấy giống như bức tượng “Người suy tư” nổi tiếng của Auguste Rodin, tạc khắc một dáng ngồi bất động vào không gian. Đi câu cá, “tựa gối ôm cần” tưởng chừng như để chờ cá cắn câu nhưng thực ra lại không phải như vậy. Người đi câu đang chìm đắm trong suy tư của riêng mình đến nỗi dường như không còn quan tâm đến việc có câu được cá hay không nữa.
Mải mê suy nghĩ đến mức chỉ một tiếng “cá đâu đớp động dưới chân bèo” cũng đủ để khiến người trong cuộc nghe thấy và sực tỉnh. Chỉ là tiếng cá đớp động, nghĩa là những âm thanh vô cùng nhỏ nhưng cũng đủ khiến người đi câu giật mình trở về với thực tại. Đi câu chỉ là một cái cớ để tác giả suy ngẫm về cuộc đời, về mình chính, là một cái cớ để “câu” sự thanh tĩnh, câu cái bình yên trong tâm hồn mình mà thôi. Con người ấy, hồn thơ ấy phải đi tìm những phút giây tĩnh lặng này bởi trong lòng ông đang nổi sóng.
Qua ngòi bút miêu tả tinh tế của Nguyễn Khuyến, bức tranh thiên nhiên mùa thu hiện lên thật buồn nhưng cũng thật đẹp. Buồn, đó là khí thu đặc trưng nhưng đó cũng là bởi người ngoạn cảnh cũng đang mang rất nhiều tâm trạng. Bài thơ cho ta cảm nhận về một tâm hồn thơ nhạy cảm yêu thiên nhiên đất nước. Sự gắn bó và tình yêu thương trìu mến đặc biệt với vùng đồng bằng chiêm trũng, với những ao chuôm nhỏ nhắn, với thuyền câu, lá vàng, ngõ trúc quanh co… đã giúp cho nhà thơ có được những cảm nhận tinh tế về thiên nhiên cũng như giành cho nó tình cảm ưu ái đặc biệt. Bài thơ còn là sự gửi gắm những tâm sự thầm kín của một người luôn nặng trĩu suy tư về quê hương, đất nước, về trách nhiệm của bản thân đối với quê hương đất nước mình. Là một trí thức yêu nước, ông không thể làm ngơ trước nỗi nhục, nỗi đau vong quốc mà ở đó:
“Vua chèo còn chẳng ra gì
Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề”
Chính nỗi “non nước” khôn nguôi này làm ông tủi hổ, làm như lỗi tại mình nên mượn thơ mà cả thẹn:
“Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già
Xuân về ngày loạn càng lơ láo”
Mượn tiếng cuốc kêu mà thổ lộ tâm sự:
“Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ”
Có thể nói Nguyễn Khuyến đã nén cả một nhân cách lớn, một hồn thơ lớn một nỗi đau lớn vào tiếng cuốc nhớ nước thảm thiết làm chảy máu cả tâm can người đọc hôm nay.
Nằm trong chùm ba bài thơ thu nổi tiếng, “Thu điếu” là một trong những bài thơ không chỉ góp phần đưa Nguyễn Khuyến trở thành “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” mà còn làm nên một nhân cách lớn Nguyễn Khuyến còn lại mãi trong lòng người.
Lòng yêu nước của Nguyễn Khuyến biểu lộ trong thơ văn – Mẫu 5
Khoảng hậu bán thế kỷ thứ 19, lịch sử nước ta đã trải qua một biến cố vô cùng quan trọng, đó là việc nước ta bị Pháp xâm chiếm và đô hộ. Nước mất, làm con dân ai chẳng đau lòng. Nhất là giai cấp sĩ phu từ xưa vẫn tự hào lãnh trách nhiệm dìu dắt quốc dân, đến đây, phải đau đớn nhận thấy sự bất lực và vô dụng của mình, nhiều người đành rút về ẩn cư và đem tấm lòng với đất nước gửi vào lắm áng văn giá trị. Một trường hợp tiêu biểu là Nguyễn Khuyến. Thi văn ông có khá nhiều bài diễn tả những dằn vặt, những tỏ lường của ông trong cơn vong quốc, chứng tỏ tác giả đã nung nấu một lòng yêu nước thiết tha. Chúng ta hãy thử xem lòng yêu nước ấy của Nguyễn Khuyến qua những văn thơ của ông như thế nào.
Yêu nước ấy là muốn cho nước được độc lập, được vinh quang. Nước mất chủ quyền, dân tộc sống trong vòng nô lệ ngoại bang. Người đã biết nghĩ đến nước không khỏi cảm thấy tủi đau. Nguyễn Khuyến đã mượn tiếng cuốc kêu đêm hè để biểu lộ tình cảm ấy. Ông viết:
Khoắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ
Ấy hồn Thục đế thác bao giờ
Năm canh máu chảy đêm hè vắng
Sâu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
Nghe cuốc kêu mà tưởng như máu chảy hồn tan là bởi tiếng cuốc rung gợi trong tâm hồn tác giả lắm nỗi xót xa. Nhưng Nguyễn Khuyến không phải chỉ là người dân tầm thường. Ông là bậc sĩ phu đã đạt tới bậc cao tuyệt vời của danh vọng sĩ phu, do đó mà ông tự coi như có trách nhiệm lớn đối với dân, với nước. Ông từng than thở cho mình, cho sự bất lực của giai cấp mình:
Sách vở ích gì cho buổi ấy
Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già.
Điều ông có thể tự an ủi ấy là thái độ bất hợp tác của ông đối với địch. Không ham địa vị giàu sang, không chịu những phỉnh phờ lừa gạt của thực dân và tay sai, ông đã treo ấn từ quan, trở về sống đạm bạc, nghèo thiếu ở nông thôn, để nêu cao tiết tháo bất khuất. Thái độ ấy ông cũng thường hay mượn vần thơ giải tỏa, để tự hiện bạch. Khi thì ông tự ví mình với một “mẹ mốc” tuy nhan sắc tuyệt trần, nhưng giả điên giả dại, tự bôi tấm váy nhơ, cho không ai chú ý, để có thể yên thân mà dành cả tâm tư cho chồng con xa vắng:
So danh giá ai bằng mẹ Mốc.
Ngoài hình hài gấm vóc chẳng thêm ra
Tấm hồng nhan đam bôi lấm xóa nhòa
Làm thế để cho qua mắt tục.
Khi thì ông tự ví mình như một sương phụ nghèo đói bị người ta cám dỗ bằng đủ mai mối, mồi bả, nhưng vẫn kiên trinh ở vậy vẫn một dạ trung thành với kỷ niệm người cố phu. Đó là ý nghĩa bài Gái góa.
Vốn xưa cha mẹ dặn lời
Từ hôn chi để kẻ cười người chế
Mụ hỏi mụ thương chỉ thương thế
Thương thì hay nhưng kế không hay
Thương thì gạo vải cho vay
Lấy chồng thì gái già này xin van
Nhưng những cảm nghĩ của Nguyễn Khuyến về đất nước, về thời cuộc không phải chỉ giam hãm ở một thái độ thụ động, tự mình mình biết, tự mình mình hay, bộc lộ ra bằng những lời thở than hay biện bạch đối với chính mình. Ông còn hướng ra ngoài, hướng ra cái xã hội lố lăng, những nhân vật đê tiện mà cuộc đô hộ của ngoại nhân đẻ ra. Ở đây ông ra khỏi lối thơ tâm sự và lấy giọng trào lộng để mỉa mai, chế giễu hay cảnh cáo. Yêu nước tất nhiên là phải ghét bọn quân thù kéo đến cướp nước. Ác cảm của ông đối với người Pháp tỏ rõ trong nhiều câu chuyện còn truyền tụng. Như một lần, đến chơi nhà một người bạn, người này vừa tiễn một viên công sứ Pháp ra cửa, ông tấm tức ứng khẩu:
Hốt đáo nhĩ môn phương nhi câu.
Đời bấy giờ gọi Pháp là quỷ, nhà nho khinh bỉ coi họ như một loài “cẩu” hung hãn, phải đề phòng. Nhưng nghĩ lại, ngoại nhân đáng ghét, song còn đáng ghét hơn nữa là bọn tay sai ngoại nhân, được chúng bôi mặt vẽ mày cho ra đảm đang những công vụ quốc gia, khoe khoang hách dịch với đồng bào. Bọn này không xa lạ gì lắm với tác giả, có kẻ xuất thân ngay trong hàng khoa cử. Tác giả đã chế giễu cái khoa danh cuối mùa của họ.
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ
Cái giá khoa danh ấy mới hời
hoặc mỉa mai thói tham lam vơ vét của họ:
Bây giờ đã trót trầy da trán
Ngày trước đi đâu mất máy lông
Bây giờ có viên án sát hình như được thực dân ủy cho dò la và mua chuộc đám chí sĩ Việt Nam, thường hay lui tới thăm hỏi Nguyễn Khuyến, lại trong lúc lai vãng tống tặng, hay sinh tài câu thi vần phú. Nhân dịp quan An gửi biếu một chậu hoa trà, cụ Tam Nguyên liền có bài thơ tạ như sau:
Bác lại cho ta một chậu trà
Ta say ta chả biết mùi hoa
Da mồi tóc bạc ta già vậy
Áo tía đai vàng bác đấy a
Mưa bụi những kinh phường xỏ lá
Gió may lại sợ đứa giơi già
Xưa nay ta vẫn xem bằng mũi
Đếch thấy mùi thơm một chút khà
Tác giả đã tự cho là một mẹ mốc, đã tự phô trương mình là một anh lòa, vậy thì những “dính chung, chu tử” của cái “Tân trào” kia đối với tác giả còn có hương vị gì hấp dẫn nữa. Nghĩ mà giận ông án sát mê muội, thật đáng cụ văng tục cho một tiếng “đếch”. Nếu ông hiểu được cụ đã nguyện “sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết, mảnh gương trinh bằng vặc quyết không nhơ”, thì đâu ông còn dám múa lưỡi khỏe khôn với cụ!
Ghét Tây, ghét bọn quan lại làm tôi tớ cho Tây, Nguyễn Khuyến còn ghét nữa những tục lệ lố lăng mà họ sướng ra, như những ngày hội Tây, hội Phá ngục Bát ti, hội Đình chiến… đều là những kỷ niệm trong lịch sử Pháp, nào có liên quan gì đến ta đâu. Vậy mà họ bày ra hội hè linh đình, với những trò vui thô bỉ như liếm chảo, đập nồi. Dân chúng vô tình tham dự hết mình. Tất cả hể hả trong bầu không khí vui sướng. Nguyễn Khuyến đứng nhìn mà tủi cho quốc thể, đau cho quốc hồn, giận lây cả đám quần chúng vô tâm:
Xem thêm: Cảm nhận về hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua văn thơ xưa
Khen ai khéo vẽ trò vui thế
Vui the bao nhiêu nhục bấy nhiêu
Thật là một lời cảnh cáo nghiêm khắc, một tiếng gọi hồn nước thiết tha mà đau đớn hướng vào những ai còn biết nghĩ, biết thương.
Ngoài ra, những bài tâm sự hay trào phúng, ta cũng còn có thể thấy lòng yêu nước của Nguyễn Khuyến trong nhiều bài thơ nông thôn của ông. Yêu nước, đối với ông không phải chỉ là than thở giận hờn trước thời cuộc đất nước. Yêu nước đối với Nguyễn Khuyến cũng còn là, trở về một giọng thơ thanh thản hơn, nhận xét và ca tụng những vẻ đẹp của đất nước, yêu nước ấy là yêu cảnh sắc quê hương. Quê hương ta phần lớn là nông thôn với quang cảnh đơn sơ thân thuộc những lũy tre, những mái tranh, những ngõ đất, những ao nước… Nguyễn Khuyến đem tất cả những vật liệu ấy vào thi phẩm. Đọc những vần thơ mùa thu của ông như:
Sóng nước theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
hay:
Năm gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm khuya đóm lập lòe
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe
Ta cảm thấy một rung động nhẹ nhàng, thanh tao. Tác giả đã thi vị hóa cảnh quê của chúng, làm cho chúng ta cũng cảm thấy yêu mến quê hương hơn.
Và yêu nước đối với Nguyễn Khuyến cũng còn là yêu lớp người nền tảng của đất nước, lớp dân quê, dân cày, đã hai sương một nắng sản xuất và đóng góp cho nền kinh tế đất nước. Ông đã cúi xuống phản ánh sinh hoạt của họ. Dân quê ta đa sô là tiểu nông bần nông đã phải sống chật vật, eo hẹp như thế nào, ông đã nói lên trong bài Làm ruộng:
Phần thuế quan thu phần trả nợ
Nửa công đứa ở nửa thuê bò
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa
Chợ búa giàu chè chả dám mua…
Và những trận lụt tai hại, thêm vào chính sách cao thuế nặng của thực dân đã làm cho nông thôn ta lo lắng- buồn đau như thế nào, ông đã nói lên trong nhiều bài khác:
Quai Mễ Thanh Liêm đã lỡ rồi
Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi
Gạo năm ba bát cơ còn kém
Thuế một hai nguyên dáng chửa đòi…
Như vậy ta thấy, qua thi văn Nguyễn Khuyến, tác giả đã chứng tỏ một tấm lòng yêu nước chân thành. Nguyễn Khuyến đã không hổ danh một vị ông Tam Nguyên, đại biểu cho giai cấp sĩ phu trong lúc quốc phá gia vong. Ngày nay đọc lại những vần thơ trong đó biểu lộ, khi thì nồng nàn hiển hiện khi thì bóng gió xa xôi, lòng tác giả thiết tha rung động với non sông, với dân tộc trong cơn bĩ cực, ta càng thấy yêu mến nhà nho và nhà thơ nổi danh của làng Yên Đổ.