Văn mẫu lớp 11: Nghị luận văn học Hai đứa trẻ của Thạch Lam (2 Dàn ý + 8 Mẫu)

Văn mẫu lớp 11: Nghị luận văn học Hai đứa trẻ của Thạch Lam (2 Dàn ý + 8 Mẫu)

Nghị luận Hai đứa trẻ của Thạch Lam gồm 8 mẫu cực hay kèm theo 2 gợi ý cách viết rất chi tiết. Với 8 mẫu nghị luận Hai đứa trẻ được viết rất rõ ràng, sẽ giúp các bạn nhanh chóng nắm bắt kiến thức hơn và cũng tiết kiệm thời gian cho việc tìm kiếm.

Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 11: Nghị luận văn học Hai đứa trẻ của Thạch Lam (2 Dàn ý + 8 Mẫu)

Văn mẫu lớp 11: Nghị luận văn học Hai đứa trẻ của Thạch Lam (2 Dàn ý + 8 Mẫu)

Nghị luận về tác phẩm Hai đứa trẻ được biên soạn kỹ lưỡng, chất lượng. Qua đó các em hiểu rõ được nội dung, ý nghĩa nghệ thuật của truyện Hai đứa trẻ. Đồng thời khi gặp những dạng bài tương tự các em học sinh sẽ dễ dàng xác định dạng bài và cách triển khai chính xác. Bên cạnh đó các bạn xem thêm bài văn mẫu: cảm nhận bài thơ Vội vàng, cảm nhận bài thơ Tràng giang và nhiều bài văn khác tại chuyên mục Văn 11.

Nghị luận văn học Hai đứa trẻ của Thạch Lam

    Dàn ý nghị luận Hai đứa trẻ

    Dàn ý số 1

    1. Mở bài

    – Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam. (Thạch Lam là nhà văn nổi tiếng với nhiều tác phẩm tiêu biểu, trong đó phải kể đến Hai đứa trẻ).

    2. Thân bài

    a. Khái quát chung

    • Phong cách văn chương: mỗi truyện như một bài thơ trữ tình giọng điệu điềm đạm nhưng chứa đựng tình cảm mến yêu chân thành và sự nhạy cảm trước những biến thái của cảnh vật và lòng người. Văn Thạch Lam trong sáng, giản dị mà thâm trầm, sâu sắc.
    • Tác phẩm: một trong những truyện ngắn đặc sắc của Thạch Lam, có sự hòa quyện của hai yếu tố hiện thực và lãng mạn trữ tình.

    b. Phân tích tác phẩm

    • Bức tranh phố huyện lúc chiều tà

    • Cảnh vật: đám mây đỏ rực, lũy tre đen lại, các nhà dần dần lên đèn, phiên chợ chiều chỉ còn những rác rưởi (vỏ thị, lá nhãn, lá mía) bốc mùi ẩm mốc, mấy đứa trẻ con nhà nghèo nhặt nhạnh những thứ còn dùng được của người bán hàng để lại.
    • Âm thanh: tiếng trống thu không, tiếng ếch nhái ngoài đồng ruộng, tiếng người bán hàng về nói chuyện với nhau.

    → Bức tranh đặc trưng của một vùng quê nghèo khó.

    • Bức tranh phố huyện lúc tối và đêm khuya

    • Con người: mẹ con chị Tí ra mở hàng nước, hai chị em Liên trò chuyện với nhau, bà cụ Thi hơi điên đi mua rượu với tiếng cười gây sợ hãi, hàng phở gánh của bác Siêu, vợ chồng bác xẩm với manh chiếu rách.
    • Cảnh vật: Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối; tối hết con đường thẳm thẳm ra sông; con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng càng sẫm đen hơn nữa; chỉ có những khe sánh, quầng sáng, chấm lửa nhỏ, hột sáng…

    • Bức tranh phố huyện khi tàu đi qua

    An và Liên: thức để bán hàng; để được nhìn chuyến tàu đêm đi qua.

    Hình ảnh đoàn tàu:

    – Khi xuất hiện: Các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường. Những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng.

    – Khi tàu đi vào đêm tối: Để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt. Chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre.

    → Đoàn tàu mang ánh sáng, mang sự sống nhộn nhịp đến cho người dân phố huyện dù chỉ trong chốc lát nhưng làm bừng sáng nơi đây.

    3. Kết bài

    Khái quát lại nội dung, giá trị của tác phẩm.

    Dàn ý số 2

    I. Mở bài

    Giới thiệu về tác phẩm Hai đứa trẻ

    Ví dụ: Hai đứa trẻ là tác phẩm được in trong tập “Nắng trong vườn”, là một tác phẩm được coi là nổi bật nhất của ông. Hai đứa trẻ là tác phẩm nói lên cuộc sống khó khăn tại một huyện nghèo với bao con người và cuộc sống khổ cực. Nơi ấy là quê ngoại của tác giả vào năm 1945, chính vì thế mà tác phẩm được thể hiện hết sức đặc biệt và thấm đượm tình cảm. Chúng ta cùng đi tìm hiểu tác phẩm để hiểu rõ hơn về hoàn cảnh sống của con người lúc bấy giờ.

    II. Thân bài

    1. Bức tranh đời sống nơi phố huyện nghèo

    a. Bức tranh thiên nhiên

    • Một làng quê yên ả, thanh bình nhưng gợi buồn
    • Cảnh vật lúc chiều tối buông xuống hết sức thân thiết và gần gũi

    b. Bức tranh sinh hoạt của con người

    • Cảnh chợ nghèo nàn, xơ xác, tiêu điều
    • Cuộc sống của con người khốn khó và vô cùng cơ cực
    • Cuộc sống của con người nơi đây nghèo nàn, không lối thoát

    2. Cảnh đợi tàu

    a. Lí do đợi tàu:

    • Đợi tàu trở thành một công việc, một nhu cầu của con người nơi phố huyện nghèo
    • Đợi tàu thể hiện sự khát vọng có một cuộc sống tốt đẹp hơn, có một cuộc sống ấm no hơn

    b. Hình ảnh đoàn tàu:

    • Đoàn tàu như biểu tượng của cuộc sống tươi đẹp, cuộc sống đẹp đẽ hơn
    • Đoàn tàu mang một tia hi vọng, một chút mơ ước của con người nơi phố huyện nghèo

    III. Kết bài

    Nêu suy nghĩ của em về truyện ngắn Hai đứa trẻ

    Ví dụ: Truyện ngắn Hai đứa trẻ thể hiện một khung cảnh vùng quê nghèo khó, khổ cực và có cuộc sống hết sức khó khăn. Những niềm mơ ước và hi vọng của những con người có niềm tin và niềm hi vọng được gửi gắm qua hình ảnh đoàn tàu.

    Nghị luận Hai đứa trẻ hay nhất – Mẫu 1

    Thạch Lam được biết đến là nhà văn với một phong cách sáng tác vô cùng riêng biệt. Các tác phẩm của ông không chỉ nhẹ nhàng, thấm đượm chất trữ tình mà còn mang nhiều nét nghệ thuật độc đáo, nổi bật. Một trong số những tác phẩm đó không thể không nhắc đến chính là Hai đứa trẻ. Câu chuyện về Liên và An đã gây nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.

    Thạch Lam sáng tác không nhiều nhưng đủ để mọi người nhận thấy ông là một nhà văn có phong cách riêng trong sáng, giản dị mà thâm trầm sâu sắc. Mỗi truyện của ông giống như một bài thơ trữ tình, giọng điệu điềm đạm nhưng chứa đựng biết bao cảm xúc thương yêu con người và cảnh vật. Hai đứa trẻ cũng như những truyện ngắn khác, tác phẩm phản ánh những cảnh đời bề ngoài dường như không có gì đáng để ý, nhưng đi vào bên trong, nơi sâu lắng của tâm hồn thì mảnh đời nào, nhất là của tầng lớp nghèo khổ, cũng gợi lên bao nỗi xót xa, thương cảm, có lúc sâu sắc, tinh tế đến bất ngờ.

    Mở đầu câu chuyện là hình ảnh phố huyện lúc chiều tà. Đó là tiếng trống thu không, là hình ảnh đám mây đỏ rực, lũy tre đen kịt, tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng, tiếng muỗi vo ve,… gợi cảm giác bâng khuâng, man mác. Trong bức tranh chiều tàn nơi phố huyện có sự hòa trộn giữa hai loại hình ảnh: hình ảnh êm đềm, thi vị (tiếng trống thu không) và hình ảnh gợi sự nghèo khổ, bần cùng (tiếng ếch nhái kêu ran, tiếng muỗi vo ve) thật nhịp nhàng, hòa hợp giữa cảnh với người. Những câu từ vừa giàu hình ảnh, nhạc điệu, vừa uyển chuyển, tinh tế. Nó không những khiến người đọc hình dung ra cảnh vật mà còn khơi gợi tình cảm, xúc cảm trước thiên nhiên gần gũi, bình dị của quê hương. Cảnh chợ chiều đã vãn bộc lộ rõ cái nghèo: rác rưởi vung vãi trên nền chợ và những đứa trẻ lom khom tìm kiếm những gì có thể dùng được cho cuộc sống nghèo khổ của gia đình chúng. Đó là mặt trái, là một thứ bóng tối của xã hội lúc bấy giờ.

    Bắt đầu đêm thì đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối. Bác hàng phở lom khom nhóm lửa thì bóng bác mênh mang ngả xuống đất một vùng và kéo đến tận đàng xa. Chị em Liên ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc bàng với cái tối chung quanh. Mẹ con chị Tí ra mở hàng nước. Bà cụ Thi hơi điên đi mua rượu với tiếng cười gây sợ hãi. Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối; tối hết con đường thăm thẳm ra sông; con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng càng sẫm đen hơn nữa; chỉ có những khe sánh, quầng sáng, chấm lửa nhỏ, hột sáng… Bóng tối át cả ánh sáng. Vài ánh sáng thưa thớt, mờ nhạt khiến bóng tối lại càng dày đặc. Vệt sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào cành cây, cũng như hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh trên liền trời.

    Trang sách nhuộm đầy bóng tối là để gắn vào cái khung tối tăm ấy những mảnh đời không kém tối tăm. Trong cảnh ngày tàn, chợ tàn, hiện lên những kiếp người tàn tạ. Họ có chung cuộc sống tối tăm, nghèo đói, chung cảnh ngộ tẻ nhạt, buồn chán. Tuy vậy, trong tâm hồn họ vẫn ánh lên vẻ đẹp của tình người, tình quê hương và le lói một niềm hi vọng vào một ngày mai tươi sáng. Ngồi trước cửa hàng, Liên lặng lẽ cảm nhận khung cảnh chiều quê, tuy buồn bã nhưng thân thuộc, gần gũi và cảm thông, chia sẻ với những con người sống lay lắt nơi phố huyện nghèo này.

    Đêm nào Liên và An cũng cố thức cho tới giờ xe lửa chạy qua theo đúng lời mẹ dặn, nhưng còn vì một lí do đặc biệt khác. Với hai đứa trẻ, đoàn tàu là một thế giới khác hẳn với cuộc sống tù túng, tẻ nhạt hằng ngày của chúng. Đoàn tàu chưa tới nhưng đã được báo trước bằng ánh đèn của người gác ghi và tiếng còi tàu từ xa vẳng lại. Liên trông thấy ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi, rồi nghe thấy tiếng còi xe lửa trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió. Sau đó, nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi, kèm theo một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa… Thế rồi tàu rầm rộ đi tới, các toa đèn sáng trưng, những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh. Cuối cùng là cảnh đoàn tàu đi xa dần, mất hút trong đêm tối mênh mông, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt, cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre… Chuyến tàu đêm mang đến cho con người nơi đây sự hoạt động náo nhiệt, sáng rực, vui vẻ và huyên náo, đầy hấp dẫn trái ngược với cuộc sống của người dân nơi đây: lặng lẽ, tối tăm, im lặng mênh mông của đêm tối, trong giấc ngủ và cả trong sự lãng quên. Chuyến tàu đêm chỉ thoáng qua trong chốc lát rồi lại trả cuộc sống phố huyện về trạng thái mênh mang, yên lặng và đầy bóng tối. Điều đó dường như làm cho nỗi buồn càng thêm thấm thía trong tâm hồn hai đứa trẻ; để lại cho chúng sự khát khao, nuối tiếc không nguôi. Gần như đã thành nếp, những người dân nơi phố huyện chỉ chấm dứt hoạt động của một ngày khi chuyến tàu đêm đã đi xa. Đối với chị em Liên, đoàn tàu đến từ Hà Nội gợi lại những kỉ niệm đẹp, nơi hai chị em đã sống thời thơ ấu êm ấm và sung sướng. Đó là cuộc sống ở một thời chưa xa, hoàn toàn khác với cuộc sống ở phố huyện buồn tẻ và nghèo nàn này. Đoàn tàu còn là hình ảnh của tương lai, nó khiến những người nghèo khổ hình dung ra một thế giới giàu sang, nhộn nhịp, đầy âm thanh và ánh sáng.

    Thạch Lam đã tạo ra sự tương ứng giữa thế giới ngoại cảnh (bức tranh phố huyện) với thế, giới nội tâm nhân vật (tâm trạng cô bé Liên) trong từng thời khắc: cảnh chiều buông thì người buồn man mác; cảnh đêm xuống thì người đợi chờ khắc khoải; cảnh đêm khuya, chuyến tàu đi qua thì người buồn tiếc, mơ tưởng, khát khao, giúp bạn đọc hình dung ra rõ nét hơn tâm trạng cũng như những suy tư của hai nhân vật chính là Liên và An.

    Giọng văn Thạch Lam nhẹ nhàng, khách quan nhưng ẩn chứa một tình cảm xót thương thực sự đối với những con người nghèo khổ. Tình cảm nhân đạo của tác giả rất đáng trân trọng. Ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của tác giả tinh tế mà vẫn rất tự nhiên, khiến người đọc khó quên. Nhiều năm tháng qua đi nhưng tác phẩm vẫn giữ nguyên vẹn giá trị ban đầu của nó và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc.

    Nghị luận Hai đứa trẻ ngắn gọn – Mẫu 2

    Thạch Lam là một trong số những gương mặt tiêu biểu của nhóm Tự lực văn đoàn và cũng là một trong những cây bút văn xuôi xuất sắc của văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Ông được biết đến với tư cách là một nhà văn lãng mạn, nhưng tác phẩm của ông lại giàu yếu tố hiện thực và thấm đượm tấm lòng nhân ái cùng niềm xót thương cho những con người nhỏ bé bất hạnh. Mỗi truyện ngắn của ông được ví như một bài thơ trữ tình đượm buồn và “Hai đứa trẻ” cũng không phải trường hợp ngoại lệ. Tác phẩm thể hiện niềm xót thương chân thành và thấm thía của nhà văn với những kiếp người cơ cực, quẩn quanh, mòn mỏi trong phố huyện tăm tối, đồng thời thông qua nội dung tác phẩm, nhà văn cũng thể hiện sự trân trọng, nâng niu với những mong ước khiêm nhường, nhỏ nhoi trong tâm hồn họ, đúng như câu văn đã khái quát được cả chủ đề của truyện: “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ.”

    Tác phẩm đã xây dựng bức tranh nơi làng quê chìm trong bóng tối. Ấn tượng đầu tiên gợi lên trong tâm trí người đọc về bức tranh phố huyện lúc trời tối chính là hình ảnh bóng đêm. Một bóng đêm khổng lồ rộng lớn trùm lên con người và cảnh vật: “Đường phố và các ngõ con dần chứa đầy bóng tối”, “Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa.” Trong bóng tối bao trùm phố huyện vẫn thấp thoáng hiện ra ánh sáng, nhưng cũng chỉ là thứ ánh sáng rất đỗi nhỏ bé yếu ớt: ở một vài cửa hàng, cửa chỉ hé ra một vài “khe ánh sáng”; “quầng sáng thân mật” quanh ngọn đèn chị Tí; một “chấm” lửa nhỏ từ gánh phở của bác Siêu và cả “hột” sáng thưa thớt trong ngọn đèn nhà Liên lọt qua phên nứa. Có thể thấy ánh sáng vẫn còn rải rác trong không gian phố huyện nhưng nó le lói như chính cuộc đời, số phận của những người dân phố huyện. Trong tương quan giữa bóng tối và ánh sáng, ta thấy bóng tối bao trùm, ngự trì, dày đặc, còn ánh sáng thì nhỏ nhoi, mong manh đến tội nghiệp. Phải chăng đây đều là những hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng? Bóng tối gợi người ta liên tưởng đến sự nghèo đói, tù túng, bế tắc, còn ánh sáng chính là niềm tin, hy vọng, là ước mơ của con người.

    “Bóng tối” trong tác phẩm còn là bóng tối của của cuộc đời biết bao con người nơi phố huyện. Mẹ con chị Tí ban ngày mò cua bắt tép, tối về dọn hàng nước, như một thói quen, khách hàng cũng quen thuộc, ngày qua ngày tẻ nhạt, nhàm chán, lặp lại trong mỏi mòn và đơn điệu, trong cái chép miệng ngán ngẩm: Ôi chao, sớm với muộn mà có ăn thua gì. Bác Siêu cùng cái bóng “mênh mông ngã xuống…” gợi ra cảm giác về kiếp người cô đơn, lủi thủi, tội nghiệp. Gánh phở chẳng ăn nhập với phố huyện nghèo, nhưng bác cứ quẩn quanh và bế tắc trong mưu sinh như thế. Gia đình bác xẩm với những đứa con nhặt rác và âm thanh của tiếng đàn bầu buồn bã. Bà cụ Thi điên với tiếng cười khanh khách, với cử chỉ ngửa cổ ra đằng sau uống một hơi cạn sạch cút rượu rồi từ từ đi lẫn vào bóng đêm… Cảnh hai chị em Liên đứng sững nhìn theo cụ không chỉ thể hiện cảm giác sợ hãi mà còn bộc lộ nỗi xót thương, ái ngại cho một kiếp người tàn lụi đang hiện lên trước mắt. Liệu rồi đây nếu cứ mãi quẩn quanh nơi phố huyện tù đọng nghèo khó này thì những người như chị Tí, như Liên có trở nên giống như cụ Thi điên hay không? Cuộc đời họ có tươi sáng hơn hay cũng chìm vào bóng tối như Thi dần tan biến vào bóng tối trước mặt Liên và An? Bản thân hai chị em Liên cũng đang sống trong một kiếp đời tàn. Mặc dù đang ở tuổi ăn tuổi lớn, cái tuổi hồn nhiên tươi vui nhưng cuộc sống của hai chị em ngày này qua ngày khác chỉ bó hẹp trong không gian phố huyện và trói buộc với một cửa hàng tạp hóa bé xíu để mưu sinh. Từ ngày bố bị mất việc, cả nhà phải chuyển từ Hà Nội về quê, cuộc sống của hai chị em không còn bất cứ niềm vui, hi vọng nào. Hình ảnh của cuộc sống tươi vui hạnh phúc nhiều màu sắc chỉ còn lại trong kí ức xa xôi mơ hồ.

    “Chừng ấy người” sống chìm khuất trong bóng tối của sự khổ nghèo, mỏn mỏi, đơn điệu, tù túng. Nhưng họ vẫn “mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. Thông qua cảnh đợi tàu, Thạch Lam đã thắp sáng những ước mơ trong họ về một sự thay đổi. Đêm nào Liên và An cũng cố thức để đợi đoàn tàu từ Hà Nội đi qua phố huyện, không phải để bán hàng, mà để nhìn ngắm một hoạt động rộn ràng cuối ngày, một thế giới khác đi ngang qua. Khi tàu chưa đến, họ mong đợi, háo hức trông ngóng thấy chiếc đèn ghi, màu ngọn lửa xanh biếc và nghe thấy tiếng còi vang lại… Khi tàu đến, họ choáng ngợp, ngây ngất trước âm thanh rầm rộ của đoàn tàu, trước các toa đèn sáng trưng, những toa hạng sang lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh… Khi tàu đi xa, họ ngậm ngùi, nuối tiếc, nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo ở toa sau cùng, xa mãi rồi khuất lấp sau rặng tre…. Đoàn tàu ấy mang đến một thế giới khác: nếu phố huyện tàn tạ, tối tăm thì đoàn tàu sáng trưng và rực rỡ, nếu phố huyện tù đọng, ngưng trệ thì đoàn tàu náo nhiệt và sống động, nếu phố huyện xơ xác, nghèo khổ thì đoàn tàu sang trọng và giàu có. Sự khác biệt sâu sắc giữa hai thế giới đó là nguyên nhân của niềm khao khát đợi tàu của Liên và An. Cho dù đoàn tàu đến và đi rất nhanh, giống như một viên đá ném xuống ao tù chỉ đủ gợi lên một gợn sóng rồi mọi thứ lại trở về như cũ, đối với hai đứa trẻ, đó lại thực sự là những giây phút đáng sống nhất trong ngày. Nó là biểu tượng cho một thế giới thật đáng sống, biểu tượng cho ngày xưa, cho hạnh phúc, cho sung túc…

    Qua tác phẩm nói chung và và cảnh đợi tàu nói riêng, người đọc có thể cảm nhận được tấm lòng của Thạch Lam đối với những kiếp người nhỏ bé, bất hạnh đang bị lãng quên trong cuộc đời. Nhà văn đã trân trọng, nâng niu khát vọng vượt ra ánh sáng, thoát khỏi cuộc sống tù túng, quẩn quanh, không cam chịu hiện thực tầm thường, nhạt nhẽo đang vây quanh hai đứa trẻ. Phải yêu thương, thấu hiểu nhân vật biết bao, nhà văn mới để cho nhân vật của mình được tiếp tục ước mơ và khát vọng về một cái gì đó tươi sáng hơn, đẹp đẽ hơn trong cuộc sống nghèo khổ, trong cảnh tù đày tăm tối nơi con phố huyện nhỏ nghèo nàn.

    Nghị luận về Hai đứa trẻ – Mẫu 3

    Nếu như các nhà văn thuộc Tự lực văn đoàn miêu tả cuộc sống với tất cả những gì đẹp nhất, trong sáng nhất thì Thạch Lam lại tìm cho mình một lối đi riêng. Dưới con mắt của ông, đời không chỉ có tình yêu mãnh liệt đến quên cả đất trời, quên cả mọi người mà còn có cả những nỗi đau. Ngòi bút Thạch Lam hòa cùng cuộc sống, lách vào sâu những ngõ ngách tâm hồn con người để từ đó chắt lọc ra cả một bức tranh đời sống nơi phố huyện nghèo (Hai đứa trẻ) mà ở đó bóng tối đè nặng lên cuộc sống cùng cực, luẩn quẩn của con người.

    Bức tranh đời sống huyện bắt đầu với cảnh nhá nhem tối và kết thúc với cảnh chờ tàu của chị em Liên và mọi người. Toàn bộ bức tranh là bóng tối, bóng tối lan tỏa, bao trùm lên cảnh vật, tạo nên bầu không khí nặng nề, u uất. Dường như cuộc sống ở đây chỉ có một màu đen xám xịt. Bóng tối ớ rặng tre, bóng tối ở góc quán, bóng tối ở ánh sáng lập lòe của đom đóm. Tất cả, tất cả đều chìm vào bóng tối. Cuộc sống con người nơi phố huyện vốn đã không sung túc gì lại bị màn đêm bao trùm, đè nặng lại càng trở nên côi cút, lẻ loi đến tội nghiệp. Đâu đó vài đứa trẻ nhặt nhạnh nơi góc chợ hoang vắng lúc vào đêm. Chị em Liên quanh quẩn cùng quán hàng xén vốn đã vắng khách. Hàng phở của bác Siêu lặng lẽ lăn bánh.. Những hình ảnh lẻ loi, đơn chiếc ấy cùng vài ánh sáng nhỏ nhoi không đủ để xua tan bóng tối dày đặc, lan tỏa đang dần đè lên cuộc sống của họ – những con người mà số lượng có thể đếm được trên đầu ngón tay “mấy chú”, “mấy người”. Bóng tối cùng người bạn đồng hành của mình là sự im lặng đã thống trị trên cõi người. Thời gian bỗng chốc trở nên im lặng, uất ức đến lạ kỳ. Không gian bị uất nghẹn của kiếp người. Bức tranh ấy gợi lên bao nỗi xót xa.

    Nhưng Thạch Lam – người nghệ sĩ của tâm hồn ấy không dừng lại ở khắc họa bóng tối. Bóng tối đã đáng sợ nhưng cuộc sống quẩn quanh ở góc phố còn đáng sợ hơn. Họ ở đây chỉ toàn những người nghèo. Đó là gia đình chị em Liên do túng quẫn mà phải về phố huyện. Đó là bà cụ Thi hơi điên: là gia đình bác Xẩm; là gánh hàng chị Tí; là quán phở của bác Siêu… Những mảnh đời nghèo khó nơi phố huyện tụ họp lại không đủ để làm nên cuộc sống ồn ào. Cả một sự tẻ nhạt đến kinh khủng hiện ra. Chỉ qua một chi tiết nhỏ: chị em Liên không ngoái lại cùng biết tiếng cười khanh khách đằng sau là của bà cụ Thi, nhìn đốm sáng xanh lúc ẩn lúc hiện đằng xa cũng biết là gánh phở của bác Siêu.

    Dường như bao năm, bao tháng rồi họ chỉ một công việc lập đi lập lại đó. Một công việc nhàm chán, tẻ nhạt như chính cuộc đời của họ. Những sự việc ấy làm cho cuộc sống của họ thêm tù túng, ngột ngạt, không có lối thoát., không biết đi đâu. Đối với họ, tương lai dường như không có mà chỉ có thực tại u buồn, quẫn bách. Trước mắt họ, tương lai đã khép kín cánh cửa. Họ không hi vọng điều gì, không ngóng đợi ai. Hiện tại chỉ là những nghèo khó, cơ cực, tù túng cùng những công việc nhàm chán. Bức tranh ấy xoáy lên một nỗi đau trong tâm hồn độc giả, bật lên thành những tiếng kêu uất ức mà không có lời giải đáp.

    Tất cả những hành động, sự việc và cuộc đời con người ở phố huyện nghèo đều lặp lại và nhàm chán. Duy chỉ có con tàu vẫn lặp đi lặp lại nhưng không nhàm chán. Con tàu là hiện thân của ước vọng, của tương lai đối với mọi người. Họ tìm đến với con tàu, chờ đợi nó không phải chỉ để buôn bán mà còn đón chờ một cái gì lạ lẫm đối với cuộc sống chung quanh vốn đã đơn điệu. Con tàu đó với tiếng máy gầm phá tan bầu không khí vốn đã u uất nặng nề, với ánh sáng chói lọi, rực rỡ xé toang màn đêm bao phủ rồi lại rơi vào tối tăm như cũ. Với chị em Liên, con tàu còn là hiện thân của quá khứ huy hoàng với cuộc sống sung túc ở Hà Nội, là chút gì mới mé ở hiện tại và cả niềm mơ ước ở tương lai. Hình ảnh con tàu vụt qua đã làm giảm bớt sự bế tắc tù túng của một cuộc sống để lại ước mơ – một ước mơ hết sức tội nghiệp cho mỗi con người.

    Nếu như các nhà văn thuộc Tự lực văn đoàn đã xa rời thực tại, thi vị hóa cuộc sống thì Thạch Lam lại gắn chặt ngòi bút với đời sống, dù ông là thành viên chủ chốt của văn đàn ấy. Nếu đồng nghiệp của ông ca ngợi tình yêu khi say đắm, khi đau đớn, lúc xô bồ (Hồn bướm mơ tiên, Trăng sáng, Tình tuyệt vọng…) thì Thạch Lam lại đến với tình người. Văn chương Thạch Lam lay động đến cõi sâu thẳm nhất của tâm hồn con người và thức tỉnh họ bằng những nỗi đau. Với phong cách vừa lãng mạn, vừa hiện thực, ngòi bút Thạch Lam thực sự xuất sắc khi viết về cuộc sống con người nghèo khổ, cùng những nỗi đau âm thầm, nhẹ nhàng nhưng khi gấp sách lại ta không sao quên được. Không phải là những nụ cười đến thắt ruột, cười ra nước mắt của Nguyễn Công Hoan, không phải cái xót xa đến tận xương tủy như Nam Cao nhưng những trang văn nhẹ nhàng, tinh tế và sâu lắng của Thạch Lam đã lột tả hết cuộc sống phố huyện và cũng là cuộc sống của xã hội Việt Nam tù túng, ngột ngạt đương thời, đem đến cho người đọc những tình cảm thương xót đầy tính nhân bản.

    Nghị luận văn học Hai đứa trẻ – Mẫu 4

    Truyện của Thạch Lam không có chuyện. Truyện “Hai đứa trẻ” cũng vậy. Chỉ có hai đứa trẻ từ Hà Nội chuyển về một phố huyện nghèo, trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu. Chiều, hai chị em ngồi trên chiếc chõng tre ngắm cảnh phố xá lúc hoàng hôn, rồi đêm đến, tuy đã buồn ngủ ríu cả mắt, hai chị em vẫn cố thức để đợi xem chuyến tàu đêm từ Hà Nội chạy qua rồi mới khép cửa hàng đi ngủ. Thạch Lam muốn tránh lối viết tầm thường là hấp dẫn người đọc bằng cốt truyện li kì, những tình tiết éo le, những cuộc tình mùi mẫn, hoặc là những xung đột gay cấn hồi hộp. “Hai đứa trẻ” hấp dẫn người đọc bằng chất liệu thật của đời sống. Cách lựa chọn chất liệu này gần với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài (các nhà văn hiện thực giàu tính nhân đạo), lại kích thích người đọc bằng những ước mơ, hoài bão tốt đẹp. Tinh thần lãng mạn ấy gắn với các nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo. Thạch Lam có một lối văn nhẹ như cánh bướm đậu trên hoa. Bức tranh bằng ngôn ngữ của ông có thể ví với tranh lụa chứ không phải sơn dầu. Thạch Lam trước sau vẫn là một nhà văn lãng mạn. lãng mạn tích cực, đẹp.

    Trong “Hai đứa trẻ” chất lãng mạn và hiện thực hòa quyện với nhau hiện ra trong bức tranh thiên nhiên của một vùng quê vào một buổi chiều ả. Rồi màn đêm dần dần buông xuống “Một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát…” thiên nhiên thì cao rộng thì cao rộng và thơ mộng. “Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Nhưng làng quê thì đầy bóng tối, thảm hại. “Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve”. “Đôi mắt Liên, bóng tối ngập đầy dần”. “Chỉ thấy lòng buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn”. Chính bức tranh đời sống rất mực chân thật vừa thấm đượm cảm xúc chữ tình này đã gây nên cảm giác buồn thương cho người đọc. Ý nghĩa tư tưởng của truyện chủ yếu toát ra từ bức tranh đời sống phố huyện nghèo.

    Dưới mắt của hai đứa trẻ, cảnh phố huyện hiện lên thật là cụ thể, sinh động, gợi cảm. Đó là cảnh bãi chợ trống trải, vắng vẻ khi buổi chợ đã vãn từ lâu. “Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”. Cảnh chợ tàn phơi bày sự nghèo nàn, xơ xác của đời sống phố huyện. Ống kính cần mẫn của nhà văn lia qua phố huyện: trên đất chỉ còn “rác rưởi, bỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Cảnh còn được miêu tả bởi khứu giác tinh tế của nhà văn “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Bức tranh phố huyện trong “Hai đứa trẻ” đầy sức ám ảnh là vì những màu sắc và hương vị như thế.

    Trong khung cảnh tiêu điều, buồn bã đó, hình ảnh những con người nghèo khổ, lam lũ, nhếch nhác của phố huyện hiện dần ra. Những đứa trẻ đi nhặt nhạnh những thứ rơi vãi ở bãi chợ. Mẹ con chị Tí lễ mễ đội chõng xách điếu đóm ra dọn hàng, “ngày, chị đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này…”. Gia đình bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để ở trước mặt”. Thằng con bò ra đất nghịch nhặt rác bẩn bên đường. Và hai chị em Liên với cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê vì thầy Liên mất việc. Bà cụ Thi điên điên tàng tàng mua rượu uống và cười “khanh khách” lảo đảo đi vào bóng tối. Tất cả đều là những kiếp sống lầm than, cực khổ, tàn tạ. Qua con mắt của bé Liên, tất cả cuộc sống chìm trong đêm tối mênh mông, chỉ còn ngọn đèn của chị Tí, cái bếp lửa của bác Xiêu, ngọn đèn Hoa Kỳ vặn nhỏ của Liên… tức chỉ là mấy đốm sáng tù mù, những đốm lửa nhỏ nhoi ấy chẳng làm cho phố huyện sáng sủa mà chỉ càng khiến cho đêm tối mịt mù dày đặc mà thôi. “Tất cả phố xá trong huyện bây giờ thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí”. Hình ảnh ngọn đèn con nơi hàng nước của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ ấy trở đi trở lại tới bẩy lần trong huyện là hình ảnh đầy ám ảnh và có sức gợi rất nhiều về những kiếp sống nhỏ nhoi, lay lắt, mù tối trong đêm đen mênh mông của cuộc đời.

    Cảnh phố huyện lúc chiều tối như một khúc nhạc buồn mà điệp khúc cứ lặp lại.

    Chiều tối nào mẹ con chị Tí cũng lễ mễ dọn hàng, chị em Liên lại kiểm hàng rồi tính tiền, rồi ngồi trên chõng tre ngắm cảnh. Bác phở Siêu lại gánh hàng và thổi lửa, bác Xẩm lại trải chiếu, đặt thau. Điệp khúc ấy cứ lặp đi lặp lại đơn điệu, buồn tẻ. Họ cũng lóe lên một chút hi vọng. Hi vọng là liều thuốc an thần cho những con người khốn khổ ấy. Nhất Linh cũng từng nói những người dân quê rất nghèo khổ tiền bạc nhưng rất giàu hi vọng hão “chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”.

    Hai đứa trẻ làm sao ý thức rõ rệt được cảnh tù đọng, buồn chán, bế tắc mà chúng đang sống cũng như về những khát vọng tinh thần mơ hồ của mình. Song với tâm hồn ngây thơ, nhạy cảm, cô bé Liên cảm nhận thấm thía tuy chỉ là vô thức hiện thực đó, khát vọng đó. Chính vì khao khát được thoát khỏi cảnh tù đọng mù tối ấy mà chị em Liên đêm đêm cố thức đợi chuyến tàu đi qua. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua, một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng của ngọn đèn chị Tí và ánh lửa bác Siêu.

    “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam không đi sâu miêu tả những xung đột xã hội, xung đột giai cấp. Ông cũng không để tâm miêu tả những bộ mặt gớm ghiếc của những kẻ bóc lột và khuôn mặt bi thảm của những kẻ bị áp bức, vì nói cho cũng Thạch Lam là một nhà văn lãng mạn. Ông phác họa bức tranh phố huyện nghèo, chân thật trong từng chi tiết và trong chiều sâu tinh thần của nó. Bức tranh làng quê mù xám với những con người nhỏ nhoi đáng thương ấy thấm đẫm niềm cảm thương chân thành của tác giả đối với những người lao động nghèo khổ sống quẩn quanh bế tắc, tối tăm. Qua bức tranh ảm đạm của phố huyện và qua hình ảnh của những con người bé nhỏ với chút hi vọng le lói, ta thấy được mơ ước lớn của nhà văn là muốn thay đổi cuộc sống ngột ngạt đó cho những con người lao động nghèo khổ.

    Nghị luận Hai đứa trẻ – Mẫu 5

    Câu chuyện được mở đầu bằng cảnh trời chuyển sang cuối chiều để dần vào đêm. Một hình ảnh, cảnh vật nơi phố huyện nhỏ đều thu về lặng lẽ, lắng lại. Chiều, chiều rồi… Giọng văn êm ả như ru, đầy tâm trạng của Thạch Lam nhẹ nhàng dẫn người đọc vào một thế giới thanh sạch mà buồn thấm thía. Tiếng trống thu không từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều, tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào; màu đỏ rực của chân trời phía tây, đám mây hồng như hòn than sắp tàn, màu đen của dãy tre làng đang cắt hình rõ nét trên nền trời… Âm thanh nào, màu sắc nào cũng gợi lên cảm giác về sự tàn lụi, cũng khơi sâu vào nỗi buồn.

    Trong khung cảnh tan vắng trên, lần lượt xuất hiện những kiếp người bé nhỏ, tội nghiệp, đang luẩn quẩn trong nếp sống buồn tẻ của mình. Bên cạnh hình ảnh gian hàng tạp hóa tồi tàn của gia đình Liên (ngay đến cái chõng tre cũng đã cũ nát), là cảnh vãn chợ, là hình ảnh hàng nước của chị Tí, là hình ảnh của bà cụ Thi hơi điên với tiếng cười khanh khách ghê sợ. Những cuộc đời ấy không có tương lai, những cảnh vật ấy đều dần chìm sâu vào bóng đêm của một ngày tàn. Điều đáng chú ý là mọi hình ảnh này đều được hiện lên qua cái nhìn, trong cảm nhận của chị em Liên.

    Hai chị em Liên cứ cảm thấy quẩn quanh, tù túng trong không khí buồn tẻ của đời sống phố huyện. Nhưng tâm hồn của hai đứa trẻ không phải đã khô cằn đi trong nếp sống nhàm chán này. Dường như nơi sâu thẳm trong tâm hồn non nớt mà đằm thắm của hai chị em Liên, An vẫn có niềm tưởng nhớ một cái gì đó thật tươi mát, êm đềm, vẫn có nỗi ngóng vọng một cái gì khác để xua bớt đi cái không khí bế tắc này. Đó chính là lí do để chi tiết đoàn tàu xuất hiện.

    Vì sao đang buồn ngủ ríu cả mắt hai chị em vẫn cố gượng để thức khuya chút nữa chờ chuyến tàu đêm đi ngang phố? Từ những kỉ niệm trong cuộc đời tuổi thơ, Thạch Lam đã xây dựng nên một chi tiết có ý nghĩa khái quát nghệ thuật sâu sắc. Nơi phố huyện buồn vắng, nơi giữa đêm tối mênh mông chỉ leo lét ngọn đèn dầu trên chõng hàng chị Tí và ánh lửa bếp của bác Siêu, con tàu sang trọng, sáng trưng đi qua là hình ảnh của một thế giới khác. Cái thế giới ấy ồn ào, sang trọng đến xa lạ nhưng sự xuất hiện của nó đã thân quen với nếp sống của phố huyện này. Cứ chín giờ đêm lại có chuyến tàu ở Hà Nội đi qua phố huyện. Vì thế niềm mong đợi ấy thực chất là nỗi khát khao được sống với một thế giới khác, dù trong khoảnh khắc: Liên dắt em đứng dậy nhìn đoàn xe vụt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu sáng cả xuống đường

    Hình ảnh hai chị em Liên mang hình bóng số phận bao lớp người nghèo trong xã hội thực dân nửa phong kiến thời bấy giờ. Lấy hồn mình để hiểu lòng người, Thạch Lam đã diễn tả thật tinh tế dòng cảm- giác, tâm trạng của các nhân vật trong sự biến chuyển của thời gian. Qua hình ảnh Liên, An và những người dân nghèo phố huyện, chúng ta nhận ra tấm lòng thông cảm, ưu ái của Thạch Lam, nhận ra tinh tế của một ngòi bút văn xuôi trữ tình.

    Nghị luận bài Hai đứa trẻ – Mẫu 6

    Trào lưu văn học lãng mạn là một trong số những trào lưu văn học lớn trong giai đoạn 1930 – 1945 với nhiều tác giả, tác phẩm nổi tiếng, Thạch Lam là một trong số những gương mặt tác giả tiêu biểu cho trào lưu ấy. Với những trang viết nhẹ nhàng, truyện không có cốt truyện, đi sâu vào thế giới nội tâm nhân vật, những truyện ngắn của Thạch Lam luôn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” trích trong tập “Nắng trong vườn” là sáng tác xuất sắc, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của ông.

    Toàn bộ tác phẩm được đặt dưới con mắt của nhân vật Liên – một thiếu nữ mới lớn. Chính điều đó không chỉ làm cho câu chuyện mang tính khách quan mà hơn thế nữa còn làm cho bức tranh cảnh vật thấm đẫm cảm xúc của nhân vật, trở nên sinh động và mang màu sắc mới. Thêm vào đó, tác phẩm được đặt trong bối cảnh không gian của một phố huyện nghèo trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 và đặc biệt là khoảng thời gian từ chiều tối đến đêm muộn – một khoảng thời gian có ý nghĩa đặc biệt trong văn học. Để rồi, từ việc lựa chọn điểm nhìn, không gian và thời gian ấy đã đưa đến cho người đọc bức tranh sinh động về cảnh vật và con người phố huyện trong những khoảng thời gian khác nhau.

    Mở đầu tác phẩm chính là bức tranh phố huyện lúc chiều tàn. Bức tranh phố huyện lúc chiều tàn được tác giả miêu tả trước hơn hết ở bức tranh cảnh vật với đầy đủ cả âm thanh, màu sắc và đường nét. Âm thanh đầu tiên được tác giả gợi lên ở câu văn mở đầu tác phẩm đó chính là “tiếng trống thu không trên cái chòi canh của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra như để gọi buổi chiều về”. Câu văn dài, được tách thành nhiều vế như gợi lên nhịp bước của thời gian, tiếng trống thu buổi chiều ấy như đang điểm nhịp từng bước, từng bước một để gọi chiều tàn. Cùng với đó, tác giả còn miêu tả tiếng ếch nhái và tiếng muỗi đã bắt đầu vo ve – đó đều là những âm thanh quen thuộc, bình dị của làng quê Việt Nam. Cùng với đó, bức tranh cảnh vật còn hiện lên với sắc màu “đỏ rực như lửa cháy” nơi phương Tây và cả sắc “ánh hồng của những hòn than sắp tàn.

    Như vậy, có thể thấy, tác giả đã gợi lên một bức tranh cảnh vật, bức tranh thiên nhiên nơi phố huyện vừa thơ mộng, gần gũi, sinh động nhưng đâu đó nó vẫn ánh lên cái xơ xác, vắng lặng. Không chỉ dừng lại ở tái hiện bức tranh cảnh vật, nhà văn Thạch Lam còn miêu tả một cách sinh động về cuộc sống của những người dân nơi đây thông qua cảnh chợ tàn và hình ảnh con người. Chợ đã tàn, người cũng đã về hết và tiếng ồn ào giờ đây cũng đã thưa thớt dần, đâu đó trên nền đất chỉ còn lại rác rưởi, những vỏ thị, lá nhãn, lá mía,… Tất cả những chi tiết ấy đã khái quát rõ nét khung cảnh chợ tàn nơi phố huyện và cũng trên cái nền của thiên nhiên, của chợ tàn, hình ảnh con người dần xuất hiện. Đó là hình ảnh của những đứa trẻ con nhà nghèo canh chợ đang “cúi lom khom trên mặt đất, đi lại tìm tòi, nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, cái gì có thể dùng được của những người bán hàng để lại”. Đó là hình ảnh của mẹ con chị Tí với cuộc sống tẻ nhạt, ngày nào cũng sáng mò cua bắt tép, chiều đến lại dọn gánh hàng nước từ chập tối cho tới đêm dù chẳng kiếm được bao nhiêu. Đó là bà cụ Thi điên với tiếng cười khanh khách. Và có lẽ nổi bật lên trên đó chính là hình ảnh của chị em Liên và An. Vì bố mất việc, cả gia đình Liên phải chuyển về đây và được mẹ giao cho trông coi một gánh hàng nước nhỏ.

    Hình ảnh của Liên chiều nào cũng dọn hàng, đếm hàng, tính tiền đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng. Liên giống như một người chủ gia đình thực sự, một cô gái đảm đang, tháo vát và có thể lo toan tất cả mọi việc. Bằng bút pháp tả thực, nhà văn Thạch Lam đã miêu tả cuộc sống của những con người nơi phố huyện nghèo – một cuộc sống vất vả, cơ cực, lam lũ là tẻ nhạt. Để rồi, trước khung cảnh ấy, một cô gái có tâm hồn nhạy cảm như Liên lại hiện về bao nỗi niềm tâm trạng. Đầu tiên, Liên thấy buồn biết bao trước khoảnh khắc của ngày tàn – “Liên không hiểu sao nhưng chị thấy lòng buồn man mác”. Thêm vào đó, khi chứng kiến hình ảnh của những đứa trẻ con nhà nghèo cạnh chợ, Liên thấy “động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó”. Với những nét tâm trạng đó có thể thấy Liên là cô gái tinh tế, nhạy cảm và giàu lòng trắc ẩn. Đồng thời, qua nhân vật Liên cũng giúp chúng ta hiểu thêm về tấm lòng xót thương của nhà văn Thạch Lam dành cho những con người nơi phố huyện nghèo.

    Không chỉ miêu tả thành công bức tranh phố huyện lúc chiều tàn, bức tranh phố huyện lúc đêm khuya cũng được nhà văn Thạch Lam miêu tả với nhiều chi tiết độc đáo. Bức tranh cảnh vật nơi phố huyện lúc đêm tối để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc trước hơn hết ở bóng tối dày đặc, bao phủ khắp mọi nơi. Nhà văn Thạch Lam đã sử dụng hàng loạt các chi tiết để miêu tả bóng tối dày đặc ấy, “đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối”, “tối hết con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng càng sẫm đen hơn nữa”. Có thể thấy, bóng tối đã xâm nhập và bủa vây lấy cuộc sống của những con người nơi phố huyện. Đối lập với hình ảnh bóng tối đó chính là hình ảnh ánh sáng. Nếu bóng tối được miêu tả dày đặc, mịt mù thì ánh sáng lại hoàn toàn ngược lại. Đó chỉ là thứ ánh sáng yếu ớt, nhỏ nhoi, chỉ là những “hột sáng”, “vệt sáng”, “một chấm lửa vàng đi trong đêm tối”… Có thể thấy, nhà văn Thạch Lam đã khéo léo làm bật nổi sự tương phản đối lập giữa ánh sáng và bóng tối – một thủ pháp quen thuộc của văn học lãng mạn. Nhưng không chỉ dừng lại ở ý nghĩa tả thực, hình ảnh bóng tối và ánh sáng còn mang ý nghĩa biểu tượng cho cuộc sống leo léo, tàn lụi của những số phận nghèo khổ trong đêm tối của xã hội. Không chỉ dừng lại ở khắc họa sự tương phản đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, ngòi bút của Thạch Lam còn đi sâu tái hiện cuộc sống của những con người trong đêm tối mịt mờ ấy. Một gia đình bác phở Siêu với “món ăn xa xỉ”, hôm nào cũng ế khách. Một gia đình bác Xẩm với manh chiếu, thau sắt trắng và tiếng đàn trong đêm tối tĩnh lặng. Một chị Tí với gánh hàng nước ế ẩm và cả chị em Liên ngày nào cũng trông cửa hàng cho mẹ. Cuộc sống của những con người nơi đây ngày nào cũng thế, cũng quẩn quanh với bấy nhiêu công việc, tù túng, không lối thoát. Và rồi, trước khung cảnh của phố huyện lúc đêm khuya, Liên lại nhớ Hà Nội – nhớ quá khứ vui vẻ và sung túc “Liên nhớ lại khi ở Hà Nội…Hà Nội nhiều đèn quá!” và lại khao khát, đón đợi chuyến tàu đêm từ Hà Nội đi qua.

    Cuối cùng, khép lại tác phẩm là cảnh đợi tàu – một khung cảnh giàu sức gợi và để lại nhiều suy ngẫm trong lòng bạn đọc. Đêm nào cũng vậy, dù muộn tới đâu, những người dân nơi phố huyện nghèo vẫn luôn đón chờ chuyến tàu đêm đi qua với tâm trạng đầy háo hức. Mặc dù không có những câu văn trực tiếp miêu tả tâm trạng chờ đợi chuyến tàu của những người dân nơi đây nhưng bằng các chi tiết như lời An dặn Liên trước lúc đi ngủ “Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé”, Liên dù buồn ngủ vẫn cố thức để đón chờ hay tiếng reo khi tàu đến của chị em Liên đã thể hiện rõ nét tâm trạng đón chờ của họ. Sở dĩ những con người nơi phố huyện nghèo luôn chờ đợi như vậy bởi chuyến tàu đi qua phố huyện nghèo đã mang đến “một thế giới khác” – một thế giới khác hẳn với cuộc sống của họ. Chuyến tàu đến mang theo một âm thanh sôi động, ồn ào, náo nhiệt – “tiếng còi xe lửa kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi, tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi, làn khói bừng sáng trắng”, “tiếng hành khách ồn ào khe khẽ”, “tiếng còi rít lên, tàu rầm rộ đi tới”… Chuyến tàu đi qua còn đem thứ ánh sáng khác, những ánh sáng trưng, chiếu xuống cả mặt đất “các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường, toa hạng trên sang trọng, đồng và kền lấp lánh, các cửa kính sáng”… xua đi bóng tối mịt mờ, dày đặc. Có thể thấy, cảnh đoàn tàu là một chi tiết đặc sắc của tác phẩm, nó không chỉ mang nghĩa tả thực mà còn mang ý nghĩa biểu tượng. Chuyến tàu đêm chính là hình ảnh biểu tượng cho một thế giới mới, tươi sáng, tốt đẹp hơn và hơn thế nữa, nó còn tượng trưng cho khao khát, ước muốn vượt thoát ra khỏi cuộc sống tù túng, quẩn quanh của những con người nơi phố huyện.

    Tóm lại, truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam với giọng văn nhẹ nhàng, truyện không có cốt truyện cùng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật độc đáo đã thể hiện một cách rõ nét niềm xót thương, cảm thông của tác giả với cuộc đời, số phận của những con người nơi phố huyện. Đồng thời, qua đó ông cũng thể hiện sự trân trọng ước muốn được đổi thay của họ.

    Nghị luận 2 đứa trẻ – Mẫu 7

    Đã mấy mươi năm trôi qua, người đọc vẫn không quên một dáng hình khiêm nhường, từ tốn, rất mực đôn hậu bước những bước thật nhẹ vào làng văn hiện đại Việt Nam, mang theo những trang văn nồng nàn hồn thơ. Đúng như Nguyễn Tuân nói, “sáng tác của Thạch Lam đem lại một cái gì đó nhẹ nhõm, thơm tho và mát dịu”. Ta bắt gặp những cảm xúc ấy không chỉ ở “Dưới bóng hoàng lan”, “Gió lạnh đầu mùa” hay “Cô hàng xén”, “Hai đứa trẻ” lại một lần nữa dắt ta vào thế giới trẻ thơ với những cảm xúc êm nhẹ, buồn thương.

    Đến với “Hai đứa trẻ”, trước hết ta được thấm cảm bức tranh thiên nhiên và đời sống con người nơi phố huyện qua cái nhìn tinh nhạy của cô bé Liên – nhân vật chính trong truyện. Bức tranh thiên nhiên gói gọn trong hay từ “êm ả” và “đượm buồn”. Có âm thanh của tiếng trống thu không đánh lên từng hồi xa vọng, âm thanh của tiếng ếch kêu rên gợi tĩnh lặng một miền quê, âm thanh của tiếng muỗi vo ve đậm tô sự nghèo nàn. Không gian mở ra bởi màu “đỏ rực” của phương Tây, màu “ánh hồng” của mây trời, màu “đen sẫm” của tre làng. Có chút thanh bình, êm ả, nhưng cũng không ít thê lương, ảm buồn, nó đưa ta vào một miền không gian nửa lạ nửa quen, nửa quê nửa tỉnh, với những xúc cảm giăng mắc nhẹ nhàng.

    Nơi phố huyện được nới rộng ra theo không gian của một phiên chợ tàn: “Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn lại rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Không còn là “lao xao chợ cá làng ngư phủ”, phiên chợ buổi vãn chiều thưa thoáng người, vắng sự náo nhiệt, tô đậm thêm sự lụi tàn.

    Hiện lên trên nền cảnh của một buổi chiều tàn, một phiên chợ tàn là những kiếp người tàn. Không phải những người nông dân bị rượt đuổi bởi sưu cao thuế nặng, đồng tiền bát gạo như trong sáng tác của Ngô Tất Tố, Nam Cao. Không phải những ông quan Tây học, cô gái thôn quê sống an nhàn dưới nếp khói lam chiều như trong sáng tác của Nhất Linh, Hoàng Đạo. Phận người mà Thạch Lam quan tâm là những kiếp người bé mọn vô danh, sống lụi tàn trong một xã hội đen tối mịt mùng. Thạch Lam đã viết về họ bằng tất cả niềm ai hoài cảm thương rung lên từ “chân cảm” của mình. Đó là những đứa trẻ nhà nghèo “cúi lom khom” nhặt nhạnh những thanh tre thanh nứa còn sót lại trên nền chợ, là mẹ con chị Tí với quán hàng bán chẳng được bao nhưng đêm nào cũng dọn, là bà cụ Thi với tiếng cười ghê rợn đi lần vào trong bóng tối, là bác Siêu với gánh phở ế ít người vào ăn, là gia đình bác xẩm với tiếng đàn bầu run bần bật trong đêm. Họ đều là những phận người nhỏ bé, sống lê lết từng ngày trong sự tù đọng quẩn quanh trên cái “ao đời phẳng lặng”. Viết về những kiếp người vô danh ấy, Thạch Lam bày tỏ một mối quan hoài sâu sắc về cuộc sống của hai đứa trẻ. Giữa lứa tuổi mà đáng lẽ thơ ngây còn chưa hết, Liên và An đã phải lo toan cho cuộc sống gia đình. Hai chị em trông coi hàng giúp mẹ ở một gian hàng nhỏ thuê lại của bà lão móm, ngăn ra bằng phên nứa dán giấy nhật trình. Thức hàng cũng chỉ là vài quả sơn đen hay mấy bánh xà phòng. Cơ cực đã đành, nhưng điều làm ta xa xót hơn là đời sống tinh thần của hai đứa trẻ ấy dường đang dần ngưng trệ. Chúng ngày ngày phải giam mình trong không gian u tối của phố huyện, tự cầm cố tuổi xuân và sức trẻ, và có thể sẽ chẳng bao giờ biết đến thế giới xa xăm ngoài kia.

    Nhưng vốn là người “yêu mến và trang trọng trước sự sống”, Thạch Lam sẽ không bao giờ muốn dừng lại ở việc phản ánh hiện thực cuộc sống dẫu hiện thực ấy có chân thật đến đâu. Cố tìm mà hiểu chất ngọc sáng ẩn tàng nơi mỗi con người, khơi sâu “cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới”, đó mới là điều Thạch Lam luôn muốn làm. Có người nói, Thạch Lam sinh ra là để hóa giải hai khuynh hướng sáng tác, có lẽ điều ấy thể hiện rõ nhất là ở những vẻ đẹp trong tâm hồn cô bé Liên được nhà văn viết bằng cảm hứng lãng mạn. Giữa một phố huyện nghèo nàn xơ xác vẫn sáng lên những xúc cảm tinh nhạy của một cô bé biết rung động trước thiên nhiên. Liên nghe tiếng chiều buông xuống mà lòng tự thốt lên: “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru”, chị thấy ở đó sự yên bình, và thấy cả lòng “buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Nghe hương ẩm từ nền chợ bốc lên mà tưởng như đó là “mùi riêng của đất, của quê hương này”. Trong cuộc sống lụi tàn, có mấy ai cảm được từ “một đêm mùa hạ êm như nhung” những gợn gió thoảng qua, thổi mát tâm hồn, mấy ai để tâm đến hoa bàng rụng xuống vai khe khẽ từng loạt một? Vậy mà những chứng tích của một tâm hồn mới lớn đã gọi về hết thảy những cảm xúc ấy: vừa rung động trước cái đẹp nhẹ nhàng, vừa buồn thoáng qua trước yên bình tĩnh lặng.

    Không chỉ có một tâm hồn tinh nhạy, ở Liên còn có một niềm trắc ẩn sâu sắc, một mối đồng cảm nồng hậu với những kiếp người nhỏ bé quanh mình. Cuộc sống chẳng khá hơn họ, nhưng không vì thế mà Liên khép lại lòng thương đối với những đứa trẻ nghèo, hay bớt đi lời quan tâm với mẹ con chị Tí. Chị cũng chẳng ngại rót đầy cốc rượu cho bà cụ Thi, chẳng thờ ơ với gánh phở bác Siêu, gia đình bác xẩm. Sự động lòng và niềm bao dung đối với những người xung quanh phải chăng là lòng đồng cảm yêu thương mà Thạch Lam đã gửi gắm gián tiếp qua nhân vật của mình?

    Trân trọng, yêu thương và không ngừng tin tưởng, Thạch Lam còn nhìn thấy ở những đứa trẻ kia một khát vọng luôn thường trực mà chúng tự nhen lên ngay trong cuộc sống bế tắc của mìn. Sinh thời, Thạch Lam từng tâm niệm: “Xét cho cùng, ở đời ai cũng khổ. Người khổ cách này, người cách khác. Bí quyết là biết tìm cái vui trong cái khổ.” Hai đứa trẻ đã tự tìm cho mình niềm vui ở những lần chúng ngược dòng tâm tưởng, trở về quá khứ, miên man trong những tháng ngày vui vẻ ở Hà Nội nơi chúng từng được vui chơi, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ. Hay những lần chúng ngước lên bầu trời đầy sao, tìm kiếm dòng sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông, cũng chính là lúc chúng để cho lòng mình lặng theo mơ tưởng. Nhưng có lẽ khao khát vẹn tròn nhất, ước mơ đủ đầy nhất, hai đứa trẻ gửi cả vào đoàn tàu. Không chỉ hai chị em Liên mà “từng ấy người trong bóng tối trông đợi một cái gì tươi sáng hơn cho sự sống nghèo khổ của họ”, và có lẽ đoàn tàu chính là nguồn sáng mãnh liệt nhất. Đoàn tàu – hoạt động cuối cùng của một ngày – trong con mắt Liên và những người dân nơi phố huyện lại chính là động lực cho họ cố bám bíu vào cuộc sống này. Đoàn tàu xuất hiện bắt đầu bằng tiếng reo của bác Siêu: “Đèn ghi đã ra kia rồi”. Đoàn tàu mang theo ánh sáng rực rỡ, mang theo âm thanh náo nhiệt, chứ không tù đọng như không gian phố huyện, không leo lét như ngọn đèn của chị Tí hay ánh lửa của bác Siêu. Chị em Liên cố thức chờ tàu không phải vì để bán được dăm ba món hàng, mà để được chìm đắm trong những cảm xúc mãnh liệt nhất về một “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo”. Hà Nội ấy từng đựng đầy những kỉ niệm thân thương về một thời gia đình còn khấm khá, Hà Nội ấy trong tâm thức hai đứa trẻ là miền không gian đẹp vô tận và bạt ngàn niềm vui. Vì lẽ đó mà đoàn tàu vừa như một tia hồi quang đưa hai chị em ngược dòng về quá khứ, vừa như một tia vọng quang thắp sáng cả tương lai. Nhưng nhìn ở một góc nào, phải chăng chính đoàn tàu lại càng tô đậm cuộc sống bế tắc của người nông dân, khi mà niềm vui lớn nhất trong ngày của họ chỉ là chờ tàu, chẳng thể làm gì hơn để vượt thoát khỏi không khí tù đọng cứ ôm trùm ấy. Qua đây, nhà văn muốn gửi một thông điêp: Cần phải thay đổi xã hội để cho những con người vô danh kia không phải sống vô nghĩa.

    Hấp dẫn ta ở thiên truyện không chỉ bởi những nội dung tư tưởng sâu sắc thấm thía, tình cảm nhân đạo nồng nàn, mà còn ở những yếu tố nghệ thuật mang đậm phong cách Thạch Lam. Không xây dựng một cốt truyện bề thế hay một tình huống độc đáo li kì, “Hai đứa trẻ” chỉ như một “bài thơ trữ tình cảm thương” với những dòng tâm trạng đan xem, những chi tiết nhỏ lẻ, đủ gợi dư âm dư ảnh trong lòng bạn đọc. Tình huống Thạch Lam xây dựng không phải tình huống nhận thức, tình huống hành động, mà là tình huống tâm trạng – những dòng tâm trạng men theo lối chữ mà trải đều ra trên trang giấy. Nhân vật vì thể cũng là nhân vật tâm trạng. Liên hiện lên là một cô bé có những xúc cảm mong manh mơ hồ, chứ không phải những dòng tâm lí phức tạp như nhân vật của Nam Cao. Giọng văn vì thế cũng chỉ là giọng tâm tình thủ thỉ, ngôn ngữ nồng nàn chất thơ, mang đúng “cái tạng” của Thạch Lam.

    Nghệ thuật chân chính là nghệ thuật vì con người, vì cuộc đời, nghệ thuật đích thực là nghệ thuật biết lấy chất liệu từ cuộc ống và con người để dệt nên những trang văn sâu sắc trong tư tưởng, độc đáo trong hình thức thể hiện. Một lần nữa Thạch Lam đã làm được điều đấy qua “Hai đứa trẻ”. Thạch Lam mãi là nhà văn đáng được yêu thương và trân trọng nhất trong làng văn học hiện đại Việt Nam.

    Nghị luận về tác phẩm Hai đứa trẻ – Mẫu 8

    Viết về Thạch Lam, người ta biết đến những câu chuyện ngắn, vừa là truyện, vừa không là truyện, chứa đựng trong đó biết bao cảm xúc lắng đọng, dịu dàng. Những câu chuyện của ông bao giờ cũng gắn liền hai yếu tố hiện thực và lãng mạn, và những phút giây rung cảm hết sức tinh tế nữa. Đọc tác phẩm của Thạch Lam, đặc biệt là Hai đứa trẻ, người ta mới thấy hết được tấm lòng của Thạch Lam dành cho cuộc đời, cho những con người, kiếp đời nghèo khổ.

    Hai đứa trẻ lấy bối cảnh từ một phố huyện nghèo, nơi mà Liên và An, hai nhân vật chính của câu chuyện đang sinh sống. Câu chuyện xảy ra khi bố Liên mất việc và chị em Liên phải dọn về khu phố này để mưu sinh trong cái quán tạp hóa bé xíu ngay cạnh đường tàu. Và trong khu phố ấy, biết bao kiếp đời nghèo khổ, quẩn quanh như chị em Liên với mong ước nhỏ nhoi có được chút ánh sáng dù là le lói để thấy được một tương lai tươi sáng hơn.

    Mở đầu câu chuyện, Thạch Lam dẫn người đọc vào một bức tranh tuyệt đẹp, bức tranh một phố huyện điển hình cho xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc. Bức tranh ấy được mở ra bằng cảnh thiên nhiên lúc trời đã về chiều với hình ảnh và âm thanh đặc trưng của phiên chợ tàn.

    Mở ra trước mắt chúng ta là hình ảnh của buổi chiều tà khi hoàng hôn đang buông tỏa khắp mọi nẻo đường. Bóng tối đang dần buông xuống con phố huyện nghèo ấy. Tất cả diễn biến ấy đều được gợi tả qua cái nhìn và tâm trạng của Liên – một cô gái mới lớn với những rung động thật tinh tế, nhẹ nhàng. Bức tranh hoàng hôn ấy hiện lên với “Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây hồng như hòn than sắp tàn”. Nó thật đẹp, thật lộng lẫy, rực rỡ biết chừng nào! Hoàng hôn ấy thu vào trong mình là tất cả vẻ đẹp tinh khôi nhất của linh hồn của quê hương, xứ sở. Mặt trời khuất bóng, “lũy tre làng trước mặt đen lại” như báo hiệu sự xuất hiện của đêm đen. Vẳng lên trong cái không khí trầm trầm ấy là “tiếng trống thu không” quen thuộc mỗi chiều báo hiệu ngày tàn và “tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng”, “tiếng muỗi vo ve”. Tất cả đều là những âm thanh vô cùng quen thuộc của làng quê Việt Nam thời kỳ trước.

    Bởi vậy, ta nói, bức tranh của Thạch Lam đẹp êm ả, yên bình, mang trong mình vẻ đẹp của chiều quê hương tĩnh lặng. Bức tranh thiên nhiên ấy không chỉ đẹp hùng vĩ, nên thơ mà còn êm ả đến nao lòng người, bởi trong nó chứa đựng cả linh hồn quê hương, xứ sở. Thế nhưng cái tĩnh lặng ấy của không gian lại gợi ra sự đơn điệu, một sự tĩnh lặng đến nhàm chán, thê lương. Mây hoàng hôn đẹp rực rỡ là thế nhưng chỉ là áng mây cuối ngày, lóe lên trong không gian rồi lại vội tắt. Tiếng trống thu không vẳng lên kia cũng chỉ đều đều, buồn buồn, vô hồn rồi lại thôi. Tất cả những gì rộn ràng, đẹp đẽ ấy chỉ thoáng qua cái phố huyện này rồi vội vàng tắt lụi.

    Và giữa khung cảnh đẹp nên thơ ấy, người ta thấy hiện lên ở giữa là hình ảnh của một khu chợ tàn với đầy những rác rưởi và những kiếp người tàn. Nếu như phiên chợ quê hương, người ta vẫn thường thấy là sự nhộn nhịp, đông vui, là những người người mua bán tấp nập, là hình ảnh với vẻ đẹp đặc sắc nhất của những miền quê thì ở đây lại khác hẳn. Thạch Lam đã nhấn mạnh vào hình ảnh của một phiên chợ mà “người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”, một phiên chợ chỉ còn “trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Còn gì ở cái phiên chợ ấy cho người ta tận hưởng, chờ đợi nữa chăng? Phiên chợ tan, ngoài những rác rưởi, nó còn có “một mùi âm ẩm bốc lên”, phải chăng cái xơ xác của phiên chợ ấy cũng là hiện thân của cái phố huyện này, tàn tạ, nghèo đói đến thế lương?

    Đoạn văn miêu tả bức tranh thiên nhiên nơi phố huyện của Thạch Lam vừa giàu hình ảnh, vừa tinh tế, mang đến cho con người ta một cảm giác bình yên của một miền quê thân thuộc. Giữa cái khung cảnh thiên nhiên ấy là hình ảnh của một phiên chợ quê nghèo nàn, tàn tạ, phản ánh cuộc sống nơi phố huyện đói nghèo.

    Lẫn trong vô số đó là tâm trạng của Liên, bao trùm lấy chị là một nỗi buồn “thấm thía vào tâm hồn thơ ngây của chị”. Liên là một cô gái mới lớn, thế nhưng, tâm hồn chị đã có những rung động hết sức tinh tế, hết sức mong manh, thấm thía với cảnh vật và con người xung quanh. Chị về với cái phố huyện nghèo này chưa lâu, thế nhưng, chị lại vô cùng gắn bó với nó, chẳng vậy mà chị cảm được “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Cái mùi quê hương thân thuộc ấy chẳng phải ai cũng có thể cảm được, có thể nhận ra. Bởi chỉ những con người tinh tế, có tấm lòng gắn bó với quê hương mới có thể ngửi được cái mùi riêng của đất mà thôi. Không chỉ vậy, Liên còn chợt thấy “cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị” mà chính chị cũng “không hiểu sao”, Liên chỉ thấy “lòng man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn”. Phải chăng, chính cái tâm hồn thơ ngây, trong sáng, nhạy cảm của chị đã chợt nhận ra những mơ hồ, mong manh mà vô cùng thấm thía của cái buồn nơi phố huyện nghèo này? Phải chăng, chính Thạch Lam cũng đã mượn nỗi lòng của Liên mà bày tỏ nỗi buồn của chính mình trước xã hội đương thời ngưng đọng đến tàn tạ này chăng?

    Cảnh vật trong bức tranh của Thạch Lam đẹp dịu dàng là thế, như một bản tình ca du dương vừa ru con người ta vào bình yên, tĩnh lặng, vừa gợi ra những hoang tàn hoang sơ khiến cho người ta nặng lòng. Cái nặng lòng ấy có lẽ phát ra từ cuộc sống của những con người nơi phố huyện này – những kiếp đời tàn.

    Những kiếp người tàn của phố huyện mở ra bằng hình ảnh của những đứa trẻ – thế hệ tương lai đang nhặt rác trên nền cảnh của chợ tàn. Cuộc sống khốn khổ đã khiến chúng phải nhặt nhạnh, phải sống, phải khám phá tìm tòi trên những gì mà người ta đã vứt đi “mấy đứa trẻ con nhà nghèo ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì đó có thẻ dùng được của các người bán hàng để lại”. Ở đây, Thạch Lam đã miêu tả hình ảnh của những đứa trẻ “lom khom”, “đi lại tìm tòi”, chúng chăm chú với cái đống rác ấy thật cẩn thận như đang tìm kiếm những thứ gì đó quý giá. Hình ảnh của chúng gieo vào lòng chúng ta số phận của những kiếp người phải sống lụi tàn, sống trên đống rác, gieo hi vọng vào những thứ rác rưởi mà người ta đã vứt đi. Những kiếp người ấy, cuộc sống ấy quá đỗi tăm tối, ngột ngạt và bế tắc, không có tương lai.

    Nhìn những kiếp người tàn, những đứa trẻ lem luốc ở khu chợ, Liên – nhân vật chính của câu chuyện lại chợt thấy động lòng. Chị thương những đứa trẻ với kiếp sống tối tăm ấy “Liên trông thấy động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó” nhưng đành bất lực trước hoàn cảnh của chính mình. Cảm xúc đó của Liên phải chăng cũng chính là cảm giác của Thạch Lam khi chứng kiến những mảnh đời bất hạnh, ông thương xót cho những người lao động nghèo khổ, phải sống cơ cực giữa cuộc đời.

    Thế nhưng, những kiếp đời đau khổ, đói nghèo và cơ cực ấy không dừng lại ở hình ảnh những đứa trẻ. Thạch Lam còn đi sâu vào khai thác hình ảnh của những người lao động nghèo trong cái phố huyện tối tăm ấy. Điển hình là cảnh đời của chị Tí – một trong số những mảnh đời bất hạnh trú ngụ ở cái phố huyện này.

    Chị Tí hiện lên qua cái nhìn của chị em Liên, qua các hình ảnh “đội cái chõng trên đầu và tay mang không biết bao nhiêu là đồ đạc”. Chị cũng giống như vô số con người ở phố huyện nghèo này, lam lũ vất vả, làm việc kiếm sống không kể ngày đêm. Ban ngày, chị “đi mò cua bắt tép”, đến tối, chị lài mở hàng nước “từ chập tới cho đến đêm” khuya, chỉ để kiếm vài đồng lời. Hình ảnh người phụ nữ ấy khiến ta liên tưởng tới bài thơ Thương vợ của Tú Xương:

    Thân cò lặn lội nơi quãng vắng
    Èo sèo mặt nước buổi đò đông”

    Phải, những kiếp thân cò ấy vẫn cứ mãi mải mê theo chân những con sóng, vất vả, châm lấm tay bùn mà vẫn không thể cất mình lên khỏi cái đói cái nghèo được.

    Quán nước của chị Tí mở ra “từ chập tối cho đến đêm”, nếu ai chỉ nghe qua chắc hẳn sẽ nghĩ rằng chị kiếm được nhiều lắm. Nào ai có biết cái quán nước ấy của chị chỉ nhỏ nhoi, còm cõi đến độ chị có thể đội, vác, xách lên chỉ trong một lần. Và những tấm hàng, món hàng của chỉ cũng còm cõi không kém, chỉ là bát nước chè xanh, điếu thuốc lào. Đó là tất cả những gì chị có thể thu vén được cho cái quán của mình, thử hỏi liệu sẽ được bao nhiêu người vào ngồi quán chị chăng? Có chăng, chỉ có “mấy người phu gạo hay phu xe, thỉnh thoảng mấy chú lính lệ trong huyện hay người nhà thầy thừa đi gọi chân tổ tôm”, mà những người ấy chỉ khi “cao hứng” mới vào hàng của chị. Thế nên dù chị có dọn hàng sớm hay muộn, chị cũng “chả kiếm được bao nhiêu”, và cái câu trả lời kèm tiếng thở dài như tiếng than của chị với Liên đã trả lời cho điều đó “Ối chao, sớm với muộn mà có ăn thua gì”.

    Tiếng thở dài ngao ngán ấy là tiếng lòng cho cảnh đời bế tắc của chị Tí, cho cái cuộc sống quẩn quanh cái nghèo, đơn điệu, nhàm chán đến cùng cực của chị, không một chút ánh sáng le lói, một chút hi vọng vào tương lai. Cuộc đời ấy với chị sao mà vô ý nghĩa tới vậy!

    Thương cảm cho cuộc đời những đứa trẻ nghèo, cho chị Tí, thế nhưng, cảnh đời của chị em An và Liên cũng chẳng khá khẩm hơn họ là bao. Chị em An Liên chuyển về sống ở cái phố huyện nghèo này với một cái quán tạp hóa bé xíu, trong khi cha mẹ của chị cũng đang phải chạy vạy để kiếm từng đồng tiền.

    Cảnh đời của An Liên đáng ra sẽ không phải như thế, đáng ra An và Liên đã có thể có một cuộc sống ở Hà Nội với “những thức quà ngon, lạ”, “được đi bờ hồ, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ” cho đến khi thầy Liên bị mất việc. Sự kiện ấy đến choáng váng, đẩy gia đình Liên vào cảnh bế tắc. Và gia đình Liên đã chọn về quê, về cái phố huyện này để tháo gỡ cái bế tắc đang phủ lấy gia đình mình. Nếu như mẹ Liên trở thành một người làm hàng xáo thì chị em Liên được mẹ cho một gian hàng tạp hóa nhỏ xíu để trông coi và ngủ tại đó. Cái gian hàng tạp hóa ấy của chị em Liên cũng chẳng khác cái gánh hàng nước của chị Tí là bao, bởi nó cũng nhỏ xíu và nghèo nàn như thế. Ấn tượng để lại về cái gian hàng của chị em Liên chính cái sự nghèo nàn về sản phẩm, khách hàng và cái không gian của nó. Nếu như hàng hóa chỉ lèo tèo mấy bao diêm, gói thuốc, vài bánh xà phòng, vài quả thuốc sơn đen và rượu thì khách hàng đến mua lại càng còm cõi hơn. Khách đến mua cũng chỉ mua có nửa bánh xà phòng, cút rượu ti, thật cái nghèo đã ngấm sâu vào trong từng ngóc ngách của cái phố huyện tù túng đó rồi!

    Đọc từng câu chữ mà người đọc như khắc thành ấn tượng cái nghèo, cái tối tăm của khu phố huyện ấy và cả sự bế tắc của gia đình Liên nữa. Bởi mẹ chạy hàng xáo suốt ngày, chị em Liên cũng bán hàng quán mà kết quả thu lại “ngày phiên mà bán cũng chẳng ăn thua gì”. Cái sự bế tắc ấy quẩn quanh vẫn hoàn bế tắc, chẳng thể thoát ra nổi cái nghèo, chẳng có lấy một chút hy vọng nào cả. Cuộc sống cũng chẳng đổi khác, cứ loanh quanh đơn điệu với cái nhịp điệu sáng dọn hàng ra, tối dọn hàng vào. Đáng ra với số tuổi của Liên và An, điều mà chị em Liên được hưởng phải là những buổi vui chơi với tiếng cười giòn tan, những buổi đi học với cái chữ chứ không phải loanh quanh trong cái quán tạp hóa bé xíu này. Chính cái nghèo đã cướp đi của Liên, của An, của những đứa trẻ con quanh cái chợ tàn kia tuổi thơ con trẻ, cướp đi tiếng cười, niềm ngây thơ con trẻ mà đáng ra chúng phải được hưởng.

    Lẫn trong từng câu chữ tự sự là những cảm xúc của Liên – cô gái mới lớn đầy nhạy cảm và có những xúc cảm thật mong manh. Liên chứng kiến cuộc sống cơ cực của chị Tí, chứng kiến cuộc đời của chính gia đình mình, vậy nên chị có những cảm xúc, cảm nhận rất riêng của mình. Về chị Tí, Liên buồn nỗi buồn, xót thương trước cuộc sống tăm tối, ngột ngạt, bế tắc đến cùng cực của chị. Là một người có chung số phận, Liên nghe được cả được tiếng thở dài đầy ngao ngán của chị trước cảnh đời của chính mình. Rồi chị hình dung ra cuộc sống của gia đình mình, trong lòng Liên dâng lên nỗi niềm tự thương thân. Chị thương cho nỗi khổ nghiệp của cha, sự lam lũ, nhọc nhằn của mẹ, xót xa trước sự bó buộc, tù túng của đứa em đang tuổi ăn tuổi lớn và cho cả cảnh đời vô nghĩa của chính bản thân chị. Người đọc chúng ta có thể cảm nhận được tâm trạng bế tắc, buồn khổ ấy của Liên qua giọng kể ngậm ngùi thương cảm của Thạch Lam.

    Trong cái phố huyện bé nhỏ ấy, không chỉ một hay một vài cảnh đời xót xa đến thế, những kiếp người tàn ấy nhiều vô số. Cái nghèo bủa vây lấy họ, bủa vây lấy cái phố huyện này như màn đêm đen đang buông xuống. Và trong đêm đen ấy, những cảnh đời lam lũ lại xuất hiện thêm nhiều hơn nữa. Đó là cảnh đời của bác Siêu, bác xẩm, của bà cụ Thi điên. Họ chỉ xuất hiện chớp nhoáng, qua vài dòng kể của tác giả, chỉ điểm xuyết với vài hình ảnh tả thực, mang tính Biểu tượng nhưng lại gieo vào lòng người đọc chúng ta những cảm xúc khó nói lên lời.

    Cảnh đời của bác Siêu hiện lên với hình ảnh kẽo kẹt đòn gánh trên vai. Trên vai bác là gánh phở rong “tiếng đòn gánh kĩu kịt nghe rõ rệt, khói theo gió tạt vào chỗ hai chị em”. Với chị em Liên, với chị Tí hay vô số những con người trong cái phố huyện này, gánh phở của bác Siêu là “một thứ quà xa xỉ, nhiều tiền”. Thứ quà ấy lạc lõng giữa một phố huyện chỉ toàn những người cơ cực, nghèo khổ như chị Tí, như những anh phu xe, … thì làm sao có thể bán được. Chính vì vậy, gánh hàng phở rong của bác luôn ế khách. Thế nhưng, như thường lệ, ngày nào cũng thế, chị em Liên lại thấy “một chấm lửa khác nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm tối, mất đi, rồi lại hiện ra…”. Gánh hàng của bác nhóm lửa từ chiều tối, đến đêm khi lửa đã lụi đi ít nhiều, bác lại gánh nó trở lại làng. Lặp đi lặp lại, ngày nào cũng thế, dù rằng gánh phở ấy của bác chẳng mấy khi có người khách nào ghé thăm. Thế nhưng, với bác Siêu, mỗi khi “nhóm lại lửa, thổi vào cái ống nứa con” ấy phải chăng bác đang nhóm lên ngọn lửa của niềm hy vọng, nhóm lên chút ánh sáng le lói cho cuộc đời tàn của mình ở giữa bóng tối nơi phố huyện này. Để đến khi bóng tối bủa vây, ánh lửa lụi đi là lúc cái hi vọng ấy của bác cũng lại lần nữa tan đi trong đêm đen, bác lại trở về là một kiếp người tàn?

    Điểm xuyết trong những kiếp tàn ngoài bác Siêu còn gia đình bác xẩm mù. Gia đình bác cũng là một trong những kiếp đời tàn ở nơi phố huyện này. Là một người mù nhưng bác phải gánh trên vai cả gia đình của mình bằng cái nghề truyền đời là đi hát rong. Tất cả tài sản của gia đình bác chỉ là manh chiếu, cái thau sắt trắng và chiếc đàn bầu. Từng ấy thứ nuôi sống một gia đình ba người. Nếu như chị em An Liên còn có cái quán tạp hóa bé xíu để che nắng che mưa thì gia đình bác lại chẳng có gì, chỉ sống tha phương cầu thực, lấy gầm cầu, vỉa hè làm nhà. Đứa con sinh ra trong cái hoàn cảnh ấy cũng theo bố mẹ đi tha phương khắp nơi. Nếu như những đứa trẻ nghèo của phố huyện sống trên cái rác rưởi của khu chợ tàn thì đứa trẻ con bác xẩm lại sống, lại ngồi trên cái manh chiếu trên những rác bẩn và cát bên lề đường. Thế nhưng, gieo vào lòng người đọc nhiều xót xa nhất có lẽ là hình ảnh đứa trẻ ấy bò ra khỏi manh chiếu mà “nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường”. Đứa bé đó là biểu tượng cho cả một thế hệ tương lai mà lại nghịch nhặt toàn rác rưởi, sống giữa tăm tối, nghèo đói thì liệu kiếp đời của nó có thoát ra khỏi cái tăm tối đang đeo bám bố mẹ nó chăng?

    Khép lại hình tượng những kiếp đời tàn của phố huyện, Thạch Lam lồng vào trong câu chữ của mình hình ảnh bà cụ Thi điên. Bà là biểu tượng cho kiếp người tàn tạ, tăm tối đến thê lương. Già cả, “hơi điên”, nghiện rượu là những thứ người ta biết về cụ Thi. Cụ xuất hiện trên trang truyện bằng “tiếng cười khanh khách” mà “chị em Liên không cần ngoảnh mặt ra cũng biết là ai đã vào hàng”. Cụ đến quán Liên chỉ để mua rượu, “uống một hơi cạn sạch”, trả tiền rồi đi về. Hình ảnh cụ đi về làng, lẫn dần trong bóng tối với “tiếng cười khanh khách” khiến người ta phải rùng mình cho số kiếp của một con người. Những kiếp sống tàn bào mòn con người, khiến họ phải sống trong tăm tối, nghèo nàn cả một đời.

    Toàn bộ bức tranh phố huyện hiện lên qua đôi mắt của Liên với những cảnh đời tàn tạ, tăm tối cùng cảnh ngộ. Đó là những cuộc đời với nỗi buồn và những bi kịch nối tiếp, về vật chất, đói nghèo, và về cả tinh thần với kiếp đời quẩn quanh, đơn điệu, mỏi mòn, vô ý nghĩa, tù túng, ngột ngạt, không tìm thấy được niềm vui, hy vọng ở tương lai. Những cuộc đời ấy thật vô ý nghĩa!

    Bức tranh phố huyện được nhìn toàn cảnh qua đôi mắt của nhân vật Liên – người có cùng cảnh ngộ với những kiếp người tàn. Ẩn sau Liên là Thạch Lam, ông đã xóa đi cái khoảng cách giữa một tiểu tư sản với những người lao động nghèo để đồng cảm với họ, chia sẻ với họ.

    Viết về người lao động nghèo nhưng Thạch Lam lại xoáy sâu vào bi kịch tinh thần của họ, của những kiếp người mòn mỏi, vô ý nghĩa. Đến khi thức tỉnh được ý thức về quyền sống, cá nhân, Thạch Lam mới thương cảm sâu sắc cho những cuộc đời vô ý nghĩa. Đây là điều đã làm nên chiều sâu giá trị nhân đạo mới cho tác phẩm.

    Bức tranh phố huyện khép lại bằng cảnh đêm tối khi mà màn đêm đã thực sự buông xuống. Đó là một đêm mùa hạ “đẹp như nhung”, “vòm trời hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh, lẫn trong vệt sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào những cành cây”, và những làn gió mát mơn man. Cảnh đêm đẹp rực rỡ tới nao lòng người, vô cùng quen thuộc bởi nó mang vẻ đẹp của quê hương, linh hồn của xứ sở. Phía dưới mặt đất được bao phủ bằng bóng tối “Tối hết cả, con đường thăm thẳm ra bờ sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Bóng tối chiếm lĩnh hết cái phố huyện nghèo ấy, đặc quánh lại. Bóng tối ấy phải chăng là ẩn dụ cho xã hội thực dân thời Pháp thuộc cũng tù túng, ngột ngạt, tối tăm và tàn tạ như bóng đêm? Và sự sống của con người giữa cái bóng tối ấy chỉ như những khe sáng, hột sáng, quầng sáng nhỏ nhoi, leo lét, chập chờn. Với Liên, cảm xúc trong chị là nỗi buồn man mác trước cuộc đời tăm tối, không có chút hi vọng về tương lai. Liên ngước nhìn bầu trời với hàng ngàn ngôi sao lấp lánh đẹp đẽ nhưng là một thế giới “bí ẩn và xa lạ”, như ước vọng, khao khát của Liên chẳng bao giờ thành hiện thực. Chính vì vậy, Liên lại cúi đầu về mặt đất nơi “quầng sáng thân mật chung quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tí”. Bởi thế giới ấy mới gần gũi với Liên với cuộc sống tăm tối, nhạt nhòa của chị.

    Bức tranh phố huyện được Thạch Lam dựng lên bằng chất liệu hiện thực và lãng mạn cùng những chiêm nghiệm, trải nghiệm của chính ông. Đó là toàn cảnh xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc, tù túng, ngột ngạt, tăm tối, tàn tạ đến thê lương, vô ý nghĩa. Bức tranh được miêu tả theo sự vận động của thời gian từ lúc chiều tàn đến đêm khuya qua cái nhìn của nhân vật Liên – một cô gái mới lớn với tâm hồn mỏng manh, tinh tế. Thạch Lam dựng lên bức tranh quê hương với vẻ đẹp mang linh hồn xứ sở để bộc lộ kín đáo trong đó tình yêu quê hương và niềm xót thương cho những số kiếp tàn tạ. Sâu hơn là ý thức phê phán xã hội thực dân không đảm bảo quyền sống cho người dân.

    Cái phố huyện nghèo yên tĩnh ấy dường như chẳng có gì để cho người ta chờ đợi. Thế nhưng có một thứ mà tất thảy những con người nơi phố huyện này chờ mong vào thời khắc đêm đen này, đó là chuyến tàu đêm.

    Chuyến tàu đêm ấy là chuyến tàu cuối cùng trong một ngày, ngày nào cũng có nhưng lại khiến cho ai cũng cố thức để đợi. Với Liên, chị cố thức dù đã “buồn ngủ ríu cả mắt” phải chăng để theo lời mẹ “bán hàng , may ra còn có một vài người mua”? Thế nhưng, Liên thức không phải để bán hàng mà vì cớ khác “vì muốn được nhìn chuyến tàu đó là sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya”. Sự mòn mỏi, tù túng trong cái thế giới tăm tối quá lâu, họ mơ ước về một cuộc sống tươi mới, rực rỡ hơn và chuyến tàu đêm ấy thực sự là một thế giới mà họ hằng mơ ước.

    Thạch Lam đã khéo léo miêu tả hình ảnh của chuyến tàu từ lúc nó còn chưa tới với nỗi háo hức của những con người nơi phố huyện cho tới khi thứ ánh sáng chói lòa xuất hiện.

    Trước khi tàu đến thì đây là quãng thời gian của sự khắc khoải đợi chờ. Đối với bác Siêu, sau một ngày dài đợi chờ, khi thấy thứ ánh sáng le lói của đèn ghi, bác đã reo lên đầy vui mừng: “Đèn ghi đã ra kia rồi”. Đó là tiếng reo vui của bác khi sự khao khát cả ngày dài sắp thành hiện thực. Còn với Liên, chị căng mọi giác quan để đón nhận tiếng tín hiệu. Chị trông thấy cái “ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi”, cái thứ ánh sáng lập loè mà nếu như không để ý kỹ sẽ chẳng thể nào nhận ra. Tiếp sau là tiếng còi xe vọng lại “trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi”. Còn An, dù đã buồn ngủ ríu cả mắt nhưng vẫn không quên dặn chị gọi dậy khi tàu tới.

    Chỉ vài chi tiết nhỏ, nhưng chúng ta cũng thấy được niềm khao khát lớn lao của những con người nơi phố huyện này trước chuyến tàu đêm. Bởi chuyến tàu ấy mang tới một cái gì đó rất khác, một niềm hi vọng với thứ ánh sáng chói lòa của mình cho những kiếp người tăm tối nơi phố huyện này.

    Đối với Liên, chuyến tàu đêm còn khiến cho tâm hồn chị thêm thanh thản. Bởi nếu như ban ngày với chị chỉ thấy những nỗi man mác buồn không hiểu tại sao thì giờ đây “tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu”. Chính chị cũng mơ hồ không hiểu tại sao chị lại mong chờ chuyến tàu đêm này.

    Khi tàu đến, ngay từ khi nó còn ở xa thì tất cả những con người nơi phố huyện này đã nhận biết được. Tiếng còi chói vọng lên trên không trung, khác xa cái tiếng trống cầm canh vọng lên từ cái chòi canh “khô khốc” mỗi buổi chiều. Tiếng rít của bánh xe vào ghi, tiếng ồn ào của những hành khách là những thứ âm thanh náo nhiệt khác hẳn những âm thanh trầm lắng, đơn điệu của cái phố huyện nghèo vẫn thường thấy. Cùng với đó là thứ ánh sáng xanh biếc, “như ma trơi”, “làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa” thế nhưng lại gợi lên những cảm giác thật khác lạ. Những thứ ánh sáng và âm thanh khác biệt, náo nhiệt mà người dân phố huyện trông chờ cả ngày dài.

    Liên đánh thức An dậy, cái “nhổm dậy” của An thể hiện sự mong chờ, hồi hộp, khao khát như trông chờ một thứ gì đó quý giá.

    Tàu đến gần hơn, “tiếng còi đã rít lên, và tàu rầm rộ đi tới”, thứ âm thanh khiến cho cả phố huyện phải náo động hẳn lên giữa đêm tối. Và cái thứ ánh sáng chói lòa “ các toa tàu sáng trưng, chiếu sáng cả xuống đường”, “đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng” đã xóa đi cái đêm đen đang bao trùm lấy cái phố huyện này, đem đến cho người dân ở đây một niềm tin, hy vọng về tương lai tươi sáng ở phía trước nơi mà họ có thể ở giữa thứ ánh sáng long lanh, lấp lánh ấy.

    Dù chỉ là vụt qua thoáng chốc rồi biến mất, chỉ để lại “ những đốm than đỏ tung bay trên đường sắt” nhưng nó đã để lại ý nghĩa to lớn đối với không chỉ chị em Liên mà còn đối với mỗi người dân nơi phố huyện này. Chuyến tàu này không chỉ là niềm say mê của chị em Liên mà còn là thứ khơi gợi lại cho Liên về quá khứ tươi sáng ngày xưa “Liên lặng người mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo” khi gia đình Liên chưa lâm vào bế tắc như bây giờ. Liên mơ về thế giới ấy, “một thế giới khác hẳn, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu”.

    Chuyến tàu đã mang đến những thứ âm thanh và ánh sáng khác biệt, náo nhiệt, rộn rã và tươi vui hơn biết bao nhiêu những âm thanh, ánh sáng của phố huyện thường ngày – thứ ánh sáng của sự xa hoa, của niềm vui và niềm hi vọng. Dù chỉ vụt qua nhưng đó là tất cả những thứ mà những người dân ở đây khao khát, chờ mong một ngày dài, bởi đó là niềm hy vọng của họ, hi vọng về một tương lai tươi sáng hơn.

    Hai đứa trẻ của Thạch Lam không đi sâu vào khai thác nỗi đau khổ, tù túng của những người lao động nghèo nơi phố huyện mà đi sâu vào khai thác thế giới nội tâm sâu kín của nhân vật để làm nổi bật lên niềm đau xót của của tác giả với số kiếp của những con người nghèo khổ với cuộc sống quẩn quanh.

    Qua câu chuyện, một tư tưởng nhân đạo mới đã được mở ra trông văn học Việt Nam thời kì này, đó là niềm xót thương của những lớp nhà văn tiểu tư sản đương thời với những kiếp người cơ cực, cùng khổ, tù túng, tăm tối ở một phố huyện nghèo trong xã hội Thực dân Pháp thuộc trước Cách mạng tháng Tám. Đồng thời còn làm nổi bật lên niềm hy vọng, mơ hóc nhỏ nhoi của họ về một tương lai mới tươi sáng, đủ đầy hơn – cái mà Thạch Lam thương xót và trân trọng vô cùng. Cuối cùng, câu chuyện cũng làm nổi bật lên tài năng của một nhà văn trẻ tuổi với ngòi bút miêu tả nội tâm nhân vật tài hoa, với những trải nghiệm sâu sắc cùng những con người cùng khổ.

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *