Phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài gồm 22 bài văn mẫu siêu hay. Qua phân tích Mị các bạn học sinh có thể lựa chọn cho mình một cách tiếp cận, một giọng điệu văn thích hợp, để sau đó nó trở thành kiến thức tâm đắc của chính mình.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 12: Phân tích nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
Phân tích nhân vật Mị trong tác phẩm tác phẩm Vợ chồng A Phủ được viết rất hay với văn phong rõ ràng, dễ hiểu có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, sẽ giúp các em học môn Ngữ văn tốt hơn và có sự chuẩn bị tốt hơn khi học. Ngoài ra để nâng cao kỹ năng viết văn các bạn xem thêm một số bài văn mẫu như: mở bài Vợ chồng A Phủ, phân tích Vợ chồng A Phủ, phân tích nhân vật A Phủ.
Phân tích nhân vật A Phủ siêu hay
Dàn ý phân tích nhân vật Mị
I. Mở bài
- Tô Hoài là nhà văn nhạy cảm với cảnh sinh hoạt, phong tục tập quán của những vùng miền, ông có vốn ngôn ngữ phong phú, lối trần thuật tự nhiên.
- Vợ chồng A Phủ là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách của Tô Hoài, truyện viết về những con người Tây Bắc tiềm tàng sức sống đã vùng lên đấu tranh chống lại bọn thống trị.
- Nhân vật Mị là biểu tượng đẹp cho sức sống tiềm tàng của người phụ nữ bị áp bức.
II. Thân bài
1. Mị vốn là cô gái có những phẩm chất tốt đẹp
– Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra:
- Mị là cô gái người Mông trẻ trung, hồn nhiên, có tài thổi sáo “thổi lá cũng hay như thổi sáo có biết bao nhiêu người mê”
- Mị đã từng yêu, từng được yêu, luôn khao khát đi theo tiếng gọi của tình yêu.
- Hiếu thảo, chăm chỉ, ý thức được giá trị cuộc sống tự do nên sẵn sàng làm nương ngô trả nợ thay cho bố.
2. Nạn nhân của những áp bức bất công
- Khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra: bị “cúng trình ma” nhà thống lí, làm con dâu gạt nợ, bị bóc lột sức lao động, “không bằng con trâu con ngựa”, “đàn bà trong cái nhà này chỉ biết vùi đầu vào công việc” , bị đày đọa nơi địa ngục trần gian, bị đánh, bị phạt, bị trói, …
- Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau: một cô gái lúc nào cũng vậy dù quay sợi, thái cỏ ngựa, … đều cúi mặt “mặt buồn rười rượi”, không quan tâm đến thời gian “lỗ vuông bằng bàn tay …không biết là sương hay nắng”.
- Mị sống lầm li “như con rùa nuôi trong xó cửa”, “ở lâu trong cái khỏ Mị quen rồi”.
3. Sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị
– Khi bị rơi vào cảnh làm con dâu gạt nợ Mị có ý định tự tử bằng lá ngón, không chấp nhận cuộc sống mất tự do.
– Trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài, sức sống của Mị đã trỗi dậy:
- Âm thanh cuộc sống bên ngoài (tiếng trẻ con chơi quay, tiếng sáo gọi bạn tình, ..) ùa vào tâm trí, đánh thức những kỉ niệm trong quá khứ của Mị.
- Mị lẩm nhẩm lời bài hát, trong khoảnh khắc tâm hồn trở về với thanh xuân tươi đẹp, khao khát tình yêu hạnh phúc.
- Mị ý thức được sự tồn tại của bản thân “thấy phơi phới trở lại”, “Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”, với khát khao tự do
- Tinh thần phản kháng mạnh mẽ: lấy miếng mỡ để thắp sáng lên căn phòng tối, nổi loạn muốn “đi chơi tết” chấm dứt sự tù đày.
- Khi A Sử trói, lòng Mị vẫn lửng lơ theo tiếng sáo, tiếng hát của tình yêu đến những đám chơi. Lúc vùng dậy cô chợt tỉnh trở về với hiện thực.
– Nhận xét: Mị luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, sức sống ấy luôn âm ỉ trong lòng người con gái Tây Bắc và chỉ chờ có cơ hội để bùng lên mạnh mẽ.
– Khi A Phủ làm mất bò, bị phạt trói đứng:
- Ban đầu Mị dửng dưng bởi sau đêm tình mùa xuân, cô trở lại là cái xác không hồn.
- Khi thấy giọt nước mắt của A Phủ khiến Mị đồng cảm, chợt nhớ đến hoàn cảnh của mình trong quá khứ, Mị lại biết thương mình và thương cho kiếp người bị đày đọa “có lẽ ngày mai người kia sẽ chết, chết đau, … phải chết”.
- Bất bình trước tội ác của bọn thống lí, Mị cắt dây đay cởi trói cho A Phủ
- Mị sợ cái chết, sợ nỗi khổ sẽ phải gánh chịu trong nhà thống lí, cô chạy theo A Phủ tìm lối thoát vượt ra khỏi địa ngục trần gian.
– Nhận xét: Mị là người con gái lặng lẽ mà mạnh mẽ, tiềm tàng sức sống, hành động của Mị đã đạp đổ cường quyền, thần quyền của bè lũ thống trị miền núi.
III. Kết bài
- Nêu suy nghĩ về hình tượng nhân vật Mị.
- Nghệ thuật: ngôn ngữ, cách nói đậm chất miền núi, lối trần thuật linh hoạt với sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật, miêu tả thành công tâm lí nhân vật và hình ảnh thiên nhiên.
- Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc: sự cảm thông với số phận đau khổ của những con người chịu áp bức, tố cáo lên án bọn thống trị miền núi, bọn thực dân, ngợi ca vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng trong mỗi con người Tây Bắc.
Xem thêm: Dàn ý phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ
Sơ đồ tư duy nhân vật Mị
Xem thêm: Sơ đồ tư duy Vợ chồng A Phủ
Phân tích hình tượng nhân vật Mị – Mẫu 1
“Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Tô Hoài. Truyện ngắn đã thành công khắc họa cuộc sống và vẻ đẹp của bà con nhân dân vùng Tây Bắc. Trong đó, nhân vật Mị đã để lại những ấn tượng vô cùng sâu sắc trong lòng độc giả. Nhà văn đã không chỉ đem đến hình ảnh một cô gái trẻ trung, xinh đẹp, tiềm tàng sức sống mà còn tái hiện chân thực sự bất công mà con người phải chịu đựng khi bọn thực dân, chúa đất nắm quyền.
Trước tiên, Mị hiện lên là một người con gái không chỉ xinh đẹp mà còn có những phẩm chất vô cùng đáng quý. Ngày còn tự do, Mị được rất nhiều người theo đuổi, “trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”, “có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Dễ thấy, cô gái ấy đã từng yêu và được yêu, luôn có khát khao tình yêu mãnh liệt trong tâm hồn. Không chỉ vậy, Mị còn là một người con hiếu thảo. Vì để trả món nợ của gia đình, Mị từng xin cha cho đi cuốc đất, trồng ngô kiếm tiền. Vốn từng có ý định tự tử nhưng thương cha, cô đành phải chấp nhận sống cuộc đời “làm trâu làm ngựa” cho nhà thống lí.
Ấy vậy nhưng cuộc sống chẳng hề dễ dàng đối với những con người lương thiện. Mị chính là nạn nhân của những áp bức, bất công trong xã hội xưa. Mang danh con dâu nhà thống lí – một gia đình nổi tiếng giàu có ở vùng nhưng Mị chẳng được hưởng một giây phút sung sướng. Tô Hoài đã miêu tả rất chi tiết những khó khăn, cực nhọc mà Mị phải trải qua: “Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, cũng là con ngựa […] Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày”. Một người con gái trẻ trung, xinh đẹp bao người theo đuổi khi xưa, giờ lại phải sống như người ở, còn chẳng bằng con trâu, con ngựa trong nhà. Ngay đến không gian riêng của Mị cũng chỉ là cái buồng “kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trắng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Sự tù túng ấy như ngày ngày vùi dập tâm hồn cô gái. Cuộc sống ngục tù, luôn phải làm việc quần quật, lại còn thường xuyên bị đánh đập đã khiến niềm hi vọng trong lòng Mị dần lụi tắt.
Ngày qua ngày, Mị trở nên chai sạn với nỗi đau: “Ở trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Cô cứ lặp đi lặp lại những công việc nhàm chán một cách máy móc. Khác với người con gái vui tươi, hoạt bát khi xưa, hình ảnh Mị giờ đây chỉ là “một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Chỉ một chi tiết ấy thôi, độc giả cũng thấy được sự bế tắc trong cuộc sống của Mị. Điều này khiến cho nhân vật ngày một lặng im, bất lực, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” và nghĩ rằng mình sẽ mãi bị giam hãm ở chốn này, “đến bao giờ chết thì thôi”. Cả khi nhìn thấy A Phủ bị trói đứng vào cột nhà, Mị cũng chẳng mảy may suy nghĩ, vẫn thản nhiên đốt lửa hơ tay. Đây chính là thái độ buông xuôi của con người trước thực tại đau khổ, nghiệt ngã.
Cứ tưởng tâm hồn Mị đã bị vùi sâu vào trong bóng đêm ở chốn ngục tù kia, nhưng thực chất, sức sống vẫn luôn tiềm tàng ở người con gái ấy. Khi mới bị bắt về làm dâu nhà thống lí, Mị thà ăn lá ngón tự tử chứ quyết không muốn bị giam hãm trong ngôi nhà đó. Và trong đêm tình mùa xuân, sức sống mãnh liệt trong tâm hồn Mị lại có dịp được bùng phát. Âm thanh tiếng sáo, tiếng chuyện trò, cười đùa vọng từ ngoài vào đã đánh thức kí ức về những ngày xa xưa của Mị. Giờ đây, cô ý thức được rằng bản thân mình vẫn còn đang tồn tại, rằng “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Cái thực tại nghiệt ngã kia không thể nào giam cầm được tâm hồn Mị. Và Mị không chịu đựng nữa. Một loạt các hành động được Tô Hoài liệt kê: “không nói”, “đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”, “Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”. Tất cả đều cho thấy sự thức tỉnh trong tâm hồn tưởng như đã lụi tàn của người con gái Tây Bắc. Sức sống vẫn như một ngọn lửa âm ỉ cháy, chỉ đợi thời cơ để bùng lên dữ dội.
Rồi trong đêm đông lạnh giá, nhìn thấy dòng nước mắt lăn trên má A Phủ, Mị không kìm nổi sự thương xót. Nhớ đến mình cũng đã từng bị trói, từng chịu sự đánh đập, hành hạ, cô bất bình, phẫn uất vô cùng. Biết bao cảm xúc dồn nén giờ đây bộc phát thành hành động. Mị đã cởi trói cho A Phủ rồi cũng vụt chạy đi, thoát khỏi chốn địa ngục trần gian đã giam cầm mình bao lâu nay. Hành động này chính là một sự phản kháng, phá tan xiềng xích, đạp đổ cường quyền áp bức của bè lũ thống trị.
Như vậy, qua hình tượng nhân vật Mị, Tô Hoài đã thể hiện lòng đồng cảm với những con người phải chịu sự bất công, bóc lột. Với ngôn ngữ giản dị cùng cách kể chuyện linh hoạt, ông lên tiếng tố cáo tội ác của bọn thống trị. Đồng thời, ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn cao quý và sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của người dân trên vùng núi Tây Bắc.
Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” đã mang vô vàn thông điệp ý nghĩa đến với độc giả mọi thế hệ. Với nhân vật Mị, Tô Hoài không chỉ bày tỏ lòng yêu thương, cảm thông và trân trọng tới bà con đồng bào miền núi. Tuy phải chịu hoàn cảnh khó khăn, bị chèn ép không thương tiếc nhưng họ vẫn sáng lên với niềm tin, khát khao sống mãnh liệt và sức phản kháng tiềm tàng trong sâu thẳm tâm hồn. Nhờ vậy, tác phẩm vẫn còn giữ nguyên được giá trị cho đến tận ngày hôm nay.
Phân tích nhân vật Mị ngắn gọn – Mẫu 2
Giai đoạn kháng chiến, bên cạnh những tác phẩm ngợi ca nhân cách, chiến công của người lính; số phận lầm than của người dân cũng là mảng đề tài được rất nhiều tác giả quan tâm. Trong đó có Tô Hoài với tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Phân tích nhân vật Mị trong truyện ngắn, ta sẽ thấy được thực trạng xã hội thối nát cũ, đồng thời cảm thông, trân trọng vẻ đẹp con người luôn vượt lên trên mọi nghịch cảnh để sống, hướng tới cái thiện.
Tô Hoài là nhà văn nhạy cảm với cảnh sinh hoạt, phong tục tập quán của những vùng miền. Các tác phẩm của ông luôn có vốn ngôn ngữ phong phú và lối trần thuật tự nhiên. Truyện ngắn của Tô Hoài hấp dẫn, sâu sắc người đọc với cách kể chuyện tự nhiên, đời thường. Các tác phẩm của ông luôn mang màu sắc tươi sáng, thiên thiên đẹp đẽ, con người dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng nổi bật với những đức tính đáng trân trọng.
“Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách văn chương của Tô Hoài. Tác phẩm đề cập tới những con người Tây Bắc dù trong hoàn cảnh khó khăn, khốn cùng thì vẫn luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt. Họ đã dũng cảm đứng lên đấu tranh chống lại bọn thống trị, giải phóng tự do cho chính bản thân mình. Nhân vật Mị trong tác phẩm là biểu tượng cho sức sống tiềm tàng của người phụ nữ, luôn sẵn sàng vùng lên khi bị chà đạp, áp bức.
Trước hết, tác giả Tô Hoài đã khắc họa nhân vật Mị hiện lên với quá khứ tươi đẹp. Cô vốn là con người có những phẩm chất tốt đẹp, chỉ vì hoàn cảnh mà buộc phải thay đổi. Mị đã là một cô gái người Mông trẻ trung, ngây thơ, hồn nhiên trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra. Cô được miêu tả có tài thổi sáo, “thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Đã có biết bao nhiêu người mê tiếng sáo ấy của Mị mà say đắm, muốn được kết duyên.
Mị cũng là một cô gái bình thường như biết bao cô gái khác, biết yêu, từng yêu và từng được yêu. Cô luôn khao khát đi theo tiếng gọi của tình yêu để nắm lấy hạnh phúc cho mình. Không những thế, Mị còn rất hiếu thảo, thương yêu mẹ cha. Cô chăm chỉ, chịu khó, ý thức mạnh mẽ giá trị của cuộc sống tự do. Vì thế nên Mị đã sẵn sàng làm nương ngô trả nợ thay cho bố, không muốn phải chịu cảnh tù đày, gán nợ.
Thế nhưng, hoàn cảnh trớ trêu đã dập tắt tương lai tươi sáng của cô gái còn chưa đến tuổi đôi mươi ấy. Mị bị bắt về làm vợ A Sử, con trai nhà thống lí Pá Tra. Khi bị bắt về làm dâu, cô đã bị “cúng trình ma” nhà thống lí. Kể từ đó, kiếp làm con dâu gạt nợ, bị bóc lột sức lao động đã bắt đầu. Số phận của Mị lúc này “không bằng con trâu con ngựa”, “đàn bà trong cái nhà này chỉ biết vùi đầu vào công việc”. Mị đã bị đày đọa nơi địa ngục trần gian với những trận đòn roi, bị đánh, bị phạt, bị trói, … ngày này qua tháng khác, không thể nào vùng vẫy thoát ra.
Đối diện với cuộc sống bị chà đạp ấy, Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau. Nếu có ai đến nhà thống lí, chắc hẳn sẽ thấy một cô gái lúc nào cũng cúi mặt “mặt buồn rười rượi” dù là quay sợi, thái cỏ ngựa, hay làm bất cứ công việc gì. Mị đã không còn quan tâm đến thời gian nữa, gian phòng của cô chỉ có một “lỗ vuông bằng bàn tay, nhìn ra chỉ thấy một màu trăng trắng, không biết là sương hay nắng”. Khi con người đã không còn nhận thức về thời gian, không gian, tức là khi đó đã vô cùng tuyệt vọng, phó mặc cho số phận của mình. Và Mị có lẽ đã sống mãi như thế, cứ lầm lũi “như con rùa nuôi trong xó cửa”. Cô thậm chí còn không muốn tự kết liễu bản thân, cứ sống mãi mà vô định Và bởi vì “ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi”, cô gái trẻ trung, hồn nhiên xưa kia như cái xác không hồn, không còn chút thiết tha với cuộc sống này.
Ngỡ tưởng rằng mọi sự đày đọa về cả thể xác lẫn tâm hồn sẽ làm Mị dần chai sạn. Thế nhưng ở sâu trong tâm khảm, Mị vẫn luôn có một sức sống tiềm tàng, mãnh liệt. Trước hết, khi bị rơi vào cảnh làm con dâu gạt nợ, Mị đã có ý định tự tử bằng lá ngón. Lựa chọn cái chết thay vì phải chịu cảnh ngục tù, cô không chấp nhận cuộc sống mất tự do, không thể làm chủ số phận. Đó là sự phản kháng mạnh mẽ, dứt khoát ở một cô gái tưởng chừng yếu đuối, nhỏ bé.
Sức sống tiềm tàng của Mị, sau những năm tháng sống như một con vật, trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài đã trỗi dậy mạnh mẽ. Những âm thanh của cuộc sống bên ngoài với tiếng trẻ con chơi quay, tiếng sáo gọi bạn tình như ùa vào tâm trí Mị. Nó đã đánh thức những kỉ niệm trong quá khứ của cô, khiến cô như được hồi sinh. Nghe tiếng hát, tiếng sáo, Mị đã lẩm nhẩm lời bài hát. Khi đó, dù chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, tâm hồn cô như đã trở về với thanh xuân tươi đẹp, khao khát tình yêu và hạnh phúc len lỏi trong tâm trí, khiến Mị muốn được tự do. Cô đã ý thức được sự tồn tại của bản thân “thấy phơi phới trở lại”, “Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Tô Hoài đã sử dụng một loạt các câu độc thoại nội tâm để giúp người đọc thấy được sự hồi sinh diệu kì của nhân vật.
Tiếp theo đó, Tô Hoài đã khắc họa Mị nổi bật lên với tinh thần phản kháng mạnh mẽ. Nếu như trước kia, ánh sáng duy nhất trong căn phòng của cô chỉ là ánh nắng, ánh sương qua ô cửa nhỏ; thì giờ đây Mị đã lấy miếng mỡ để thắp sáng lên căn phòng tối tăm, chật hẹp. Thắp sáng lên căn phòng, cũng chính là thắp lên niềm tin nhỏ bé trong tâm hồn mình. Sau đó, nhân vật đã nổi loạn hơn, muốn được “đi chơi Tết” để có thể chấm dứt sự tù đày và những tháng ngày tẻ nhạt.
Không được đi chơi, thậm chí còn bị trói lại, thế nhưng giờ đây Mị không còn thẫn thờ như mọi lần nữa. Lúc này, tâm trí của cô vẫn lửng lơ theo tiếng sáo, tiếng hát của tình yêu đôi lứa đến những cuộc vui ngoài kia. Trong vô thức, Mị đã vùng dậy, muốn thoát khỏi sự trói buộc, cầm tù ấy. Tâm hồn một khi đã được thức tỉnh, sẽ không bao giờ buông bỏ nữa. Cái khao khát tự do ấy cứ cháy mãi trong trái tim nhân vật, âm ỉ thắp lên hi vọng mãnh liệt được sống, được làm chủ số phận của mình. Nó chỉ trực chờ để có cơ hội bùng lên một cách mạnh mẽ và dứt khoát.
Và sức sống tiềm tàng ấy đã một lần nữa được khơi dậy trong lòng Mị khi thấy A Phủ bị phạt trói đứng. Khi nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ, Mị đã đồng cảm sâu sắc với anh. Cô chợt nhớ đến hoàn cảnh của mình trong quá khứ cũng đã biết bao nhiêu lần phải chịu cảnh đòn roi, tra tấn như vậy. Giờ đây, Mị lại biết thương mình và thương cho kiếp người bị đày đọa “có lẽ ngày mai người kia sẽ chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết.” Và chính suy nghĩ bất bình trước tội ác dã man của bọn thống lí ấy, Mị đã cắt dây cởi trói, giải thoát cho A Phủ. Trong một giây phút, ta ngỡ tưởng Mị sẽ lại phó mặc số phận, sẵn sàng chịu trừng phạt vào ngày mai khi sự việc bại lộ. Thế nhưng cô đã sợ cái chết, sợ phải sống tiếp những ngày ngục tù với nỗi khổ đau dài dặc trong nhà thống lí, Mị đã chạy theo A Phủ, tìm lối thoát vượt ra khỏi cái địa ngục trần gian này. Qua những lần phản kháng từ âm thầm đến mạnh mẽ ấy, ta thấy được một cô gái nhỏ bé nhưng lại có sức sống tiềm tàng, sẵn sàng trỗi dậy, vượt ra khỏi định kiến và những hủ tục trói buộc. Mị đã đứng lên, đạp đổ cả cường quyền lẫn thần quyền của bè lũ thống trị miền núi. Đây chính là vẻ đẹp rất đáng trân trọng của con người trong hoàn cảnh éo le, khắc nghiệt.
Với lối kể chuyện hấp dẫn, hình ảnh thú vị, ngôn ngữ đậm chất đời thường, Tô Hoài đã tái hiện được xã hội rối ren, đầy áp bức lúc bấy giờ. Đồng thời đồng cảm, ngợi ca con người với những phẩm chất đáng trân trọng, luôn vượt lên trên nghịch cảnh để sống, tự do và tìm kiếm hạnh phúc cho riêng mình.
Phân tích Mị trong Vợ chồng A Phủ – Mẫu 3
Tô Hoài là nhà văn lớn đã đóng góp nhiều thành tựu xuất sắc cho nền văn xuôi hiện đại nước nhà. Nếu như tập truyện “Dế Mèn phiêu lưu ký” đã đánh dấu sự thành công sự nghiệp của ông thì Vợ chồng A Phủ đã đưa tên tuổi của ông lên tầm cao mới. Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn trích trong tập truyện Tây Bắc của ông. Tác phẩm mang rất nhiều giá trị tư tưởng lớn cả giá trị hiện thực và nhân đạo. Trong truyện, Tô Hoài đã gửi gắm trọn vẹn tình cảm của mình và tái hiện lại cho người đọc về cuộc sống của người dân lao động vùng miền núi, dưới ách thống trị tàn ác của bọn cai quản miền núi. Đặc biệt truyện đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Mị qua nhiều nét đẹp, phẩm chất khác nhau, qua đó ngợi ca sức sống mãnh liệt và vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân Tây Bắc .
Vợ chồng A Phủ in trong tập truyện Tây Bắc (1954). Tập truyện đã từng được trao tặng giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1955. Nhà văn viết tác phẩm sau khi đi chuyến đi thực tế cùng với bộ đội giải phóng Tây Bắc năm 1952, thực mắt chứng kiến, tiếp xúc với đời sống nhân dân nơi đây. Mở đầu tác phẩm, Tô Hoài đã đặc cách giới thiệu nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý và gây ấn tượng mạnh mẽ trong lòng người đọc: “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.
Ngay phần mở đầu, nhà văn đã tạo ra những hoàn cảnh khó khăn, hình ảnh Mị hiện lên với hình ảnh lầm lũi, buồn tủi. Chính cách giới thiệu tạo ra những đối nghịch về một cô gái cô đơn lẻ loi như vậy có phải dụ ý nhằm dự báo trước số phận cuộc đời của Mị đầy những uẩn khúc, bi kịch hay không? Cớ sao một cô gái người dân tộc Mông tài sắc vẹn toàn, có tài thổi sáo”cô giỏi sáo và giỏi, uốn chiếc lá trên môi, nhiều chàng trai si mê theo đuổi cô gái ấy. Một cô gái tài sắc vẹn toàn như vậy đáng ra phải được yêu thương, phải được sống trong cuộc sống hạnh phúc cơ sao phải sống trong hoàn cảnh trớ trêu như vậy.
Bởi vì lẽ thương cha, muốn cứu nạn, đỡ nợ giúp cho cha, cô gái ấy – một người con hiếu thảo dù không muốn nhưng buộc lòng chấp nhận đi làm con dâu để gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Tô Hoài đã khắc họa nỗi cơ cực cả về thể xác của Mị dưới danh nghĩa là con dâu, nhưng thực chất chẳng khác gì một tay sai, một người làm trong nhà thống lí. Thân phận Mị bị đưa đẩy, phải sống chui sống lủi, làm việc quần quần không bằng thân trâu ngựa, “Con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở cái nhà ngày thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm”. Nhà văn Tô Hoài còn khắc họa nổi bật nỗi đau khổ về tinh thần của Mị. Một cô Mị mới hồi nào còn vô tư, hồn nhiên, khát khao đắm mình trong tình yêu đôi lứa, mà bây giờ chỉ lủi thủi, im lặng ngày qua ngày, lầm lì, lùi lũi trong xó nhà, lặng câm chẳng nói lời nào, vẻ mặt buồn rười rượi hiện rõ lên mặt Mị. Căn buồng Mị ở giống như một địa ngục trần gian tách biệt Mị với thế giới bên ngoài, ánh sáng lọt vào chỉ qua một lỗ vuông nhỏ. Qua điều này để thấy được nét đáng thương, bất hạnh của nhân vật Mị cũng chính là hiện thân của đồng bào dân nghèo Tây Bắc muốn tố cáo chế độ phong kiến miền núi cầm giữ con người một cách tàn bạo vô cùng.
Cô gái xinh đẹp ấy đã từng có ý định muốn chết mà không được chết, vì Mị vẫn còn đó món nợ của người cha. Sự tồn tại của Mị trên cõi đời này trở nên vật vờ, vô nghĩa, hoàn cảnh Mị lúc này đáng thương hơn ai hết. Muốn từ giã cuộc đời nhưng vẫn muốn chống lại cuộc sống không ra gì, Mị chẳng còn điều gì thiết tha với cuộc đời này cả, dù làm gì Mị cũng chỉ như một cái xác vô hồn, làm việc quần quật cả ngày lẫn đêm. Sức sống tiềm tàng trong Mị dần bị vơi bớt đi. Những ẩn sâu bên trong cái hình hài một con người đau khổ kia vẫn lóe lên khát vọng hạnh phúc chẳng thể nào tiêu tan, bùi lấp trong tâm hồn đã chai lì từ lâu ấy. Nó chỉ đang chờ đợi thời thuận lợi để có thể bùng lên, cháy lên để được chìm đắm trong tiếng gọi của tình yêu trong đêm xuân tình ái.
Dường như cuộc đời của Mị lúc này vẫn cứ chỉ mãi nằm trong cái vòng luẩn quẩn, cùng quẫn ấy, sự phản kháng vùng vẫy của Mị đã làm chai lì đi tâm hồn đẹp đẽ của Mị. Nhưng sâu trong nó vẫn âm ỉ một lớp vỏ bọc, một tia sáng sức mạnh lóe lên trong bóng tối u khuất. Mùa xuân đến người ta nô nức chuẩn bị tâm thế đón một năm mới sang. Bức tranh Hồng Ngài hiện lên làm say say đắm bao tâm hồn. Cái se lạnh của gió rét, sắc vàng ửng của cỏ tranh, hương sắc diệu kỳ của các loài hoa đẹp đã hưng phấn thức tỉnh sự vui tươi, háo hức của Mị. Chính cái tiếng sáo hồ hởi thức dậy trong tâm hồn Mị một chút niềm vui sống, thường ngày Mị chẳng thiết nói năng, khi nghe tiếng sáo Mị lại nhẩm hát theo tiếng sáo du dương lại nhớ về những kỉ niệm thời mình còn được tự do. Ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu, Mị uống từng bát, “uống ừng ực” rồi say đến lịm người đi. Cái men say rượu là chất xúc tác giúp Mị quên hết những đau khổ hiện tại, mà đắm chìm trong niềm vui, nhớ về ngày mình còn được tự do, nhớ về cái thời mình tự do tự tại “nhìn mọi người nhảy đồng, người hát mà không nghe, không thấy và cuộc rượu lúc nào cũng không hay”, “ngày trước, Mị thổi sáo cũng giỏi …” Mị tận hưởng giây phút tươi vui còn sót lại trong cuộc sống bất hạnh của bản thân mình, tự tạo những niềm vui ngày xuân để quên đi nỗi đau khổ mà mình phải trải qua đằng đẵng từ trước tới giờ. Tâm hồn Mị dần dần vực dậy sau chuỗi ngày đen tối, Mị bắt đầu ý thức được mình còn trẻ trung, vẫn còn khao khát những niềm vui của cuộc sống. Dường như chính âm thanh tiếng sáo gọi mời, đánh thức tâm hồn cô quạnh, đã vốn chai lì với những nỗi đau. Đó là âm thanh khiến “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước, đã hâm nóng ngọn lửa thanh xuân đã bị vùi dập tắt đi từ khi làm dâu nhà thống lí. Mị trẻ, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Mị lại muốn sửa soạn, mặc đồ đẹp, chải chuốt để đi chơi, để hòa vào không khí rộn ràng của ngày Tết. Nhưng ai thương cho Mị bây giờ khi A Sử đã dập tắt đi tất cả những háo hức, tươi vui của Mị. Hắn trói Mị lại chặt cứng vào cột nhà, cột tóc Mị dựng đứng lên khiến cô không thể cựa quậy. Rồi bỏ mặc Mị, đeo vòng bạc trang sức xúng xính áo quần đi chơi, để Mị chìm mãi trong trạng thái mơ về một thời xuân trẻ, lững thững hững hờ trong cảm giác được du xuân. Sợi dây trói buộc chẳng thể nào trói được giấc mộng ảo diệu của nàng ta về một buổi đi chơi du xuân hằng mong ước. Cảm giác trở về thực tại đau đến mức tàn khốc, dù vùng vẫy thế nào cũng không thoát ra được “Mị sợ quá, Mị cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết. Cổ tay, bắp chân bị dây trói siết lại, đau từng mảnh thịt”. Mị lúc này tự thương cho chính bản thân mình, cô muốn đứng lên phản kháng lại, một sức mạnh tiềm tàng cứ âm ỉ trong Mị.
Đến với bối cảnh khác, Tô Hoài lại một lần khơi gợi sức sống tiềm ẩn sâu trong Mị qua hình ảnh cắt dây trói, giải cứu cho A Phủ. A Phủ cũng giống như Mị là nạn nhân của bọn thống trị miền núi. Và sau lần làm thuê vì mải săn bắn mà đã bị nhà thống lí trói đứng. Nhìn thấy hình ảnh của A Phủ, giọt nước mắt trên má chàng “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” đã đánh thức lòng thương cảm của Mị. Mị vốn cho rằng ai cũng như mình và chợt nhận ra hoàn cảnh thương cảm và xót xa cho cả chính phận bất hạnh của mình. Dòng nước mắt của Mị ngày trước và nước mắt của A Phủ lúc bấy giờ như hòa chung vào một. Đó là sự giao cảm của hai tâm hồn tìm được sợi dây nối kết, sự đồng cảm mãnh liệt. “ Chúng nó thật độc ác”. Trước đây vì sự mê muội, Mị an phận chịu đựng cảnh bản thân bị hành hạ, giam cầm trong đầy những đau khổ, Mị dù tiềm tàng sức mạnh khao khát tự do nhưng vẫn còn mang cái vỏ bọc của chấp niệm “Ta là thân đàn bà, nó dắt ra về trình ma nhà nó thì chỉ biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi”.. Còn A PHủ tại sao phải chết ở cái nơi này. Như Nam Cao đã từng nói, đây là “cái sợ cố hữu” của người dân nô lệ. Dù sợ, Mị sợ rằng nếu cởi trói cho A Phủ thì trước sau gì Mị cũng phải thế chỗ A Phủ và bị trói ở đây mãi.
Nhưng càng nghĩ, Mị lại quyết định rón rén cầm con dao nhỏ cắt lúa vào cắt sợi dây trói của A Phủ. Động lực nào đã xúi giục Mị hành động như vậy? Đó chính là cái khát khao trong lòng Mị càng lúc lại càng rực cháy, khát vọng giải thoát bản thân và khát vọng về một cuộc sống tự do đã dồn nén, thúc đẩy Mị hành động một cách vô thức như vậy. Sức phản kháng mãnh liệt một lần nữa sôi sục trong người cô gái ấy để đấu tranh chống lại bọn thực dân phong kiến miền núi tàn bạo, man rợ. Hành động cắt dây trói của Mị là một hành động dứt khoát nhưng đã khiến Mị không khỏi suy nghĩ rất nhiều. Đó là một bước chuyển trong nhận thực của người con gái ấy. Điều này còn thể hiện sự đấu tranh tư tưởng trong Mị, sự giải thoát cho chính bản thân mình, cởi trói cho một cuộc đời bị áp bức, bóc lột, sống một cuộc đời bị giam hãm, mất tự do.
Rồi Mị dù có phân vân nên đi theo A Phủ hay ở lại, thì cuối cùng Mị đã chọn chạy trốn khỏi nơi địa ngục trần gian ấy, giải thoát cho bản thân và số phận bất hạnh của mình. Đi đến Phiềng Sa, Mị lúc này mới cảm nhận lại được sự hạnh phúc mà mình ao ước bấy lâu. Mị và A Phủ cố gắng chiến đấu dưới sự dìu dắt của đồng chí A Châu. Mị đã ý thức được đâu là kẻ thù của mình, Mị cũng chẳng còn sợ con ma nào nữa, bước tiếp mà sống cuộc đời của mình, ngân nga khúc ca mỗi độ xuân về.
Có thể cho rằng linh hồn của truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” một phần nằm ở tính cách, diễn biến tâm lý của nhân vật được nhà văn diễn tả tài tình. Qua bút pháp cá thể hóa và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tài tình của nhà văn Tô Hoài, nhân vật Mị đã hiện lên với những nét đẹp phẩm chất vô cùng đáng trân trọng, là một cô gái xinh đẹp với nhiều tài năng, ẩn sau vẻ ngoài đó là một cuộc đời bất hạnh nhưng luôn mang trong mình sức sống tiềm tàng. Qua nhân vật Mị, ông muốn gửi gắm đến giá trị nhân đạo sâu sắc. Chính nhân vật Mị được nhà văn xây dựng là hiện thân của người dân lao động miền núi dưới quyền cai trị của bọn thực dân phong kiến miền núi.
Phân tích nhân vật Mị đạt điểm cao – Mẫu 4
Tô Hoài là một nhà văn lớn, đóng góp nhiều thành tự cho văn học Việt Nam. Nếu như trước năm 1945, ông đánh dấu sự thành công với tập truyện “Dế Mèn phiêu lưu kí” thì sau năm 1945, tập “Truyện Tây Bắc” đã đưa tên tuổi của ông lên một tầm cao mới. Tình cảm thiết tha, gắn bó, sâu sắc của Tô Hoài dành cho đất và con người Tây Bắc đã giúp ông viết nên những trang văn thấm đẫm tình yêu thương như thế. Truyện “Vợ chồng A Phủ” được trích trong tập Tây Bắc là câu chuyện tiêu biểu và mang nhiều giá trị tư tưởng lớn. Trong truyện, tác giả gửi gắm trọn vẹn nhất những tình cảm của mình vào nhân vật Mị, một cô gái đại diện cho vẻ đẹp và phẩm chất con người Tây Bắc.
Mị vốn là một người con gái tuổi đôi mươi của núi rừng Tây Bắc xinh đẹp và có tài thổi lá kèn hay như thổi sáo, được nhiều thanh niên trong làng mến mộ. Sức hấp dẫn của Mị tựa như những bông hoa rừng Tây Bắc đầy mê hoặc. Vào những đêm tình mùa xuân, trai bản đến đứng nhẵn cả vách đầu buồng Mị. Không chỉ xinh đẹp, ở nàng còn hội tụ những phẩm chất đẹp đẽ, đó là người con gái hiếu thảo với cha mẹ lại chăm chỉ trong công việc. Cuốc nương, làm rẫy Mị đều thuần thục.
Một cô gái tài sắc vẹn toàn như Mị xứng đáng được yêu thương, được hạnh phúc, nhưng Mị lại gặp phải hoàn cảnh trớ trêu. Bọn phong kiến tàn bạo đã khiến gia đình Mị lâm vào cảnh nợ nần chồng chất, gánh nặng phải trả nợ đè nặng lên đôi vai cô gái bé nhỏ. Song, chưa bao giờ Mị muốn phải bán mình để trả nợ, nàng cầu xin bố đừng bán cho nhà giàu, cô sẽ chăm chỉ làm nương, cuốc rẫy giúp bố trả nợ. Nhưng xã hội cường quyền lại không cho phép Mị sống cuộc đời tự do ấy. Cuộc đời Mị phải chịu sự quyết định của kẻ khác, cuối cùng cô phải bán mình, bước chân vào nhà tên thống lí Pá Tra tàn ác chịu phận nô lệ trên danh nghĩa làm dâu xoá nợ. Một cô gái sẵn sàng hi sinh bản thân để cứu lấy cha mẹ, cứu lấy gia đình chứng tỏ Mị là cô gái hết mực hiếu thảo, yêu thương cha mẹ mình. Mị khát khao tự do, ý thức được nhân phẩm và giá trị bản thân nhưng cường quyền của chế độ phong kiến thối nát đã trói buộc cuộc đời cô.
Về làm dâu nhà Pá Tra, Mị phải âm thầm chịu đựng bao nỗi bất công, thời gian đầu, đêm nào Mị cũng khóc thương cho số phận, cho cảnh hẩm hiu của đời mình, nàng đã bỏ hết tất thảy để tìm đến cái chết bằng nắm lá ngón để giải thoát những uất ức, khổ đau kìm nén bấy lâu. Nhưng khi nghĩ về cha, thương cha nàng lại không đành lòng, đành phó mặc cuộc sống, chấp nhận cuộc đời cơ cực với kiếp nô lệ đau thương của mình. Trong nhà tên A Sử, Mị chịu bao nỗi đau thể xác và tinh thần, Mị khổ cực hơn cả trâu cả ngựa, công việc làm triền miên ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác chẳng nghỉ ngơi. Mị như một cái máy gắn bó với công việc từ hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay đến đi bẻ ngô, gánh nước, kiếm củi,…, không việc nào là không tới tay Mị. Thể xác bị bóc lột, tinh thần Mị cũng không sướng là bao, nàng suốt ngày “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, tinh thần bị tê liệt đến đau khổ, Mị ngày càng ít nói, câm lặng hơn, chẳng còn nhận thức về thời gian và cuộc sống ngoài kia. “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ bằng một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Dường như tuổi xuân của nàng bị khoá chặt trong ngôi nhà đó. Nàng ngày càng trở nên vô cảm.
Song, ẩn sâu trong con người Mị là một sức sống tiềm tàng không gì có thể ngăn nổi. Khi mùa xuân đến, không khí vui xuân ngày hội nơi bản làng Tây Bắc thật đẹp, thật tươi, khiến Mị bồi hồi nhớ lại những quá khứ tươi đẹp ngày xưa. Rượu và tiếng sáo rủ bạn tình khiến tâm hồn tươi trẻ của Mị như có dịp trỗi dậy, lòng Mị rạo rực sức sống mùa xuân “lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”. Từ niềm rạo rực, phấn chấn ấy đã thôi thúc Mị hành động dứt khoát và quyết liệt vô cùng. Cô lấy ống mỡ bỏ thêm vào đĩa dầu để thắp đèn, thắp lên thứ ánh sáng xua tan đi bóng tối rợn ngợp bao trùm, xua tan màn đêm bấy lâu vây quanh cuộc đời Mị, nhen nhóm ngọn lửa hy vọng cho cuộc đời chính mình. Rồi Mị “quấn tóc lại với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”, Mị muốn được là mình, được là một cô gái đẹp đẽ như bao người con gái khác trong đêm mùa xuân ấy.
Trong lúc sức trẻ đang trỗi dậy, lòng yêu đời đang sung sức với Mị thì thực tại phũ phàng đã nhẫn tâm vùi dập niềm yêu ấy. A Sử khi biết lòng Mị muốn đi chơi, hắn đã chặn đứng ngay ý định đó. Hắn trói vợ vào cột nhà bằng một thúng sợi đay, quấn lấy mái tóc dài của Mị lên cột khiến cô đau đớn không thể cử động được. Nhưng thể xác dù bị trói buộc, bị hành hạ vẫn không thể trói lấy tâm hồn đang thiết tha cuộc sống của nàng, khát vọng sống vẫn âm ỉ cháy trong con người Mị. Hành động mãnh liệt nhất của cô là cắt dây trói cho A Phủ. Trong cơn đau đớn, Mị xót xa cho phận mình, thương cảm cho phận người, đó là sự đồng cảm với những kiếp người cùng chung số phận. Chính giọt nước mắt của A Phủ đã thức tỉnh Mị, hồi sinh trái tim đầy những vết sẹo đau thương. Mị quyết định cùng A Phủ chạy trốn. Giải thoát cuộc đời mình khỏi những sức mạnh tàn bạo của cường quyền, của bọn thống lí thiếu tình người, đồng thời chấm dứt cuộc đời nô lệ tăm tối, thương đau của chính mình.
Bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, khắc hoạ tính cách nhân vật qua suy nghĩ và hành động cùng lời văn nhẹ nhàng mà tinh tế, Tô Hoài đã xây dựng nên một hình tượng nhân vật Mị thật tiêu biểu và đặc sắc. Qua nhân vật, tác giả lên tiếng tố cáo chế độ áp bức tàn bạo, hà khắc của tầng lớp thống trị trong xã hội xưa và nói lên tiếng nói thương cảm trước những kiếp người chịu nhiều áp bức, bất công.
Phân tích nhân vật Mị siêu hay – Mẫu 5
Nhà văn Tô Hoài là một người có vốn hiểu biết khá phong phú và sâu rộng về những vùng miền trên khắp Tổ Quốc nhưng có lẽ hiểu biết nhất vẫn là vùng đất Tây Bắc, không chỉ khắc nghiệt về khí hậu thời tiết địa hình mà con người ở đây cũng phải chịu những đau thương của xã hội hủ tục lạc hậu thời bấy giờ. Với văn phong hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh sinh động với biệt tài miêu tả nội tâm nhân vật sâu sắc Tô Hoài đã mang đến cho chúng ta một hình tượng nhân vật người phụ nữ Tây Bắc điển hình. Điển hình cho số phận, cho nỗi khổ hạnh phúc lứa đôi và những giá trị hiện thực và nhân đạo qua hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ Chồng A Phủ. Có thể nói tác phẩm này đã mang đến những cảm xúc cho chúng ta khi thấu hiểu số phận người con gái tên Mị.
Mị xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện với một hình ảnh lầm lũi, buồn tủi. bằng giọng kể thoang thoảng hương vị của ca dao cổ tích nhân vật Mị hiện ra báo trước một câu chuyện buồn sắp tới: “Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. đó chính là Mị nhưng tại sao cô lại buồn đến thế. Vả lại khi người ta hỏi ra mới biết cô chính là con dâu của nhà thống lý Pá Tra giàu lắm mà tại sao lại phải lầm lũi suốt ngày chỉ một công việc như vậy. những công việc ấy lặp đi lặp lại hằng ngày và Mị lúc nào cũng trông tư thế như vậy. Mị sống âm thầm lẽ loi lặng lẽ sống gắn vào với những vật vô tri vô giác. Như vậy có thể thấy hình ảnh của Mị hoàn toàn tương phản với những gì cô đang phải chịu tưởng rằng là con dâu nhà thống lý một vùng thì là sung sướng nhưng không điều đó hoàn toàn trái ngược với những gì chúng ta nghĩ. Và cuộc đời mà tác giả chuẩn bị kể ra đây sẽ chứng minh cho sự trái ngược ấy. Đồng thời chính điều đó đã phần nào nói lên, dự báo trước số phận cuộc đời của Mị không bằng phẳng đầy uất ức và bi kịch của cõi nhân sinh.
Mị một cô gái người dân tộc Mông xinh đẹp giỏi giang và hiếu thảo với cha mẹ nhưng dưới chế độ xã hội cũ cơ hội hạnh phúc và thực tế đau khổ sẽ diễn ra với cô như thế nào?
Trước khi làm dâu gạt nợ nhà thống lý Pá Tra, Mị là một cô gái xinh đẹp tài năng “Trai đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”. những chàng trai cô gái Mông tài giỏi chỉ cần một chiếc lá rừng là có thể thổi thành sáo nghe rất vui tai và Mị cũng có tài ấy. không những thế Mị còn là một cô gái có lòng tự trọng có tình yêu và đã có người yêu, khi cha bị đe dọa rằng thống lý muốn lấy Mị làm con dâu để gánh nợ cho món nợ từ đời bố mẹ. Bố Mị sót con nhưng cũng xót nương ngô. Mị thì nói với bố rằng giờ Mị có thể cuốc bẫm trồng ngô nên xin cha đừng gả Mị cho nhà thống lý. Mị có người yêu rồi, cô yêu cuộc sống tự do và yêu đời không ham giàu sang phú quý. Thế nhưng những ngày tháng tươi đẹp ấy nhanh chóng kết thúc vì Mị phải về làm dâu nhà thống lý Pá Tra. Một cô gái xinh đẹp, tài năng hiếu thảo đến như vậy tưởng chừng sẽ có một cuộc sống hạnh phúc nhưng ai ngờ hiện thực lại trái ngược với những gì mà người ta hay đoán.
Trong một đêm tình mùa xuân Mị đã bị A Sử con trai của thống lý Pa Tra lừa gạt và bắt về nhà. Trong cái đêm định mệnh ấy Mị đang ngồi đợi người yêu của mình đến nhưng A Sử đã đến và giả vờ giống người yêu Mị, hắn thò ngón tay đeo nhẫn vào vách, Mị tưởng người yêu bước ra thì một toán người chụp lấy cô và đưa cô về nhà. Bắt đầu từ đấy cuộc sống của Mị sống trong những ngày tháng đau khổ nhất và cũng là bắt đầu của kiếp làm dâu gạt nợ. Bề ngoài Mị là con dâu nhà thống lý nhưng thực chất Mị chỉ là thứ để gán nợ mà thôi. Cuộc sống của Mị không bằng một con ở, nếu như con ở có thể được giải thoát khi đã trả hết nợ thì kiếp dâu gạt nợ của Mị sẽ không bao giờ được giải thoát.
Kiếp làm dâu gạt nợ có thể nói là những ngày tháng đau khổ tủi nhục nhất cuộc đời Mị. cô bị tra tấn về thể xác lẫn tinh thần. Mị tê liệt lòng yêu đời yêu cuộc sống và tinh thần phản kháng. Trước đó, cô có tìm đến lá ngón để giải thoát cho mình nhưng nghĩ về cha và những lời cha nói, Mị lại đành phải ngậm ngùi vứt đám lá ngón trong tay quay trở về nhà thống lý. Vả lại trong xã hội ngày xưa khi người con gái cúng trình ma nhà chồng thì cả một đời đến khi chết chỉ có thể ở nhà chồng mà thôi, đến khi nào rũ xương ở đó ngay cả khi chồng đã chết đi. Và từ lần ấy Mị không nghĩ đến chuyện chết nữa mặc dù cha đã qua đời. Ở lâu trong cái khổ Mị đã quen khổ rồi “Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. ” Thế nhưng con trâu con ngựa nhà thống lý còn sướng hơn cả Mị bởi vì chúng làm nhưng cũng có lúc chúng được đứng gãi chân nhai cỏ, còn Mị thì hết ngày này qua này qua ngày khác đều làm quần quật không biết ngày tháng là gì “ Mị tủi thân nghĩ mình không bằng con ngựa”. Mị trở thành một công cụ lao động đúng hơn là con dâu nhà thống lý, cuộc sống của mình quanh quẩn bằng những công việc được sắp trước những công việc đó lặp đi lặp lại thành một vòng luẩn quẩn mà Mị cứ quay mình trong đó không thể thoát ra được “lúc nào cũng nhớ lại những việc giống nhau, mỗi năm một mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: tết xong lên núi hái thuốc phiện; giữa năm thì giặt đay; đến mùa đi nương bẻ bắp. Và dù đi hái củi, bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cách tay để tước sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời thế. Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày. ” Căn buồng Mị ở giống như một địa ngục trần gian tách biệt Mị với thế giới bên ngoài, Mị bị trà đạp về thể xác và tinh thần trói buộc bởi thần quyên và cường quyền “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa, ở buồng Mị nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông ấy mà trông ra. ”. Có thể nói những ngày tháng ấy, Mị không được sống là chính mình, cô bị trói buộc và mất đi tinh thần phản kháng.
Thế nhưng khi những đêm tình mùa xuân trên rẻo cao đến thì sức sống tiềm tàng trong Mị trỗi dậy mãnh liệt. điều đó khẳng định rằng cô gái trẻ Hơ Mông vẫn đã có sự phản kháng trước thực tại của mình. Đêm tình mùa xuân đã đến những yếu tố ngoại cảnh đã tác động đến Mị. Mùa xuân đến đất trời Hồng Ngài thay đổi đầy sức sống và xuân sắc. con người Hồng Ngài cũng rủ nhau đi chơi trên khắp các sân, trẻ con, người lớn đặc biệt là trai gái, họ rủ nhau chơi pao, chơi quay. Chính những yếu tố đã tác động đến tâm hồn Mị, Mị thấy tâm hồn phơi phới trở lại. Có tiếng sáo gọi bạn tình làm cho Mị bổi hổi bồi hồi:
“Mày có con trai con gái
Mày đi nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu”
Mùa xuân trên Hồng Ngài như thế, mùa xuân trong nhà thống lý cũng rộn rã không kém, mọi người ăn bữa cơm cúng trình ma sau đó uống rượu bên bếp lửa. Mị thi lẩm nhẩm theo lời bài hát mà người đang thổi, rồi lén uống rượu, cố uống ực từng bát như đang cố uống từng chén say chén đắng của số phận mình. Tiếp đó Mị bước vào phòng xắn một ít mỡ cho đèn sáng lên, hành động đó như thể hiện sự thắp sáng chính số phận của Mị, Mị đã bừng tỉnh. Mị thấy lòng mình phơi phới trở lại Mị còn trẻ và Mị muốn đi chơi. Mị quấn lại tóc và với chiếc váy hoa, nhưng hành động đó đã bị A Sử phát hiện và trói cô vào cột. Mị đứng yên trong bóng tối hơi rượu vẫn thoảng làm cho cô tưởng mình không bị trói, trong đầu tiếng sáo vẫn văng vẳng. Mị vùng bước đi nhưng không thể bước được, thằng A Sử cột cả tóc Mị lên khiến Mị không nghiêng cũng không cúi được. Mị quay lại với thực tại phũ phàng và Mị ước “ nếu lúc này có nắm là ngón trong tay Mị sẽ ăn cho chết ngay”. Dù bị vùi dập nhưng chúng ta đã thấy được phần nào sức sống tiềm tàng và sư phản kháng của Mị trở lại. điều đó dự báo cho một cuộc vùng dậy về sau.
Những đêm tình mùa xuân qua đi, Mị lại quay lại với cuộc sống như trước. lại kể lại chuyện A Sử đi chơi gây gổ và bị một người tên A phủ đánh thương. Nhà thống lý bắt được A Phủ và đánh đập anh tơi bời, đánh xong lại hút thuốc phiện. sau đó chúng trói anh vào một cái cột. Mị dù bị trói chân tay dã dời nhưng khi chồng về cô vẫn phải gượng sức dậy đi lấy thuốc về cho chồng, thế nhưng ngay cả khi đau hắn cũng vãn tra tấn cô bằng những cái đạp vào mặt. Mị lạnh và hằng ngày cô thường hở lưng vào buổi đêm cho đỡ lạnh. Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói ban đầu Mị dửng dưng vì cảnh tượng ấy diễn ra thường xuyên. Nhưng sau khi nhìn thấy hai dòng nước mắt của A phủ rơi lấp lánh rơi xuống hai hõm má đã sạm đen lại. Mị nhớ đến cảnh Mị bị trói đêm đó, nước mắt nước mũi rơi xuống mà không tài nào lau được. Mị thương mình rồi thương người, Mị quyết định cắt dây trói thả A phủ đi. Đó là một quyết định nguy hiểm nhưng trong đầu Mị bây giờ không còn nghĩ được gì nữa. Mị nghĩ mình đã cúng trình ma nhà nó thì sớm muộn gì mình cũng chết, còn người kia làm sai mà phải chết. Mị cắt dây cho A phủ và cùng anh chạy khỏi Hồng Ngài. Điều đó đó thể hiện tinh thần phản kháng và sức sống trong Mị. Cô vượt qua nỗi sợ hãi và vượt qua thần quyền hủ tục để cùng A phủ đi đến một vùng đất mới. từ đó cuộc đời tươi sáng theo cách mạng đã đến với Mị.
Như vậy có thể thấy Mị là một cô gái điển hình cho số phận những người phụ nữ Mông thời bây giờ. Họ có tài năng có nhan sắc nhưng lại bị chính những thần quyền hủ tục và cường quyền bạo lực trà đạp về thể xác cũng như tinh thần. họ đã biết vùng dậy đi theo cách mạng để chống lại những thế lực kia. Qua đây ta cũng thấy được những nét văn hóa của người Mông đó là thờ ma và có những phong tục đẹp như thổi sáo chơi quay.
Phân tích nhân vật Mị – Mẫu 6
Có thể nói đóng góp lớn lao cho sự thành công của tập Truyện ngắn Tây Bắc chính là “Vợ chồng A Phủ”. Xét riêng trong truyện này nhân vật giàu ấn tượng nhất , sinh động nhất là Mị. Bức chân dung về nhân vật trung tâm của tác phẩm là sự phối hợp của những mảng màu hoàng hôn u ám và bình minh rạng ngời ; của khát vọng sống, khát vọng tự do tiềm ẩn mãnh liệt trong cái hình xác nô lệ . Phát hiện và sáng tạo nhân vật Mị trong truyện, Tô Hoài đã chứng tỏ là cây bút bậc thầy trong việc khám phá những miền sống lẩn khuất trong thẳm sâu con người nơi mảnh đất cuối trời tây Bắc ở thời kỳ đen tối.
Mị, một cô gái xinh đẹp, yêu đời, có khát vọng tự do, hạnh phúc, bị bắt về làm con dâu gạt nợ cho nhà Thống lí Pá Tra.Lúc đầu Mị phản kháng nhưng dần dần trở nên tê liệt, chỉ “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.Đêm tình mùa xuân đến, Mị muốn đi chơi nhưng bị A Sử (chồng Mị) trói đứng vào cột nhà.
A Phủ vì bất bình trước A Sử nên đã đánh nhau và bị bắt, bị phạt vạ và trở thành kẻ ở trừ nợ cho nhà Thống lí.Không may hổ vồ mất 1 con bò, A Phủ đã bị đánh, bị trói đứng vào cọc đến gần chết.Mị đã cắt dây trói cho A Phủ, hai người chạy trốn đến Phiềng Sa. Mị và A Phủ được giác ngộ, trở thành du kích.
Chủ đề: Qua việc miêu tả cuộc đời, số phận của Mị và A Phủ, nhà văn đã làm sống lại quãng đời tăm tối, cơ cực của người dân miền núi dưới ách thống trị dã man của bọn chúa đất phong kiến, đồng thời khẳng định sức sống tiềm tàng, mãnh liệt không gì hủy diệt được của những kiếp nô lệ, khẳng định chỉ có sự vùng dậy của chính họ, được ánh sáng cách mạng soi đường sẽ dẫn tới cuộc đời tươi sáng.
Mị xuất hiện trong lời kể về thời quá khứ của cô là cô gái Mèo hoàn thiện, bông hoa ban thuần khiết của núi rừng Tây Bắc. Xuất thân trong một gia đình nghèo nhưng Mị được thiên phú hình dáng và nhiều tư chất tốt đẹp. Mị không chỉ đẹp mà trong cô còn ẩn tàng sự yêu đời, ham sống, say sưa với mối tình đầu. Những ngày tháng tuổi trẻ của cô trôi đi êm đềm đến trong tình thương của bố, trong âm thanh tuổi trẻ và sắc màu đêm hội đất miền tây. Mỗi ngày sống, trái tim cô như tràn căng hồi hộp sung sướng chờ nghe âm thanh tiếng sáo quen thuộc của người yêu.
Mị đồng thời là cô gái chăm làm, một đứa con hiếu thảo, biết xa lánh cái ác và biết trân trọng nâng niu tình yêu của mình, giàu lòng tự trọng. Sức trẻ và sự thánh thiện dồn tụ trong Mị, và với nó Mị hy vọng đứng vững giữa cuộc đời với khát khao tự do làm chủ cuộc sống. Mị tâm sự với cha mình ” con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm ngô để trả nợ cho bố”.
Nhưng số phận “những bông hoa” xinh đẹp và đầy sức sống ấy, ở thời điểm lịch sử này đến chung chịu số phận đau thương – đó là một tất yếu. Tô Hoài đã nhận rõ được cái logic nghiệt ngã này và “nàng Kiều” đất miền tây cũng không thoát khỏi nỗi đa đoan đoạn trường.
Cái đau đớn của số phận Mị bắt đầu từ một thứ tội truyền kiếp mãn tính của người nghèo, đó là không tiền của tất yếu sẽ trở thành nô lệ. Bố Mị vay tiền của Pá tra – số nợ lãi đến khi mẹ cô chết mà bố vẫn không trả hết. Mị đã trở thành vật thế gán nợ và thành nô lệ trong hoàn cảnh khắc nghiệt như thế. Và cũng bắt đầu bằng một nguyên nhân đau đớn bi phẫn, đó là “lỗi” của người xinh đẹp với phẩm hạnh trắng trong! Mị trở thành cô con dâu gạt nợ, một thứ “hàng hóa” trao đổi.
Phản ứng của Mị những ngày đầu là mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc và định tự tử. Đây là phản ứng tự nhiên của cô gái trẻ yêu đời bỗng nhiên bị tước đoạt hết tự do; đồng thời cũng là phản kháng quyết liệt của con người ham sống muốn kiếm tìm một cuộc sống cho ra sống. Cuộc sống với tất cả tự nhiên của kiếp người chứ không phải vật vờ tồn tại trú ngụ cái rỗng không trong thể xác.
Tuy nhiên phản kháng của Mị bị chặn đứng, Tô Hoài thêm một lần cho thấy bản lĩnh khai thác các mối liên hệ chi phối nội tâm con người. Kiều hơn một lần quên sinh tránh ô nhục – thoát kiếp đoạn trường. Và nếu Kiều chết, sẽ không còn sự vương vấn nào về món tiền “ba trăm lạng”. Nhưng ở đây, Mị xót xa hơn, Mị chết – món nợ vẫn còn; và đương nhiên, cha cô phải là người gánh chịu tủi hờn đến hết kiếp. Và bi kịch xuất hiện, muốn chết mà không thể chết, đây cũng chính là nguyên nhân ý thức cam chịu xuất hiện trong Mị.
Những năm tháng sống Pha Tra là chuỗi ngày địa ngục, Mị xuất hiện trong không gian ấy như một cái bóng, suốt ngày cúi mặt im lặng. Đó vẫn chưa phải nỗi đau đớn thật sự, Nhà văn đã tìm ra sự thê thảm của nhân vật, đó là ý chí của Mị bị mài mòn. Trong đầu Mị, những suy nghĩ khát vọng, âm thanh sắc màu thời xưa cũ đã mờ chìm; thay vào đó là cái phải nhớ, quanh quẩn lặp đi lặp lại tẻ ngắt như một vòng tròn nặng nề không lối thoát: ” Mị cúi mặt không nghĩ nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mắt … con ngựa, con trâu làm còn có lúc nghỉ ..đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu làm việc cả đêm cả ngày”.
Cùng với công việc nặng nhọc triền miên là sự hành hạ trực tiếp của cha con Thống lý trên thân xác, bản thân Mị bị đánh, trói và từng chứng kiến không biết bao nhiêu người bị hành hạ đến chết. Ý chí của Mị dần bị đè bẹp dưới sức mạnh tàn bạo thời trung cổ, mà hệ quả của nó là làm cho nỗi cay đắng đen tối luôn đọng lại đặc quánh trong Mị, cô tự rút ra kết luận: mình không bằng con ngựa. Và rồi hành động của cô tê liệt: lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.
Tuy nhiên nỗi đau khổ tinh thần mới là thật sự là nỗi đau tê tái, nó biến Mị thực sự trở thành “con vật”mang tên người. Mất tình yêu đầu là nỗi đau tinh thần quá khứ, nhưng đau hơn, xót hơn là Mị không được phép nghĩ về nó; bởi mỗi ý nghĩ về tình xưa ở nơi cô đồng nghĩa với sự phạm tội ghê gớm. Chúa đất miền núi và tập tục cúng ma do chúng lập nên, đã ràng buộc một cô gái có chồng và Mị sống song tồn với một ý nghĩ: Mình đã “trình ma” Thống lý thì chỉ có còn cách chết rũ xương ở đây. Tô Hoài đã sắc sảo nhìn thấy việc tập tục mê tín thần quyền bắt tay với giai cấp thống trị tạo ra một thứ “thuốc phiện tinh thần” trói chặt đời Mị, nô dịch tinh thần cô.
Mị bị cấm đoán trong việc hòa nhập cộng đồng. A sử trói Mị, dùng bạo lực quyết liệt tách Mị ra khỏi thế giới con người . Vì vậy, bên trong thể xác tơi tả của Mị là tâm hồn cô đơn trống rỗng, nếu còn một mảnh nhỏ cũng bị cào nhàu nát. Thể xác ấy, tâm hồn ấy bị giam hãm trong không gian chật hẹp tù đọng, làm cho nỗi đau thêm chồng chất, sự bất lực đến cực cùng. Tô Hoài xây dựng đoạn truyện đầy ẩn dụ về căn buồng của Mị, và với nó, nhà văn giúp người đọc hình dung được nỗi đau tột cùng của kiếp người nô lệ.
Trong không gian oi ngạt ấy, thời gian như ngưng đọng. Trước mát Mị chỉ là sắc màu hoàng hôn dài đằng đẵng buồn tẻ, tê tái. Mị thực sự không còn sống nữa mà chỉ còn là một sinh thể tồn tại chậm chạp bước về cõi chết. Cách áp chế ấy của gia đình thống lý Pá Tra, đã tạo ra những hệ quả ghê gớm, nó đập vỡ biến dạng tâm hồn vốn trong như pha lê của cô gái trẻ trung yêu đời là Mị.
Phần đầu truyện Mị chỉ chỉ nói một câu duy nhất còn lại là im lặng khuất phục, nhưng Mị cũng đã nuôi ý định tự vẫn. Còn bây giờ, Mị không buồn nghĩ đến cái chết nữa. Đây là một tình tiết khám phá xuất sắc về nội tâm nhân vật của nhà văn; bởi khi con người nghĩ về cái chết, tức là còn tha thiết sống cuộc sống, muốn tìm cuộc sống tốt hơn và phủ nhận thực tại. Nhưng khi không buồn nghĩ đến cái chết thì đã là sự buông thả số phận cho định mệnh mà không còn ý niệm về sự tồn tại của mình. Logic phát triển tâm lý ở Mị đã đến cái đỉnh bi kịch ấy. Với cô, thời gian không còn ý nghĩa, không còn gợi cảm xúc và hình ảnh cuộc sống chỉ còn là màn sương mờ đục. không quá khứ hiện tại. Nhưng ghê gớm hơn cả là sự tàn bạo đã làm cho Mị mất mát điều lớn nhất đó là: đánh mất tình đồng loại. Cô gái có trái tim nhạy cảm ngày xưa bây giờ hóa đá, chính bởi vậy ,trước cái chết đang ập xuống đầu A Phủ mà Mị vẫn bình thản, đó là thái độ tàn nhẫn không thể có ở con người.
Toàn bộ những tình tiết truyện đen tối, vây bủa Mị, có sức gợi rất mạnh về bối cảnh xã hội phong kiến và thần quyền miền núi. Đó là bản cáo trạng về sự tước đoạt quyền sống của những con người lương thiện vô tội đến triệt để mà Mị là nhân chứng. Tội phạm tạo lên bi kịch đó là cha con Thống lí và xã hội miền núi đen tối một thời. Và hình ảnh Mị cũng trở thành hình ảnh khái quát cho những thân phận nghèo hèn nô lệ nơi miền đất núi rừng âm u tù hãm. Con đường mà họ đi chỉ là hành trình dưới roi vọt cường quyền, trong cái nhà tù oi ngạt khổng lồ là xã hội phong kiến miền núi.
Khi đọc Chí Phèo, người đọc đã chứng kiến một Chí Phèo từ người biến thành “con quỷ dữ làng Vũ Đại”, thế nhưng chỉ một bát cháo hành của Thị Nở, một hòn than nhân tính nhỏ trong cái đống tro tàn Chí Phèo bỗng bốc cháy một khát vọng làm người lương thiện. Trong “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài cũng đã tìm được hòn than nhân tính ấy. Bởi thế, Mị cô gái hồn nhiên tươi trẻ với bao khát vọng đã bị áp chế của thế giới bạo tàn làm cho gục ngã và biến đổi chỉ còn là chiếc bóng đã hồi sinh.
Phát hiện của Tô Hoài là tìm thấy một sự thật nhân văn, đó là, song tồn với cuộc sống đen tối còn có một cuộc sống khác tiềm ẩn trong Mị. Nhà văn đã đi sâu vào tận cùng cuộc sống nội tâm nhân vật, phát hiện khơi gợi nó và ông đã tìm thấy nơi ấy vẫn nén chứa một tiềm năng ham sống khát khao hạnh phúc.
Phản ánh sức trỗi dậy của Mị, Tô Hoài xây dựng một hoàn cảnh điển hình làm bối cảnh hồi sinh của tâm hồn cô gái Mèo nô lệ. Đây là một dụng công tinh tế, nhờ nó mà trước hết bản năng con người tự nhiên được trỗi dậy. Thiên nhiên chuyển mùa và những vang động của cuộc sống đã tác động vào tận cùng ngõ sâu góc khuất của tâm hồn bị băng giá đóng cứng lại và hơi ấm của nó đã làm cho sự băng giá ấy rã dần. Hình ảnh mùa xuân về trên vùng núi cao, trong chuyện thật tươi đẹp với sắc màu sinh động: “váy hoa đem phơi trên đá xoè ra như những con bướm sặc sỡ, hoa thuốc phiện nở trắng đồi màu đỏ hoa, đỏ thẫm rồi sang màu tím man mác”. Bên sắc màu là âm thanh, là tiếng cuộc sống rộn rã; tiếng trẻ cười chơi quay và tiếng sáo gọi bạn tình… Nhà văn dường như đã đến “gõ cửa” tâm hồn nhân vật tái hiện cái khoảnh khắc ngày chuẩn bị đón xuân, tạo vật và con người bừng tỉnh. Hoàn cảnh ấy tác động vào tâm hồn Mị. Trong thế giới thâm cung lạnh lẽo u ám ấy, dù không nhìn thấy sắc màu, nhưng âm thanh tiếng sáo lay động Mị làm cho cô bừng thức. Chi tiết tiếng sáo được chọn làm đối tượng tác động lấy thức Mị là sự tinh tế của ngòi bút Tô Hoài, bởi chỉ có âm thanh mới thực sự xuyên được những bức tường dày, những cánh cửa khép, để rồi tưới lên, thúc gọi trái tim cô quạnh héo úa làm cho nó hồi sinh. Và cũng bởi tiếng sáo ấy gắn liền thời quá khứ mộng mơ của Mị mà sự thăng hoa nhất ngọt ngào nhất là tiếng gọi của mối tình đầu.
Chính nhờ nó, niềm u mê tăm tối, nỗi lung linh hồn Mị lạc lối đã được đánh thức. Mị vượt ra khỏi tâm trạng thờ ơ của mình bấy lâu nay, tâm hồn cô trở về với đời sống thực tiễn , trong óc cô tái hiện kỷ niệm đẹp của một thời con gái: uống rượu chơi xuân, nhịp sáo tình yêu dìu dặt… Mị đã vượt tình trạng “sống thực vật”, phí thời gian và bắt đầu sống với những niềm vui chỉ trong chốc lát. Trong khoảng sống trở lại ấy lần đầu tiên Mỹ có hành động , phản ứng đầu tiên là ý nghĩ muốn chết “nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay”. Phản ứng ấy khẳng định rằng, Mị đã thực sự sống lại, lý trí sáng suốt đã phân tích cho Mị hiểu rằng hoàn cảnh sống thực tại là vô cùng đau xót tủi hờn.
Nhưng tiếng sáo (trong hoàn cảnh điển hình được xây dựng) vẫn thôi thúc quyến rũ ” tiếng sáo gọi bạn tình vẫn lơ lửng bay ngoài đường” tác động vào con người hồi sinh của Mị, và mạnh hơn, nó xâm nhập vào trong tâm hồn và lý trí của cô tồn tại và sống trong đó, thôi thúc day dứt “trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo”. Tiếng sáo khơi gợi sức sống như những đợt sóng ào ạt, những sục sôi trong miền khuất lấp đã trỗi dậy thành hành động: “Mị đến góc nhà lấy ống mỡ xoắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Xây dựng nhiều hình ảnh trong đoạn truyện này, nhà văn đã biểu đạt được hành động thức tỉnh của nhân vật. Mị thắp đèn lên soi rọi vào chính cõi u mê của mình, thoát khỏi đêm tối triền miên của quá khứ, thay đổi cái không gian lúc nào cũng bàng bạc như hoàng hôn mà Mị lâu nay vẫn tồn tại. Mị đã tự hành động như một con người tự do, tự đi theo tiếng gọi của lòng mình: quấn lại tóc, rút váy hoa … sửa soạn chơi tết. Đoạn truyện toát lên một tinh thần nhân văn cao đẹp, Tô Hoài đã gửi đến thông điệp, con người dù cùng cực và bị nhấn chìm trong đen tối đến mấy, thì trước sau vẫn là con người. Vấn đề đặt ra là cái gì, bối cảnh nào sẽ nâng họ dậy và đỡ họ trở lại với nhịp cuộc đời.
Giữa lúc lòng ham sống vừa xuất hiện, thì Sử đến cùng với những sợi dây trói. Động tác trói vợ của A sử rất thản nhiên, rành rẽ. Một hành động trong bối cảnh cụ thể của truyện, gợi cảm nhận sự tàn ác đến lạnh lùng của thế giới bạo tàn không còn lương tri. Nhưng cái chính là cái tàn nhẫn ấy càng làm khát vọng của con người trở lên mãnh liệt, một khi họ đã vượt qua cái chết, sự quằn quại đau đớn và đã hồi sinh. Mị bị trói, nhưng tiết tấu của cuộc sống vẫn gọi thiết tha ” tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi … Mị vùng bước đi”. Đoạn văn đã miêu tả thành công cuộc giằng xé quyết liệt giữa khao khát hạnh phúc cháy bỏng và thực tại tàn nhẫn lạnh lùng. Xét phương diện tinh thần thì Mị đã thắng; khát vọng của Mị trào ra khỏi, “Bung phá” những sợi dây trói khắc nghiệt vô tình. Tuy nhiên khát vọng ấy thực tế vẫn bị đè bẹp, lằn dây trói cứa vào làn da thịt, làm Mị tỉnh lại, giấc mộng tan biến thay vào đó là ý nghĩ cay đắng “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”; và như vậy cuộc vùng dậy lần thứ nhất của Mỹ thất bại, sự quẫy đạp vươn dậy không đủ sức mạnh để thay đổi số phận.
Đột biến lớn nhất làm thay đổi kiếp sống của Mị là đêm Mị quyết định cứu A phủ. Khởi đầu là tâm trạng lạnh lùng thản nhiên của Mị khi nhìn A phủ bị trói đứng ” Mị thản nhiên thổi lửa hơ tay. Nếu A phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”. Tâm hồn vốn nhân hậu đã rơi vào vô cảm, nhưng nước mắt A phủ đã đánh thức trái tim Mị. Thoát ra khỏi vô cảm, My sống dậy bằng những hồi ức run rẩy nơi trái tim đầy thương tích của chính cô: Mị nhớ lại A sử trói Mị; Cảm giác thương thân làm tăng thêm xúc cảm thương người để rồi bật lên tiếng kêu ” trời ơi nó bắt trói đứng người ta đến chết “. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm trời trong cái thế giới nhà Thống lý, Mị mới bật kêu được thành tiếng con người. Mị đã thực sự sống lại hoàn toàn, với ý nghĩa là con người đầy đủ nhân cách; và do vậy đến đây, lòng thương người đã trở thành sức mạnh lấn át nỗi thương thân. Lòng nhân hậu trong Mị đã hồi sinh, và chính nó trở thành động lực giúp Mị chiến thắng nỗi sợ, thúc đẩy cô có hành động cứu người: Mị rút dao cắt dây cứu A Phủ. Hành động xong, nỗi sợ xuất hiện nhưng bản năng tự vệ tích cực đã kích thích hành động tiếp theo Mị chạy theo A phủ, với lời giải thích ngắn gọn “ở đây thì chết mất”. Mị đã trở về là Mị tư cách là con người và trưởng thành về nhận thức, cô thấy rõ được bộ mặt của thế giới bạo tàn, kiên quyết từ bỏ nó. Hành động chạy trốn của Mị là hành động chạy theo khát vọng tự do mà bấy lâu bị nén chặt. Mị tự thoát ra khỏi bóng đêm để đến với ánh sáng; tự đập vỡ không gian oi ngạt cầm tù mở ra cuộc đời mới cho chính bản thân mình, mặc dù ở thời điểm này, hành động ấy vẫn là tự phát
Nhân vật trung tâm Mị được xây dựng thành công và là hình ảnh văn học đặc sắc. Trang viết về Mị ở phần đầu truyện đầy ấn tượng, trong đó có những đoạn viết thăng hoa. Tài năng độc đáo của Tô Hoài là xây dựng lên những nghịch cảnh diễn biến tinh vi trong con người Mị. Một cô gái xinh đẹp nhưng gánh chịu số phận đa đoan, một nội tâm đầy mâu thuẫn. Các tình tiết viết về Mị hầu hết là đối thoại nội tâm, hay nói cách khác Mị hiện lên trong truyện bằng những tình tiết thoát ra từ miêu tả nội tâm. Những cuộc đối thoại nội tâm đã dẫn đến kết cục bất ngờ nhưng hoàn toàn hợp lý và logic.
Hành động cứu A Phủ là hành động táo bạo có ý nghĩa quyết định đời Mị và mở ra cuộc sống mới. Ở đó, Mị và A phủ thành vợ thành chồng, cùng đội du kích đánh giặc bảo vệ bản làng ở miền đất mới Phiềng xa. Hành động ấy khẳng định cuộc sống vốn tiềm tàng và phong phú, những đau khổ và khát vọng tự do đều tồn tại trong Mị từ trước, vấn đề đặt ra là cái gì khơi gợi cho sự tích cực trỗi dậy chiến thắng. Hành động giải phóng (Cứu A Phủ và cứu mình) là hành động tự phát, và nó trở thành phát triển tự giác ở đoạn sau của tác phẩm. Nhưng Tô Hoài đã tạo ra được cái khác biệt giữa nhân vật Mị với các nhân vật: Thúy Kiều (Truyện Kiều – Nguyễn Du) hay Vũ Nương (Người con gái Nam Xương – Nguyễn Dữ)… ở chỗ bông hoa xứ Mèo không tìm đến một thế giới ảo tưởng, hoặc một vòng vây đen tối bi kịch mới, mà là khát vọng vùng lên tìm một con đường sống với sự đổi thay và tự do triệt để.
Phân tích nhân vật Mị – Mẫu 7
Tô Hoài cùng với Nam Cao, Kim Lân, đều là những nhà văn hiện thực nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam hiện đại, để lại nhiều những tác phẩm có giá trị nhân văn, phản ánh hiện thực xã hội một cách khách quan và nhiều xúc cảm, đau đớn, xót xa, thương cảm, yêu thương,… Nếu như bản thân Nam Cao hay Kim Lân cả trước và sau cách mạng đều tập trung vào đề tài người nông dân, trí thức tiểu tư sản vùng đồng bằng Bắc Bộ, thì Tô Hoài lại được xem là nhà văn hiện thực của vùng miền núi phía Bắc nước ta, bằng một tấm lòng thiết tha, gắn bó, ngòi bút cảm thông sâu sắc với số phận của những con người khốn khổ chịu sự áp bức, bóc lột của cả cường quyền và thần quyền phong kiến tàn ác. Đặc biệt, điểm sáng trong đề tài của Tô Hoài còn nằm ở việc ông tập trung vào số phận của những người phụ nữ vùng cao, ông vừa khai thác cuộc đời bất hạnh, vừa làm nổi bật cả những vẻ đẹp trong tâm hồn họ, đồng thời Tô Hoài cũng dần hé mở những lối thoát, giải phóng cho nhân vật của mình bằng những định hướng về một cuộc đời khi cách mạng về. Một trong những tác phẩm thành công nhất của Tô Hoài chính là Vợ chồng A Phủ, với nhân vật Mị, một người phụ nữ có số phận đớn đau, cam chịu, sau cùng lại vùng dậy đấu tranh để tìm lại cuộc đời, tìm lại tự do.
Mị là một người phụ nữ đại diện cho nhiều người phụ nữ khác Hồng Ngài, cũng như ở cả vùng núi rừng Tây Bắc. Dưới ngòi bút của Tô Hoài, nhân vật Mị hiện lên là một cô gái xinh đẹp, lại có tài thổi sáo rất hay, thuở còn xuân Mị được biết bao nhiêu trai bản theo đuổi, đứng đến nhẵn cả góc nhà chỗ đầu giường Mị nằm. Thế nhưng Mị sinh ra trong một gia đình nghèo khó, cha Mị vì lấy mẹ Mị mà phải đi vay nợ, món nợ với nhà thống lý Pá Tra mà cho đến đời Mị vẫn không thể trả hết. Thành thử, Mị phải chấp nhận số kiếp làm con dâu gán nợ, gả làm vợ của A Sử, con trai thống lý Pá Tra. Mà dưới chế độ cường quyền thần quyền đàn áp thì cuộc đời của người con dâu gán nợ, nó khốn nạn lắm, Mị nào được hưởng cảnh sung sướng của một cô con dâu nhà giàu, mà trái lại phải nai lưng ra làm lụng quanh năm ngày tháng, đầu tắt mặt tối không khác gì một nô lệ để trả nợ cho cha.
Cuộc sống đau khổ khiến Mị nhiều lần muốn ăn lá ngón để chết quách đi, nhưng Mị lại không chết được, bởi chết rồi thì ai sẽ trả nợ cho cha, rồi dần dà Mị trở nên chai lì, lầm lũi như con rùa trong xó cửa, chỉ biết ăn và làm, không thiết tha bất cứ điều gì khác. Bởi lẽ Mị bị bắt về gán nợ, không chỉ là làm lụng lấy sức lao động để bù đắp, mà Mị đã bị bắt về đã làm lễ trình ma nhà A Sử, cả đời Mị sẽ sống làm người nhà nó, chết cũng là ma nhà nó rồi, Mị đã hoàn toàn không có một lựa chọn nào khác, không có một sự tự do nào nữa. Chết không được thì người ta buộc phải sống, mà sống theo cách của Mị thì nó lại đau đớn quá, Mị sống với một tâm hồn một trái tim như tro tàn nguội lạnh, sống mà đến độ tưởng mình không còn là người nữa, mà chỉ là một cỗ máy lao động có chân tay, biết nói chuyện trong nhà thống lý Pá Tra. Đến nỗi Mị thấy mình đến loài súc sinh chăn trong nhà cũng không bằng bởi “ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Thậm chí “Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày”. Đọc những dòng văn ấy, người ta đã tưởng đến độ con người phải bị áp bức, bị vắt kiệt bị giam cầm đến mức nào mới có thể có những suy nghĩ đớn đau đến nhường này. Và cái khổ nó đã làm biến dạng cả tâm hồn, ngoại hình Mị, đầu óc cô không nghĩ việc gì khác ngoài những việc làm lụng, dù làm gì cũng cúi mặt, buồn rười rượi, lại ngày càng chẳng nói năng gì, dường như Mị quên đi cả khả năng giao tiếp của mình.
Không chỉ thế, đời Mị nó không chỉ khổ về thể xác, mà nó còn là cả những đớn đau về một tâm hồn trong hoạt cảnh tù đày. Mị mang danh là vợ A Sử thế nhưng giữa họ không hề có tình yêu, Mị cũng từng có một người yêu, nhưng món nợ của cha mà đứt gánh. Khi về nhà này làm dâu, dường như cuộc đời của Mị chuyển sang hẳn kiếp nô lệ, bị bóc lột không chỉ sức lao động mà con là tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc. Không gian sống của Mị là một căn buồng có một cái lỗ vuông bằng bàn tay, thật chẳng khác gì cái nhà tù, mà từ đó trông ra “lúc nào cũng thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng”, đời Mị cứ ngồi ở cái lỗ vuông ấy mà trông ra đến bao giờ chết thì thôi. Rõ ràng là cuộc đời của một người tù chung thân, mà nó cũng chỉ xuất phát từ cái nỗi Mị là đàn bà ở Hồng Ngài, nhà Mị nghèo quá, mà cha Mị lại mắc nợ người ta. Thế nên để chống chọi với đau đớn đang tàn phá tâm hồn và thể xác, Mị bị buộc phải trở nên chai lì một cách bất lực, sống cuộc đời của một con rùa lầm lũi trong xó cửa, cam chịu và bế tắc.
Những tưởng rằng, cuộc đời của Mị sẽ chỉ mãi nằm trong cái vòng luẩn quẩn bế tắc ấy và cái lòng ham sống, cái sự phản kháng vùng vẫy của Mị đã chết hẳn từ mấy năm trước rồi. Nhưng không, nó vẫn âm ỉ, tiềm tàng nằm thật sâu trong lòng Mị, được bao bọc xung quanh bởi những lớp chai cứng xù xì, dưới lớp tro tàn tàn nguội lạnh để chờ thời cơ nổi dậy. Mùa xuân đến người ta đang nô nức, hào hứng chuẩn bị đón Tết, phụ nữ phơi váy hoa khắp nơi, đám trẻ nô đùa chơi quay, và có tiếng sáo ai rủ bạn đi chơi thấp thoáng. Chính cái tiếng sáo thiết tha, bồi hồi ấy đã thức dậy trong tâm hồn Mị một chút niềm vui sống, thường ngày Mị chẳng thiết nói năng, thế mà nay Mị lại nhẩm hát theo tiếng sáo du dương. Đó là dấu hiệu cho sự thức tỉnh của lòng ham sống, ham vui, ham hạnh phúc trong Mị. Ngày Tết người ta uống rượu, Mị cũng uống “uống ừng ực từng bát” như thể muốn trút hết những uất ức, thống khổ trong lòng một cách thống khoái, mạnh mẽ. Thế rồi Mị lặng người nhìn người ta nhảy múa vui chơi, Mị lại nhớ về những ngày còn ở với cha mẹ, Mị cũng có những ngày tháng tươi đẹp như thế. Mị chợt nhớ mình còn biết thổi sáo, thổi lá cũng rất hay. Mị uống rượu và thổi sáo, Mị tận hưởng cuộc sống, tự tạo dựng lại cho mình những niềm vui ngày xuân để quên đi nỗi sầu khổ, đớn đau suốt mấy năm qua của mình. Tâm hồn Mị dần dần sống lại một cách chậm rãi, Mị bắt đầu ý thức được mình còn trẻ trung, vẫn còn khao khát những niềm vui của cuộc sống. Có lẽ rằng chính cái âm thanh tiếng sáo gọi bạn đầu làng, cái âm thanh của sự sống cứ văng vẳng bên tai Mị, đã hâm nóng lại ngọn lửa thanh xuân trong lòng cô, khiến “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết”. Mị lại sửa soạn áo quần, tóc tai và muốn ra ngoài hòa vào không khí vui nhộn của dịp Tết, hòa nhập với xã hội. Nhưng đau đớn thay, bấy nhiêu những hớn hở, khao khát của Mị đã bị người chồng A Sử dập tắt, nó trói Mị chặt cứng vào cột nhà khiến cô không thể động đậy. Lúc này đây mấy thấy cái tấm lòng ham sống, khao khát tự do của Mị được bộc lộ một cách mãnh liệt và sâu sắc. Một người vốn đã chai lì cảm xúc, quen bị hành hạ, quen lao động nặng nhọc quanh năm, thờ ơ với cái chết, thế mà lại bắt đầu sợ. Mị nghĩ đến nhà này cũng có một người đàn bà bị trói vào cột đến chết, “Mị sợ quá, Mị cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau từng mảnh thịt”. Lúc này đây Mị sợ chết tức là lòng ham sống của Mị còn mãnh liệt lắm, Mị thấy đau đớn tức là tâm hồn Mị đã dần dà sống lại, cũng biết buồn biết khổ, chứ không còn chai sạn như trước nữa. Mị đã sống lại một cách hoàn toàn cả về tâm hồn lẫn thể xác.
Cuộc gặp gỡ với A Phủ, có lẽ chính là định mệnh, là bước ngoặt lớn cho sự phản kháng và việc giành lấy tự do của Mị sau khi tâm hồn nhân vật này hoàn toàn thức tỉnh. Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói giữa sân, bị bỏ đói, bị đánh đập chỉ vì làm mất một con bò, nhưng ban đầu Mị vẫn thản nhiên, thổi lửa hơ tay, dường như lòng người đàn bà này lại quay trở về cái vẻ chai sạn, chết hết mọi xúc cảm như trước kia. Thế nhưng sự bình tĩnh, im lặng ấy lại chính là dấu hiệu, sự chuẩn bị cho một quá trình phản kháng mạnh mẽ mà không ai ngờ tới của Mị. “Dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má xám đen lại” của A Phủ, như là một giọt nước cuối cùng rớt vào ly nước vốn đã đầy ăm ắp của Mị, trở thành giọt nước tràn ly. Nó đã dấy lên trong lòng người đàn bà này biết bao nhiêu là cảm xúc, Mị thấy căm giận nhà thống lý Pá Tra, chúng nó đã trói chết bao nhiêu người đàn bà như vậy, chúng nó thật độc ác, nhưng phận đàn bà làm dâu trong nhà thì muôn đời phải vậy. Còn A Phủ sao phải chịu chết như thế, Mị thấy bất bình, thấy xót xa cho một kiếp người nhưng còn chẳng bằng con bò bị mất, phải chết vì một con bò, giống như Mị phải làm trâu làm ngựa, gần như chết hẳn trong cái nhà này vì món nợ truyền kiếp của cha. Ôi sao đời Mị và đời A Phủ lại đớn đau giống nhau đến vậy, chẳng lẽ cứ nghèo khó, không quyền thế là phải chịu áp bức, đau khổ hay sao? Mị thương người đàn ông tội nghiệp đó, sắp phải chịu chết đói, chết rét, chết vì bị đánh, Mị muốn cởi trói cho A Phủ, nhưng rồi Mị cũng sợ mình sẽ là người phải chịu chết thay. Mị đã đấu tranh tư tưởng nhiều lần, rồi cuối cùng Mị ra một quyết định rất táo bạo, Mị cởi trói cho A Phủ, thì thào một tiếng “Đi ngay…”. Nhìn thấy một kẻ vốn đã gần chết tới nơi, thế nhưng lại vẫn dùng hết sức bình sinh chạy vụt xuống triền đồi, lòng Mị dường như vỡ ra cái gì đó, phải rồi, Mị đã giải thoát cho người ta thì cũng phải giải thoát cho chính mình chứ, và thế là Mị chạy vụt theo A phủ. Những câu nói cuối cùng trong đoạn trích “Cho tôi theo với, ở đây thì chết mất”, chính là minh chứng cho sự phản kháng mạnh mẽ, ý thức mưu cầu tự do, lòng ham sống, ham tự do mãnh liệt đang cháy ngùn ngụt trong lòng của người đàn bà nhiều năm vốn đã chai lì, lạnh giá.
Vợ chồng A Phủ nói chung và nhân vật Mị nói riêng chính là tấm lòng yêu thương, thông cảm, trân trọng của Tôi Hoài đối với những người con miền núi, những con người dù phải chịu nhiều những đắng cay chèn ép của thần quyền và thần quyền khắc nghiệt. Thế nhưng họ vẫn có một niềm tin, khao khát sống mãnh liệt, sức phản kháng tiềm tàng mạnh mẽ, sẵn sàng đứng lên tự giải thoát cho bản thân, giành lại quyền mưu cầu hạnh phúc và tự do của bản thân. Từ đó Tô Hoài cũng nhấn mạnh tư tưởng của một nhà văn cách mạng, ấy là hướng nhân dân, những con người đang chịu cảnh lầm than thoát khỏi ách áp bức bằng con đường cách mạng, tạo dựng niềm tin của nhân dân vào tương lai tươi sáng của Đảng và nhà nước.
Nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ – Mẫu 8
Tô Hoài là một nhà văn lớn, đóng góp nhiều thành tự cho văn học Việt Nam. Nếu như trước năm 1945, ông đánh dấu sự thành công với tập truyện “Dế Mèn phiêu lưu kí” thì sau năm 1945, tập “Truyện Tây Bắc” đã đưa tên tuổi của ông lên một tầm cao mới.
Tình cảm thiết tha, gắn bó, sâu sắc của Tô Hoài dành cho đất và con người Tây Bắc đã giúp ông viết nên những trang văn thấm đẫm tình yêu thương như thế. Truyện “Vợ chồng A Phủ” được trích trong tập Tây Bắc là câu chuyện tiêu biểu và mang nhiều giá trị tư tưởng lớn. Trong truyện, tác giả gửi gắm trọn vẹn nhất những tình cảm của mình vào nhân vật Mị, một cô gái đại diện cho vẻ đẹp và phẩm chất con người Tây Bắc.
Mị vốn là một người con gái tuổi đôi mươi của núi rừng Tây Bắc xinh đẹp và có tài thổi lá kèn hay như thổi sáo, được nhiều thanh niên trong làng mến mộ. Sức hấp dẫn của Mị tựa như những bông hoa rừng Tây Bắc đầy mê hoặc. Vào những đêm tình mùa xuân, trai bản đến đứng nhẵn cả vách đầu buồng Mị. Không chỉ xinh đẹp, ở nàng còn hội tụ những phẩm chất đẹp đẽ, đó là người con gái hiếu thảo với cha mẹ lại chăm chỉ trong công việc. Cuốc nương, làm rẫy Mị đều thuần thục.
Một cô gái tài sắc vẹn toàn như Mị xứng đáng được yêu thương, được hạnh phúc, nhưng Mị lại gặp phải hoàn cảnh trớ trêu. Bọn phong kiến tàn bạo đã khiến gia đình Mị lâm vào cảnh nợ nần chồng chất, gánh nặng phải trả nợ đè nặng lên đôi vai cô gái bé nhỏ. Song, chưa bao giờ Mị muốn phải bán mình để trả nợ, nàng cầu xin bố đừng bán cho nhà giàu, cô sẽ chăm chỉ làm nương, cuốc rẫy giúp bố trả nợ.
Nhưng xã hội cường quyền lại không cho phép Mị sống cuộc đời tự do ấy. Cuộc đời Mị phải chịu sự quyết định của kẻ khác, cuối cùng cô phải bán mình, bước chân vào nhà tên thống lí Pá Tra tàn ác chịu phận nô lệ trên danh nghĩa làm dâu xoá nợ. Một cô gái sẵn sàng hi sinh bản thân để cứu lấy cha mẹ, cứu lấy gia đình chứng tỏ Mị là cô gái hết mực hiếu thảo, yêu thương cha mẹ mình. Mị khát khao tự do, ý thức được nhân phẩm và giá trị bản thân nhưng cường quyền của chế độ phong kiến thối nát đã trói buộc cuộc đời cô.
Về làm dâu nhà Pá Tra, Mị phải âm thầm chịu đựng bao nỗi bất công, thời gian đầu, đêm nào Mị cũng khóc thương cho số phận, cho cảnh hẩm hiu của đời mình, nàng đã bỏ hết tất thảy để tìm đến cái chết bằng nắm lá ngón để giải thoát những uất ức, khổ đau kìm nén bấy lâu. Nhưng khi nghĩ về cha, thương cha nàng lại không đành lòng, đành phó mặc cuộc sống, chấp nhận cuộc đời cơ cực với kiếp nô lệ đau thương của mình.
Trong nhà tên A Sử, Mị chịu bao nỗi đau thể xác và tinh thần, Mị khổ cực hơn cả trâu cả ngựa, công việc làm triền miên ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác chẳng nghỉ ngơi. Mị như một cái máy gắn bó với công việc từ hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay đến đi bẻ ngô, gánh nước, kiếm củi,…, không việc nào là không tới tay Mị.
Thể xác bị bóc lột, tinh thần Mị cũng không sướng là bao, nàng suốt ngày “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, tinh thần bị tê liệt đến đau khổ, Mị ngày càng ít nói, câm lặng hơn, chẳng còn nhận thức về thời gian và cuộc sống ngoài kia. “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ bằng một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Dường như tuổi xuân của nàng bị khoá chặt trong ngôi nhà đó. Nàng ngày càng trở nên vô cảm.
Song, ẩn sâu trong con người Mị là một sức sống tiềm tàng không gì có thể ngăn nổi. Khi mùa xuân đến, không khí vui xuân ngày hội nơi bản làng Tây Bắc thật đẹp, thật tươi, khiến Mị bồi hồi nhớ lại những quá khứ tươi đẹp ngày xưa. Rượu và tiếng sáo rủ bạn tình khiến tâm hồn tươi trẻ của Mị như có dịp trỗi dậy, lòng Mị rạo rực sức sống mùa xuân “lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”.
Từ niềm rạo rực, phấn chấn ấy đã thôi thúc Mị hành động dứt khoát và quyết liệt vô cùng. Cô lấy ống mỡ bỏ thêm vào đĩa dầu để thắp đèn, thắp lên thứ ánh sáng xua tan đi bóng tối rợn ngợp bao trùm, xua tan màn đêm bấy lâu vây quanh cuộc đời Mị, nhen nhóm ngọn lửa hy vọng cho cuộc đời chính mình. Rồi Mị “quấn tóc lại với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”, Mị muốn được là mình, được là một cô gái đẹp đẽ như bao người con gái khác trong đêm mùa xuân ấy.
Trong lúc sức trẻ đang trỗi dậy, lòng yêu đời đang sung sức với Mị thì thực tại phũ phàng đã nhẫn tâm vùi dập niềm yêu ấy. A Sử khi biết lòng Mị muốn đi chơi, hắn đã chặn đứng ngay ý định đó. Hắn trói vợ vào cột nhà bằng một thúng sợi đay, quấn lấy mái tóc dài của Mị lên cột khiến cô đau đớn không thể cử động được. Nhưng thể xác dù bị trói buộc, bị hành hạ vẫn không thể trói lấy tâm hồn đang thiết tha cuộc sống của nàng, khát vọng sống vẫn âm ỉ cháy trong con người Mị.
Hành động mãnh liệt nhất của cô là cắt dây trói cho A Phủ. Trong cơn đau đớn, Mị xót xa cho phận mình, thương cảm cho phận người, đó là sự đồng cảm với những kiếp người cùng chung số phận. Chính giọt nước mắt của A Phủ đã thức tỉnh Mị, hồi sinh trái tim đầy những vết sẹo đau thương. Mị quyết định cùng A Phủ chạy trốn. Giải thoát cuộc đời mình khỏi những sức mạnh tàn bạo của cường quyền, của bọn thống lí thiếu tình người, đồng thời chấm dứt cuộc đời nô lệ tăm tối, thương đau của chính mình.
Bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, khắc họa tính cách nhân vật qua suy nghĩ và hành động cùng lời văn nhẹ nhàng mà tinh tế, Tô Hoài đã xây dựng nên một hình tượng nhân vật Mị thật tiêu biểu và đặc sắc. Qua nhân vật, tác giả lên tiếng tố cáo chế độ áp bức tàn bạo, hà khắc của tầng lớp thống trị trong xã hội xưa và nói lên tiếng nói thương cảm trước những kiếp người chịu nhiều áp bức, bất công.
Phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ – Mẫu 9
Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam với số lượng tác phẩm đạt kỉ lục. Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của ông. Tác phẩm có một giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể. Truyện viết về cuộc sống của người dân lao động vùng núi cao, dưới ách thống trị tàn bạo của bọn thực dân phong kiến miền núi. Đặc biệt truyện đã xây dựng thành công nhân vật Mị, qua đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng và khả năng đến với cách mạng của nhân dân Tây Bắc .
Vợ chồng A Phủ in trong tập truyện Tây Bắc (1954). Tập truyện được tặng giải nhất – giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954- 1955.Tác phẩm ra đời là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn cùng với bộ đội giải phóng Tây Bắc năm 1952. Vợ chồng A Phủ mở đầu bằng cách giới thiệu nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn hút độc giả: “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.
Cách giới thiệu tạo ra những đối nghịch về một cô gái âm thầm lẻ loi, âm thầm như lẫn vào các vật vô tri: cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào “buồn rười rượi”. Khuôn mặt đó gợi ra một số phận đau khổ , bất hạnh nhưng cũng ngầm ẩn một sức mạnh tiềm tàng.
Mị trước đó vốn là một người con gái đẹp. Mị có nhan sắc, và có khả năng âm nhạc, cô giỏi sáo và giỏi, uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Cô còn một tâm hồn tràn đầy khát khao cuộc sống, khát khao yêu đương. Quả thế, Mị đã được yêu, và đã khát khao yêu, trái tim từng đã bao nhiêu lần hồi hộp trước trước âm thanh hò hẹn của người yêu. Nhưng người con gái tài hoa miền sơn cước đó phải chịu một cuộc đời bạc mệnh. Để cứu nạn cho cha, cuối cùng cô đã chịu bán mình, chịu sống cảnh làm người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí.
Tô Hoài đã diễn tả nỗi cực nhọc về thể xác của người con gái ấy, con người với danh nghĩa là con dâu, nhưng thực chất chính là tôi tớ. Thân phận Mị không chỉ là thân trâu ngựa, “Con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở cái nhà ngày thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm”.
Song nhà văn còn khắc họa đậm nét nỗi đau khổ về tinh thần của Mị. Một cô Mị mới hồi nào còn rạo rực yêu đương, bây giờ lặng câm, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Và nhất là hình ảnh căn buồng Mị, kín mít với cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng. Đó quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác Mị, cách li tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của cô. Tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi ở đây đã được cất lên nhân danh quyền sống. Cái chế độ ấy đáng lên án, bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa của niềm vui sống trong những con người vô cùng đáng sống.
Mị đã từng muốn chết mà không được chết, vì cô vẫn còn đó món nợ của người cha. Nhưng đến lúc có thể chết đi, vì cha Mị không còn nữa thì Mị lại buông trôi, kéo dài mãi sự tồn tại vật vờ. Chính lúc này cô gái còn đáng thương hơn. Bởi muốn chết nghĩa là vẫn còn muốn chống lại một cuộc sống không ra sống, nghĩa là xét cho cùng, còn thiết sống. Còn khi đã không thiết chết, nghĩa là sự tha thiết với cuộc sống cũng không còn, lúc đó thì lên núi hay đi nương, thái cỏ ngựa hay cõng nước cũng chỉ là cái xác không hồn của Mị mà thôi.
Sức sống của Mị dường như mất đi. Nhưng bên trong cái hình ảnh con rùa lầm lũi kia dang còn một con người. Khát vọng hạnh phúc có thể bị vùi lấp, bị lãng quên trong đáy sâu của một tâm hồn đã chai cứng vì đau khổ, nhưng không thể bị tiêu tan. Gặp thời cơ thuận lợi thì nó lại cháy lên. Và khát vọng hạnh phúc đó đã bất chợt cháy lên, thật nồng nàn và xót xa trong một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi của tình yêu .
Bức tranh Hồng Ngài mùa xuân năm ấy có sức làm say đắm lòng người tuổi trẻ. Gió rét, sắc vàng ửng của cỏ tranh, sự biến đổi màu sắc kì ảo của các loài hoa đẹp đã góp phần làm nên cuộc nổi loạn trong một tâm hồn đã bấy nhiêu năm tê dại vì đau khổ. Tác nhân quan trọng là hơi rượu. Ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu, Mị lén uống từng bát, “uống ừng ực” rồi say đến lịm người đi. Cái say cùng lúc vừa gây sự lãng quên vừa đem về nỗi nhớ. Mị lãng quên thực tại (nhìn mọi người nhảy đồng, người hát mà không nghe, không thấy và cuộc rượu lúc nào cũng không hay) nhưng lại nhớ về ngày trước (ngày trước, Mị thổi sáo cũng giỏi …), và quan trọng hơn là Mị vẫn nhớ mình là một con người, vẫn có cái quyền sống của một con người: “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”.
Nhưng tác nhân có tác dụng nhiều nhất trong việc dìu hồn Mị bềnh bồng về với những khát khao hạnh phúc yêu đương có lẽ vẫn là tiếng sáo bởi tiếng sáo là tiếng gọi của mùa xuân, của tình yêu và tuổi trẻ. Tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị, nó đã trở nên tiếng lòng của người thiếu phụ. Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân phận. Cho nên trong thời khắc ấy, ta mới thấy Mị đầy rẫy những mâu thuẫn. Lòng phơi phới nhưng Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Và khi lòng ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ đầu tiên là được chết ngay đi.
Nhưng rồi nỗi ám ảnh và sức sống mãnh liệt của tuổi xuân cứ lớn dần, cho tới khi nó lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị, cho tới khi Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong ảo giác: “Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi”. Phải tới thời điểm đó Mị mới có hành động như một kẻ mộng du: quấn lại tóc, với thêm cái váy hoa, rồi rút thêm cái áo. Tất cả những việc đó, Mị đã làm như trong một giấc mơ, tuyệt nhiên không nhìn thấy A Sử bước vào, không nghe thấy A Sử hỏi“.
Rồi cái gì đến đã đến. A Sử trói Mị vào cột, rồi lẳng lặng khoác thêm vòng bạc đi chơi, bỏ mặc Mị trong trạng thái mộng du đang chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh trong cảm giác du xuân. Tâm hồn Mị đang còn sống trong thực tại ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay lập tức giấc mơ của kẻ mộng du. Cái cảm giác về hiện tại tàn khốc, Mị chỉ cảm thấy khi vùng chân bước theo tiếng sáo mà tay chân đau không cựa được. Nhưng nếu cái mơ không đến một lần nữa thì sự tỉnh ra cũng vậy. Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa cái mơ và cái tỉnh, giữa tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và tiếng con ngựa đạp vách, nhai cỏ, gãi chân. Nhưng bây giờ thì theo chiều ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn và tê dại dần đi, để sáng hôm sau lại trở về với vị trí của con rùa nuôi trong câm lặng, mà còn câm lặng hơn trước.
Nhưng có lẽ sức sống của Mị bùng lên mạnh mẽ nhất là lúc Mị cởi trói cho A Phủ. Cũng như Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ độc tài phong kiến miền núi. Những va chạm mang đầy tính tự nhiên của lứa tuổi thanh niên trong những đêm tình mùa xuân đã đưa A Phủ trở thành con ở gạt nợ trong nhà thống lí. Và bản năng của một người con vốn sống gắn bó với núi rừng, ham thích săn bắn đã đẩy A Phủ tới hiện thực phũ phàng: bị trói đứng. Và chính hoàn cảnh bi thương đó đã đánh thức lòng thương cảm trong con người Mị. Nhưng tình thương đó không phải tự nhiên bùng phát trong Mị mà là kết quả của một quá trình đấu tranh giằng xé trong thế giới nội tâm của cô. Mấy hôm đầu Mị vô cảm, thờ ơ với hiện thực trước mắt: “A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi”. Câu văn như một minh chứng sự tê dại trong tâm hồn Mị. Bước ngoặt bắt đầu từ những dòng nước mắt:“Đêm ấy A Phủ khóc. Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai má đã sạm đen. Và giọt nước mắt kia là giọt nước cuối cùng làm tràn đầy cốc nước. Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ. Mị nhớ mình đã từng bị trói, đã từng đau đớn và bất lực. Mị cũng đã khóc, nước mắt chảy xuống cổ, xuống cằm không biết lau đi được. A Phủ, nói đúng hơn là dòng nước mắt của A Phủ, đã giúp Mị nhớ ra mình, xót thương cho mình.
Và Mị đã nhớ lại mình, biết nhận ra mình cũng từng có những đau khổ, mới có thể thấy có người nào đó cũng khổ giống mình. Từ sự thương mình, Mị dần dần có tình thương với A Phủ, tình thương với một con người cùng cảnh ngộ. Nhưng nó còn vượt lên giới hạn thương mình: “Mình là đàn bà … chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi còn người kia việc gì mà phải chết ”. Mị cởi trói cho A Phủ để rồi bất ngờ chạy theo A Phủ. Lòng ham sống của một con người như được thổi bùng lên trong Mị, kết hợp với nỗi sợ hãi, lo lắng cho mình. Mị như tìm lại được con người thật, một con người còn đầy sức sống và khát vọng thay đổi số phận.
Nhà văn Tô Hoài đã viết về Mị với tất cả lòng yêu thương, thông cảm, và chỉ có lòng yêu thương thông cảm, Tô Hoài mới phát hiện ra vẻ đẹp tiềm tàng trong tâm hồn những con người ham sống như Mị.
Vợ chồng A Phủ qua việc khắc họa sâu sắc cuộc đời, số phận, tính cách Mị đã tố cáo hùng hồn, đanh thép những thế lực phong kiến, thực dân tàn bạo áp bức bóc lột, đọa đày người dân nghèo miền núi. Đồng thời nó cũng khẳng định khát vọng tự do hạnh phúc, sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của những người lao động. Đặc biệt đề cao sự đồng cảm giai cấp, tình hữu ái của những người lao động nghèo khổ. Chính điều này đem lại sức sống và sự vững vàng trước thời gian của Vợ chồng A Phủ trong những ngày tháng sưu cao thuế nặng. Để có tiền nộp sưu cho chồng (thuế thân) và người em chồng đã mất. Chị Dậu đã phải bán con, chị Dậu tưởng khổ đến thế là cùng, nhưng người phụ nữ bất hạnh ấy còn có một gia đình.
……………
Tải File tài liệu để xem thêm bài văn phân tích nhân vật Mị