Phân tích cách xưng hô Mình – Ta trong bài thơ Việt Bắc của Tố hữu mang đến 6 bài văn mẫu kèm theo gợi ý cách viết chi tiết nhất. Thông qua tài liệu này các bạn có thêm nhiều tư liệu học tập, củng cố kỹ năng cảm thụ văn học ngày một tiến bộ hơn.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 12: Phân tích cách xưng hô “Ta – mình” trong bài Việt Bắc
Cách xưng hô mình ta đã giúp nhà thơ Tố Hữu thể hiện được chủ đề của tác phẩm một cách sâu sắc. Đồng thời còn biến một bài thơ hiện đại thành một bản tình ca với những âm điệu ngọt ngào và đậm đà tình dân tộc. Ngoài ra các bạn xem thêm một số bài văn mẫu khác như: phân tích bài thơ Việt Bắc, cảm nhận bài thơ Việt Bắc, phân tích bức tranh tứ bình, phân tích khung cảnh ra trận.
Phân tích cách xưng hô mình ta trong bài Việt Bắc
Gợi ý phân tích cách xưng hô mình ta
Cách sử dụng cặp đại từ xưng hô mình – ta:
– Trong đoạn trích bài thơ “Việt Bắc”, từ mình được dùng để chỉ bản thân người nói – ngôi thứ nhất, nhưng cũng còn dùng ở ngôi thứ hai. Từ ta là ngôi thứ nhất, chỉ người phát ngôn, nhưng có khi ta chỉ chúng ta.
– Cặp đại từ này được sử dụng rất sáng tạo, biến hóa linh hoạt:
+ Có trường hợp: mình chỉ những người cán bộ, ta chỉ người Việt Bắc (Mình về mình có nhớ ta/ Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng).
+ Có trường hợp: mình chỉ người Việt Bắc, ta chỉ người cán bộ (Ta về, mình có nhớ ta/ Ta về, ta nhớ những hoa cùng người).
+ Có trường hợp: mình chỉ cả người cán bộ và người Việt Bắc (như chữ mình thứ ba trong câu: Mình đi mình lại nhớ mình).
– Ý nghĩa của cách sử dụng cặp đại từ mình – ta:
+ Mang lại cho bài thơ phong vị ca dao, tính dân tộc đậm đà và một giọng điệu tâm tình ngọt ngào, sâu lắng. Lối xưng hô gần gũi đó từng xuất hiện trong ca dao, dân ca
+ Góp phần làm cho tình cảm giữa người ra đi và người ở lại, giữa cán bộ với nhân dân Việt Bắc thêm thân mật, gần gũi, tự nhiên, gắn bó khăng khít tuy hai mà một. Điều đó cũng thể hiện tình cảm của tác giả với nhân dân vùng Việt Bắc, coi đó như mái nhà thân thiết trong những năm kháng chiến gian khổ.
Phân tích ý nghĩa cách xưng hô mình ta – Mẫu 1
Tố Hữu là một trong những nhà thơ hiện đại sử dụng nhuần nhuyễn và sáng tạo các bút pháp ca dao trong sáng tác của mình.
Việt Bắc là một bài thơ trữ tình cách mạng. Mối tình giữa quê hương cách mạng Việt Bắc với những cán bộ cách mạng được Tố Hữu diễn tả như một mối tình riêng.
“Đôi bạn tình” giữa chiến khu Việt Bắc với những chiến sĩ cách mạng đã chung sống với nhau 15 năm “thiết tha mặn nồng”, giờ đây họ chia tay nhau vì những cán bộ phải rời Việt Bắc để về xuôi trong niềm hân hoan chiến thắng tưng bừng của quân và dân ta.
Cuộc chia ly đầy lưu luyến phảng phất không khí buổi chia tay của những đôi bạn tình trong ca dao xưa:
“Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ”
(Ca dao)
Mượn thể hát đối đáp dân tộc, mượn cả ngôn ngữ đậm đà màu sắc dân tộc để thể hiện tình cảm mới, Tố Hữu đã tạo cho lời thơ sự đằm thắm, mặn mà thủy chung.
“Ta” với “mình” tưởng như chỉ có thể có một đời sống cá nhân trong ca dao, bỗng lớn dậy, đổi khác, hồn nhiên đi thẳng vào đời sống chung của dân tộc, bao quát hết những tình cảm lớn của thời đại:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
(Tố Hữu)
Và
“Ta với mình,mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”
(Tố Hữu)
Toàn bộ bài thơ Việt Bắc được viết dưới hình thức đối đáp “ta”-“mình” của ca dao. Tuy nhiên việc sử dụng hai đại từ này trong bài thơ rất linh hoạt, cho thấy nét tài hoa trong xử lý nghệ thuật của Tố Hữu. “Mình” là quê hương Việt Bắc. “Ta” là những chiến sĩ cách mạng :
“Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi”
Những dòng thơ ấy nói lên tình cảm gắn bó sắt son.Tình nghĩa ấy được thử thách qua năm tháng.
Có khi “mình” chỉ người cán bộ miền xuôi “ta” chỉ nhân dân Việt Bắc:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”
(Tố Hữu)
Có lúc, cặp đại từ này biến hóa linh hoạt.Chẳng hạn:
“Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa ?”
(Tố Hữu)
Câu hỏi do chủ thể Việt Bắc đặt ra cho mình. Câu thơ này độc đáo ở chỗ có nhiều cách hiểu về đại từ “mình”. Có thể diễn giải như sau: anh đi anh có nhớ tôi (nhớ mảnh đất nơi anh từng sinh sống) hoặc anh đi anh có nhớ anh (nhớ những kỉ niệm của chính mình)
Ở đây, có sự chuyển hóa rất độc đáo giữa “ta”với “mình”: Mình được dùng để chỉ bản thân (ngôi thứ nhất) nhưng còn để chỉ đối tượng thân thiết (ngôi thứ hai)
Ta dùng để chỉ bản thân (ngôi thứ nhất số ít) nhưng còn dùng để chỉ hai, hay nhiều người (ngôi thứ nhất số nhiều):
“Ta về,mình có nhớ ta
Ta về,ta nhớ những hoa cùng người’
Và đôi khi, thiên nhiên – con người cùng một lòng đánh giặc.Điều ấy được thể hiện qua đại từ “ta”:
“Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây”
Hay
“Đất trời ta cả chiến khu một lòng”
“Ta” và “mình” có sự chuyển hóa rất đa nghĩa: vừa là chủ thể, vừa là đối tượng, vừa phân đôi, vừa hòa nhập … thể hiện sự gắn bó keo sơn.
Có thể nói, việc thay đổi liên tục ý nghĩa biểu đạt của hai từ ” ta” và “mình” là một sự sáng tạo táo bạo của bài thơ. Hai từ này có khi hình thành một cuộc đối đáp thực sự giữa người đi và kẻ ở, song có khi nó chỉ là sự phân thân, tự vấn của người đi để đáp lại tình sâu nặng của kẻ ở.
Cặp đại từ “ta”- “mình” trong kết cấu đối đáp của bài thơ đã đem lại màu sắc trữ tình cho tác phẩm Chuyện nghĩa tình cách mạng, chuyện ăn quả nhớ kẻ trồng cây, chuyện ân tình kháng chiến, đã hóa thành chuyện riêng tư “mình”-“ta” của đôi lứa gửi trao khi phải tạm xa nhau.
Ẩn sau đôi lứa “ta”- “mình” là tâm trạng nhân vật trữ tình – nhà thơ Tố Hữu – là tiếng lòng người cán bộ kháng chiến khi lên đường về xuôi thực hiện nhiệm vụ cách mạng mới. Đối đáp chỉ là kiểu hình thức được lựa chọn để giải tỏ tâm tình.
Bài thơ Việt Bắc là kiệt tác thơ Tố Hữu mà cũng là kiệt tác của thơ ca cách mạng,thơ ca kháng chiến.Bài thơ thể hiện tài hoa nhiều mặt của nhà thơ Tố Hữu.Trong đó có nghệ thuật sử dụng cặp đại từ nhân xưng “ta”-“mình”.Bài thơ đậm đà tính dân tộc,thể hiện được truyền thống ân nghĩa thủy chung của tâm hồn con người Việt Nam
Cách xưng hô Ta – mình trong bài Việt Bắc – Mẫu 2
Ở bài thơ Việt Bắc, viết về một sự kiện mang tầm lịch sử nhưng Tố Hữu đã lựa chọn cách mở đầu bằng một cuộc đối đáp mang âm hưởng dân ca và cách xưng hô ta – mình ngọt ngào đằm thắm. Điều đặc biệt là cách tác giả sử dụng cặp từ ta – mình trong bài thơ không chỉ một lần mà nó trở thành một điệp khúc trở đi trở lại, luyến láy hết sức tài hoa.
Đoạn đầu bài thơ là lời của người ở lại với người ra đi, thể hiện tình cảm của người dân Việt Bắc với cán bộ kháng chiến trong buổi chia tay:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Chữ mình ở đây chỉ người ra đi, còn chữ ta để nói tới người ở lại. Tình cảm nhớ thương dồn nén sâu nặng trong chữ mình. Mỗi câu lục trong đoạn thơ chữ mình lặp lại hai lần cùng với nhiều thanh bằng làm nhịp thơ như trùng xuống, khắc khoải, da diết. Người ở lại đặt những câu hỏi tu từ vừa như nhắc nhở người ra đi hãy nhớ về Việt Bắc, vừa thể hiện tình cảm sâu sắc, mặn nồng. Bốn chữ nhớ trong 4 dòng thơ nhắc nhớ về 15 năm kháng chiến và khung cảnh Việt Bắc. Cặp từ xưng hô mình – ta đầy tình tứ như xoắn quyện lấy nhau, vì là lời của người ở lại nên nhắc tới mình thì nhiều, nhắc tới ta thì ít. Chữ ta chỉ được nhắc đến một lần như một sự khiêm tốn để cho những kỉ niệm ùa về trong giây phút chia tay. Trong ca dao Việt Nam, cặp từ xưng hô mình –ta cũng khá quen thuộc, là cách xưng hô của những đôi lứa yêu nhau. Nhắc đến cặp từ này, người ta thường nhắc đến nỗi nhớ, đến sự gắn bó thủy chung:
Nước non một gánh chung tình
Nhớ ai ai có nhớ mình chăng ai?
Một đàn cò trắng bay quanh
Cho loan nhớ phượng cho mình nhớ ta
Mình nhớ ta như cà nhớ muối
Ta nhớ mình như cuội nhớ trăng
Mình về, mình nhớ ta chăng?
Bao giờ cho hương bén hoa
Cho đào bén túi, cho ta bén mình
Thuyền không, đậu bến Giang Đình
Ta không, ta quyết lấy mình làm đôi
Trăm năm ước bạn chung tình
Trên trời dưới đất, có mình có ta
Những câu thơ lục bát của Tố Hữu vận dụng nhuần nhuyễn cách nói của ca dao, dân ca. Cũng có thể nói đó là một lối tập ca dao mà đọc lên âm điệu thật tha thiết, ngọt ngào. Chất giọng Huế, chất giọng trữ tình thương mến ấy có lẽ chỉ tìm thấy ở tác giả Việt Bắc.
Đoạn thơ thứ hai của bài là lời đáp lại của người ra đi tạo nên sự cân xứng cho kết cấu đối đáp dân ca. Người ở lại nhớ nhung bao nhiêu thì người ra đi bâng khuâng, bồn chồn, lưu luyến bấy nhiêu:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
Chữ ta, chữ mình không xuất hiện nhưng thực ra đã hóa thân vào tiếng ai tha thiết bên cồn, vào hình ảnh áo chàm giản dị mà đầy nghĩa tình cách mạng. Có cả mình, cả ta ở cái cầm tay như một nốt lặng của tình cảm trong buổi phân ly. Ở đây, chỉ có thứ ngôn ngữ không lời của ánh mắt mới đủ sức chứa đựng nỗi niềm của người đi, kẻ ở.
Sang đến đoạn ba và đoạn bốn cặp từ mình – ta được tác giả sử dụng hết sức tài hoa, luyến láy tạo nhạc tính cho đoạn thơ.
Ở đoạn ba, cặp từ mình đi, mình về lặp đi lặp lại 6 lần trong 6 câu lục của đoạn thơ. Mình ở đây vẫn chỉ người ra đi. Và dù là mình đi hay mình về cũng chỉ chung một hành động. Đi là chia tay chiến khu, về là về miền xuôi thủ đô. Nét đặc sắc trong sự lặp lại của cụm từ này là không hề tạo ra sự nhàm chán cho người đọc bởi tiết tấu biến hóa: mình đi – mình về – mình về -mình đi:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù
Mình về , có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng nhật, thuở còn Việt Minh
Và mỗi lần như vậy câu nào cũng gắn với từ nhớ. Người ở nhắc lại những kỉ niệm trong buổi đầu kháng chiến đầy khó khăn gian khổ mà sâu nặng ân tình. Tố Hữu cũng sử dụng triệt để thủ pháp đối trong những câu bát của đoạn thơ này tạo nhịp thơ vừa cân xứng hài hòa, vừa dễ đi vào lòng người. Kết thúc đoạn thơ là ba chữ mình trong một câu thơ độc đáo:
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?
Chữ mình ở đây vừa để chỉ người ra đi, vừa để nói tới người ở lại trong một sự hòa quyện khăng khít tuy hai mà một. Chữ nhớ trở thành một chiếc cầu nối giữa hai chữ mình càng làm tăng thêm sự da diết nhớ nhung trong tình cảm của người dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến. Ta đã gặp ở đâu đó trong ca dao những cuộc chia tay và biết bao nỗi nhớ của người đi, người về như vậy.
Tình cảm thủy chung son sắt của đôi lứa yêu nhau từ câu ca dao có bao đời nay đã đi vào những vần thơ cách mạng của Tố Hữu sao mà tự nhiên và ngọt ngào đến vậy. Ta có cảm tưởng lời của người ở lại cứ ngân nga dài mãi như sợi dây vô hình vấn vít lấy người ra đi: trong lòng ta, giờ chỉ có mình, sao nỡ ra đi?…
Không lặp lại cách nói ở đoạn ba, đến đoạn bốn cặp từ mình – ta đắp đổi cho nhau một cách linh hoạt ta với mình, mình với ta tạo thành 2 vế cân xứng.
Phân tích ý nghĩa cách xưng hô mình ta – Mẫu 3
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp đã có không ít nhà văn nhà thơ dùng văn chương làm vũ khí chiến đấu. Họ gửi gắm vào đó lòng yêu nước và quyết tâm giải phóng dân tộc. Nổi bật trong nền văn cách mạng Tố Hữu là ngôi sao sáng. Nhà thơ đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị đặc biệt là bài thơ Việt Bắc. Góp phần vào thành công của bài thơ là nghệ thuật sử dụng thành công cặp đại từ nhân xưng “mình – ta”.
Tác phẩm được kết cấu theo lối đối đáp, toàn bộ tác phẩm là sự đối đáp của ta và mình giữa người ra đi và người ở lại trong khung cảnh một cuộc chia tay. Đây là kiểu kết cấu quen thuộc của ca dao, dân ca đặc biệt là những bài nói về tình yêu đôi lứa. Nhờ lối kết cấu đối đáp tạo ra sự đối thoại giữa người ra đi với người ở lại, qua đó diễn tả tình cảm gắn bó sâu nặng giữa những cán bộ kháng chiến với đồng bào Việt Bắc. Bề ngoài bài thơ là sự đối thoại nhưng thực chất là sự độc thoại. Hai nhân vật trữ tình mình và ta đều là sự phân thân của nhà thơ, Qua đó giúp tác giả bộc lộ tâm trạng đầy đủ hơn và gợi sự đồng điệu đồng vọng trong lòng người đọc. Kết cấu đối đáp rất phù hợp với chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Đó là ân tình cách mạng sâu nặng và đạo lý sống ân tình thủy chung giữa người cán bộ kháng chiến và quần chúng cách mạng. Kết cấu đối đáp truyền thống của văn học dân gian đã được Tố Hữu vận dụng sáng tạo , thành công.
Thông thường đại từ “mình” được sử dụng ở ngôi thứ nhất là lời tự xưng hô của người nói cũng có thể được dùng ở ngôi thứ hai để chỉ người đối thoại với mình một cách thân tình, gần gũi. Đại từ ta thường được dùng ở ngôi thứ nhất là lời tự xưng của người nói.
“Mình nói với ta mình hãy còn son
Ta đi qua ngõ thấy con mình bò
Con mình những trấu cùng tro
Ta đi gánh nước tắm cho con mình.”
(Ca dao: Mình nói với ta)
Trong bài thơ “Việt Bắc” tác giả đã sử dụng linh hoạt đại từ “mình – ta”. Trong lời của đồng bào Việt Bắc đại từ “mình” thường được sử dụng ở ngôi thứ hai để chỉ cán bộ kháng chiến. Còn đại từ “ta” được dùng ở ngôi thứ nhất là lời tự xưng của đồng bào Việt Bắc.
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
Trong lời của người ra đi đại từ “mình” lại được dùng ở ngôi thứ hai để chỉ người ở lại. Còn đại từ “ta” dùng ở ngôi thứ nhất để chỉ những cán bộ kháng chiến .
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng ngươi”
Có sự chuyển hóa linh hoạt giữa hai đại từ nhân xưng “mình – ta”:
“Mình về mình có nhớ không”
Đại từ “mình” được dùng ở ngôi thứ nhất và cả ở ngôi thứ hai. Có khi trong một câu đại từ nhân xưng “mình” được xuất hiện ba lần với những sắc thái ý nghĩa tinh tế.
“Mình đi mình có nhớ mình,
Hoặc
“Mình đi mình lại nhớ mình”.
Bên cạnh đó đại từ “ta” trong một số trường hợp được dùng với nghĩa chúng ta chỉ chung cán bộ kháng chiến và đồng bào Việt Bắc.
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung”.
Đại từ “mình – ta” thể hiện rõ kết cấu đối đáp. Toàn bộ tác phẩm được đặt dưới hình thức đối đáp giữa người ra đi và người ở lại điều đó tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị. Một sự kiện trong đời sống chính trị của đất nước đã thành cảm hứng nghệ thuật và được chuyển hóa vào bài thơ dưới hình thức trữ tình. Cặp đại từ nhân xưng “mình – ta” đã giúp nhà thơ thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm một cách sâu sắc. Hai nhân vật trữ tình “mình – ta” người ra đi và người ở lại đều là sự phân thân của nhà thơ qua đó ân tình cách mạng của những cán bộ kháng chiến với chiến khu Việt Bắc đã được bộc lộ ở nhiều phương diện. Bề ngoài là đối đáo nhưng thực chất là độc thoại. Cặp đại từ nhân xưng ” mình – ta” trở đi trở lại nhiều lần đã đem đến tính dân tộc đậm đà cho bài thơ. Việt Bắc là bài thơ hiện đại nhưng lại mang âm điệu trữ tình ngọt ngào tha thiết của ca dao, dân ca. Vì vậy bài thơ rất dễ nhớ dễ thuộc và dễ đi vào lòng người đọc.
Bài thơ đã sử dụng thành công thể loại thơ lục bát, ngôn ngữ mộc mạc giản dị, bút pháp linh hoạt, đặc biệt thành công trong việc sử dụng đại từ nhân xưng “mình – ta”. Nét tài hoa của nhà thơ Tố Hữu đã xây dựng cuộc đối đáp cân xứng, hài hoa thể hiện được tâm trạng người ra đi và người ở lại. Bên cạnh đó hiện lên vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên, con người Việt Bắc. Đồng thời tái hiện những thời kì lịch sử gian khổ hào hùng gắn liền với chiến khu cách mạng.
Phân tích ý nghĩa cách xưng hô mình ta – Mẫu 4
Bài thơ Việt bắc ra đời vào tháng 10 năm 1954, sau hơn ba ngàn ngày khói lửa Hồ Chủ Tịch đưa đoàn quân chiến thắng về thủ đô. Trong bối cảnh lịch sử hào hùng ấy. Tố Hữu đã làm nên bài thơ Việt Bắc. Bao trùm lên bài thơ là một nối nhớ của người cán bộ cách mạng với những người Việt Bắc. Nỗi nhớ tha thiết, bồi hồi thể hiện tình cảm thủy chung năng tình nặng nghĩa giữa người miền ngược và người miền xuôi. Góp phần làm nổi bật nỗi nhớ, tình cảm đó chính là cặp đại từ nhân xưng “mình” – ” ta”.
Bài thơ được viết bằng thể thơ lục bát theo cấu trúc đối đáp mềm mại. Đó là những lời hỏi đáp giữa “mình” và “ta” giữa người ở và người đi trong buổi chia tay đầy lưu luyến. Thể thơ và cách xưng hô này rất phổ biến trong ca dao, dân ca Việt Nam đặc biệt là những câu hát giao duyên. Chính nhờ sự đối đáp này mà người đọc có thể hiểu được đoạn đối thoại giữa người đi và ở cũng như diễn tả được nghĩa tình sâu nặng giữa những cán bộ kháng chiến với nhân dân Việt Bắc.
Bằng việc phân thân thành hai nhân vật trữ tình cũng giúp tác giả bộc lộ nhiều hơn những cảm xúc trong lòng mình đồng thời tạo nên sự đồng điệu đối với người đọc . Điều đặc biệt là cấu trúc truyền thống này không chỉ được tác giả sử dụng một lần mà đã trở thành một điệp khúc luyến láy tài hoa.
Nếu như trong ca dao xưa đại từ mình thường sử dụng ngôi thứ nhất thì ở trong bài thơ Việt Bắc tác giả đã sử dụng dụng linh hoạt đại từ “mình – ta”. Trong lời của đồng bào Việt Bắc đại từ “mình” thường được sử dụng ở ngôi thứ hai để chỉ cán bộ kháng chiến. Còn đại từ “ta” được dùng ở ngôi thứ nhất là lời tự xưng của đồng bào Việt Bắc.
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ người”
Với người ở lại nỗi nhớ đã bật lên thành lời “Mình về mình có nhớ ta”. Đại từ ” mình” láy lại cứ ngân lên như một âm hưởng thật da diết. Đó là những lời hỏi của trái tim, của tâm tình. Khiến người đi chỉ có thể dùng trái tim để đáp lại . Cách xưng hô mình ta đậm ngọt như lời thủ thỉ của đôi lứa yêu nhau, đánh thức ở người đọc những tình cảm thiêng liêng nhất vốn ủ kín trong trong lòng.
Bên cạnh đó lối xưng hô ‘ mình – Ta’ còn giúp nổi bật lên cấu trúc đối đáp giữa người miền ngược và người miền xuôi. Đây chính là sự tiêu biểu của khuynh hướng thơ trữ tình chính trị.
Trong thơ Tố Hữu mỗi bài thơ đều gắn với sự kiện của đất nước, mỗi thời khắc lịch sử đã trở thành cảm hứng nghệ thuật và được nhà thơ chuyển hóa vào bài thơ dưới hình thức trữ tình mềm mại.
Lối xưng hô “mình – ta” đã giúp nhà thơ thể hiện điều này một tư tưởng, chủ đề của tác phẩm một cách sâu sắc. Điều này còn biến một bài thơ hiện đại thành một bản tình ca với những âm điệu ngọt ngào và đậm đà tình dân tộc.
Bên cạnh đó, bằng lối đáp giao duyên Tố Hữu xây dựng thành công vẻ đẹp thiên nhiên, con người Việt Bắc. Đồng thời tái hiện lại thời kỳ lịch sử gian khổ ở quê hương cách mạng, làm nổi bật lên toàn bộ giá trị của tác phẩm.
Với ngôn từ trong sáng, mộc mạc gần gũi cùng với thể thơ lục bát linh hoạt mềm mại, đặc biệt Tố Hữu đã thành công trong việc sử dụng đại từ nhân xưng “mình – ta” đã tạo nên một ánh văn thơ được coi là đỉnh cao của văn thơ cách mạng. Bằng ngòi bút tài hoa tác giả đã tạo nên cuộc đối đáp giao duyên nặng tình giữa đi và người ở, đồng thời nêu nổi bật được vẻ đẹp thiên nhiên, con người Việt Bắc cũng như thời khắc lịch sử của dân tộc.
Phân tích cách xưng hô mình ta – Mẫu 5
Tố Hữu là một nghệ sĩ tài hoa của nền văn học Việt Nam, ông có rất nhiều những tác phẩm nổi tiếng trong đó có bài Việt Bắc nổi lên với những phong cách nghệ thuật độc đáo và phép nhân xưng mình ta để làm nổi bật lên nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của tác giả.
Trong bài thơ mở đầu tác giả đã sử dụng những biện pháp xưng hô mình ta để làm tăng lên nghệ thuật xây dựng phép điển hình của nhà thơ, mỗi một biện pháp có thể làm tăng lên tính chất sử dụng ngôn ngữ và nhân vật của tác giả. Nghệ thuật xây dựng mình ta đã được mở đầu cho bài thơ, mỗi một đoạn tác giả đều sử dụng nó để tăng lên tính chất sử dụng nghệ thuật của tác giả. Mình có thể là những đồng chí đồng đội, ta có thể là tác giả ở đây tác giả đã sử dụng ngôn ngữ để nhằm giao tiếp với nhân vật đối phương qua nghệ thuật sử dụng biện pháp xưng hô:
Mình về có nhớ ta chăng
Ta thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
Những biện pháp xưng hô làm tăng lên khẩu ngữ ngôn ngữ trong nghệ thuật của tác giả, với tài năng của chính mình tác giả đã tăng nghệ thuật đối ngẫu cho tác phẩm. Những giá trị to lớn trong nghệ thuật này đã làm tăng lên mức độ của bài thơ như một lời đối đáp với người đã đi xa, có thể nói rằng bài thơ này như một nghệ thuật đối ngẫu phong phú, ở đó tác giả có thể tự sử dụng ngôi kể và giao tiếp với những nhân vật trong bài thơ của mình một cách rất ý nghĩa.
Ở đây trong cách sử dụng nghệ thuật mình – ta tác giả đang thể hiện mạnh mẽ trong từng tác phẩm, những giá trị của nó để lại cho bài thơ một lời đối ngẫu phong phú làm tăng lên nỗi nhớ thương đang hàm chưa trong tác phẩm. Việt Bắc là một bài thơ hay với những nghệ thuật nổi tiếng được sử dụng phổ biến trong bài thơ, những lời đối ngẫu và phép nghệ thuật mình ta nó đã mang lại những tính chất nổi bật của bài thơ, với hàng loạt những tính chất nổi bật và có giá trị. Mỗi chúng ta đều phát hiện ra những nét nổi bật đang hàm chứa trong từng tác phẩm. Nghệ thuật mình ta đã làm nổi bật lên những nỗi nhớ thương và đây chính là cảm hứng chủ đạo trong cả bài thơ.
Nghệ thuật xây dựng hình tượng cũng đậm nét và nó làm nên những giá trị tiêu biểu trong phong cách nghệ thuật của tác giả, những phép xưng hô nổi bật mình ta đã làm cho tác giả thể hiện mạnh mẽ những nỗi nhớ thương mang phong cách nghệ thuật nổi bật trong tác phẩm. Khi tác giả đi về khỏi vùng đất mình đã từng gắn bó và chung sống với những người đồng chí đồng đội của mình, nghệ thuật này cũng như tự vấn để tác giả có thể làm nên những giá trị to lớn trong toàn bộ tác phẩm. Nghệ thuật sử dụng mình ta đã làm tăng lên những giá trị tiêu biểu trong toàn bộ tác phẩm, nghệ thuật của nó để lại cho tác phẩm những nét độc đáo qua cách tạo dựng nên nhân vật và nghệ thuật xưng hô giàu tính hình tượng với những hình ảnh đối ngẫu nổi bật.
Trong bài thơ các phép ngôn ngữ giàu tính hình tượng làm nổi bật lên cả bài thơ với những phép đối ngẫu trong phong cách nghệ thuật của tác phẩm. Những hình tượng trong tác phẩm được sử dụng để dùng để diễn tả nỗi nhớ thương sâu sắc của tác giả đối với bài thơ của mình. Những nghệ thuật nổi bật được sử dụng trong tác phẩm đã làm tăng lên nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, với việc kết hợp những hình tượng mang những nét đặc trưng để diễn tả những nổi nhớ thương tại vùng đất Việt Bắc nơi đây.
Tác giả người đã từng trải nghiệm và sống tại vùng đất nơi đây trong cách sử dụng những hình ảnh mang những đặc trưng nổi bật trong phong cách đối ngẫu của người đã làm gia tăng lên giá trị sử dụng nghệ thuật đặc sắc, với hàng loạt những nét đặc sắc, nghệ thuật xưng hô mình ta đã làm tăng lên nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trong toàn tác phẩm. Nghệ thuật đó đã làm tăng lên giá trị về cung bậc cảm xúc của tác giả trong bài thơ. Với những nghệ thuật nổi bật nguồn cảm hứng nổi bật trong bài thơ đã nổi bật sâu sắc trong tác phẩm với những nguồn cảm hứng mang nét đặc trưng nổi bật để làm gia tăng lên giá trị nổi bật trong tác phẩm.
Phép xưng hô mình ta đã làm tăng lên những ý đồ mà tác giả đang sử dụng trong tác phẩm của mình, những hình ảnh nổi bật được sử dụng trong đó làm tăng lên cảm hứng chủ đạo đó là nổi nhớ của tác giả về một thời đã từng gắn bó với vùng đất nơi đây, với những người chiến sĩ, những cảnh vật, những nét đặc sản cổ truyền của vùng Việt Bắc, những chùm hoa chuối đỏ tươi, những chùm mơ cháy rừng tất cả đều được nổi bật trong nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ và nét đặc trưng trong mỗi tác phẩm của người.
Nổi nhớ là cảm hứng chủ đạo và bao trùm lên toàn bộ tác phẩm, với việc làm tăng lên những nỗi nhớ thương đó, tác giả đã sử dụng phép nghệ thuật mình ta để làm tăng lên sự cải thiện trong phép đối ngẫu và giá trị của tác phẩm. Những lời thơ được sử dụng ở đây mang những đặc trưng nhằm ẩn dụ để nói về những đối tượng đã từng gắn bó với tác giả, những nghệ thuật đó không chỉ để tác giả sử dụng nhằm làm tăng lên giá trị trong tác phẩm mà ngôn ngữ của nó cũng được làm rõ và không ngừng được biến đổi trong tác phẩm.
Tác giả đã từng gắn bó suốt 15 năm với mảnh đất nơi đây, biết bao kỉ niệm được gắn bó mặn nồng trong tác phẩm, giá trị của nó không chỉ làm nổi bật lên sự sống và còn làm tăng lên những nỗi nhớ thương về một hoài niệm đã qua.
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn.
Ở đây lối xưng hô mình ta, với những giai điệu ngọt ngào đằm ấm đã làm nổi bật lên toàn bộ giá trị của tác phẩm, những phép sử dụng ngôn ngữ đối ngẫu đó làm tăng lên giá trị trong toàn bộ tác phẩm, những lời đối đáp mang đậm giá trị màu sắc và những lời tâm tình giàu tình cảm đã và đang xúc động lên tấm lòng của tác giả về một vùng đất đã từng gắn bó mạnh mẽ và có giá trị to lớn trong toàn bộ tiềm thức sâu sắc trong tác phẩm của người.
Những khúc giao duyên và những lời đối đáp tâm tình đã khắc họa sâu sắc lên toàn bộ tác phẩm với những phong cách nổi bật đang dần đánh thức lên tâm can của mỗi người, những giá trị đó làm nên màu sắc và giá trị đó làm nổi lên những nguồn tri thức và khám phá mọi nguồn tri thức mới.
Tố Hữu đã sử dụng những nét nổi bật trong phong cách nghệ thuật sử dụng nghệ thuật xưng hô đối ngẫu mình ta để tăng lên giá trị cho toàn bộ tác phẩm.
Phân tích cách xưng hô mình ta – Mẫu 6
“Nhà thơ Tố Hữu: Một trái tim, một hồn thơ Cách mạng” – đó là nhan đề một bài viết hết sức sâu sắc tưởng nhớ ngày mất của nhà thơ tài hoa của văn học hiện đại Việt Nam. Thực vậy, thơ Tố Hữu, mà đặc biệt là thơ ca viết về Cách mạng của ông đã khơi lên trong lòng người đọc biết bao nỗi niềm, cảm xúc. “Việt Bắc” sáng tác năm 1954 là một bài thơ rất nổi tiếng và giàu ý nghĩa viết về cuộc sống Cách mạng, con người Cách mạng của tác giả. Trong tác phẩm, cách sử dụng cặp đại từ “mình – ta” là một nét sáng tạo đã lưu lại trong tâm trí người đọc nhiều dấu ấn sâu sắc.
“Mình – ta” là cặp đại từ xưng hô quen thuộc trong những câu ca dao, dân ca đậm nồng, đằm thắm của dân tộc. Một cách tinh tế và đầy khéo léo, Tố Hữu vừa kế thừa và sáng tạo, cách tân để đưa cặp đại từ này vào trong tác phẩm của mình, biến nó trở thành một dấu ấn đặc sắc góp phần đem đến sự thành công cho bài thơ. Cả tác phẩm gồm 150 câu thơ với những cặp lục bát dạt dào cảm xúc như khúc ca ân tình được cất lên từ hai chủ thể “mình – ta” ý nói người ở lại và người ra đi, người đồng bào Việt Bắc và người cán bộ Cách mạng. Đoạn mở đầu bài thơ nhân vật trữ tình xưng “ta” gọi “mình”, là lời của người ở lại với người ra đi, là tình cảm thiết tha dạt dào người dân Việt Bắc dành cho cán bộ Cách mạng ngày chia tay:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”
Người ở lại đặt những câu hỏi tu từ chẳng phải để đợi chờ câu trả lời của người ra đi, mà dường như đó là những lời nhắc nhở đầy ân tình rằng dẫu có ra đi thì cũng sẽ luôn nhớ về Việt Bắc với trái tim thiết tha, mặn nồng yêu thương. Là đoạn thơ với lời người ở lại nên ở đây, “mình” được nhắc đến nhiều hơn “ta”. Đến với đoạn thơ thứ hai, lời đáp lại của người ra đi đã phần nào tạo nên sự cân xứng cho lối nói đối đáp quen thuộc trong ca dao:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Ở đoạn thơ này, chữ “ta” và “mình” không xuất hiện trực tiếp nữa mà được nhà thơ thể hiện qua một loạt các hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng: “tiếng ai tha thiết bên cồn”, “áo chàm”. Cặp đại từ “mình – ta” trong hai đoạn thơ thứ ba và bốn tiếp theo được tác giả sử dụng hết sức tài hoa và khéo léo. Chỉ trong đoạn thơ thứ ba, từ “mình” được sử dụng tới sáu lần trong sáu câu lục với nghĩa là người ra đi rời chiến khu, là người về với thủ đô:
“Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù
…
Mình về có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh”
Mỗi lời người ở lại dành cho người ra đi đều gắn với từ “nhớ”, nhắc nhớ lại những kỉ niệm cực khổ nhưng đầy đáng nhớ thuở còn kháng chiến. Đại từ “mình” bỗng khiến cả đoạn thơ dạt dào một tình cảm thân thương, đầm ấm vô cùng. Ở những đoạn thơ tiếp theo, cặp đại từ “mình – ta” tiếp tục được nhà thơ vận dụng hết sức khéo léo và thành công, vừa tạo ra nhiều nét đặc sắc về âm điệu lời thơ, vừa góp phần làm nên sự sâu sắc cho ý nghĩa tác phẩm.
Chủ thể “mình” và chủ thể “ta”, cả hai như gửi gắm một phần trải nghiệm, một phần kí ức của người chiến sĩ, người nghệ sĩ Tố Hữu. Cặp đại từ “mình – ta” được đặt trong hình thức đối đáp vừa để khơi gợi tâm trạng, cảm xúc, vừa tạo ra một sự hô ứng đồng vọng của giai điệu tình cảm giữa “mình” và “ta”. Có những đoạn thơ, Tố Hữu khiến người đọc cảm tưởng như “mình” và “ta”, cả hai đang hoán đổi vị trí, chuyển hóa cho nhau khiến âm hưởng lời thơ dịu dàng, êm ái, thiết tha đậm nghĩa đậm tình. “Việt Bắc” bởi vậy mà bỗng trở thành tiếng nói của tình yêu, nhưng không phải là một tình yêu đôi lứa thơ mộng như trong ca dao, dân ca xưa, mà đó là tình yêu cao cả, lớn lao dành cho con người tổ quốc, cho quê hương đất nước, cho đồng bào gắn bó máu thịt, thủy chung. Phải chăng đó chính là một trong những nét sáng tạo đầy độc đáo của nhà thơ Tố Hữu trong bài thơ khiến cho tác phẩm này thêm giàu giá trị, ý nghĩa.
“Một khúc tình ca”, “Một bản anh hùng ca về kháng chiến và con người”, đó là những so sánh rất thật và rất sâu sắc về bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu. Để tác phẩm nhận được những so sánh, đánh giá ấn tượng đó, nhà thơ không chỉ có khả năng quan sát, trải nghiệm, tích lũy vốn sống mà còn biết sáng tạo những cái mới hoặc kế thừa nét đẹp truyền thống để phát triển. Cách sử dụng đại từ “mình – ta” đã góp phần đem đến thành công cho tác phẩm cũng như khẳng định tài năng, sự tinh tế và khéo léo của tác giả.