Tài liệu Soạn văn 11: Ôn tập cuối học kì II, sẽ được Download.vn giới thiệu với những kiến thức vô cùng hữu ích.
Bạn đang đọc: Soạn bài Ôn tập cuối học kì II Chân trời sáng tạo
Các bạn học sinh lớp 11 có thể tham khảo nội dung chi tiết của tài liệu sẽ được chúng tôi đăng tải.
Soạn bài Ôn tập cuối học kì II
Câu 1. Kẻ vào vở hai cột A, B theo mẫu dưới đây, sau đó nối tên thể loại ở cột A với đặc điểm phù hợp được nêu ở cột B; giải thích lí do bạn tạo ra các đường nối giữa hai cột A và B.
A.Thể loại/ Kiểu văn bản |
B. Đặc điểm |
Truyện thơ Nôm bình dân |
những sáng tác không có cốt truyện; giàu tính trữ tình và tính nhạc;… |
Truyện ngắn |
những sáng tác tự sự hư cấu có dung lượng nhỏ, thường phù hợp để đọc hết trong một lần; quy mô hạn chế, số lượng nhân vật và sự kiện ít, chỉ tập trung miêu tả một khía cạnh hoặc trạng thái cụ thể của đời sống xã hội… |
Truyện thơ Nôm bác học |
những tác phẩm do các tác giả là trí thức Nho học (thường có tên tuổi, lai lịch rõ ràng) sáng tác, lưu hành rộng rãi nhưng chủ yếu vẫn trong giới trí thức tinh hoa, có nội dung phản ánh số phận và nhu cầu của giới trí thức, có chất lượng nghệ thuật cao;… |
những sáng tác trung gian giữa truyện và kí; kết hợp hư cấu và phi hư cấu;… |
|
Truyện thơ dân gian |
những sáng tác dưới hình thức văn vần, thường xoay quanh đề tài tình yêu, hôn nhân; kết hợp tự sự với trữ tình, rất gần gũi với ca dao, dân ca; phát triển nhiều ở các dân tộc miền núi;… |
Thơ có yếu tố tượng trưng |
những tác phẩm diễn tả thế giới nội tâm của chủ thể trữ tình thông qua những chi tiết, hình ảnh cụ thể, gợi cảm, kết hợp sự cảm nhận của nhiều giác quan; nhiều khi còn còn đi sâu vào những vấn đề triết học…. |
Truyện kí |
những sáng tác (thường là khuyết danh) chủ yếu lưu hành trong dân gian, nội dung phản ánh cuộc sống và khát vọng của người dân tầng lớp dưới, ngôn ngữ giản dị gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân. |
Hướng dẫn giải:
Câu 2. Nêu một số điểm khác biệt giữa truyện thơ dân gian và truyện thơ Nôm, minh hoạ bằng các dẫn chứng lấy từ các văn bản đã học.
Câu 3. Nêu một số điểm nổi bật về con người, cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Nguyễn Du. Theo bạn, với Truyện Kiều , Nguyễn Du đã có những đóng góp gì trong việc phát triển thể loại truyện thơ Nôm của dân tộc?
Câu 4. Bạn hiểu thế nào là yếu tố tượng trưng trong thơ trữ tình? Theo bạn, đoạn thơ sau có yếu tố tượng trưng không? Dựa vào những dấu hiệu nào để khẳng định như vậy?
Này lắng nghe em khúc nhạc thơm
Say người như rượu tối tân hôn;
Như hương thấm tận qua xương tuỷ,
Âm điệu, thần tiên, thấm tận hồn.
Hãy tự buông cho khúc nhạc hường
Dẫn vào thế giới của Du Dương
Ngừng hơi thở lại, xem trong ấy
Hiển hiện hoa và phảng phất hương…
(Xuân Diệu, Huyền diệu )
Câu 5. Nếu một số điểm khác biệt chính giữa truyện và truyện kí.
Câu 6. Nhận xét về cách sử dụng ngôi kể, điểm nhìn trong tác phẩm Tôi đã học tập như thế nào? (M. Go-rơ-ki) hoặc Xà bông “Con Vịt” (Trần Bảo Định).
Câu 7. Theo bạn, nhìn từ mối quan hệ với tác giả, người kể chuyện trong truyện ngắn khác với người kể chuyện trong truyện kí như thế nào? Chia sẻ cảm nhận hoặc ấn tượng sâu sắc nhất của bạn khi đọc một trong ba truyện ngắn: Chiều sương (Bùi Hiển), Muối của rừng (Nguyễn Huy Thiệp), Kiến và người (Trần Duy Phiên).
Câu 8. Lập bảng so sánh và chỉ ra những điểm tương đồng, khác biệt về yêu cầu trong cách viết giữa hai kiểu văn bản:
– Văn bản nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học và văn bản nghị luận về một tác phẩm văn học
– Báo cáo nghiên cứu về một vấn đề tự nhiên hoặc xã hội và thuyết minh có lồng ghép một hay nhiều yếu tố như miêu tả, tự sự, biểu cảm, nghị luận
Câu 9. Lập bảng tổng hợp những điểm đáng lưu ý về các tri thức tiếng Việt liên quan đến
– Đặc điểm, tác dụng của một số hiện tượng phá vỡ những quy tắc ngôn ngữ thông thường
– Đặc điểm và tác dụng của biện pháp tu từ đối;
– Đặc điểm và tác dụng của biện pháp tu từ lặp cấu trúc;
– Cách nhận biết và cách sửa một số kiểu lỗi về thành phần câu.
Câu 10. Viết đoạn văn (khoảng 200 – 300 chữ) về một trong hai nội dung sau:
– Con người sẽ được gì, mất gì khi trở thành bạn với muôn loài?
– Phải chăng “cái tôi” là một thế giới?