Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận của em về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải (Sơ đồ tư duy)

Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận của em về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải (Sơ đồ tư duy)

TOP 17 bài Cảm nhận Mùa xuân nho nhỏ hay nhất của các bạn học sinh giỏi trong cả nước, kèm theo 3 dàn ý chi tiết, giúp các em cảm nhận sâu sắc hơn về những khát vọng, ước nguyện hiến dâng cho đời của nhà thơ Thanh Hải.

Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận của em về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải (Sơ đồ tư duy)

Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận của em về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải (Sơ đồ tư duy)

Đồng thời, còn có cả những tư liệu, liên hệ mở rộng cho các em lồng ghép vào bài văn cảm nhận Mùa xuân nho nhỏ của mình thêm sinh động. Mời các em theo dõi bài viết dưới đây của Download.vn để có thêm nhiều ý tưởng mới, ngày càng học tốt môn Văn 9:

Cảm nhận của em về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ

    Sơ đồ tư duy Cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ

    Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận của em về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải (Sơ đồ tư duy)

    Dàn ý cảm nhận bài thơ Mùa xuân nho nhỏ

    Dàn ý 1

    1. Mở bài

    • Giới thiệu tác giả Thanh Hải và bài thơ Mùa xuân nho nhỏ.

    2. Thân bài

    a. Khổ thơ thứ nhất

    • Vẻ đẹp mùa xuân qua cảm nhận của tác giả:
    • Bông hoa tím biếc, con chim chiền chiện hót vang trời, tác giả cô đọng giọng hót của con chiền chiện thành giọt long lanh và giơ tay ra để cảm nhận.

    → Vẻ đẹp mùa xuân qua cách cảm của tác giả trở nên đẹp đẽ, nhiều màu sắc và đáng yêu, đáng mến.

    b. Khổ thơ thứ hai

    • Ở khổ thơ này, tác giả cảm nhận về vẻ đẹp của con người lao động:
    • Hình ảnh con người lao động trong mùa xuân gắn liền với với màu xanh của chồi lộc, một màu sắc tràn đầy sức sống, cả đất trời như được sinh sôi nảy nở.

    c. Khổ thơ thứ ba

    • Sau khi cảm nhận về mùa xuân của thiên nhiên và con người, tác giả cảm nhận về mùa xuân của cả đất nước.
    • Đất nước tuy còn nhiều gian lao, khổ cực nhưng vẫn hướng về phía trước với niềm phấn khởi, hào hứng.

    d. Ba khổ thơ cuối – Ước nguyện của nhà thơ

    • Ước muốn của tác giả: trở thành con chim, làm cành hoa để nhập vào bản hòa tấu chung của đất nước, của dân tộc một giai điệu trầm ấm.
    • Khao khát cống hiến của tác giả: muốn được dâng hiến tuổi trẻ của mình cho đất nước dù là khi còn trẻ hay lúc về già.
    • Tâm trạng của tác giả vào mùa xuân: hát vang câu hát Nam ai, Nam bình để hòa chung không khí vui vẻ cho cả dân tộc.

    3. Kết bài

    • Khái quát lại giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.

    Dàn ý 2

    I. Mở bài

    • Giới thiệu tác giả Thanh Hải và bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”.
    • Cảm nhận chung về bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”.

    II. Thân bài

    1. Cảm xúc trước mùa xuân của thiên nhiên

    – Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp trong tưởng tượng của tác giả:

    • Các hình ảnh đặc trưng của mùa xuân: hoa tím, sông xanh, bầu trời cao rộng
    • Âm thanh tiếng chim chiền chiện.
    • Giọt long lanh: hình ảnh ẩn dụ chuyển đổi cảm giác độc đáo.

    => Tác giả say đắm trong mùa xuân của thiên nhiên đất trời với tâm thế đón nhận trân trọng

    2. Cảm xúc trước mùa xuân của đất nước

    • Hình ảnh lộc xuân trên “nương mạ”: cuộc sống lao động xây dựng đất nước của lực lượng sản xuất.
    • Hình ảnh người cầm súng: niềm tin vào ngày mai hòa bình.
    • Từ láy “hối hả” và “xôn xao”: thể hiện nhịp sống lao động khẩn trương vội vã nhưng nhộn nhịp, vui vẻ kết hợp hài hòa với nhau.
    • Đất nước được so sánh với những hình ảnh đẹp đẽ, kì vĩ.
    • Nhắc nhở mọi người nhớ về những tháng ngày gian khổ trong chiến đấu, cách mạng
    • Phụ từ “cứ” kết hợp với động từ “đi lên” thể hiện quyết tâm cao độ, hiên ngang tiến lên phía trước dù khó khăn gian khổ.

    => Sự lạc quan tin tưởng của nhà thơ ca ngợi sức sống, sự vươn lên mạnh mẽ của đất nước, dân tộc cho dù trước mắt trải qua nhiều khó khăn, gian khổ

    3. Mong ước được cống hiến của nhân vật trữ tình

    • Điệp ngữ “ta” kết hợp với các hình ảnh “con chim hót, một nhành hoa, nhập vào hòa ca”: hòa nhập giữa cái riêng và cái chung.
    • Hình ảnh ẩn dụ “mùa xuân nho nhỏ”: thể hiện khát vọng được cống hiến và sống ý nghĩa được thể hiện một cách thiết tha.
    • Điệp ngữ “dù” kết hợp với “tuổi hai mươi” – còn trẻ, “khi tóc bạc” – già dặn: khát vọng được cống hiện trọn đời.
    • Khát vọng sống với tình yêu quê hương, đất nước: xin được hát câu Nam ai, Nam bình để đón mùa xuân, ca ngợi mảnh đất Huế mộng mơ.

    III. Kết bài

    • Đánh giá về bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”.

    Dàn ý 3

    1. Mở bài

    • Giới thiệu khái quát về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ.

    2. Thân bài

    a. Bức tranh xuân thiên nhiên trên miền đất Huế thật đẹp, thật tình:

    • Nơi dòng Hương Giang êm đềm trong trẻo, một bông hoa lục bình tím biếc đang khoe sắc rực rỡ.
    • Màu tím biếc của hoa kết hợp cùng màu xanh trong của dòng nước mang đến bức tranh mùa xuân hài hòa, tràn đầy sức sống.
    • Tiếng hót trong trẻo, vang vọng của chú chim chiền chiện làm cho bức tranh tràn ngập không khí mùa xuân.
    • Nàng xuân kiêu kỳ mang giọt xuân đến cho đời

    b. Xuân đồng hành cùng con người, cùng nhân dân:

    • Mùa xuân – Người cầm súng: đó là những ngày chiến đấu, mang trên đôi vai quyết tâm và ý chí kiên cường.
    • Mùa xuân – người ra đồng, đó là vẻ đẹp của nhân dân lao động, chịu thương chịu khó; là nhiệm vụ lao động sản xuất thời hậu chiến.
    • “Lộc” xuân không chỉ là lộc non xanh biếc của lá cành, lúa nương mà nó còn là lộc của thắng lợi chiến đấu, của những thành quả trong sản xuất tăng gia.
    • Các từ ” hối hả”; ” xôn xao”, càng làm nổi bật không khí thi đua, thúc giục nhau lao động dựng xây đời.

    c. Xuân ca khúc hát tự hào:

    • Sau ngàn năm vất vả đất nước được thái bình
    • Niềm tin vào một ngày mai tươi sáng

    d. Ý nguyện cao quý của thi nhân:

    • Nguyện làm cành hoa nhỏ bé, làm nàng chim xanh, làm một nốt trầm lặng trong khúc ca cuộc đời.
    • Nguyện sống một cuộc đời thật ý nghĩa

    3. Kết bài

    • Cảm nghĩ về giá trị bài thơ.

    Cảm nhận Mùa xuân nho nhỏ

    Mùa xuân là đề tài bất tận của thơ ca. Song, cái cảm nhận về mùa xuân của các nhà thơ theo thời gian có nhiều thay đổi. Đối với Mãn Giác Thiền sư, một cao tăng nổi tiếng thời Lý, mùa xuân mang một tính triết lý sâu sắc:

    “Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
    Đêm qua sân trước một nhành mai”

    Còn đối với những nhà thơ trước cách mạng, mùa xuân gợi lên một nét sầu cảm:

    “Tôi có chờ đâu, có đợi đâu,
    Mang chi xuân đến gợi thêm sầu.”
    (Chế Lan Viên)

    Nhưng đối với nhà thơ Thanh Hải, mùa xuân mang một nét đẹp đáng yêu tươi thắm; gợi lên trong lòng người đọc nhiều hình ảnh rạo rực tươi trẻ. Vì thế, mùa xuân trong thơ của Thanh Hải là biểu tượng cho sức sống mạnh mẽ của quê hương, dân tộc. Tất cả đã được thể hiện rõ nét trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, một bài thơ đặc sắc được nhà thơ viết không lâu trước khi qua đời.

    Người xưa có câu: “Thi trung hữu họa”. Thơ ca vẽ nên những bức tranh tuyệt đẹp của cuộc sống. Mở đầu bài thơ, Thanh Hải đã phác họa nên một bức tranh xuân giản dị mà tươi đẹp:

    “Mọc giữa dòng sông xanh
    Một bông hoa tím biếc
    Ơi con chim chiền chiện
    Hót chi mà vang trời”

    “Dòng sông xanh” gợi nhắc hình ảnh những khúc sông uốn lượn của dải đất miền Trung quanh co, đó có thể là dòng sông Hương thơ mộng, một vẻ đẹp lắng đọng của xứ Huế mộng mơ.Trên gam màu xanh lơ của dòng sông thơ mộng, nổi bật lên hình ảnh “một bông hoa tím biếc”.

    Không có màu vàng rực rỡ của hoa mai, cũng không có màu đỏ thắm của hoa đào, mùa xuân của Thanh Hải mang một sắc thái bình dị với màu tím biếc của bông hoa lục bình. Đây là một hình ảnh mang đậm bản sắc của cố đô Huế. Không biết tự bao giờ màu tím đã trở thành màu sắc đặc trưng của con người và đất trời xứ Huế. Màu tím biếc gợi nhớ hình ảnh những nữ sinh xứ Huế trong những bộ áo dài màu tím dịu dàng thướt tha. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, đưa động từ ” mọc” lên đầu câu như một cách để nhấn mạnh vẻ đẹp tươi trẻ, đầy sức sống của mùa xuân thiên nhiên. Trong bức tranh mùa xuân của Thanh Hải, không chỉ có hình ảnh, mà còn có âm thanh xao xuyến, ngân nha của con chim chiền chiện. Tiếng chim lảnh lót vang lên làm xao động cả đất trời, làm xao xuyến cả tâm hồn thi sĩ nhạy cảm của nhà thơ. Những từ ngữ cảm thán “ơi, hót chi” đã thể hiện rõ nét cảm xúc của nhà thơ. Mùa xuân của thiên nhiên đã đem đến cho nhà thơ một cảm giác ngây ngất. Mùa xuân ấy không có gì khác lạ, vẫn là một mùa xuân rất giản dị trên quê hương xứ Huế của nhà thơ. Nhưng nhà thơ bỗng nhận ra vẻ đẹp lạ kì của mùa xuân, một vẻ đẹp mà bấy lâu nhà thơ không để ý. Phải chăng vì đây là lần cuối cùng được ngắm nhìn mùa xuân quê hương nên nhà thơ cảm thấy mùa xuân ấy đẹp hơn, tươi sáng hơn?

    Say sưa, ngây ngất trước vẻ đẹp giản dị và nên thơ của mùa xuân, nhà thơ bồi hồi xúc động:

    “Từng giọt long lanh rơi
    Tôi đưa tay tôi hứng”

    “Giọt long lanh” là giọt mưa xuân, giọt nắng vàng hay giọt sương sớm? Theo mạch cảm xúc của nhà thơ thì có lẽ đây là giọt âm thanh của tiếng chim ngân vang. Bằng một cảm nhận tinh tế, nhà thơ đã hình tượng hóa tiếng chim thành một sự vật có hình dáng, đây là một sự sáng tạo rất mới mẻ chỉ có thể có được nhờ tâm hồn nhạy cảm của một thi sĩ. Như vậy, chỉ bằng ba nét vẽ: dòng sông xanh, bông hoa tím và tiếng chim ngân vang khắp đất trời, nhà thơ đã phác họa nên một bức tranh xuân tuyệt đẹp trên cố đô Huế.

    Từ vẻ đẹp thanh khiết của mùa xuân thiên nhiên, nhà thơ liên hệ đến mùa xuân của đất nước, mùa xuân của cách mạng:

    Mùa xuân người cầm súng
    Lộc giắt đầy trên lưng
    Mùa xuân người ra đổng
    Lộc trải dài nương mạ

    Bốn câu thơ mang cấu trúc song hành thể hiện rõ hai nhiệm vụ của nhân dân: chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và sản xuất làm giàu nước nhà. Hai nhiệm vụ ấy đặt nặng lên vai của người chiến sĩ – “người cầm súng” và người nông dân – “người ra đồng”. Nét đặc sắc của đoạn thơ là việc sáng tạo hình ảnh “lộc”. “Lộc” là chồi non, cành biếc; “lộc” còn tượng trưng cho sự may mắn, niềm an lành trong năm mới. Đối với người chiến sĩ, “lộc” là cành lá ngụy trang che mắt quân thù. Đối với người nông dân, “lộc” là những mầm mạ non trải dài trên đồng ruộng bát ngát, báo hiệu một mùa bội thu. Người chiến sĩ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc sẽ đem về “lộc” là sự an lành niềm vui, niềm tự hào chiến thắng cho dân tộc. Người nông dân gieo trồng lúa trên đồng ruộng sẽ đem về “lộc” là những hạt gạo trắng ngần, những bát cơm ngon ngọt cho đồng bào cả nước. Cả dân tộc bước vào xuân với khí thế khẩn trương và náo nhiệt:

    “Tất cả như hối hả
    Tất cả như xôn xao…”

    Bằng cách sử dụng từ láy “hối hả-xôn xao” cùng với điệp từ, tác giả đã mang đến cho câu thơ một nét rộn ràng, nhộn nhịp. “Hối hả” nghĩa là vội vã, khẩn trương. “Xôn xao” là có nhiều âm thanh trộn lẫn vào nhau, làm cho náo động. Từ những âm thanh xôn xao và sự hối hả của con người, nhà thơ lại suy tư về sự phát triển của đất nước qua bốn ngàn năm lịch sử.

    Cảm nhận về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ hay nhất

    Cảm nhận về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 1

    Không biết đã từng có, sẽ còn có bao nhiêu bài viết về “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải? Vậy điều gì đã làm nên sức sống lâu bền cho bài thơ? Mỗi người sẽ có một cách lí giải không hoàn toàn giống nhau, nhưng chắc chắn sẽ gặp nhau ở một điểm chung cơ bản là: chính sự chân thành, giản dị của cảm xúc đã làm nên sức sống cho tác phẩm này!

    Trước hết cần phải khẳng định rằng, Thanh Hải hoàn toàn có quyền tự hào về cái “tôi” đã sống hết “công suất” từ tuổi 17 đến tuổi 50 của mình. Thông thường, khi con người biết chắc chắn rằng, mình đang sống trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời thì bao giờ người ta cũng tự soát xét lại nhân cách của mình một cách nghiêm khắc nhất. Vì thế, lúc nằm trên giường bệnh, Thanh Hải mới thấm thía nỗi cô đơn, bất lực của một cá nhân khi đang dần dần bị tách ra khỏi cộng đồng, một con người đang bị tước dần quyền làm việc. Chính tình cảm bị nén chặt đã bùng nổ thành khát vọng, thành bệ phóng cho sự sáng tạo. Nếu bản chất của sự sáng tạo là sự bất tử thì đây chính là khoảnh khắc thăng hoa tất cả những gì mà Thanh Hải đã chiêm nghiệm để viết thành bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”. Và khổ thơ đầu đã xuất hiện thật tự nhiên:

    “Mọc giữa dòng sông xanh
    Một bông hoa tím biếc
    Ơi con chim chiền chiện
    Hót chi mà vang trời
    Từng giọt long lanh rơi
    Tôi đưa tay tôi hứng”

    Khi Thanh Hải viết “Mọc giữa dòng sông xanh / Một bông hoa tím biếc” thì đây không chỉ là ngoại cảnh hay tâm cảnh, mà còn mang dáng dấp của một triết lí sống và sự bất tử. Dòng sông xanh vừa là chính nó và cũng vừa là một hình tượng về thời gian. Đó là dòng chảy vô thủy vô chung, vô tận và lạnh lùng của thời gian. Nó vừa là tác nhân tạo dựng, nâng niu “Một bông hoa tím biếc”, đồng thời cũng là một tác nhân bào mòn, hủy diệt tất cả. “Bông hoa tím biếc” đang hiện hữu kia sẽ trở thành hòai niệm để ngày mai sẽ có một bông hoa khác, cùng loài. Dòng sông thì vĩnh cửu, còn bông hoa dù có rực rỡ đến đâu chăng nữa thì cuối cùng cũng trở thành dĩ vãng. Cũng như mỗi đời người, dù có chói sáng đến đâu chăng nữa, rốt cuộc vẫn phải ra đi theo quy luật sinh tử của muôn đời.

    Thông qua các hình tượng nghệ thuật, chúng ta có thể cảm nhận được ý nghĩa đích thực của cuộc sống, ngay trong mạch cảm xúc buồn nhớ mênh mông, trong tâm tưởng của ông vẫn vang lên những âm thanh reo vui của cuộc sống: “Ơi con chim chiền chiện / Hót chi mà vang trời”. Tiếng chim hót là âm thanh của tự nhiên nhưng nó đã cộng hưởng với tiếng reo vui trong tâm hồn của nhà thơ, đó là tiếng reo vui của niềm tự hào về cái “tôi” trọn vẹn và thanh thản. Một bông hoa có thể sẽ tàn nhưng vẻ đẹp của nó thì vẫn còn ám ảnh lâu bền trong tâm trí con người. Một con người có thể sẽ phải ra đi vĩnh viễn, nhưng những đóng góp có giá trị về tinh thần của con người ấy thì có thể sẽ còn mãi với thời gian. Với niềm tự hào chân thành ấy, nhà thơ dường như đã bứt hẳn ra khỏi tâm trạng man mác hư vô để hòa mình vào không khí rộn rã, náo nức của mùa xuân; để cảm nhận và thâu nhận được cái “hồn vía” tưởng như rất vô hình của không gian và thời gian đang thấm đẫm sắc xuân, hương xuân:

    “Từng giọt long lanh rơi
    Tôi đưa tay tôi hứng”.

    Chúng ta đã từng bất lực trước một “tiếng huyền” trong “Thơ duyên” của Xuân Diệu, một “vị xa xăm” trong “Quê hương” của Tế Hanh, nay có lẽ cũng sẽ bất lực trước “Từng giọt long lanh rơi” của Thanh Hải? Bất lực vì không thể giải thích một cách tường minh xem “tiếng huyền” là tiếng gì, “vị xa xăm” là vị gì và “từng giọt” là giọt gì, nhưng vẫn có thể cảm nhận bằng linh giác, bằng trí tưởng tượng…về cái hay, về vẻ đẹp và sự độc đáo của các hình tượng đa nghĩa này. Nếu “tiếng huyền” là những âm thanh xao xuyến ngân vang trong tâm hồn để trở thành âm hưởng chủ đạo cho “một cõi yêu đương”, “vị xa xăm” là hoài niệm về một thời thăm thẳm thì “từng giọt” có thể là những niềm vui lớn có khả năng làm hồi sinh lòng ham sống của một con người đang ý thức rất sâu sắc về cái chết không sao cưỡng nổi đang đến với mình từ từ, lạnh lùng và tàn nhẫn! Hiểu như thế chúng ta mới có thể đồng cảm và xúc động trước một hành động tha thiết hướng tới sự sống của nhà thơ: “Tôi đưa tay tôi hứng”!

    Từ hành động tha thiết hướng tới sự sống ấy, tác giả đã tái hiện cuộc sống lao đọng và chiến đấu sôi nổi, háo hức mà mình từng gắn bó suốt đời:

    “Mùa xuân người cầm súng
    Lộc giắt đầy trên lưng
    Mùa xuân người ra đồng
    Lộc trải dài nương mạ
    Tất cả như hối hả
    Tất cả như xôn xao…”

    Đây là niềm vui được bắt nguồn từ niềm tin sắt đá vào tương lai của đất nước:

    “Đất nước bốn nghìn năm
    Vất vả và gian lao
    Đất nước như vì sao
    Cứ đi lên phía trước”

    Đất nước hình thành, tồn tại và phát triển trong chiều dài của “bốn ngàn năm” lịch sử và chiều sâu của những nghĩ suy trăn trở để tỏa sáng “như vì sao” trong kí ức của mỗi con dân đất Việt. Chính “vì sao” ấy là vầng hào quang của quá khứ và cũng là điểm tựa tinh thần cho hiện tại. Như mọi công dân chân chính khác, trong cái “Vất vả và gian lao” của đất nước, tác giả cũng có phần đóng góp công sức nhỏ bé của mình, đó là phần đóng góp tự nguyện như một lẽ sống:

    “Ta làm con chim hót
    Ta làm một cành hoa
    Ta nhập vào hòa ca
    Một nốt trầm xao xuyến”

    Cái “tôi” của nhà thơ như một dòng suối nhỏ khiêm nhường đã hòa vào cái “ta” của “dòng sông xanh” trên quê hương, đất nước mình. Từ vị thế của cái “ta, chúng ta”, tức là vị thế của người trong cuộc, nhà thơ đã chân thành tâm sự với bạn bè, đồng chí của mình về một lẽ sống thật giản dị.

    Bài thơ ra đời vào tháng 11 năm 1980, đó là một năm trong thập kỉ (1976 – 1986) khi đất nước ta đang phải đối mặt với những khó khăn đặc biệt gay gắt. Làm sao Thanh Hải lại không buồn về những điều đó? Nguyễn Duy “giật mình” trước “đột ngột vầng trăng tròn” thi Thanh Hải chắc cũng giật mình khi chợt nghe tiếng chim hót, bông hoa nở…thì đã, đang và sẽ mãi mãi tồn tại; đó là những giá trị vĩnh cửu; đó là cái đẹp vĩnh cửu…Thế còn cái đẹp trong quan hệ giữa con người với con người? Trong quan hệ giữa cái “tôi” với cái “ta”? Liệu có vĩnh cửu không? Thanh Hải không trả lời trực tiếp câu hỏi này mà thay vào đó bằng một lời nhắn nhủ. Ông đã nhắn nhủ điều gì?

    “Ta làm con chim hót
    Ta làm một nhành hoa
    Ta nhập vào hòa ca
    Một nốt trầm xao xuyến”.

    Làm con chim thì phải có tiếng hót riêng. Làm bông hoa thì phải có hương sắc riêng. Nhưng những cái riêng ấy chỉ được xác lập giá trị trong quan hệ với cái chung, tức là với những cá thể cùng loài xung quanh. Không thể và cũng không nên so sánh giữa tiếng hót của con chim với hương sắc của bông hoa, cái nào có ích hơn, cái nào quan trọng hơn?… Mỗi người cũng vậy, có một giá trị riêng không thể so sánh. Vì thế trong bản “hòa ca” đoàn kết, nên có người ở vị trí khiêm tốn như một “nốt trầm”. Nhưng một “nốt trầm” ấy phải có bản sắc riêng của mình như tiếng hót riêng của mỗi con chim và hương sắc riêng của mỗi bông hoa bởi đó là bản “hòa ca” có “nhạc luật” chứ đâu phải là “hòa tan”: một cách vô vị, nhạt nhẽo?

    Nếu mùa xuân của đất nước là một mùa xuân lớn thì mùa xuân lớn ấy lại được kết dệt bởi muôn vàn những mùa xuân nhỏ khác, đó là mùa xuân của mỗi đời người:

    “Một mùa xuân nho nhỏ
    Lặng lẽ dâng cho đời
    Dù là tuổi hai mươi
    Dù là khi tóc bạc”

    Mỗi đời người lại giống như một dòng suối nhỏ lặng lẽ góp nước cho một dòng sông lớn để dòng sông lớn ấy góp nước cho đại dương. Cái sự “góp nhặt” ấy cứ lặp đi lặp lại tới muôn đời, cho dù là có tự giác hay không tự giác thì nó vẫn cứ diễn ra như vậy, không thể nào khác! Điều quan trọng là ở chỗ sự “góp nhặt” ấy phải kiên trì, bền bỉ trong mọi hoàn cảnh thăng trầm của cuộc đời để cuối cùng nó vượt lên hoàn cảnh như một đức hi sinh cao cả: “Dù là tuổi hai mươi / Dù là khi tóc bạc”. Đó chính là phẩm chất cao quý của ý thức tự nguyện hi sinh cái “tôi” cho cái “ta” bao la của mùa xuân đất nước:

    “Mùa xuân – ta xin hát
    Câu Nam ai, Nam bình
    Nước non ngàn dặm mình
    Nước non ngàn dặm tình
    Nhịp phách tiền đất Huế.”

    Mùa xuân đẹp quá khiến ta bất giác cất lên lời. Tất cả đều xao xuyến, bồi hồi trong giai điệu buồn của câu “Nam ai” và chất trữ tình của câu “Nam bình”; trong “nhịp phách tiền” rất đỗi thân quen nhưng dường như bỗng trở nên da diết như một lời chào tiễn biệt? Trong cái mênh mông của “Nước non ngàn dặm”, nơi nào mà chẳng thấm đẫm tình bạn, tình người và tình yêu? Nơi nào mà ta chăng lưu luyến, bâng khuâng? Vì thế mà nỗi nhớ nhung cũng mênh mông không bến bờ! Giờ đây, nằm trên giường bệnh, ta dường như đang trôi trong vầng hào quang của hoài niệm…Cuộc đời ồn ào náo động xa dần, mơ hồ, văng vẳng… nhưng dường như càng xa nó càng trở nên cồn cào hơn, tha thiết hơn!

    Cảm nhận về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 2

    Mùa xuân luôn là đề tài phong phú cho các thi nhân thử bút. Đã có không ít bài thơ hay viết về mùa xuân. Nhà thơ Thanh Hải cũng khá thành công khi viết bài thơ Mùa xuân nho nhỏ để nói lên ước nguyện khiêm tốn của mình, ước nguyện được dâng hiến mùa xuân bé nhỏ của mình vào mùa xuân chung của dân tộc, vào xuân bất tận của đất trời.

    Thanh Hải tên thật là Phạm Bá Ngoãn, sinh ngày 4-11-1930, ở Thừa Thiên Huế. Ông hoạt động cách mạng từ những năm cuối của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Thanh Hải là một trong những cây bút có công lớn trong việc xây dựng nền văn học cách mạng miền Nam trong những năm kháng chiến chống Mĩ. Mùa xuân nho nhỏ là bài thơ cuối cùng của Thanh Hải, được viết không lâu trước khi nhà thơ qua đời (1980). Bài thơ thể hiện cái nhìn tươi tắn, lạc quan của tác giả đối với đất nước, với con người Việt Nam trong thời kì cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

    Mở đầu bài thơ, Thanh Hải dựng lên khung cảnh của một mùa xuân:

    Mọc giữa dòng sông xanh
    Một bông hoa tím biếc
    Ơi, con chim chiền chiện
    Hót chi mà vang trời
    Từng giọt long lanh rơi
    Tôi đưa tay tôi hứng

    Không gian mùa xuân hiện lên trước hết từ một dòng sông xanh với một bông hoa tím biếc. Đây là những hình ảnh vốn rất riêng của quê hương xứ Huế – quê hương yêu dấu của tác giả. Sự hoà hợp giữa màu xanh của dòng sông và sắc tím của bông hoa đã tạo nên một cảm giác mát dịu. Khung cảnh mùa xuân còn gợi lên những âm thanh quen thuộc, vui tươi của con chim chiền chiện, loài chim thường xuất hiện vào mùa xuân, như một dấu hiệu của mùa xuân. Tiếng hót của con chim chiền chiện vang trời đã làm cho không khí mùa xuân trở nên náo nức lạ thường. Tiếng chim chiền chiện đã được cụ thể hoá, hình tượng hoá. “Từng giọt long lanh rơi / Tôi đưa tay tôi hứng” là một hình thức chuyển đổi cảm giác. Âm thanh vốn chỉ nghe thấy, nhưng được chuyển đổi nên có thể cảm nhận, nhìn thấy và có thể tiếp xúc được. Ngay trong đoạn mở đầu, chúng ta đã hình dung được tâm trạng say mê, đầy hào hứng của nhà thơ trước mùa xuân mới của đất trời.

    Bài thơ được viết khi cả nước đang trong không khí xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong không khí chung đó, không thể thiếu hình ảnh của những người đã cầm súng bảo vệ Tổ quốc và những người làm ra hạt gạo nuôi sống bao thế hệ:

    Mùa xuân người cầm súng
    Lộc giắt đầy bên lưng
    Mùa xuân người ra đồng
    Lộc trải dài nương mạ
    Tất cả như hối hả
    Tất cả như xôn xao.

    Những người đang ngày đêm cầm súng bảo vệ tổ quốc và những người góp phần xây dựng quê hương đã được tác giả nhắc đến đầu tiên trong bài thơ. Đó là những người đã chịu nhiều hi sinh trong kháng chiến cũng như trong thời bình. Mùa xuân hiện hữu trong tất cả các hoạt động, mùa xuân theo người chiến sĩ ra mặt trận, mùa xuân theo người nông dân ra đồng. Mùa xuân không còn là khái niệm thời gian mà đã trở thành người bạn của những người ngày đêm làm giàu và mang lại bình yên cho dân tộc. Xuân trong thơ Thanh Hải gần như đã có hồn và dường như thật hối hả trong nhịp sống chung của dân tộc. Nhắc đến hình ảnh người lính, tác giả không quên lịch sử hào hùng của dân tộc:

    Đất nước bốn ngàn năm
    Vất vả và gian lao
    Đất nước như vì sao
    Cứ đi lên phía trước.

    Bằng những câu thơ giản dị, tác giả đã khái quát một cách cô đọng lịch sử của dân tộc, Chặng đường dân tộc đã đi qua thật dài và nhiều chông gai. Nhưng không vì thế mà làm cho bước đi của dân tộc bị chậm lại. Đất nước vẫn như những vì sao tiến lên phía trước. Câu thơ chính là lòng tin và niềm tự hào của tác giả vào đất nước, vào Đảng, vào sự nghiệp cách mạng. Cảm động biết bao khi đó là lời của một người đang nằm trên giường bệnh và sắp từ biệt cõi đời. Phải là người có sức sống, niềm lạc quan và tin tưởng nồng nhiệt mới có được những vần thơ như thế.

    Nhan đề Mùa xuân nho nhỏ mang nhiều ý nghĩa. Mùa xuân với khái niệm thời gian đã được tác giả chuyển thành khái niệm của một sự vật nhất định. Chủ đề của bài thơ bộc lộ rõ qua đoạn thơ:

    Ta làm con chim hót
    Ta làm một cành hoa
    Ta nhập trong hoà ca
    Một nốt trầm xao xuyến

    Một mùa xuân nho nhỏ
    Lặng lẽ dâng cho đời
    Dù là tuổi hai mươi
    Dù là khi tóc bạc.

    Đến đây cái tôi đã được thay bằng cái ta và cảnh vật của thiên nhiên trong mắt quan sát của nhà thơ đều được thu nhỏ lại trong cái ta ấy. Mỗi một bông hoa, mỗi một tiếng chim, mỗi cảnh vật thiên nhiên đều góp phần tạo nên mùa xuân chung của đất nước. Và ta là tác giả cũng là một con người cụ thể, ta hãy như con chim chiền chiện, như bông hoa tím biếc trên dòng sông xanh, như một nốt trầm trong bản hoà ca xao xuyến của dân tộc. Cái ta chỉ khiêm tốn giữ vị trí của nốt trầm trong bản nhạc. Mỗi con người đều là một mùa xuân nho nhỏ, cống hiến sức lực và cuộc đời của mình để làm nên mùa xuân lớn của đất nước, của dân tộc.

    Khổ thơ cuối cùng là lời tâm tình của tác giả, lời của một đứa con nói với quê hương:

    Mùa xuân – ta xin hát Câu Nam ai
    Nam bình Nước non ngàn dặm mình
    Nước non ngàn dặm tình
    Nhịp phách tiền đất Huế.

    Khổ thơ mang đậm làn điệu dân ca xứ Huế và là khổ thơ duy nhất trong bài có hình ảnh Huế – quê hương của tác giả. Không vì thế mà bài thơ không chứa trong đó tình cảm của tác giả đối với quê hương. Cái hay của câu thơ ở chỗ đã đúc kết được tất cả vẻ đẹp của mùa xuân, của xứ Huế thơ mộng và chất chứa trong đó là nỗi niềm của một người con đang sống những ngày cuối cùng của cuộc đời.

    Bài thơ được viết khi tác giả phải nằm trên giường bệnh nhưng vẫn tràn đầy lòng yêu đời, yêu cuộc sống và hơn cả là tinh thần dân tộc, ý thức trách nhiệm của nhà thơ đối với đất nước. Đó chính là thông điệp Thanh Hải gửi đến tất cả mọi người: “Hãy góp một mùa xuân nho nhỏ của mình vào mùa xuân chung của đất nước, của dân tộc”.

    ….

    Cảm nghĩ về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ

    Mùa xuân là mùa của những sự khởi đầu mới, mùa mà vạn vật như hồi sinh, mùa mà nhựa sống của thiên nhiên và con người dâng trào mãnh liệt nhất. Mùa xuân cũng là nguồn cảm hứng bất tận cho những thi sĩ yêu thiên nhiên. Và Thanh Hải cũng là một trong những người thi sĩ như thế! Bằng tình yêu thiên nhiên tha thiết, tình yêu đất nước nồng nàn và khát vọng cao đẹp của mình, Thanh Hải đã sáng tác Mùa xuân nho nhỏ – bài thơ đẹp đẽ ghi dấu ấn cuộc đời của ông.

    Nhắc đến những bài thơ về mùa xuân, người ta có thể ngay lập tức nhớ tới Vội vàng của Xuân Diệu – một bài thơ xuân ngọt ngào, thắm đượm:

    “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
    Xuân còn non nghĩa là xuân đã già”

    Thế nhưng, người ta cũng không thể nào quên được hình ảnh của một mùa xuân thấm đẫm tình yêu thiên nhiên, tình yêu đất nước và khát vọng được dâng hiến cháy bỏng của Thanh Hải trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ được.

    Nếu như Xuân Diệu bắt đầu bài thơ xuân của mình bằng một ước muốn rằng:

    “Tôi muốn tắt nắng đi
    Cho màu đừng nhạt mất
    Tôi muốn buộc gió lại
    Cho hương đừng bay đi”

    Thì Thanh Hải lại mở đầu bài thơ xuân của mình bằng cả một không gian rộng lớn bao la với chim chóc, hoa lá, với dòng sông, … trong trí tưởng tượng của mình:

    “Mọc giữa dòng sông xanh
    Một bông hoa tím biếc
    Ơi con chim chiền chiện
    Hót chi mà vang trời
    Từng giọt long lanh rơi
    Tôi đưa tay tôi hứng”

    Tại sao nói tất cả không gian rộng lớn kia, tất cả tạo vật đang hoan hỉ trong bức tranh kia là trong tưởng tượng của tác giả? Đó là bởi vì khi ông viết lên những dòng thơ đầu tiên của bài thơ này, ông đang nằm dưỡng bệnh tại quê nhà ở Huế của mình vào tháng mười một năm 1980. Ấy thế mà cả mùa xuân hiện lên thật rực rỡ, thật đậm sắc qua từng hình ảnh thơ của Thanh Hải. Ông đã khắc họa cái không gian rộng lớn, thoáng đãng khi mùa xuân ào đến, cùng với sắc hoa, cùng với chim chóc và dòng sông, tạo nên một bức tranh mùa xuân đẹp tuyệt vời.

    Xuất hiện ngay ở dòng thơ đầu tiên là hình ảnh của một bông hoa nhỏ, mọc lên từ giữa dòng sông xanh biêng biếc. Chỉ có “một bông hoa tím biếc” như là một dấu hiệu báo cho con người và vạn vật rằng nàng xuân đã đến rồi. Bông hoa ấy chẳng phải màu đỏ rực, chẳng phải màu vàng phai, hồng thắm mà lại là màu “tím biếc”. Đây là màu sắc đặc trưng của quê hương ông – xứ Huế mộng mơ. Người ta biết đến Huế với những nhịp cầu Tràng Tiền nhịp nhàng với những tà áo dài Huế tím biêng biếc say mê, thế nên chẳng phải tự nhiên mà ông mang cái màu sắc đặc trưng ấy vào trong dòng thơ đầu tiên của Mùa xuân nho nhỏ. Đó phải chăng là một tình yêu thương thắm thiết với quê hương mà Thanh Hải muốn gửi gắm qua từng dòng thơ của mình?

    Xứ Huế còn được đặc trưng bởi dòng sông “trăm thứ hương đổ về” – sông Hương. Và Thanh Hải đã đặt dòng sông ấy vào ngay trong câu thơ đầu tiên như để tri ân với quê hương. Một dòng sông Hương “xanh” biêng biếc đang lững lờ uốn lượn, trải dài trước mắt của chúng ta. Nó đang chở trên lưng mình một trong những dấu hiệu đầu tiên của mùa xuân, đó là một bông hoa “tím biếc”. Bông hoa ấy “mọc” lên ở giữa dòng sông, đột ngột, bất ngờ như báo hiệu mùa xuân đến thật bất chợt. Động từ “mọc” được ông đảo lên ngay đầu câu thơ càng làm cho chúng ta thấy rõ sự xuất hiện quá đỗi bất ngờ của bông hoa ấy. Bông hoa ấy không phải màu hồng phai, màu đỏ rực, … mà lại mang một màu tím – sắc màu thân thương của xứ Huế. Bông hoa ấy nở giữa dòng sông, ánh lên trong ánh nắng mới lóng lánh.

    Không gian mùa xuân trong trí tưởng tượng của Thanh Hải không chỉ có hoa xuân mà còn những chú chim nhỏ bé nữa. Những chú chim ấy cũng như bông hoa kia, cũng là một người đưa tin cho mùa xuân. Giữa không gian bao la của bầu trời cao rộng, chú chim rướn mình, cất lên tiếng hót lanh lảnh, gọi mùa xuân về. Loài chim mà Thanh Hải miêu tả ở đây là “chim chiền chiện” – một loài chim quen thuộc, gắn bó thân thiết với nhà nông. Chú chim ấy cất tiếng hót vang, và nhà thơ đã không ngần ngại mà cất tiếng gọi:

    “Ơi con chim chiền chiện
    Hót chi mà vang trời”

    Đây có phải chăng là một tiếng trách cứ, hờn dỗi đáng yêu của nhà thơ với chú chim đáng yêu kia chăng? Ông cất tiếng gọi “ơi” với chú chim, tiếng gọi tha thiết, thân thương như đối với một người thân thuộc. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp nhân hóa chú chim ấy như một con người thực thụ, và con người ấy đang cất tiếng gọi mùa xuân về. Câu thơ tiếp theo, nhà thơ trách cứ chú chim “hót chi mà vang trời”, nghe thật đáng yêu làm sao! Chữ “chi” là giọng điệu mang âm hưởng của xứ Huế thân yêu. Tiếng chim lanh lảnh xuyên qua tầng không, vang vọng trong tâm trí, tâm hồn nhà thơ khiến ông rạo rực quá! Nằm ở giường bệnh, nhưng ông muốn cất bước thật nhanh ra ngoài kia mà tận hưởng cho hết cái không khí của mùa xuân đang tràn về.

    Thế nhưng, đặc sắc nhất trong đoạn thơ này phải kể tới hai câu thơ cuối của khổ thơ. Chỉ với hai câu thơ này, Thanh Hải đã dường như nắm bắt được cái hồn của mùa xuân:

    “Từng giọt long lanh rơi
    Tôi đưa tay tôi hứng”

    Tiếng chim trên cao vọng xuống từng hồi lảnh lót, gọi nàng xuân về trong yêu thương. Tiếng chim ấy dường như đang cô đặc lại dần thành từng giọt mà nhỏ xuống thế gian, để thế gian bắt đầu một nguồn sống mới. Từng giọt mật mùa xuân trên cao rơi xuống, nhà thơ bất chợt đưa tay ra “hứng” lấy nó như để bắt trọn mùa xuân trong tay. Đọc thơ mà người ta như thấy được hình ảnh của Thanh Hải đang nâng niu hứng từng giọt mật xuân rơi xuống trong niềm vui, đắm đuối vô tận. Ở đây, Thanh Hải đã vô cùng tinh tế khi sử dụng nghệ thuật chuyển đổi cảm giác để miêu tả về mùa xuân. Mùa xuân không còn là một thứ vô hình nữa mà đối với nhà thơ,, mùa xuân trở thành một thực thể hữu hình mà ông có thể sờ, “hứng”, chạm và nếm thử. Hành động “hứng” giọt mùa xuân của nhà thơ là một hành động của một con người mang trong mình tình yêu tha thiết với thiên nhiên, với mùa xuân. Với ông, tận hưởng mùa xuân trọn vẹn phải là sự tận hưởng ngay trong giây phút đầu tiên. Phải nhớ rằng, lúc này, nhà thơ đang nằm trên giường bệnh, vậy mà chỉ bằng trí tưởng tượng của mình, ông đã dựng lên bức tranh mùa xuân đẹp đến như thế!

    Bức tranh mùa xuân của Thanh Hải được dựng lên trong niềm yêu thương tha thiết với thiên nhiên. Bức tranh ấy được ông mường tượng ra trên giường bệnh nhưng lại mang đậm nét linh hồn xứ sở quê hương Huế thân yêu, vừa giản dị lại vừa gần gũi vô cùng. Có lẽ, trong giây phút ấy, Thanh Hải đã khao khát cháy bỏng được rời khỏi giường bệnh, được bước ra ngoài với thiên nhiên, được ôm trọn thiên nhiên vào lòng để mà tận hưởng cái không khí mùa xuân đang dâng tràn trong tâm trí mình.

    Viết bài thơ về mùa xuân, Thanh Hải còn dựng lên bức tranh mùa xuân của đất nước trong thời kỳ đổi mới. Đây như là một cách thức để ông biểu đạt tình yêu quê hương của mình:

    “Mùa xuân người cầm súng
    Lộc giắt đầy trên lưng
    Mùa xuân người ra đồng
    Lộc trải dài nương mạ
    Tất cả như hối hả
    Tất cả như xôn xao…”

    Nếu như mùa xuân của thiên nhiên với dấu hiệu là những bông hoa tím, là tiếng hót của những chú chim “chiền chiện” thì mùa xuân của đất nước lại được đánh dấu bằng hình ảnh của “người cấm súng” và “người ra đồng”.

    Như chúng ta đã biết, năm 1980, đất nước ta đang bước vào công cuộc xây dựng mạnh mẽ với hai nhiệm vụ chính là chiến đấu và sản xuất. Vậy nên, Thanh Hải đã dùng hải nhiệm vụ này để miêu tả về mùa xuân của đất nước. Mùa xuân hiện lên trên vai “người cầm súng” là những cành lộc non “giắt” trên lưng áo ngụy trang. Những chồi non xanh biếc ấy như những niềm hy vọng, sự tin tưởng và sức sống mãnh liệt của con người Việt Nam qua bao thời kỳ. Còn mùa xuân của “người ra đồng” là những “lộc” non của lúa, của mạ non để cấy cày, sản xuất, trở thành hậu phương vững chắc cho những người anh hùng “cầm súng”.

    Có thể thấy, sản xuất và chiến đấu luôn luôn song hành cùng nhau, bởi chỉ có vậy chúng ta mới có thể cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước chúng ta phát triển ngày một tươi đẹp hơn. Đọc khổ thơ, người ta nhận thấy rằng mùa xuân của hai nhiệm vụ của đất nước đã hòa làm một thành mùa xuân của Tổ quốc, mùa xuân của hòa bình và phát triển.

    Giữa sự chuyển mình của đất nước, tất cả vạn vật của Tổ quốc ta dường như cũng đang vội vã, “hối hả” chuyển mình. “Tất cả” đều “xôn xao”, “hối hả” trong công cuộc đổi mới ấy. Hai từ láy liên tiếp “hối hả”, “xôn xao” như diễn tả sự mau lẹ, sự nhanh chóng, gấp gáp của con người cũng như mọi vật. Tất cả như muốn góp một phần sức lực của mình để chung tay xây dựng mùa xuân của đất nước.

    “Tất cả như hối hả
    Tất cả như xôn xao”

    Điệp từ “như” được Thanh Hải sử dụng trong hai câu thơ như để diễn tả nhịp điệu khẩn trương, mau lẹ. Cả đất trời, con người đang giao hòa thật hối hả, thật gấp gáp, thúc giục mọi người qua từng câu chữ. Ngay chính tác giả, dường như ông cũng đang rạo rực, muốn được hòa mình vào cùng mọi người để xây dựng Tổ quốc.

    Đây là hình ảnh của đất nước ta trong thời kỳ đổi mới, không còn chiến tranh, chỉ còn công cuộc xây dựng đất nước đi lên trong hòa bình, tạo nên một mùa xuân rực rỡ cho dân tộc Việt Nam.

    Không chỉ nhìn ngắm thực tại, Thanh Hải còn hồi tưởng qua từng dòng thời gian của lịch sử dân tộc, nơi khởi nguồn cho mạch sống trường tồn của đất nước. Nhịp thơ ở đây không còn gấp gáp, hối hả như khổ thơ trên mà nhẹ nhàng, chậm rãi như một cuốn phim quay chậm. Những thước phim ấy đang sống dậy những trang sử hào hùng của dân tộc ta.

    “Đất nước bốn ngàn năm
    Vất vả và gian lao
    Đất nước như vì sao
    Cứ đi lên phía trước”.

    Trải qua “bốn ngàn năm” dựng xây và giữ nước, những “vất vả và gian lao” mà dân tộc ta đã trải qua là những cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, trải dài từ khi vua Hùng Vương dựng nước và tới tận gần đây nhất là hai cuộc chiến tranh chống Pháp và đế quốc Mỹ. Ẩn sau từng câu chữ, người ta như thấy được niềm xúc động, tự hào của Thanh Hải trước công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của cha ông ta trong suốt chiều dài lịch sử xa xôi ấy.

    Đất nước đẹp như một bức tranh và sáng như một vì sao tỏ. Thanh Hải đã không ngần ngại mà so sánh hình ảnh của một Việt Nam kiên cường như một vì sao sáng trên bầu trời. Đây là niềm tự hào của Thanh Hải về non sông, đất nước Việt Nam, một đất nước mà luôn chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, lúc nào cũng tỏa sáng rực rỡ “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”.

    Bức tranh về mùa xuân của đất trời, mùa xuân của đất nước được Thanh hải truyền tải bằng tất cả sự trân trọng, tự hào và yêu thương nhất. Nếu mùa xuân của thiên nhiên vạn vật là những màu sắc tươi thắm nhất, những dấu hiệu đẹp đẽ nhất thì mùa xuân của đất nước lại đến cùng với công cuộc dựng xây và bảo vệ Tổ quốc, cùng với những con người “hối hả”. Dân tộc ta như Thanh Hải đã nói, đã trải qua bốn ngàn năm thăng trầm nhưng vẫn vững vàng “đi lên phía trước” – đây là niềm lạc quan tin tưởng vào tương lai của dân tộc ta.

    Mùa xuân của thiên nhiên, mùa xuân của đất nước tươi đẹp là thế vậy mà tác giả lại phải nằm trong giường bệnh. Vậy nên, những khổ thơ cuối cùng của bài thơ Mùa xuân nho nhỏ ấy, ông đã viết lên ước nguyện, khát vọng của mình, giản dị mà chân thành vô cùng:

    “Ta làm con chim hót
    Ta làm một cành hoa
    Một nốt trầm xao xuyến
    Ta nhập vào hòa ca”

    Liên tiếp ở các câu thơ, nhà thơ đã sử dụng động từ “ta làm” để biểu đạt cái khát khao tột độ đang cháy bỏng ở trong tim mình. Ông ước được làm một “con chim hót”, “một cành hoa” nhỏ bé mà dâng hiến cho đời. Những vật ông ao ước trở thành đều là những vật nhỏ bé, tầm thường trong cuộc sống, thế nhưng ông lại khao khát được trở thành để được cống hiến cho cuộc đời. Ông ước mình trở thành “một nốt trầm xao xuyến” – một nốt lặng bé nhỏ giữa bản nhạc tươi vui của cuộc đời. Mong ước ấy thật nhỏ nhoi, thế nhưng lại chân thành, tha thiết biết bao nhiêu.

    Thanh Hải ước được trở thành “một mùa xuân nho nhỏ” để “lặng lẽ” hòa mình vào thiên nhiên, đất nước để mà dâng hiến cho cuộc đời, cho Tổ quốc, chẳng cần hào nhoáng, chẳng cần được tôn vinh. Bất cứ ở độ tuổi nào, ông cũng muốn được cống hiến, được hi sinh hết mình cho Tổ quốc thân yêu, dù là lúc còn là một chàng thanh niên hai mươi tuổi tràn trề nhiệt huyết hay là giờ đây, khi đã là một ông già tóc bạc. Điệp từ “dù là” như một lời khẳng định mạnh mẽ ước vọng của nhà thơ.

    “Một mùa xuân nho nhỏ
    Lặng lẽ dâng cho đời
    Dù là tuổi hai mươi
    Dù là khi tóc bạc”

    Lời thơ như những lời khẳng định tình yêu tha thiết của Thanh Hải dành cho Tổ quốc, dành cho cuộc sống tươi đẹp. Bởi có yêu tha thiết quê hương, cuộc sống, ông mới khao khát cháy bỏng được cống hiến, được dâng hiến cho cuộc đời đến như thế, đặc biệt là lúc này, khi ông đang năm trên giường bệnh. Cái khát khao ấy cháy bỏng trong tim ông, chưa lúc nào, ông thôi khao khát được cống hiến hết mình cho cuộc đời cả.

    Qua những khổ thơ trên, người ta có thể thấy Thanh Hải yêu quê hương, non sông đến thế nào, đặc biệt là xứ Huế thân thương. Chắc có lẽ bởi vì thế mà khép lại bài thơ, Thanh Hải đã cất lên một khúc hát với giai điệu quen thuộc của xứ Huế:

    “Mùa xuân tôi xin hát
    Câu Nam ai, Nam bình
    Nước non ngàn dặm mình
    Nước non ngàn dặm tình
    Nhịp phách tiền đất Huế”

    Những điệu hò “Nam ai, Nam bình” đều là những khúc ca quen thuộc của xứ Huế. Nếu khúc Nam ai là giai điệu buồn thương, da diết thì Nam bình lại dìu dặt, trìu mến. Cả hai điệu hát đều được cất lên trên nhịp phách tiền đặc trưng của dân ca Huế. Thế mới biết, Thanh Hải gắn bó khăng khít và yêu thương xứ Huế đến nhường nào. Ông đã đặt nó vào trong tim mình, mang cả vào đó điệu hò quen thuộc của quê hương.

    Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của nhà thơ Thanh Hải được viết bằng thể thơ năm chữ quen thuộc với nhịp điệu uyển chuyển. Bài thơ là tiếng lòng tha thiết yêu quê hương, đất nước, yêu cuộc đời của tác giả, đồng thời nó cũng thể hiện một khát vọng cháy bỏng mà chân thành của nhà thơ đó là được góp phần làm nên mùa xuân của đất nước.

    Thanh Hải đã khéo léo sử dụng những biện pháp tu từ linh hoạt như nhân hóa, ẩn dụ, so sánh, … để bộc lộ tình yêu của mình.

    Viết bài thơ vào những ngày tháng cuối của cuộc đời, thế nhưng lời thơ của Thanh Hải lại không có một chút bi lụy mà thay vào đó, người ta cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, Tổ quốc, niềm lạc quan tin tưởng vào tương lai của đất nước cũng như khát vọng cháy bỏng của ông.

    Cảm nhận khi đọc bài thơ Mùa xuân nho nhỏ

    Thanh Hải là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn chương cách mạng miền Nam thời chống Mĩ cứu nước. Ông sinh ra, sống, chiến đấu gắn bó với miền Thừa Thiên – Huế. Thơ của ông là tiếng lòng của đồng bào Trị Thiên – Huế lúc cất lên tiếng thét căm hờn tố cáo tội ác giết người của giặc, lúc thủ thỉ khúc tâm tình của đồng bào, chiến sĩ, lúc tha thiết một niềm kính yêu Bác Hồ… Những bài Mồ anh hoa nở, Núi vẫn nhớ người vẫn thương, Cháu nhớ Bác Hồ, A Vầu không chết… của ông được nhiều người tìm đọc với bao xúc động, mến thương. Thời gian này thơ Thanh Hải đã được tặng giải thưởng văn học Nguyễn Đình Chiểu.

    Sau khi thống nhất đất nước, ông tham gia lãnh đạo Hội văn nghệ Bình – Trị – Thiên song không ngừng sáng tác. Bài Mùa xuân nho nhỏ và một số bài thơ khác của ông đã được dư luận đánh giá là tác phẩm hay, phản ánh tâm hồn lạc quan, cái nhìn tươi trẻ của người Việt Nam trong giai đoạn xây dựng đất nước.

    Bài Mùa xuân nho nhỏ được Thanh Hải viết vào tháng 11-1980. Lúc đó đất nước đang có những khó khăn: chiến tranh biên giới, nền kinh tế chưa ra khỏi chính sách bao cấp… song công cuộc kiến thiết vẫn rộn ràng khắp nơi. Bài thơ đã phản ánh được tâm trạng của nhân dân ta: vui phóng khoáng, bay bổng nhưng không phải không còn những trăn trở. Vì lẽ đó bài thơ đã mau chóng được bạn đọc yêu mến, được phổ nhạc và bài hát lập tức được nhiều người ưa thích.

    Bài Mùa xuân nho nhỏ giàu nhạc điệu. Có lẽ chính thể thơ năm chữ cùng với cách gieo vần đầy biến hóa tạo cho bài thơ một ưu thế diễn tả niềm vui có phần nhí nhảnh yêu đời của “mùa xuân nho nhỏ” kia. Các nhạc điệu của ngôn từ lại được nâng lên bởi chất nhạc, chất thơ của những hình tượng đẹp trong bài. Hãy đọc lại khổ thơ đầu để có thể thấy hết sự hòa quyện giữa nhạc và thơ trong từng chữ, từng dòng:

    Mọc giữa dòng sông xanh
    Một bông hoa tím biếc
    Ơi con chim chiền chiện
    Hót chi mà vang trời
    Từng giọt long lanh rơi
    Tôi đưa tay tôi hứng.

    Trong khổ thơ này có chim và hoa, chim hót vang trời, hoa tím biếc; có trời và sông, trời rộng và sông xanh. Cảnh gợi một không gian phóng khoáng, bay bổng nhưng lại đằm thắm, dịu dàng, tươi mát, một không gian rất Huế. Không gian ấy càng đậm chất Huế hơn nhờ cách dùng đúng chỗ những ngôn từ đặc biệt Huế. Một từ “ơi!” đặt đầu câu thơ, một từ “chi” đi liền sau động từ “hót” đã đưa thẳng cách nói dịu ngọt, êm ái, thân thương của người Huế vào nhạc điệu của khổ thơ để gợi thương, gợi nhớ, cả khổ thơ dần tới một hình ảnh đẹp:

    Từng giọt long lanh rơi
    Tôi đưa tay tôi hứng.

    Tiếng chim hót giữa trời xanh tưởng như vô hình này lại được hình ảnh hóa thành “từng giọt long lanh rơi” là một sáng tạo rất gợi cảm của nhà thơ. Một động tác “hứng” đủ diễn tả sự trân trọng của thi nhân đối với vẻ đẹp, chất nhạc của trời với sông, của chim với hoa, đồng thời thể hiện sự đồng cảm của tâm hồn thi nhân trước thiên nhiên và cuộc đời.

    Chất nhạc, chất thơ của bài Mùa xuân nho nhỏ được cất lên từ chính cuộc sống vốn “vất vả và gian lao” đang hối hả “đi lên phía trước” của cả một đất nước mang đầy thương tích của hai cuộc chiến tranh và cũng đang phải đối phó với giặc ngoài nhưng vẫn hăm hở dựng xây cơ đồ của mình.

    Một đặc sắc khác của bài thơ là sự diễn tả nhân vật trữ tình một cách thoải mái, dung dị và luôn biến đổi. Nhân vật ấy, lúc đầu xuất hiện trong tư thế một thi nhân đang hòa mình vào thiên nhiên. Tiếng “tôi” thốt ra từ thi nhân thật thân thiết, dịu nhẹ, khiêm nhường biết bao:

    Từng giọt long lanh rơi
    Tôi đưa tay tôi hứng.

    Cùng với sự vận động của tứ thơ, cách biểu hiện của nhân vật trữ tình cũng thay đổi. Chuyển từ cảnh mùa xuân của đất trời, của thiên nhiên sang cảnh mùa xuân của cuộc sống cách mạng, của nhân dân, của đất nước:

    Mùa xuân người cầm súng
    Lộc giắt đầy quanh lưng
    Mùa xuân người ra đồng
    Lộc trải dài nương mạ
    ….
    Ta làm con chim hót
    Ta làm một nhành hoa
    Ta nhập vào hòa ca
    Một nốt trầm xao xuyến.

    Ở đây, “ta” là nhà thơ và cũng là tất cả mọi người. Sự chuyển đổi của nhân vật trữ tình không có sự gượng gạo, giả dối. Đọc khổ thơ, chúng ta vẫn thấy một cách diễn đạt hào hứng, sảng khoái và tự nhiên. Ta làm con chim, làm một cành hoa, làm một nốt trầm, ta trở thành người mang lại niềm vui cho cuộc đời một cách khiêm tốn, đáng yêu.

    Ở hai khổ thơ cuối, mùa xuân được chuyển thành mùa xuân của lí tưởng, của tiếng lòng cao cả. Đây là tiếng hát của con người muốn cống hiến sức mình cho cuộc sống cách mạng, cho đất nước không biết đến tuổi tác, coi đó là niềm ủi và lẽ sống. Nhân vật trữ tình lúc này không còn là “tôi” hay “ta” nữa, bỗng biến thành:

    Một mùa xuân nho nhỏ
    Lặng lẽ dâng cho đời
    Dù là tuổi hai mươi
    Dù là khi tóc bạc.

    Cái công việc “lặng lẽ dâng cho đời” dù ở lứa tuổi nào đâu có còn là của riêng ai. Nó là khát vọng sống của cả một thời đại, của tôi, của bạn, của cả thế hệ chúng ta. Chính sự chuyển đổi như vậy của nhân vật trữ tình đã làm cho hai khổ thơ cuối tuy vẫn được diễn tả bằng giọng thơ nhỏ nhẹ nhưng lại mang sức khái quát lớn, có ý nghĩa triết lí.

    Mùa xuân nho nhỏ là một bài thơ hay vì đã nói được những tình cảm lớn, những xúc động lớn của chính tác giả và của cả một thời đại.

    Cảm nhận và suy ngẫm của em về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ

    Cứ mỗi dịp tết đến xuân về chúng ta không thể nào quên Thanh Hải với “Mùa xuân nho nhỏ” đã góp vào thơ ca truyền thống dân tộc một bài thơ xuân đẹp, đậm đà tình nghĩa. Bài thơ được viết năm 1980 khi tác giả đang trên giường bệnh, được xem là lời tâm niệm đáng trân trọng trước lúc ra đi. “Mùa xuân nho nhỏ” của ông đã nói lên lẽ sống, ý nghĩa của đời sống con người bằng cảm xúc thật, là điều tâm niệm chân thành, thiết tha với giọng thơ nhỏ nhẹ tâm tình.

    Bài thơ bắt đầu bằng cảm xúc trực tiếp, hồn nhiên trong trẻo trước vẻ đẹp và sức sống của mùa xuân thiên nhiên. Từ đó mở ra thành hình ảnh mùa xuân của đất nước. Từ mạch cảm xúc ấy nhà thơ bộc lộ suy nghĩ và ước nguyện làm một mùa xuân nho nhỏ góp vào mùa xuân lớn và kết thúc bài thơ là niềm tự hào về quê hương đất nước qua điệu dân ca xứ Huế.

    Bằng những hình ảnh chọn lọc đặc sắc nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên mùa xuân với dòng sông xanh, một bông hoa tím biếc và tiếng chim chiền chiện:

    Mọc giữa dòng sông xanh
    Một bông hoa tím biếc
    Ơi! Con chim chiền chiện
    Hót chi mà vang trời.

    Bức tranh xuân còn tràn trề sức sống được thể hiện qua nghệ thuật đảo ngữ. Động từ “mọc” làm vị ngữ đặt trước bộ phận chủ ngữ, đặt ở đầu khổ thơ và bài thơ là một dụng ý nghệ thuật. Nó không những tạo cho người đọc ấn tượng đột ngột bất ngờ, mới lạ mà còn làm cho hình ảnh sự vật trở nên sống động như đang diễn ra trước mắt. Tưởng như bông hoa tím kia đang từ từ mọc lên trên dòng sông xanh. Qua vài nét phác họa nhưng tác giả đã vẽ ra được cả không gian mênh mông với những gam màu xanh – tím mang đậm đặc trưng xứ Huế.

    Trong không gian ấy tiếng chim chiền chiện hót trên bầu trời xuân làm cho cảnh trở nên tươi vui rộn ràng, ấm áp và náo nức, nhà thơ trực tiếp bộc lộ cảm xúc một cách cao độ:

    Ơi! Con chim chiền chiện
    Hót chi mà vang trời.

    Với nghệ thuật chuyển đổi cảm giác: từ thính giác (nghe tiếng chim hót), thành thị giác (thấy tiếng chim đọng thành giọt long lanh như có ánh sáng) và xúc giác (đưa tay hứng tiếng chim). Hình ảnh có cái phi lí nhưng có thể chấp nhận trong thơ, một sự sáng tạo hợp lí để biểu hiện cái cảm xúc ngây ngất say sưa của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời lúc vào xuân.

    Từ mùa xuân thiên nhiên, đất trời, nhà thơ chuyển sang cảm nhận về mùa xuân của đất nước với hình ảnh “người cầm súng”, “người ra đồng”:

    “Mùa xuân người cầm súng
    Lộc giắt đầy trên lưng
    Mùa xuân người ra đồng
    Lộc trải dài nương mạ”

    Bằng cấu trúc song hành chỉ hai nhiệm vụ chiến lược sản xuất và chiến đấu của nhân dân ta. “Lộc” là chồi non lộc biếc mơn mởn. Khi xuân về cây cối đâm chồi nảy lộc. “Lộc” trong văn cảnh này tượng trưng cho vẻ đẹp mùa xuân và sức sống mãnh liệt của đất nước. Người lính khoác trên lưng vòng lá ngụy trang xanh biếc, mang theo sức sống mùa xuân, sức mạnh của dân tộc để bảo vệ Tổ Quốc. Người nông dân đem mồ hôi và sức lao động cần cù làm nên màu xanh ruộng đồng” trải dài nương mạ” bát ngát quê hương. Ý thơ vô cùng sâu sắc: máu và mồ hôi của nhân dân đã góp phần tô điểm mùa xuân và để giữ lấy mùa xuân mãi mãi.

    Cả dân tộc bước vào mùa xuân với khí thế khẩn trương náo nhiệt:

    “Tất cả như hối hả
    Tất cả như xôn xao”

    “Hối hả” nghĩa là vội vã. gấp gáp, khẩn trương. “Xôn xao” là có nhiều âm thanh xen lẫn vào nhau làm náo động; Trong câu thơ”xôn xao” chỉ niềm vui đang dâng lên, cặp từ láy “hối hả”, “xôn xao” với điệp ngữ ” Mùa xuân”, “Lộc”, “Tất cả như…” làm cho câu thơ vang lên với nhịp điệu vui tươi mạnh mẽ khác thường. Đó là hành khúc vào xuân của thời đại mới.

    Tiếp theo là những câu thơ nói lên những suy tư về đất nước và nhân dân:

    Đất nước bốn ngàn năm
    Vất vả và gian lao
    Đất nước như vì sao
    Cứ đi lên phía trước

    Chặng đường lịch sử của đất nước bốn nghìn năm trường tồn với bao thử thách “vất vả và gian lao”. Nhân dân, với bao thế hệ này sang thế hệ khác đã đem xương máu và mồ hôi bảo vệ và xây dựng đất nước “Đất nước như vì sao” là hình ảnh so sánh đẹp đầy ý nghĩa. So sánh đất nước với vì sao là biểu lộ niềm tự hào đối với đất nước, khẳng định lòng tin vào sự phát triển không gì ngăn cản nổi “cứ đi lên phía trước”. Ba tiếng “cứ đi lên” thể hiện chí khí, quyết tâm và niềm tin sắt đá của dân tộc để xây dựng một Việt nam giàu mạnh.

    Sau những suy tư về đất nước là tâm niệm của nhà thơ. Tác giả nguyện cầu được hóa thân:

    Ta làm con chim hót
    Ta làm một cành hoa
    Ta nhập vào hòa ca
    Một nốt trầm xao xuyến

    Nếu khổ thơ đầu nhà thơ xưng “tôi” (Tôi đưa tay tôi hứng) thì ở đây nhà thơ chuyển sang xưng “ta” không phải là sự ngẫu nhiên. Với “Ta” vừa là số ít vừa là số nhiều, tác giả có thể nói được cái riêng biệt cụ thể, đồng thời lại nói được cái khái quát, cái chung. Đây là quan niệm, phương châm sống và cống hiến của tác giả mà cũng là của chúng ta.

    Khát vọng của nhà thơ được làm một “con chim hót” làm “một cành hoa” và thêm hình ảnh “một nốt trầm”. Từ hình ảnh đẹp của mùa xuân thiên nhiên được miêu tả phần đầu bài thơ, nhà thơ đã chọn nhiều hình ảnh để thể hiện lẽ sống tâm niệm đời mình là phục vụ đất nước, cống hiến cho đất nước. Cách chọn hình ảnh như thế hay ở chỗ tự nhiên, hợp lí theo sự chuyển nghĩa của hình ảnh mùa xuân từ thiên nhiên đến xuân tư tưởng làm cho các tầng lớp trước sau của bài thơ gắn bó với nhau trong một chỉnh thể thống nhất. Lấy cái đẹp của thiên nhiên để thể hiện cái đẹp của lòng người. Con chim, cành hoa vốn nhỏ bé trong đời nhưng chim vô tư cống hiến tiếng hót vui, hoa vô tư cống hiến hương thơm sắc đẹp, làm nên mùa xuân đất trời. Mượn hình ảnh chim trời, bông hoa, nhà thơ muốn nói lên tha thiết, khiêm tốn ước vọng sống có ích, góp phần nhỏ bé phục vụ đất nước, làm nên mùa xuân đất nước. Một nốt nhạc nhỏ chưa đủ làm nên bản nhạc nhưng góp phần làm nên bản nhạc. Nhà thơ ước vọng làm một “nốt nhạc trầm” không véo von, ồn ào, ầm ĩ, nghĩa là mong sống có ích, khiêm tốn và âm thầm góp phần mình vào sự phát triển chung của đất nước.

    Điệp ngữ “ta làm” thật thiết tha, lời thơ như đang ngân lên thành lời ca. Sống phải làm cái gì đó cho đời dù rất nhỏ.

    Khổ thơ tiếp theo càng rõ hơn ý nghĩa nhan đề bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”

    Một mùa xuân nho nhỏ
    Lặng lẽ dâng cho đời
    Dù là tuổi hai mươi
    Dù là khi tóc bạc

    Nhà thơ còn tâm niệm làm “Một mùa xuân nho nhỏ” lặng lẽ dâng cho mùa xuân rộng lớn của đất nước. làm một mùa xuân nghĩa là gì? Nghĩa là sống một cuộc đời đẹp như mùa xuân. Nhưng tại sao lại là mùa xuân nho nhỏ? Một ý thơ hay, một khát vọng khiêm tốn, một ý thức đúng về mối quan hệ cá nhân và xã hội. Hình ảnh mùa xuân thường gợi cảnh đất trời rộng lớn, trăm hoa đua nở. Nhà thơ chỉ nguyện làm một mùa xuân nho nhỏ góp vào mùa xuân rộng lớn thuộc về đất trời, đất nước, xã hội, không một cá nhân nào làm nổi. Nhưng mỗi cá nhân có thể đóng góp mùa xuân của cuộc đời riêng vào mùa xuân của cuộc đời chung làm cho nó phong phú, rực rỡ thêm. Và lặng lẽ dâng cho đời với tất cả sự khiêm tốn đáng yêu của một con người tha thiết được cống hiến suốt đời cho đất nước dù tuổi hai mươi hay khi tóc bạc.

    Ai cũng phải sống có ích cho đời “Mùa xuân nho nhỏ” là một ẩn dụ đầy sáng tạo khắc sâu ý tưởng ” Mỗi cuộc đời đã hóa núi sông ta” (Nguyễn Khoa Điềm). Bởi lẽ “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình” (Tố Hữu). Sống hết mình thủy chung cho đất nước, đem cả cuộc đời mình phục vụ đất nước cả từ lúc “tuổi hai mươi” đến khi”tóc bạc”. Thơ hay là ở cảm xúc chân thành. Thanh Hải đã nói lên những lời “gan ruột” của mình, ông đã sống như lời ông tâm tình. Khi đất nước bị Mĩ – Diệm và tay sai âm mưu chia cắt làm hai miền, ông hoạt động bí mật trong vùng giặc, gây dựng phong trào cách mạng, coi thường cảnh máu chảy đầu rơi. Cảm động hơn nữa là bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được ông viết ra trên giường bệnh, một tháng trước lúc ông qua đời.

    Thanh Hải sử dụng biện pháp nghệ thuật điệp ngữ tài tình: “Ta làm…ta làm…ta nhập…” “Dù là…dù là…”đã làm cho âm điệu thơ, giọng thơ tha thiết sâu lắng, ý thơ được khắc sâu và nhấn mạnh. Người đọc xúc động biết bao trước một giọng thơ trữ tình, ấm áp như vậy. Có thể xem đoạn thơ này là những lời trăng trối của ông.

    Khổ thơ cuối là tiếng hát yêu thương: Phải chăng nhà thơ vừa làm thơ vừa hát những câu thơ của mình, hát theo làn điệu dân ca trầm trầm, buồn buồn nhưng lạc quan của quê hương xứ Huế. Nhịp thơ năm chữ gieo vần hai câu một nhưng ở khổ thơ này dôi ra một câu vần bằng. Bài thơ như ngừng chậm lại, ngẫm nghĩ, lắng nghe:

    Mùa xuân ta xin hát
    Câu Nam ai, Nam bình
    Nước non ngàn dặm mình
    Nước non ngàn dặm tình
    Nhịp phách tiền đất Huế.

    “Nước non ngàn dặm” mấy câu mở đầu bài ca Nam ai xứ Huế đi vào bài thơ một cách tự nhiên. Nhưng “nước non ngàn dặm mình” rồi lại “nước non ngàn dặm tình”, thật là yêu đất nước mình, yêu quê hương mình lắm. Nước non ngàn dặm của mình, cũng là nước non ngàn dặm trong tình yêu tha thiết của mình.

    “Mùa xuân nho nhỏ” là một sáng tạo độc đáo của Thanh Hải, góp vào các hình ảnh mùa xuân trong thơ ca. Các nhà thơ từ xưa tới nay đã viết nhiều về mùa xuân với nhiều cảm hứng và những phát hiện riêng khác nhau nhưng tựu trung thường khai thác hai phương diện: mùa xuân của thiên nhiên và mùa xuân con người, Thanh Hải cũng không đi ngoại lệ ngoài hai phương diện ấy của chủ đề mùa xuân. Cái đặc sắc ở đây chính là hình ảnh “Mùa xuân nho nhỏ”, Đó là những biểu tượng cho những gì tinh túy, đẹp đẽ nhất của sự sống và của cuộc đời mỗi người. “Mùa xuân nho nhỏ” ấy góp vào làm nên mùa xuân lớn của cuộc đời, của đất nước. Hình ảnh này thể hiện quan niệm về sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung giữa cá nhân và cộng đồng. Mùa xuân nữa lại về trên đất nước ta, thắp nén nhang tưởng nhớ thi nhân đã để lại cho đời một lời tâm tình nhỏ nhẹ khiêm nhường. Mỗi chúng ta hãy sống đẹp – hãy làm một mùa xuân nho nhỏ trong mùa xuân lớn của dân tộc.

    Cảm nghĩ Mùa xuân nho nhỏ hay nhất

    Thanh Hải sinh năm 1930, quê ở Thanh Điền, Thừa Thiên Huế. Ông sinh ra trong một gia đình tri thức nghèo, từ nhỏ gắn bó với cuộc sống của những người nông dân nên ông dành một tình yêu đặc biệt cho quê hương, đất nước của mình. Là một nhà thơ hiện đại của Văn học Việt Nam, ông ghi dấu ấn trên văn đàn thơ ca bằng những tác phẩm nhẹ nhàng nhưng duyên dáng, thể hiện được ước muốn lớn lao và ý nghĩa. Có thể kể đến Những đồng chí trung kiên; bài thơ Ánh mắt hay tập thơ Huế mùa xuân. Và không thể không nhắc đến thi phẩm Mùa xuân nho nhỏ được Thanh Hải viết vào những ngày cuối đời mình trên giường bệnh, bài thơ thật đẹp không chỉ bởi ngôn từ mà còn bởi những thông điệp tích cực mà nó mang lại:

    “Mọc giữa dòng sông xanh
    Một bông hoa tím biếc
    Ơi con chim chiền chiện
    Hót chi mà vang trời”

    Bức tranh xuân trên miền đất Huế thật đẹp, thật tình. Nơi dòng Hương Giang êm đềm trong trẻo ấy, một bông hoa lục bình tím biếc đang khoe sắc rực rỡ. Động từ “mọc” được đặt đầu câu thơ càng thể hiện được sức sống đầy mạnh mẽ của sự vật. Nhành lục bình nhỏ bé vẫn kiên cường trỗi dậy giữa dòng, mang vẻ đẹp thơ mộng của mình góp vui, tô điểm cho không gian mùa xuân tuyệt đẹp. Màu tím biếc của hoa, màu xanh trong của dòng nước hài hoà, duyên dáng mà đầy quyến rũ khiến người nghệ sĩ không khỏi bị cuốn hút, xao lòng. Xuân trên đất Huế không có “mơ nở trắng rừng” như mùa xuân trong Việt Bắc, cũng không có “cỏ đồng nội xanh rì” như trong thơ Xuân Diệu, xuân Huế mang nét tươi mới của hoa lục bình, của nước sông Hương thơ mộng, của đất trời vùng đất kinh kỳ cổ kính, trầm mặc, bình yên đến lạ thường.

    Xuân trên Huế không chỉ mang sắc màu, xuân trên Huế còn mang cả những âm thanh gần gũi mà đầy mê hoặc. Đó là tiếng hót trong trẻo của chú chim chiền chiện trên cao, khúc hót chào xuân xưa đi vẻ tĩnh lặng, mang đến niềm vui cho vạn vật. những tiếng “chi”, “ơi” nghe sao mà ngọt ngào đến thế, tiếng nói thân thương của người Huế ấy khiến ai cũng phải xao lòng bởi sự gần gũi mà thân thương.

    “Từng giọt long lanh rơi
    Tôi đưa tay tôi hứng”

    “Từng giọt long lanh rơi” gợi cho ta nhiều liên tưởng thú mị, là nàng xuân kiêu kiêu kì mang giọt xuân đến cho đời hay là những giọt mưa xuân, cũng có thể là những giọt sương đêm còn vương nơi lá cành, những giọt âm thanh của chim chiền chiện. Nhưng dù là giọt gì đi nữa thì nó cũng được người thi nhân trân trọng, nâng niu, cảm nhận bằng cả trái tim mình. Dù đang nằm trên giường bệnh, mà sức xuân dạt dào đã làm cho người thi nhân không khỏi háo hức, hoà quyện trong vẻ đẹp của tự nhiên, trong không khí ngọt ngào của mùa xuân xứ Huế.

    Bước sang khổ thơ thứ hai, ta được cảm nhận về bức tranh sinh hoạt và chiến đấu của con người trong những ngày xuân tươi.

    “Mùa xuân người cầm súng
    Lộc trải đầy trên lưng
    Mùa xuân người ra đồng
    Lộc trải dài nương lúa
    Đất nước bốn nghìn năm
    Vất vả và gian lao
    Tất cả như hối hả
    Tất cả như xôn xao”

    Đất nước ta đi lên từ nghèo khổ, chiến đấu để giành độc lập và dựng xây đời bằng bàn tay lao động. Hiểu thấu được những hy sinh và công lao của dân tộc, Thanh Hải đã lựa chọn những hình ảnh tiêu biểu nhất để bày tỏ. Mùa xuân – Người cầm súng, đó là những ngày chiến đấu, mang trên đôi vai quyết tâm và ý chí kiên cường, mang trên đôi vai cả niềm tin của dân tộc. Mùa xuân – người ra đồng, đó là vẻ đẹp của nhân dân lao động, chịu thương chịu khó, một nắng hai sương tăng gia sản xuất phục vụ kháng chiến, khi hoà bình người dân lại tiếp tục hăng hái trên ruộng nương để phát triển kinh tế, dựng xây cho đời. “Lộc” xuân không chỉ là lộc non xanh biếc của lá cành, lúa nương mà nó còn là lộc của thắng lợi chiến đấu, của những thành quả trong sản xuất tăng gia.

    Các từ “hối hả”; “xôn xao”, càng làm nổi bật không khí thi đua, thúc giục nhau lao động dựng xây đời.

    Trong khí thế sục sôi ấy, tác giả không khỏi tự hào, không khỏi xúc động khi nghĩ về những vất vả để làm nên đất nước ngày nay. Và hơn thế nữa là một niềm tin bất diệt về một tương lai đầy tươi sáng của dân tộc:

    “Đất nước bốn nghìn năm
    Vất vả và gian lao
    Đất nước như vì sao
    Cứ đi lên phía trước”

    Trong đoạn thơ này, ta như bắt gặp một cảm xúc chung của Thanh Hải với Nguyễn Đình Thi khi dựng lên một tượng đài đất nước bất tử và hiên ngang, kiên cường và bất khuất:

    “Súng nổ rung trời giận dữ
    Người lên như nước vỡ bờ
    Nước Việt Nam từ máu lửa
    Rũ bùn đứng dậy sáng lòa!”

    Từ niềm say đắm và tự hào ấy, nhà thơ cũng muốn góp chút sức nhỏ bé của mình vào dựng xây đời, góp mùa xuân của đời mình vào tô điểm mùa xuân dân tộc:

    ” Ta làm con chim hót

    Dù là tuổi đôi mươi
    Dù là khi tóc bạc”

    Tiếng “ta” cất lên cũng là lúc nhà thơ nói hộ tấm lòng của những con người đất Việt. Ai ai cũng muốn đóng góp sức mình cho sự phát triển chung. Có thể là cành hoa nhỏ bé, có thể là một nàng chim xanh, cũng có thể là một nốt trầm lặng trong khúc ca cuộc đời. Dù là ai, dù làm gì thì cũng đều phải sống một cuộc đời ý nghĩa để mang đến cho cộng đồng, cho dân tộc những điều tốt đẹp mà mình có thể làm. Ước nguyện thật chân thành, ý nguyện thật lớn lao. Phải chăng nhà thơ Thanh Hải cũng như chàng thanh niên trẻ trên đỉnh núi Sa Pa trong tác phẩm của Nguyễn Thành Long, cống hiến tuổi xuân xanh thầm lặng để làm việc giúp ích cho chiến đấu, giúp ích cho cuộc đời. Dù đã sắp lìa xa cõi đời mà nhà thơ vẫn không ngừng khát khao được cống hiến thì có gì khi còn trẻ mà chúng ta lại chần chừ do dự. Hãy sống một cuộc đời như chưa từng sông:

    “Dù là tuổi hai mươi
    Dù là khi tóc bạc”

    Bài thơ khép lại bằng cây thơ tựa như lời hát nhẹ nhàng:

    “Mùa xuân ta xin hát
    Câu Nằm ai Nắm bình
    Nước non ngàn dặm tình
    Nước non ngàn dặm mình
    Nhịp phách tiền đất Huế”

    Mùa xuân ta xin dâng cho đời lời ca tiếng hát, lời hát mang tâm tình của một người con thủy chung gắn bó với cội nguồn xứ Huế. Nơi đất Việt, đâu cũng là nhà, chốn đất Việt, ta nặng lòng son sắt với Huế.

    Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được viết nên bởi một ngòi bút đầy tài năng. Hình ảnh quen thuộc, bình dị, tứ thơ nhẹ nhàng, chân thành, ngôn ngữ trong sáng, đậm chất Huế,… tất cả góp phần làm nên một tác phẩm xuất sắc góp vào thành tựu của thơ văn nước nhà.

    Tư liệu liên hệ, mở rộng “Mùa xuân nho nhỏ”

    1. Liên hê hình ảnh bức tranh thiên nhiên mùa xuân:

    “Mùa xuân là cả một mùa xanh
    Giời ở trên cao, lá ở cành
    Lúa ở đồng tôi và lúa ở
    Đồng nàng và lúa ở đồng anh”

    (“Mùa xuân chín” – Nguyễn Bính)

    2. Khi phân tích hình ảnh bông hoa tím biếc, chúng ta có thể liên hệ đến thi phẩm “Trở về quê nội” của Lê Anh Xuân:

    “Con sông nhỏ tuổi thơ ta tắm
    Vẫn con đây nước chẳng đôi dòng
    Hoa lục bình tím cả bờ sông”

    3. Liên hệ với tiếng chim chiền chiện:

    “Con chim chiền chiện
    Bay vút, vút cao
    Lòng đầy yêu mến
    Khúc hát ngọt ngào”

    (“Con chim chiền chiện” – Huy Cận)

    4. Liên hệ quan niệm sống đẹp của tác giả Thanh Hải với nhân vật vô danh trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long hay trong lời của bài hát “Tự nguyện” của Trương Quốc Khánh:

    “Nếu là chim tôi sẽ là loài bồ câu trắng
    Nếu là hoa tôi sẽ là một đóa hướng dương
    Nếu là mây tôi sẽ là một vầng mây ấm
    Là người tôi sẽ chết cho quê hương”

    5. Trong thơ Tố Hữu, ta cũng dễ dàng thấy được quan niệm sống đẹp đẽ này:

    “Nếu là con chim, chiếc lá
    Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
    Lẽ nào vay mà không có trả
    Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”

    6. Liên hệ khát vọng cống hiến thầm lặng của tác giả:

    “Từ dáng đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất
    Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”

    (“Dáng đứng Việt Nam” – Lê Anh Xuân)

    7. Liên hệ hình ảnh: “Đất nước như vì sao/ Cứ đi lên phía trước”:

    “Nước Việt Nam từ máu lửa
    Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”

    (“Đất nước” – Nguyễn Đình Thi)

    ……..

    > Tải file để tham khảo các mẫu còn lại

    Để lại một bình luận

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *