Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong Truyện Kiều gồm 5 mẫu hay, đặc sắc nhất, giúp các em học sinh lớp 9 có thêm nhiều thông tin bổ ích, hiểu rõ hơn về nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Du.
Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 9: Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong Truyện Kiều
Truyện Kiều không chỉ thành công bởi nội dung, tư tưởng mà còn được khẳng định bởi chính tài năng xây dựng nhân vật tài tình của đại thi hào Nguyễn Du. Qua đó, giúp người đọc hình dung rõ bản chất, tính cách bên trong của nhân vật. Mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Download.vn để ngày càng học tốt môn Văn 9:
Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong Truyện Kiều
Dàn ý Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong Truyện Kiều
1. Mở bài:
- Giới thiệu về tác phẩm: Truyện Kiều là một áng văn chứa nhiều giá trị, lưu truyền muôn đời.
- Giới thiệu về nghệ thuật miêu tả nhân vật: nghệ thuật miêu tả nhân vật là một trong những điểm sáng. Qua những đoạn trích được học trong chương trình văn 9 kì 1 như “Chị em Thúy Kiều”, “Cảnh ngày xuân”, “Mã Giám Sinh mua Kiều”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã phần nào chứng minh điều đó.
2. Thân bài:
a, Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật:
* Thủ pháp ước lệ tượng trưng: Đây là thủ pháp miêu tả được sử dụng trong văn học Trung đại, lấy vẻ đẹp thiên nhiên tả vẻ đẹp con người. Thiên nhiên là trung tâm, là chuẩn mực của cái đẹp.
– Trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”: Giới thiệu chị em Thúy Kiều: “đầu lòng hai ả tố nga”, “mai cốt cách tuyết tinh thần” – mĩ từ ca ngợi 2 cô gái đẹp người đẹp nết.
- Tả Thúy Vân: dùng hình ảnh mây, tuyết, hoa, ngọc để nói về vẻ đẹp trong sáng, hiền hậu, đoan trang của Vân.
- Tả Thúy Kiều: dùng hình ảnh “làn thu thủy, nét xuân sơn” để tả vẻ đẹp đôi mắt của Kiều, ca ngợi tài năng của Kiều “vốn tính trời”, “nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương”.
– Trong đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”, tác giả dùng hình ảnh hoa để tả Kiều: “lệ hoa mấy hàng”, “Nét buồn như cúc điệu gầy như mai”, vừa tả người đẹp, vừa thể hiện nỗi tủi nhục khi phải bán mình chuộc cha.
– Trong đoạn trích Cảnh ngày xuân”: Tả nam thanh nữ tú đi hội đạp thanh là “yến anh”, “tài tử”, “giai nhân”, vẻ đẹp của con người hòa với cảnh sắc thiên nhiên, khiến thiên nhiên thêm sinh động.
⇒ Nhận xét:
– Về ngôn ngữ: tác giả sử dụng ngôn từ trang trọng, mĩ miều, hình ảnh tươi đẹp, trong sáng.
– Hình ảnh: lựa chọn những hình ảnh đẹp trong tự nhiên.
– Qua miêu tả thấy được tuyến nhân vật chính diện, cho thấy tình cảm yêu mến, ngưỡng mộ của tác giả đối với nhân vật.
* Thủ pháp tả thực: tả Mã Giám Sinh
– Giới thiệu nhân vật: “Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh/ Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần”.
– Ngoại hình, tuổi tác: “Quá niên trạc ngoại tứ tuần/ Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”.
– Cho thấy phẩm chất con người qua một chuỗi hành động:
- Không có tôn ti trật tự, con người không có giáo dục: “Trước thầy sau tớ lao xao”, “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”.
- Bản chất chợ búa, con buôn: “Đắn đo cân sắc cân tài” bắt Kiều đàn hát, làm thơ để xem tài, sau khi ưng ý mới “tùy cơ dặt dìu” hỏi giá, tiếp tục “Cò kè bớt một thêm hai”, coi Kiều như một món hàng và trả giá bốn trăm lượng.
⇒ Nhận xét:
– Tác giả sử dụng ngôn từ tả thực, chỉ dùng 2 câu để tả ngoại hình nhân vật, còn lại tả hành động để cho thấy bản chất con người nhân vật Mã Giám Sinh; sử dụng nhiều tính từ như “lao xao”, “sỗ sàng”, đặc biệt động từ “tót” cho thấy một hành động vô phép tắc, dáng ngồi xấu xí.
– Qua miêu tả thấy được nhân vật phản diện, thể hiện sự khinh ghét của tác giả
b, Nghệ thuật miêu nội tâm nhân vật: qua đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
* Thủ pháp tả cảnh ngụ tình
– Cảnh vật được nhìn qua con mắt của kẻ đang đau buồn như Thúy Kiều tràn ngập 1 màu ảm đạm, u ám, cô liêu: 8 câu thơ cuối bài, cảnh vật được nhìn bằng sự cô đơn, sợ hãi của Kiều, tác giả miêu tả tâm trạng Kiều thông qua những hình ảnh thiên nhiên như thuyền, cánh hoa trôi trên dòng nước, gió thét, sóng gào.
* Thủ pháp độc thoại nội tâm
– Tác giả tả tâm trạng nhớ thương của Kiều với Kim Trọng, với cha mẹ thông qua 8 câu độc thoại nội tâm của Kiều, từ nhớ thương người yêu đến thương xót cho phẩm hạnh, cho mối tình của hai người; từ lo lắng cho cha mẹ đến xót xa đau buồn nghĩ mình khó quay về gặp cha mẹ nữa.
c, Nhận xét về nghệ thuật miêu tả nhân vật:
– Dùng cách gián tiếp để miêu tả nhân vật chính diện: dùng thiên nhiên tả vẻ đẹp, dùng thiên nhiên tả nội tâm; giọng thơ nhẹ nhàng, trang trọng, ưu ái, thương xót.
– Dùng cách trực tiếp để tả nhân vật phản diện: tả trực tiếp ngoại hình, tính cách, hành động, không sử dụng hình ảnh thiên nhiên trong miêu tả; giọng thơ thể hiện thái độ tức giận, khinh ghét.
– Qua miêu tả dự đoán trước số phận nhân vật.
3. Kết bài:
- Nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Du qua 1 vài đoạn trích đã được học: kết hợp miêu tả với thể hiện tình cảm bản thân, sử dụng những thủ pháp nghệ thuật truyền thống xen với cảm hứng nhân đạo mới.
- Cho thấy tài năng của Nguyễn Du.
Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong Truyện Kiều – Mẫu 1
Truyện Kiều một tuyệt tác không chỉ của văn học Việt Nam mà còn là của văn học thế giới. Sự thành công của tác phẩm không chỉ là ở nội dung hấp dẫn, truyền tải nhiều giá trị nhân văn tốt đẹp. Mà còn ở hình thức nghệ thuật đặc sắc, một trong những nét nghệ thuật đó chính là nghệ thuật xây dựng chân dung nhân vật. Bằng nét vẽ ước lệ cho nhân vật chính diện và nét vẽ thực cho nhân vật phản diện, Nguyễn Du đã xây dựng nên những chân dung nghệ thuật đặc sắc.
Trước hết, khi xây dựng nhân vật chính diện, những con người có phẩm chất đức hạnh tốt đẹp, Nguyễn Du sử dụng bút pháp ước lệ, tượng trưng để làm nổi bật vẻ đẹp của họ. Là chàng thư sinh Kim Trọng hiện lên thật đẹp đẽ, đúng cốt cách của một kẻ sĩ, người quân tử:
Tuyết in sắc ngựa câu giòn,
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời,
[..]
Nguyên người quanh quất đâu xa,
Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh.
Nền phú hậu bậc tài danh,
Văn chương nết đất thông minh tính trời.
Phong tư tài mạo tót vời,
Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa.
Còn chàng Từ Hải lại hiện lên vô cùng uy dũng, mang khí chất của bậc anh hùng, chọc trời khuấy nước: “Râu hùm, hàm én, mày ngài,/ Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”. Nhưng bức tranh chân dung đẹp đẽ nhất chính là khi miêu tả chân dung hai nàng Kiều, đây là những chân dung mang tính chất dự đoán số phận. Vân mang vẻ đẹp đầy đặn, phúc hậu: “Vân xem trang trọng khác vời/ Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang/ Hoa cười ngọc thốt đoan trang/ Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da” . Nguyễn Du sử dụng hình ảnh ước lệ: khuôn trăng, nét ngài, hoa cười, ngọc thốt để miêu tả vẻ đẹp nàng Vân. Thúy Vân có khuôn mặt đầy đặn như trăng rằm, nụ cười đoan trang duyên dáng. Vẻ đẹp đó khiến tạo hóa thua nhường, từ đó cũng dự báo cuộc đời êm đẹp, bình lặng, hạnh phúc của nàng.
Với nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du sử dụng bút pháp gợi tả, chỉ chấm phá vài nét nhưng gợi lên cái thần thái, cốt cách của nhân vật:
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Vẻ đẹp của nàng là vẻ sắc sảo, mặn mà, nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành làm ai cũng phải mê đắm. Không giống như Thúy Vân, đi miêu tả chi tiết, ở Thúy Kiều Nguyễn Du chỉ miêu tả đôi mắt của nàng, đôi mắt nàng được ví như làn nước mùa thu trong xanh, tĩnh lặng mà ẩn chứa biết bao cảm xúc, đôi lông mày thanh tú như dáng núi mùa xuân. Chính cách gợi tả này đã khiến cho vẻ đẹp của Kiều càng trở nên sắc sảo hơn. Vẻ đẹp của nàng khiến hoa ghen, liễu hờn, tạo hóa cũng phải ghen tuông, từ đó dự báo cuộc đời nhiều bất hạnh, sóng gió. Và cuộc đời 15 năm phiêu bạt đã cho thấy chiêm nghiệm của Nguyễn Du: “Lạ gì bỉ sắc thư phong/ Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”.
Nếu như đối với các nhân vật chính diện, Nguyễn Du sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng, chân dung nhân vật hiện lên vô cùng đẹp đẽ, mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp, thì đến với các nhân vật phản diện, ông lại sử dụng bút pháp tả thực, lột trần bộ mặt xảo trá của chúng. Mã Giám Sinh hiện lên là con buôn chính hiệu:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao
…
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng
Là người đã ngoài bốn mươi tuổi, theo tục lệ xưa thường sẽ để râu, nhưng tên Mã Giám Sinh lại mày râu nhẵn nhũi, kệch cỡm, lố bịch, cố tình ăn mặc trẻ trung như một người con trai mới lớn. Hai từ nhẵn nhụi, bảnh bao đã lột trần bản chất thực của hắn, đồng thời thể hiện thái độ mỉa mai, châm biếm của tác giả. Hắn cố tình dùng quần áo bề ngoài để che đậy bản chất xấu xa ở bên trong nhưng những hành động cử chỉ của hắn thì không thể thay đổi: “ghế trên ngồi tót” hết sức thiếu văn hóa. Không chỉ vậy, bản chất con buôn còn được bộc lộ khi bắt Kiều gảy đàn làm thơ để hắn kiểm chứng: “Đắn đo cân sắc, cân tài/ Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ” . Rồi mua bán nàng như một món hàng, cò kè bớt một thêm hai để được giá mà hắn cho là xứng đáng nhất.
Còn Tú Bà, chỉ cần đúng bốn câu thơ duy nhất, Nguyễn Du đã cho người đọc thấy sự xấu xa, bản chất đểu giả của thị:
Rèm trong đã thấy một người bước ra.
Thoắt trông lờn lợt màu da,
Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao?
Trước xe lơi lả han chào
Bản chất buôn thịt bán người, lấy đêm làm ngày đã lộ rõ trên làn da nhợt nhạt, trong dáng người to lớn đẫy đà của mụ. Thêm vào đó là điệu bộ lả lơi, chào hỏi khách đã cho chúng ta hình dung đầy đủ về bản chất xấu xa, cũng như công việc dơ bẩn của mụ: lừa lọc, đưa biết bao người con gái hiền lành nết na vào cảnh cực khổ, phải bán rẻ nhân phẩm của mình.
Với biệt tài xây dựng và miêu tả chân dung nhân vật, Nguyễn Du đã xây dựng thành công hai tuyến nhân vật chính diện và phản diện. Qua những chân dung nhân vật này, ông cũng gửi gắm thái độ trân trọng ngợi ca với những kẻ quốc sắc, bậc thiên tài trong xã hội. Đồng thời cũng thể hiện thái độ mỉa mai, châm biếm, căm ghét với những kẻ xấu xa, độc ác.
Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong Truyện Kiều – Mẫu 2
Nếu như ai đã từng đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du, có lẽ đều tâm phục nghệ thuật dẫn truyện tài tình, cách sử dụng ngôn ngữ bác học và bình dân một cách linh hoạt, điêu luyện và đặc biệt là nghệ thuật miêu tả nhân vật thật độc đáo và gần với đời sống. Nói về nghệ thuật miêu tả nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du có ý kiến cho rằng: “Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã rất tài tình trong việc khắc hoạ nhân vật. Nhưng tác giả không chỉ dừng lại ở dáng vẻ bề ngoài, với ông, tả ngoại hình là để giúp cho người đọc hình dung rõ hơn bản chất, tính cách bên trong của nhân vật”.
Nguyễn Du đã xây dựng nhân vật của mình tập trung ở hai dạng chính theo quan điểm truyền thống là : nhân vật phản diện và nhân vật chính diện. Nếu ở nhân vật chính diện, tác giả thường sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng, xây dựng nhân theo lối lí tưởng hoá thì ở nhân vật phản diện, tác giả thường sử dụng bút pháp tả thực để khắc hoạ. Dù miêu tả nhân vật ở khía cạnh nào, thì ngòi bút của ông cũng đạt đến trình độ bậc thầy về ngôn ngữ, bởi nhân vật hiện lên rất sống động và chân thực.
Về nhân vật chính diện, khi miêu tả Thuý Vân, Thuý Kiều tác giả đã sử dụng bút pháp ước lệ, hình ảnh ẩn dụ tượng trưng, thủ pháp tiểu đối để gợi tả vẻ đẹp chung của hai nàng. Hai nàng có dáng vẻ mảnh mai thanh tao như cây mai “Mai cốt cách”, tâm hồn trong trắng, ngây thơ như tuyết “Tuyết tinh thần”. Vẻ đẹp của hai nàng đã đạt đến độ tròn trịa, hoàn mĩ “mười phân vẹn mười”. Nhưng mỗi người lại mang một nét đẹp riêng không giống nhau là “mỗi người một vẻ”. Chân dung Thuý Vân được nhà văn Nguyễn Du miêu tả là một người con gái có vẻ đẹp hài hòa, cân đối :
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.”
Hai chữ “trang trọng” nói nên vẻ đẹp cao sang, quý phái khác thường của nàng. Vẻ đẹp trong sáng, quý phái ấy được Nguyễn Du so sánh với những hình tượng đẹp nhất của thiên nhiên như trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết. Nàng có khuôn mặt dày đặn, tròn trịa như mặt trăng, đôi lông mày sắc nét, miệng cười tươi như hoa, tiếng nói trong như ngọc, làn da trắng mịn hơn tuyết, mái tóc óng ả hơn mây. Nàng mang một vẻ đẹp trong sáng, phúc hậu, hài hòa khiến thiên nhiên phải “nhường”, “thua”. Qua đó, nhà thơ Nguyễn Du đã khắc hoạ bức chân dung của Thuý Vân gợi lên một tương lai tươi sáng, bình yên, hạnh phúc.
Vẫn với bút pháp ước lệ, tượng trưng tả vẻ đẹp của Thuý Kiều tác giả lại chỉ miêu tả một cách khái quát mà không đi vào chi, khi miêu tiết như Thuý Vân. Nhà thơ chủ yếu đặc tả đôi mắt của nàng. Bởi đôi mắt vốn dĩ được coi là cửa sổ của tâm hồn, qua đôi mắt, những vẻ đẹp về tâm hồn, trí tuệ của Thuý Kiều được thể hiện một cách đặc biệt.
“Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”
Thuý Kiều được miêu tả có đôi mắt long lanh, trong sáng, linh hoạt như nước mùa thu, đôi lông mày thanh tú như dáng núi mùa xuân khiến vẻ đẹp của nàng khiến thế gian phải “nghiêng nước nghiêng thành”. Vẻ đẹp của nàng khiến thiên phải đố kị, hờn ghen. Với cách tả ấy, Nguyễn Du đã vẽ lên bức chân dung của nàng Kiều đẹp như tranh hoạ, vẻ đẹp sắc sảo, rạng rỡ, đài các, kiêu sa nhưng qua đó cũng dự báo về một kiếp hồng nhan truân chuyên, đầy trắc trở, chông gai.
Khi miêu tả chàng Kim Trọng, tác giả lại dùng những đài từ uyên bác để diễn tả xuất thân quyền quý, sự hào hoa phong nhã của nhân vật :
Nguyên người quanh quất đâu xa
Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh
Nền phú hậu bậc tài danh
Văn chương nết đất thông minh tính trời
Phong tư tài mạo tót vời
Vào trong nho nhã ra vào hào hoa
Còn đối với Từ Hải, bậc anh hùng trượng nghĩa, tác giả đã mượn những hình ảnh “Râu hùm, hàm én, mày ngài/ Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”, để lột tả những đường nét cường tráng, thần thái uy dũng của một trang hảo hán.
Ngược lại đối với những nhân vật phản diện như Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Tú Bà, tác giả lại dùng những ngôn từ rất bình dân nhưng đã lột tả bản chất thủ đoạn, ranh ma của nhân vật. Với Mã Giám Sinh đôi dòng giới thiệu :
“Hỏi tên rằng: “Mã Giám Sinh”
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần.
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”
tác giả đã lột tả bản chất đều giả, một con người có cách cư xử vô học. Mặc dù đã “trạc ngoại tứ tuần” nhưng dung mạo lại “nhẵn nhụi, bảnh bao” cho thấy tính cách chải chuốt, ăn diện quá mức của y. Bản chất của một con buôn cũng được thể hiện rõ qua cách “Cò kè bớt một thêm hai” cho thấy y là một kẻ rất thủ đoạn, xảo trá và kệch cỡm. Với nhân vật Sở Khanh, một kẻ “bạc tình nổi tiếng lầu xanh”, tác giả dựng lên hình ảnh của một kẻ “Hình dung chải chuốt áo khăn dịu dàng” để đi quyến rũ những “cành phù dung”. Khi miêu tả nhân vật Tú Bà, cái hình dáng quá khổ “đẫy đà” qua màu da “nhờn nhợt” đã tố cáo cái nghề buôn bán, kinh doanh trên thân xác của người phụ nữ, khiến người ta mới đọc và hình dung qua một chút thôi cũng đã đủ thấy để ghê tởm. Không những thế mụ còn độc ác, nanh nọc, đanh đá, khi đay nghiến “Phải làm cho biết phép tao” và sấn sổ và đánh Kiều khiến cho người ta phải kinh hãi. Có thể thấy, đối với những nhân vật phản diện, cách sử dụng ngôn từ bình dân tác giả đã khiến nhân vật phải bộc lộ rõ bản chất của mình.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Truyện Kiều không chỉ được tác giả khắc hoạ qua việc miêu tả chân dung bên ngoài, mà thành công hơn cả chính là việc miêu tả thế giới nội tâm nhân vật vô cùng phong phú, tinh tế, làm cho nhân vật có đời sống riêng, có sức sống riêng. Trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” qua việc miêu tả cảnh ngộ cô đơn buồn tủi đáng thương, nỗi nhớ người thân da diết, tác giả đã khắc hoạ sâu sắc tấm lòng chung thuỷ, hiếu thảo và vị tha của nàng. Qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm, nỗi lòng đau đáu về lương duyên với chàng Kim chẳng khi nào nguôi ngoai :
“Chân trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Hay khi miêu tả tính cách của Hoạn Thư, tác giả chẳng ngại ngần mà thể hiện rõ thái độ của mình :
Ở ăn thì nết cũng hay
Nói điều ràng buộc thì tay cũng già
Bước từ trang thơ qua đến đời thực, hệ thống nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du còn rất nhiều, nhưng có lẽ chỉ qua vài nét phác hoạ về nhân vật chính diện và nhân vật phản diện bằng ngôn từ điêu luyện, tài năng của Nguyễn Du đã được nhân loại khẳng định là bậc “đại thi hào”. Nhà phê bình Hoài Thanh đã phải rất tâm đắc khi viết nên những lời nhận xét sau “Nguyễn Du đã tái tạo lại một cuộc sống đương thời và sáng tạo ra một thế giới có thật. Trong thế giới ấy có những con người rất sống, rất thật khiến nhiều khi người ta không còn nhớ đó là những con người trong tiểu thuyết”.
Bài thơ Truyện Kiều là tác phẩm nổi bật trong chương trình ngữ văn lớp 9, không chỉ có bài làm làm văn Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong Truyện Kiều, mà thầy cô và học sinh còn có thể tìm hiểu các bài làm văn mẫu khác như Nguồn gốc và giá trị của truyện Kiều, Vẻ đẹp ngôn từ trong truyện Kiều, Phân tích hình ảnh thiên nhiên trong truyện Kiều, Phân tích nhân vật Thuý Kiều để làm nổi bật giá trị nhân đạo của Truyện Kiều, hay cả các phần Soạn bài Truyện Kiều cùng rất nhiều kiến thức hữu ích khác.
Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong Truyện Kiều – Mẫu 3
Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là kiệt tác có một không hai trong lịch sử văn chương Việt Nam. Tài năng xuất sắc của tác giả tạo nên giá trị muôn đời cho Truyện Kiều – kết tinh của tinh hoa Tiếng Việt giàu và đẹp. Nguyễn Du xứng đáng là bậc thầy về sử dụng ngôn ngữ, về tả cảnh, tả người, đặc biệt là miêu tả tâm lí nhân vật đã đạt tới trình độ điêu luyện và tinh tế.
Trong đoạn trích Trao duyên, nhà thơ tập trung thể hiện diễn biến tâm trạng phức tạp của Thúy Kiều. Sau cơn vạ gió tai bay bất kì, tổ ấm của gia đình nàng tan tác. Cha và em trai bị đánh đập, giam cầm; của cải bị lũ đầu trâu mặt ngựa vơ vét sạch sành sanh. Để đáp ứng yêu cầu của lũ tham quan ô lại, Thúy Kiều chỉ còn một cách là bán mình để lấy ba trăm lạng vàng chuộc cha.
Suốt đêm: Một mình nàng ngọn đèn khuya, Áo đầm giọt lệ, tóc se mái sầu, Kiều sống với tâm trạng đầy sóng gió và mặc cảm. Trước sự thực phũ phàng là ngày mai nàng sẽ thuộc về tay Mã Giám Sinh, Thúy Kiều cảm thấy như chính mình là người có lỗi trong chuyện tình duyên dang dở, là thủ phạm gây ra nỗi bất hạnh cho Kim Trọng. Nàng thương mình một, thương người yêu mười nên cắn răng chấp nhận số phận đen bạc, cố quên bản thân để nghĩ đến Kim Trọng:
Phận dầu, dầu vậy cũng dầu,
Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời!
Công trình kể biết mấy mươi,
Vì ta khăng khít cho người dở dang.
Thề hoa chưa ráo chén vàng,
Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa!
Trời Liêu non nước bao xa,
Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà tự tôi!
Biết bao duyên nợ thề bồi,
Kiếp này thôi thế thì thôi, còn gì?
Thúy Kiều mang nặng mặc cảm là người có lỗi. Nàng tự hờn trách, dằn vặt vì mình khăng khít khiến người dở dang. Đúng ra là Thúy Kiều, Kim Trọng cùng chủ động đến với nhau, tự nguyện yêu và gắn bó với nhau và cả hai phải được sống hạnh phúc. Kiều có mặc cảm đó là vì nàng luôn nghĩ đến người khác, ngay cả trong lúc đau thương nhất.
Đối diện với với gia cảnh tan tác và tâm trạng rối bời, nàng chỉ biết âm thầm khóc than cho duyên phận, cho số kiếp không may. Đắn đo, suy tính trước sau, nàng thấy chỉ có một cách có thể cứu vãn được phần nào mối lương duyên của mình. Đó là nhờ em gái nối duyên với chàng Kim. Nghĩ là làm, Thúy Kiều đã trao duyên cho Thúy Vân khi cô em gái vừa chợt tỉnh giấc xuân.
Dường như Nguyễn Du đã hóa thân vào Thúy Kiều để thấu hiểu, thông cảm và xót thương cho nàng, thay nàng nói lên những lời làm rung động tâm can người nghe:
Rằng: Lòng đương thổn thức đầy,
Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong.
Hở môi ra cũng thẹn thùng,
Để lòng thì phụ tấm lòng với ai.
Kiều thẹn thùng khó nói vì còn vướng mối tơ duyên với chàng Kim – mối tình đầu trong sáng, nồng nàn mà chỉ mới hai người biết với nhau. Ngỏ chuyện riêng tư với người khác, dù là em gái đi nữa thì cũng không phải dễ dàng. Hơn nữa, mối tình này đã gắn bó đến mức keo sơn, thề nguyền vàng đá dưới Vầng trăng vằng vặc giữa trời. Vì thế mà nó thiêng liêng, sâu nặng, khó có thể đổi thay.
Kiều rơi vào tình thế khó xử, không nói ra không được, mà nói ra thì e ngại. Nàng băn khoăn, ngập ngừng mãi rồi mới thốt được một câu khiến người ngoài cuộc nghe cũng phải mủi lòng:
Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Tội nghiệp thay cho Kiều! Nguyễn Du hiểu tường tận tâm thế, vị thế của nàng lúc này nên mới dùng những từ hàm chứa nỗi đau đớn, chua xót như cậy (tin cậy mà nhờ vả), chịu lời, lạy, thưa. Kiều nói với em gái (bề dưới) mà như nói với bề trên, hơn thế – như một vị ân nhân. Nàng dẫn dắt Thúy Vân đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Sau phút ban đầu khó nói, giờ đây, nàng bộc bạch hết sức chân thành với Thúy Vân về mối tình dang dở của mình:
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn dễ hai bề vẹn hai.
Nợ tình chưa trả cho ai
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.
Nguyễn Du đã đặc tả tâm trạng đau khổ của Thúy Kiều khi nghĩ tới người yêu giờ đây đang thăm thẳm tận đất Liêu Dương, chưa hề biết đến sự tan vỡ bất ngờ của tình yêu đôi lứa. Kiều có ý coi đây là món nợ tình, kiếp này chưa trả được thì đành mang khối tình theo xuống tuyền đài chưa tan. Thúy Kiều tội nghiệp biết chừng nào và cũng cao cả biết chừng nào!
Trong quá trình diễn biến tâm lí của Thúy Kiều có rất nhiều mâu thuẫn. Nàng chủ động nhờ cậy em gái: Xót tình máu mủ thay lời nước non, thay mình đền đáp nghĩa tình với Kim Trọng. Tin em nên nàng trao lại cả những kỉ vật quý giá:
Chiếc thoa với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Thế nhưng chỉ sau giây phút tưởng tượng ra cái chết thê thảm thịt nát xương mòn của mình, mình chỉ còn là mảnh hồn oan vật vờ nơi ngọn cỏ, lá cây mỗi lúc hiu hiu gió thì Kiều lại tiếc nuối và đớn đau gấp bội. Đúng là có mâu thuẫn nhưng đó là mâu thuẫn tất yếu của tấm lòng vị tha đáng quý của Kiều. Nàng lo cho người yêu trước rồi mới nghĩ đến mình và nàng thực sự hoang mang, sợ hãi trước tương lai mù mịt. Nỗi đau tinh thần đã quá mức chịu đựng của thể xác người con gái liễu yếu đào tơ:
Cạn lời hồn ngất máu say,
Một hơi lặng ngắt, đôi tay giá đồng.
Nguyễn Du với ngòi bút kì tài đã miêu tả thành công một cơn khủng hoảng, một trận sóng gió tơi bời trong lòng người con gái tài hoa bạc mệnh. Nàng đau đớn đâu phải vì mình, cho mình mà vì người yêu, cho người yêu. Đức vị tha, nhân ái cao cả ấy của Thúy Kiều khiến cho người đời càng cảm phục và yêu mến nàng hơn.
Đoạn trích Nỗi thương mình kể về chuyện sau khi Mã Giám Sinh đưa Kiều đến lầu xanh của Tú Bà, nàng đã quyết liệt chống lại âm mưu tàn ác của chúng là biến nàng thành kĩ nữ. Nàng định quyên sinh để thoát khỏi thân phận nhuốc nhơ, nhưng vì ngây thơ và cả tin, nàng đã bị tên ma cô Sở Khanh lừa dối, rơi vào cạm bẫy của Tú Bà và buộc phải ra tiếp khách. Tình cảnh trớ trêu khiến nàng chìm đắm triền miên trong nỗi tủi hổ và cay đắng:
Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.
Chỉ qua bốn câu thơ, Nguyễn Du đã miêu tả thật sống động bức tranh sinh hoạt đặc trưng ở chốn lầu xanh. Những ẩn dụ như bướm lả ong lơi, lá gió cành chim, hình ảnh Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm và cả điển tích văn chương về Tống Ngọc, Trường Khanh (hai khách phong lưu nổi tiếng) đã phản ánh thú vui trụy lạc chốn lầu xanh. Giữa cái không khí ồn ào, náo nhiệt, lả lơi, dập dìu, sớm đưa, tối tìm ấy, nổi bật lên một nàng Kiều cô đơn, buồn bã:
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình, mình lại thương mình xót xa.
Hai câu thơ tả tâm lí này cũng có thể coi là tuyệt bút. Nhịp điệu, âm hưởng và phép điệp từ kết hợp hài hoà, tự nhiên đã diễn tả thật chính xác tâm trạng trĩu nặng sầu thương của Thúy Kiều. Đêm khuya thanh vắng, nỗi sầu thương ấy như hiện rõ thành hình, thành khối là Thúy Kiều bằng xương bằng thịt. Đọc hai câu thơ trên, ai cũng phải ngậm ngùi rơi lệ.
Nỗi thương mình là cảm xúc chủ đạo trong đoạn trích này. Thúy Kiều buộc phải xa cha mẹ, xa tổ ấm để bước lên cỗ xe định mệnh: Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh, lao đi trên con đường mịt mù, vô định. Nàng chấp nhận: Thôi đành nhắm mắt đưa chân, Để xem con Tạo xoay vần đến đâu nhưng không thể ngờ rằng mình lại rơi và chốn hang hùm đầy những kẻ bán thịt buôn người trâng tráo và đê tiện. Nàng đang phải sống trong cảnh Chân trời góc biển bơ vơ, không nơi nương tựa, không người an ủi, vỗ về, chia sẻ cho vơi bớt nỗi đau. Mình lại thương mình xót xa là vậy!
Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở mức “đọc” được tâm trạng Thúy Kiều mà sâu hơn thế, thi sĩ thực sự thông cảm và rung động trước nỗi khổ tâm của nàng, đồng thời truyền sự rung động mãnh liệt ấy đến trái tim, khối óc người đọc, tạo nên mối dây đồng tình, đồng điệu.
Thúy Kiều cay đắng nghĩ tới sự tương phản giữa quá khứ tươi đẹp, hạnh phúc và hiện thực đen tối, phũ phàng:
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!
Đằng sau những ngôn từ, hình ảnh ước lệ hoa mĩ ấy là cơn uất hận không nguôi, là những câu hỏi day dứt, dằn vặt muốn thấu tới trời xanh. Bất công thay, trớ trêu thay là Trời già tai ác! Thực ra, Tạo hóa chẳng nỡ đày đọa Thúy Kiều – người con gái tài sắc vẹn toàn, mà chính là cái thế lực vạn ác trong xã hội đã dìm nàng xuống bùn đen nhơ nhớp.
Đau khổ đã biến Kiều thành vô tri vô giác trước những kẻ ăn chơi trụy lạc xung quanh nàng:
Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ ?
Đòi phen nét vẽ câu thơ,
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa.
Vui là vui gượng kẻo là,
Ai tri âm đó mặn mà với ai?
Hai câu thơ cuối đúc kết tâm trạng cô đơn, đau khổ của Thúy Kiều. Nàng chỉ thực sự sống với nỗi đau thấm thía của mình. Viết được những câu thơ như thế, chứng tỏ ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của đại thi hào Nguyễn Du xứng đáng là bậc thầy trong lịch sử văn chương nước ta.
Trong đời mình, Nguyễn Du đã từng gặp, từng biết nhiều loại người. Có người tốt đáng thương, đáng mến, song cũng có những kẻ xấu xa, đáng ghét. Ông thấu hiểu tính cách và tâm lí của họ đến mức khi cầm bút vẽ lên hạng người nào là đúng chân dung, tính cách và tâm lí của hạng người ấy. Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật, nhất là miêu tả tâm lí nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều đã tạo nên cho tác phẩm giá trị muôn đời.
Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong Truyện Kiều – Mẫu 4
Xanh Bơ-vơ đã nói, đại ý: nếu chọn nhà văn tiêu biểu cho từng nước, nước Anh sẽ không ngần ngại chọn Secxpia, nước Pháp – Môlie và nước Đức – Gớt. Còn tôi, nếu có quyền được chọn, tôi sẽ không đắn đo nêu tên Nguyễn Du cùng kiệt tác Đoạn trường tân thanh. Đó là một trong những đỉnh cao chói ngời của nền văn học Việt Nam, nền văn học thế giới, làm nên giá trị bất hủ của tác phẩm này có nhiều nguyên nhân song một điều không ai có thể phủ nhận là tài nghệ miêu tả và khắc họa tính cách nhân vật sắc sảo đến mức các nhà viết tiểu thuyết hiện đại cũng khó lòng theo kịp Nguyễn Du.
Trước hết nói về nghệ thuật miêu tả của cụ Tiên Điền vì ngoại hình một con người bao giờ cũng là cái đập vào mắt, đến với nhận thức chúng ta đầu tiên. Một điều rất dễ nhận thấy là sự khác biệt trong cách miêu tả nhân vật chính điện và nhân vật phản diện của Nguyễn Du. Trong quan niệm của Tố Như, một con người cũng như bao nho sĩ đương thời chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Trung Quốc, các nhân vật mang trong mình đỉnh cao của chân, thiện, mỹ đều được khắc họa bằng hàng loạt điển cố với bút pháp ước lệ. Với chị em Kiều là “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”, Kim Trọng phải là :
Tuyết in sắc ngựa câu giòn
Cỏ phai màu áo nhuộm non da trời
Còn Từ Hải, người anh hùng cái thế ? Ta lại bắt gặp “Râu hùm, hàm én, mày ngài, vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”, những tiêu chuẩn, những kích thước điển hình của một trang hảo hán. Ngược lại, ở những nhân vật phản diện, bút pháp của Nguyễn Du lại rất thực tế, sinh động đến mức trần trụi. Mã Giám Sinh là con buôn và cũng là gã trai lơ, hẳn cần vẻ ngoài chải chuốt, diêm dúa ư ? Thì đây “Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”. Còn Sở Khanh, kẻ “bạc tình nổi tiếng lầu xanh”, Nguyễn Du khoác cho nó cái “hình dung chải chuốt áo khăn dịu dàng” để đi quyến rũ những “cành phù dung”. Tuy khác nhau đó nhưng Nguyễn Du vẫn khắc họa rất điển hình, chọn lọc chi tiết đến mức gắt gao để làm nổi bật lên dáng vẻ của từng hạng người, Tú Bà, mụ “gái làng chơi đã về già hết duyên”, để lại, không sao xóa nổi nước da “nhờn nhợt” xanh bủng beo của mụ. Và Tú Bà, chủ nhà chứa, quen “ăn gì” nếu không phải là những đồng tiền nhầy nhụa, ăn chơi của chị em những đêm tiếp khách, ních chặt căng đến “đẫy đà làm sao”. Hoạn Bà là một tể tướng phu nhân được Nguyễn Du thắp sáp cho mụ, biến mụ thành một pho tượng bệ vệ, quăng bịch xuống cái “giường thất bảo”giữa cái nhà “ban ngày sáp thắp” kia.
Đặc biệt, làm cho bạn đọc bao thế hệ không ngớt khâm phục là cái tài tả người mà dường như dự báo cho cả cuộc đời nhân vật ở Nguyễn Du. Khi tả Thúy Vân :
Khuôn trang đầy đặn, nét ngài nở nang
…..
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da
Và khi tả Thúy Kiều đẹp đến mức “Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”, Nguyễn Du đều có dụng ý cả. Trên thì “thua” “nhường”, sắc trung chỉ hiền, dưới lại “ghen”, “hờn” sắc trung chỉ thánh, tả sắc mà đến bậc thánh hiền thỉ quả là Nguyễn Du đã khổ tâm hun đúc, chọn chữ để tả ra cho rành. Ai đã nhận xét như vậy, quả là chí lý. Chẳng trách sau này, khi cảnh nhà nguy biến, trong khi Kiều “Dầu trong trăng đĩa lệ tràn thắm khăn” bởi “nỗi mình”, “nỗi nhà” thì Vân vẫn ngon lành giấc xuân, trong khi Kiều lênh đênh trong bể đoạn trường thì Vân vãn đề huề sống cùng Kim Trọng. Tả người mà đến mức đó hỏi ai hơn được Nguyễn Du ?
“Văn” đông càng lắc càng đầy ! Đi sang góc độ khắc họa tính cách nhân vật mới thấy hết “tay tiên” của Nguyễn Du “gió táp mưa sa” đến mức nào. Đi vào tính cách, vào nội tâm con người đâu phải chuyện đơn giản nhưng Nguyễn Du đã vượt qua thử thách đó tưởng chừng rất nhẹ nhàng, đơn giản.
Tả tính cách mà giới thiệu thẳng như khi tả Hoạn Thư:
Ở ăn thì nết cũng hay
Nói điều ràng buộc thì tay cũng già
Không nói làm gì, và nếu chỉ có thế thì Truyện Kiều cũng không còn sống được với chúng ta hôm nay. Chúng ta hãy cùng khám phá cội nguồn làm cho văn Kiều còn dào dạt tuôn chảy đến muôn đời.
Trước hết mượn ngay bút pháp miêu tả Nguyễn Du đã khắc họa rất thành công tính cách nhân vật. Nhà phê bình Xuân Diệu đã từng rất tâm đắc với chữ “thốt” trong bức chân dung nàng Vân
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Quả nếu thay “thốt” bằng “nói” thì thành ra Vân cười cười nói nói suốt ngày, còn đâu vẻ “đoan trang” nữa. Còn “thốt” là thỉnh thoảng mới nói, đúng lúc đó. Có thế mới thấy cái dụng công tột bực của cụ Tiên Điền. Còn Sở Khanh, đàn ông mà “hình dung chải chuốt áo khăn dịu dàng”. Mã giám Sinh, đấng mày râu gì mà “mày râu nhẵn nhụi”. Theo cái nhẵn nhụi ấy, theo cái chải chuốt của lụa là mà cũng tuột luôn đi mất cái tính cách của “đấng trượng phu”, chỉ còn lại một gã lái buôn, một kẻ bạc tình.
Cũng chỉ cần vài hành động điển hình thôi, Nguyễn Du cũng đã giúp người đọc đi guốc vào tim gan nhân vật. Với hành động đầy mờ ám : “Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào”, có khó gì không đoán được tâm địa phản trắc đầy âm mưu đen tối của Sở Khanh. Còn Kiều, nếu có đi theo hắn cũng chỉ là “cũng liều nhắm mắt đưa chân” trong cơn tuyệt vọng cùng cực của cô tiểu thư lá ngọc cành vàng thoắt bị xã hội vứt xuống bùn đen mà thôi. Rõ nhất là ở Từ Hải. Dường như sự xuất hiện của con người này luôn luôn đột ngột, bất ngờ :
Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi
Sau này, trong lời kể của viện lại họ Đô về Từ Hải cho chàng Kim, ông cũng dùng từ “bỗng”. Từ Hải là thế đó ! Chàng đến, chàng đi đột ngột như cơn gió lốc, quét hết mọi dơ bẩn, đưa lại hạnh phúc cho con người. Chàng như ánh sao băng vụt lóe sáng, xé rách màn đêm đột ngột, đầy ngỡ ngàng, ấm áp, hân hoan. “Bỗng đâu”văn Truyện Kiều bừng sáng sau bao nhiêu “cung gió thảm mưa sầu”.
Ngôn ngữ cũng được Nguyễn Du tận dụng tối đa để làm bật lên tính cách nhân vật. Chỉ đọc những dòng “ghi âm” lời Hoạn Thư :
Làm cho cho mệt cho mê
Làm cho đau đớn ê chề cho coi.
Cũng phải sởn gai ốc vì cái giọng đay nghiến như muốn gí đầu người ta xuống , róc thịt người ta ra của mụ. Và giọng lưỡi Tú Bà :
Màu hồ đã mất đi rồi
Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma.
Những bài học vỡ lòng trong làng chơi được mụ truyền cho Kiều đã khiến Xuân Diệu cảm thấy mụ chỉ nói trong mấy phút mà bọt mép của mụ văng đến nghìn năm”. Có lẽ, đối với những con “sư tử Hà Đông” đó thì ngôn ngữ lại là cây bút rất tốt để vẽ lên tâm địa của chúng. Và Nguyễn Du đã rất thành công.
Một phương pháp điển hình trong nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật, một bút pháp quen thuộc của các nhà viết tiểu thuyết, truyện ngắn, đặt nhân vật vào hoàn cảnh điển hình. Kiều là nhân vật được khắc họa đạt nhất bằng bút pháp đó. Nàng là con gái, là phụ nữ. Không gì điển hình hơn khi đặt Kiều trong thế đối lập với lễ giáo phong kiến trước tình yêu chớm nở với Kim Trọng. Lễ giáo phong kiến nghiêm khắc và nghiệt ngã, “nam nữ thụ thụ bất thân”. Nhưng Kiều vẫn chủ động đến với Kim Trọng: ‘Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa”, đêm về vẫn mơ tưởng:
Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không
Cách xử thế ấy đã làm bao nhà nho xưa chau mày, bặm môi, và ngay cả đến bây giờ cũng chưa hết khiến chúng ta bàng hoàng. Cũng phải đặt con người “hiếu trọng tình thâm” ấy giữa một bên là cha và em đang chịu cảnh “giường cao rút ngược dây oan” với một bên là mối tình đầu chớm nở mới thấy hết giá trị, sức nặng của câu nói đầy nước mặt: “Dễ cho để thiếp bán mình chuộc cha” của Kiều, mới thấy hết hiếu nghĩa ở người con. Đây cũng là con người sống có trước có sau. Làm sao quên được hình ảnh “Từ công sánh với phu nhân cùng ngồi”? Khi có quyền hành trong tay, Kiều bỏ ra bao bạc vàng, lụa là đền ơn và kiên quyết tuyên án gia hình “những phường bạc án tinh ma” đã đẩy nàng xuống bùn đen. Chưa bao giờ Kiều hiện lên sắt đá, quyết định đến thế. Thật là con người tình, hiếu, nghĩa vẹn toàn. Đặc biệt tuy là một người anh hùng những là con người biết rung động trước cái đẹp của người phụ nữ yếu ớt. Không gì hơn khi đặt chàng trong cuộc gặp gỡ với Kiều nơi lầu xanh chứ không phải trong cuộc chiến đấu, nơi trận tiền để khắc họa tấm lòng cao quý của người anh hùng ấy. Đó là cái độc đáo, và cũng là sáng tạo rất thành công của Nguyễn Du.
Điều làm ta ngỡ ngàng nhất là “bút pháp phân tích tâm lý tàn nhẫn”, theo cách gọi của Phan Ngọc, Nguyễn Du. Nhân vật của ông hiện lên theo cách rất người. Trong Truyện Kiều, còn ai được ông yêu thương hơn Thúy Kiều và Từ Hải. Thế nhưng Nguyễn Du vẫn làm chủ được ngòi bút của mình. Cái gì phải đến nó sẽ đến. Con người bao giờ cũng là con người với tất cả cái mạnh, yếu của mình. Đến một lúc nào đó, nàng Kiều sau bao nhiêu “gió dập sóng va” sẽ phải mệt mỏi, hãi hùng, phải “xiêu” trước “lễ nhiều nói ngọt”, trước bả vinh hoa mà Hồ Tôn Hiến đưa ra để khuyên Từ Hải hàng. Và Từ Hải, con người hùng ấy, trước kia đã từng xiêu trước “tấm lòng nhi nữ”, giờ nghe vợ tỉ tê tha thiết đến thế cũng phải lơi lỏng việc quân và cuối cùng ra hàng là điều dễ hiểu. Chúng ta chẳng trách họ, con người chứ có phải gỗ đá đâu. Và ta càng thêm phục Nguyễn Du.
Có người khi nhận xét bức tranh vẽ ngựa nói: “Từ khi có con ngựa ấy trên đời không còn gì đáng gọi là ngựa nữa”. Cũng có thể nói, từ khi các nhân vật Truyện Kiều ra đời, nó mang tính điển hình đến nỗi hễ nói đến chàng bạc tình là nói “Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào” và “Máu ghen Hoạn Thư” cũng trở thành thành ngữ cố định. Thế mới biết tài Nguyễn Du.
Mặt khen nét bút càng nhìn càng tươi
Nét bút Nguyễn Du, nghệ thuật miêu tả và khắc họa tính cách nhân vật của Nguyễn Du sẽ làm cho Truyện Kiều sống mãi.
Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong Truyện Kiều – Mẫu 5
Nói đến một tác phẩm tự sự, ngoài vai trò của người dẫn truyện thì nhân vật chính là linh hồn của tác phẩm. Trong bước phát triển còn sơ khai của thể loại truyện Nôm (thế kỷ XVIII, XIX), vị trí của nhân vật thường bị đẩy lùi xuống hàng thứ hai, thay vào đó là cốt truyện. Nhưng ở “Truyện Kiều” điều đó đã không xảy ra. Đó là một sự tiến bộ vượt bậc, một sáng tạo lớn của Nguyễn Du so với mặt bằng của truyện Nôm Việt Nam và so với cả nguyên mẫu “Kim Vân Kiều Truyện”. Chính vì vậy mà đọc “Truyện Kiều” người ta nhớ đến nhân vật hơn là nhớ đến cốt truyện. Có được thành công này là nhờ vào tài năng miêu tả bậc thầy của Nguyễn Du. Vì thế, các nhân vật trong “Truyện Kiều”, dù là chính diện hay phản diện, chỉ bằng một vài nét chấm phá đơn sơ đã trở thành một nguyên khối, một cá tính, một con người có thực, điển hình.
Đây là một loại bút pháp khá quen thuộc của Văn học cổ Việt nam. Khái niệm “ước lệ” được hiểu là dùng những chi tiết có khuôn mẫu cổ điển. Còn bút pháp tượng trưng là dùng những nét đặc trưng, tiêu biểu, cụ thể nhất cho sự vật trong những chuẩn mực tuyệt đối, siêu phàm. Lấy vẻ đẹp tinh tuý, mỹ lệ nhất của thiên nhiên để tái hiện con người. Trong “Truyện Kiều” bút pháp ước lệ, tượng trưng được dùng để tả những nhân vật chính diện, đại diện cho cái Chân, Thiện, Mĩ, cho công lý. Các nhân vật này thường được tôn sùng là “đấng, bậc”: (Kim Trọng là bậc tài danh, Từ Hải là đấng anh hùng, Thuý Kiều là trang giai nhân tuyệt thế).
Trong đoạn trích “Chị Em Thuý Kiều”, thiên tài Nguyễn Du đã dùng những câu thơ tuyệt bút để vẽ lên bức chân dung tuyệt thế giai nhân của hai chị em Thuý Kiều, Thuý Vân với tất cả tấm lòng quý mến và trân trọng của mình. Nhưng đằng sau từng câu chữ, nhà thơ đã ngầm dự báo về số phận của hai nàng.
Bốn câu thơ đầu là lời giới thiệu chung về hai cô con gái đầu lòng của nhà Viên ngoại họ Vương. Tác giả đã sử dụng bút pháp tượng trưng, ước lệ, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để nói lên vẻ đẹp của con người, kết hợp với biện pháp tu từ ẩn dụ để làm nổi bật lên bức chân dung của hai chị em. Cả hai nàng đều có vóc dáng thanh tao như cây mai, tâm hồn trong trắng như tuyết. Song mỗi người lại có một vẻ đẹp riêng và đều đạt đến độ hoàn mỹ “mười phân vẹn mười”
“Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Sau lời giới thiệu chung là bức chân dung của nàng Vân?
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
Không chỉ tươi tắn, trẻ trung mà còn đoan trang, kiều diễm. Vẫn bút pháp ước lệ tượng trưng kết hợp với một hệ thống từ ngữ chọn lọc, bốn câu thơ tiếp như vẽ ra trước mắt ta hình ảnh một thiếu nữ với khuôn mặt tròn trịa, đầy đặn, sáng đẹp như trăng rằm, tiếng nói trong như ngọc, mái tóc mượt mà, óc ả hơn mây, miệng cười tươi như hoa, làn da trắng hơn tuyết… Đó là vẻ đẹp toàn bích của một cô gái phúc hậu, đoan trang mà quý phái. Một vẻ đẹp khiến thiên nhiên phải nhún nhường, lùi bước. Điều đó ngầm dự báo, nàng sẽ có một cuộc đời bình lặng, êm đềm.
Nhưng nhà họa sĩ không phải dụng công nhiều trong việc miêu tả Thúy Vân. Bút lực của ông còn dành cho nhân vật Thúy Kiều. Nhà thơ tả Thúy Vân, tưởng như sắc đẹp của nàng không ai hơn được nữa để rồi sau đó Thúy Kiều xuất hiện thì Thúy Vân chỉ là cái nền tôn lên vẻ đẹp của Kiều:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Nghệ thuật đòn bẩy đã nâng Thúy Kiều lên trên vẻ đẹp hoàn hảo của Thúy Vân để trở thành một cái đẹp tuyệt đỉnh. Một lần nữa bút pháp ước lệ, tượng trưng lại được sử dụng. Nhưng khi tả Kiều, Tố Như không liệt kê nhiều chi tiết như tả Vân mà chuyển sang lối chấm phá theo kiểu “điểm nhãn” làm nổi bật cái thần của nhân vật:
“Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”
Đôi mắt Kiều được ví như làn nước mùa thu, làn nước mùa thu vừa trong sáng, vừa long lanh, vừa dợn sóng lại được ẩn dưới nét lông mày thanh tú, mềm mại như dáng núi mùa xuân khiến cho vẻ đẹp của Kiều càng thêm hài hòa, kiều diễm và có hồn. Ở đây, tác giả vẫn lấy vẻ đẹp của thiên nhiên (thu thuỷ, xuân sơn, hoa, liễu) làm chuẩn mực cho cái đẹp giai nhân.
Quả thật, vẻ đẹp của Thúy Kiều là một vẻ đẹp của mỹ nhân khiến cho “thành nghiêng nước đổ”, một vẻ đẹp “sắc sảo mặn mà”. Nó không phải là cái đẹp êm đềm, hòa hợp với xung quanh như Thúy Vân mà là cái đẹp khiến cho thiên nhiên phải hờn ghen, đố kị, ngầm dự báo một cuộc đời sẽ gặp nhiều sóng gió, éo le. Nguyễn Du đã linh cảm như vậy nên đã lồng sự linh cảm đó trong bút pháp tài hoa khi miêu tả nàng Kiều.
Khi miêu tả ngoại hình của chàng văn nhân Kim Trọng, một trong ba nhân vật đẹp nhất của “Truyện Kiều” , Nguyễn Du cũng sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng. Trong buổi du xuân tiết thanh minh, khi chị em Thúy Kiều còn đang “Dùng dằng nửa ở nửa về” thì ở đâu đó âm thanh của tiếng nhạc vàng đã nghe mỗi lúc một rõ dần. Đó là khúc nhạc của tình yêu, khúc nhạc làm rung động và xôn xao cảnh vật, lòng người:
“Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần
Trông chừng thấy một văn nhân
Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng
Đuề huề lưng túi gió trăng
Sau lưng theo một vài thằng con con”
Nhân vật Kim Trọng được miêu tả từ xa đến gần, qua cái lắng nghe và sự bâng khuâng dõi nhìn của người đẹp. Một phong thái trang nhã “đề huề” với “lưng túi gió trăng”, một sự cao sang có vài chú tiểu đồng theo hầu. Một con tuấn mã sắc trắng như tuyết. Và màu áo xanh non của cỏ xuân, với màu thanh thiên của da trời hòa hợp nên sắc áo của tài tử văn nhân thời xưa. Mỗi bước đi của văn nhân, cảnh vật như sáng bừng lên, cỏ cây thêm ngọt ngào hương sắc:
“Hài văn lần bước dặm xanh
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao”
Nguyễn Du đã dành cho chàng Kim những ngôn ngữ đẹp nhất, trang trọng nhất, những tình cảm yêu mến nhất. Dưới ngòi bút của ông, Kim Trọng hiện lên là mẫu người thiên tài lý tưởng, là khách tài tử đa tình tiêu biểu cho khát vọng tình yêu đôi lứa. Ở Kim Trọng, từ ngoại hình đến phong cách, từ tâm hồn đến trí tuệ là sự hun đúc tài năng của đất văn chương , là sự hội tụ vẻ đẹp của trời “thông minh tính trời”. Xuất thân trong một gia đình quyền quý, rất giàu có (phú hậu), tài năng lỗi lạc, nổi tiếng trong thiên hạ (bậc tài danh). Kim Trọng mang vẻ đẹp tuấn tú, hào hoa, phong nhã. Nhà thơ đã sử dụng một hệ thống từ ngữ Hán – Việt, bút pháp ước lệ tượng trưng để phác họa ra các phương diện cần thiết khi nói đến một nhân vật thư sinh phong kiến.
“Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh
Nền phú hậu bậc tài danh
Văn chương nết đất thông minh tính trời
Phong tư tài mạo tót vời
Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa”
Và đây là nhân vật Từ Hải, người đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Cách giới thiệu của nhà thơ rất đặc biệt, sự xuất hiện của chàng có gì đó khác thường, bất ngờ, đột ngột trong một đêm “trăng thanh gió mát”.
“Lần thâu gió mát trăng thanh
Bỗng đâu có khách bên đình sang chơi”
Không phải là một văn nhân với tiếng “nhạc vàng”, với “cỏ pha màu áo nhuộm non da trời”, cũng không phải là người “trăm nghìn đổ một trận cười như không” mà là “một đấng anh hùng” có cốt cách phi thường:
“Râu hùm hàm én, mày ngài
Vai năm tấc rộng thân mười thước cao”
Ngôn ngữ miêu tả ngoại hình ở đây cũng không vượt ra ngoài tính chất công thức ước lệ với những chi tiết đã được quan niệm thẩm mĩ phong kiến quy định cho loại nhân vật anh hùng. Nguyễn Du đã khắc họa nhân vật bằng những nét khỏe mạnh, cao lớn, đường bệ, lẫm liệt để nói lên vẻ phi thường, hơn đời của Từ Hải:
“Đường đường một đấng anh hào
Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài
Đội trời, đạp đất ở đời.
Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông”
Tác giả đã sử dụng hàng loạt các từ Hán – Việt: “đấng anh hào”, “côn quyền”, “lược thao”, “giang hồ” và những từ có tính chất mạnh mẽ “đội trời, đạp đất, vẫy vùng” để khắc họa tính cách và khát vọng tự do của nhân vật Từ Hải. Có thể nói, nhà thơ đã dùng những từ ngữ, hình ảnh tráng lệ nhất, giọng thơ hùng tráng nhất để ca ngợi cốt cách phi thường, thói giang hồ tự do và chất đa tình lãng mạn của nhân vật Từ Hải. Từ giọng điệu đến ngôn từ đều trang trọng, cổ kính làm cho nhân vật lung linh màu sắc huyền thoại, sử thi. Từ Hải tựa như một ánh hào quang chiếu qua một quãng đời ngắn ngủi của Thúy Kiều nhưng đã để lại trong lòng người đọc bao ấn tượng tốt đẹp.
Nói tóm lại, cũng là bút pháp ước lệ, tượng trưng nhưng mỗi nhân vật lại có một nét khác biệt trong tính cách: Thúy Vân đoan trang, phúc hậu; Thúy Kiều sắc sảo, mặn mà: Kim Trọng hào hoa, phong nhã; Từ Hải gắn với tính cách phi thường của bậc anh hùng hảo hán. Tất cả những nhân vật chính diện này, Nguyễn Du đều dành cho họ những tình cảm trân trọng, ông dùng những từ ngữ đẹp nhất để ca ngợi họ.
Bút pháp này được sử dụng ở nhân vật phản diện, đó là những nét vẽ chân thực, sinh động, có tính cá thể tạo nên những diện mạo đặc sắc: Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Tú Bà … trong đó Mã Giám Sinh là nhân vật tiêu biểu.
Ở đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” (Sách giáo khoa Ngữ văn 9) chân dung của y hiện lên thật nực cười:
“Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”
Câu thơ miêu tả khách quan mà vẫn không che giấu được cái ý ngầm mỉa mai bên trong. Cách phục sức dụng công cố ý làm ra vẻ phong lưu, lịch sự của tay con buôn đó phảng phất tính giả tạo và có phần trai lơ, đàng điếm. Miêu tả ngoại hình anh chàng họ Mã, tác giả chỉ chú trọng miêu tả phục sức bề ngoài: già mà cố tô cho thành trẻ, là con buôn nhưng lại muốn mượn vẻ phong lưu của một công tử đi hỏi vợ. Những từ “nhẵn nhụi”, “bảnh bao” vốn đã không hàm ý đẹp lại có ở một kẻ “ngoại tứ tuần”, càng gợi một cái gì không lương thiện, có ý chế giễu, mỉa mai.
Trong “Kim Vân Kiều truyện”, Thanh Tâm Tài Nhân chỉ giới thiệu qua nhưng là một lời miêu tả khá ưu ái với Mã Giám Sinh: “Mụ Hàm nói xong đi ra, hồi lâu đưa mấy người đến, trong bọn họ có một người đẹp đẽ, bước tới chào và ngắm nghía Thúy Kiều mãi”.
Khi miêu tả Sở Khanh, một kẻ: “bạc tình nổi tiếng lầu xanh” Nguyễn Du chỉ viết hai câu mà bản chất trai lơ, đĩ thõa, giả dối của y đã bộc lộ ra rõ nét:
“Một chàng vừa trạc thanh xuân
Hình dung chải chuốt, áo khăn dịu dàng”
Tú Bà là kẻ chuyên “buôn thịt bán người”, sống trên sự nhơ nhớp, nhục nhã của người phụ nữ, một kẻ chuyên “ăn đêm” đã được nhà thơ miêu tả:
“Nhác trông nhờn nhợt màu da
Ăn chi cao lớn đẫy đà làm sao”
Chỉ với từ “nhờn nhợt”, Nguyễn Du đã tạo ra cho người đọc một cảm giác ghê tởm đối với Tú Bà …
Như vậy, có thể thấy chỉ bằng vài nét chấm phá, cụ Tiên Điền đã khắc họa khái quát chân dung của những loại người xấu xa trong xã hội: một Sở Khanh lừa tình bội bạc, một Tú Bà chủ chứa bất lương … Đằng sau những nét vẽ sắc sảo, mang đậm chất liệu hiện thực là thái độ khinh bỉ của nhà thơ đối với những loại người này …
So với “Kim Vân Kiều truyện” hành động của các nhân vật trong truyện Kiều chỉ được kể lại vắn tắt nhưng sống động, bộc lộ rõ bản chất từng nhân vật. Trong quá trình sáng tác, Nguyễn Du đã lược bỏ những cử chỉ, hành động không phù hợp đồng thời ông cũng sáng tạo thêm nhiều chi tiết mới để làm nổi bật tính cách của nhân vật. Dưới đây, tôi chỉ lựa chọn những nhân vật tiêu biểu để minh họa.
Trong đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”, Mã Giám Sinh sau khi làm lễ “vấn danh”, được Mụ mối đưa vào “lầu trang”, lúc này bản chất hạ lưu trong con người hắn mới dần dần được bộc lộ:
“Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”
Chỉ bằng cử chỉ “ngồi tót”, Nguyễn Du đã phơi bày chân tướng vô học, bản chất con buôn của Mã Giám Sinh. Đó là một cử chỉ vội vàng, khiếm nhã, không phù hợp với địa vị người đi hỏi vợ và không đúng với phẩm cách văn hóa của một giám sinh trường Quốc học.
Cũng cùng bọn người xấu xa, lừa lọc, Sở Khanh đã trở thành nỗi sợ hãi cho những bạn gái nào đang độ tuổi yêu đương… Chỉ bằng một hành động “lẻn” và cử chỉ “lẩm nhẩm gật đầu” Nguyễn Du đã lột trần bộ mặt đáng ghê sợ của Sở Khanh khi đánh lừa Kiều:
“Tường đông lay động bóng cành
Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào”
Rồi khi nghe Kiều ân cần kể lể, hắn:
“Lặng nghe lẩm nhẩm gật đầu
Ta đây nào phải ai đâu mà rằng”
Hành động “lẻn” và cử chỉ “lẩm nhẩm” của Sở Khanh có một cái gì đó rất ám muội, không được ngay thẳng nên nó không mang dáng vẻ của một con người tử tế.
Đó là cử chỉ của những loại người lưu manh, xảo trá. Còn Hồ Tôn Hiến, một viên quan đại thần thì sao? Hắn được sai đi dẹp loạn, không đấu với Từ Hải bằng tài năng mà lại dùng mưu mô thấp hèn để mua chuộc Thuý Kiều, lừa hại chết Từ Hải. Vô liêm sỉ hơn, sau khi Từ chết, hắn còn ép Kiều “hầu hạ dưới màn”, làm nhục Kiều:
“Nghe càng đắm, ngắm càng say
Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình”
Đằng sau vẻ uy nghiêm của một viên “tổng đốc trọng thần” là một Hồ Tôn Hiến cũng phải “ngây vì tình”. trước vẻ đẹp của Thuý Kiều. Hành động “ngây” đã bộc lộ rõ một hình ảnh si mê, thấp hèn…
Không chỉ có các nhân vật phản diện, đối với các nhân vật chính diện, nhà thơ cũng lựa chọn những chi tiết tiêu biểu nhất, đặc sắc nhất về hành động, cử chỉ để khắc hoạ tính cách. Điều đó được thể hiện rõ nét đối với hai nhân vật Thúy Kiều và Kim Trọng. Trong tiết thanh minh, sau khi:
“Người quốc sắc kẻ thiên tài
Tình trong như đã mặt ngoài còn e”
Kim Trọng về tương tư, ôm ấp bóng hình người đẹp, chàng lân la, tìm mọi cách để gặp Kiều. Nhân dịp gia đình Vương Viên Ngoại về quê mừng thọ, chàng Kim đã không bỏ lỡ cơ hội tốt:
“Thời chân chân thức sẵn bày
Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mái tường”.
Còn Kiều, vì tình yêu, vì khao khát hạnh phúc, được tâm sự với người yêu nàng đã:
“Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”.
Với cử chỉ “xăm xăm”, thoăn thoắt”, Kiều và Kim Trọng đã bộc lộ rõ họ là những con người dám sống cho tình yêu, họ đã vượt ra khỏi những quy định khắt khe của lễ giáo phong kiến để hành động theo sự mách bảo của trái tim mình.
Tóm lại, dưới ngòi bút của thi hào, chữ nghĩa có một ma lực ghê gớm, tạo nên những nét vẽ sắc sảo. Những từ “tót”, “lẻn”, “cò kè”, “xăm xăm”, “thoăn thoắt”,… là những từ rất đắt chỉ có ở Nguyễn Du chứ không có trong “Kim Vân Kiều truyện”. Có lẽ vì thế mà nhân vật trong truyện Kiều hiện lên cụ thể, sinh động hơn nhiều so với nhân vật của Thanh Tâm Tài Nhân.
Ở đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”, trong cảnh mua bán, Thuý Kiều là hiện thân của con người lương thiện bị chà đạp, của sắc tài bị vùi dập thảm thương. Nguyễn Du càng căm ghét tên buôn người Mã Giám Sinh bao nhiêu thì càng cảm thương sâu sắc trước nỗi đau xót, nhục nhã, ê chề của cô gái tài hoa bấy nhiêu. Kiều là một trang “quốc sắc thiên hương” vậy mà bị đem ra mua bán như một món hàng ngoài chợ, Nguyễn Du kể mà như nhập vào nhân vật, cùng đau xót với nhân vật.
“Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng
Ngại ngùng dín gió e sương
Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày”
Bốn câu thơ miêu tả nỗi uất ức, xót xa, tủi nhục của một trang tuyệt thế giai nhân trước sự mua bán trơ trẽn của bọn buôn người. Từ đầu đến cuối Kiều không nói một lời, chỉ có nỗi buồn hiện ra qua từng bước chân, nét mặt. Rõ ràng, sự câm lặng, những giọt nước mắt lặng lẽ của Thuý Kiều trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh tâm trạng với bi kịch và với tính cách của nàng.
Thế giới nội tâm nhân vật được hiện lên một cách cụ thể và sinh động dưới lời kể tưởng như rất khách quan của nhà thơ. Nhưng ẩn đằng sau những câu chữ có vẻ lạnh lùng ấy là những giọt nước mắt của một trái tim đa sầu, đa cảm. Trong đoạn trích “Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều” Nguyễn Du đã kể lại cuộc chia tay đầy lưu luyến của đôi vợ chồng trẻ. Đối với Thuý Kiều tuy Thúc Sinh không phải là mối tình đầu đầy lãng mạn nhưng cả hai đã có những tháng ngày bên nhau đầy hạnh phúc. Chàng Thúc Sinh đã đem lại cho Kiều một cuộc đời trong sạch, một cuộc sống ấm êm, hoà thuận, cả hai đã “đổi tình trăng gió cho ra đá vàng”. Họ đều không muốn rời nhau nhưng vẫn phải xa nhau. Lần này Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều để nói cho Hoạn Thư biết việc mình đã lấy Kiều làm lẽ. Kiều linh cảm cuộc chia tay này lành ít, dữ nhiều:
“Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san
………………………
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường”
Qua lời kể của Nguyễn Du, ta thấy hiện lên một hình ảnh một nàng Kiều cô đơn, vò võ với nỗi buồn chia cách. Thiên nhiên quanh nàng cũng trở nên mênh mông, dàn trải, hiu hắt nhuốm đẫm màu quan san, màu của chia ly, cách biệt: một ngàn dâu vô tận, một vầng trăng đơn chiếc, không trọn vẹn. Nhà thơ không cho hai người nói một câu nào mà sao ta cảm thấy họ nói với nhau nhiều thế. Họ nói trong im lặng, qua ánh mắt, họ gửi tâm hồn cho nhau qua cảnh vật. Nhưng người đọc vẫn cảm nhận được tâm trạng, nét mặt của nàng qua từng câu chữ. Phải có “con mắt trong suốt sáu cõi, tấm lòng nghĩ tới nghìn đời” và tài năng bậc thầy, Nguyễn Du mới viết được những câu thơ như thế.
Cũng nói về tâm trạng buồn khổ, đau đớn, đoạn thơ miêu tả tiếng đàn của Kiều sau khi bị Hồ Tôn Hiến làm nhục lúc chồng vừa chết nghe mới xót xa làm sao:
“Một cung gió thảm mưa sầu
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay”
Tâm trạng đau đớn của Thuý Kiều đã được cụ thể hoá qua tiếng đàn bi thảm, qua những ngón tay bị “nhỏ máu”. Trong các lần gảy đàn của Kiều, không lần nào tiếng đàn bi thiết, đau thương như lần này. Tiếng đàn bật máu. tiếng đàn mang cái chết của Từ Hải và cái chết trong lòng Kiều. Một cõi lòng đã bị dập tắt mọi hạnh phúc, ước mơ. Ta thấy, dường như Nguyễn Du cũng đang tan nát cõi lòng, đang nhỏ máu tâm hồn cùng nàng Kiều tội nghiệp.
Có thể nói, bằng chữ tâm và chữ tài của người nghệ sĩ, Tố Như đã vẽ lên bức chân dung Thuý Kiều không chỉ tuyệt thế giai nhân mà còn có thế giới nội tâm phong phú với những rung động rất đời, rất thực: có nỗi buồn tủi, xót xa, đau đớn, có sự ê chề, hổ thẹn, có nỗi nhớ nhung, khắc khoải. Có lẽ vì thế mà Kiều trở nên gần gũi với đời thực hơn.
Trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” tác giả đã thể hiện rất rõ tâm trạng, tư tưởng, tình cảm của Thuý Kiều qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm. Ở một mình nơi chiếc lầu chơ vơ giữa mênh mang trời nước ấy, người đầu tiên Kiều nghĩ đến đó là Kim Trọng. Nhớ chàng Kim, nàng nhớ tới lời thề dưới trăng đêm tình tự “dưới nguyệt chén đồng”, thương người yêu đau khổ “rày trông mai chờ”, “bơ vơ”, cô đơn sầu tủi. Những từ ngữ, hình ảnh chỉ không gian và các động từ, vị ngữ “tưởng”, “trông”, “chờ” đã liên kết thành một hệ thống ngôn ngữ độc thoại diễn tả một cách cảm động, sâu sắc tình cảm thương nhớ người yêu trong mối tình đầu, nay vì cảnh ngộ mà chia lìa đau đớn:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Chân trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Từ nhớ chàng Kim, thương chàng Kim không biết Kiều đã không giữ trọn lời thề vẫn ngày đêm trông ngóng, Kiều lại thấy thương mình. Nàng thấm thía với tình cảnh bơ vơ, trơ trọi của mình nơi “bên trời, góc bể” và nuối tiếc cho mối tình đầu trong trắng. “Tấm son” đây là tấm lòng son sắt của Thuý Kiều đối với Kim Trọng. Bao giờ nàng có thể quên được chàng Kim? Hay đó cũng có thể hiểu là tấm lòng trong trắng của Thuý Kiều bị vùi dập, hoen ố, không biết khi nào mới có thể “gột rửa” được.
Trong dòng suy nghĩ miên man, Kiều hết nhớ người yêu lại xót thương cha mẹ:
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Nhà thơ đã dùng các từ ngữ chỉ thời gian xa cách, các thi liệu, điển cố của văn học Trung Hoa như “Sân Lai”, “gốc tử” và thành ngữ “quạt nồng, ấp lạnh”, đặc biệt hình ảnh mẹ già “tựa cửa hôm mai” đợi chờ, trông ngóng đứa con lưu lạc quê người đã cực tả nỗi nhớ thương cha mẹ, nỗi đau buồn của đứa con gái đầu lòng không thể, không được chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ khi song thân đã già yếu, khi “gốc tử đã vừa người ôm”. Giọng thơ rưng rưng lệ, nỗi đau của nàng Kiều như thấm vào cảnh vật, thời gian và lòng người bấy lâu nay.
Rõ ràng, chỉ một đoạn thơ ngắn gọn, cụ Tiên Điền đã sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm kết hợp hài hoà với phong cách cổ điển tạo nên những vần thơ biểu cảm thể hiện một tâm trạng, một cảnh ngộ đầy bi kịch của Thuý Kiều. Trong cảnh chia lìa “trâm gãy bình tan” nàng vẫn dành cho “người tình chung” bao tình thương nhớ và luôn nhớ thương, xót xa cho cha mẹ chốn quê nhà. Nàng quả là một người tình thuỷ chung, một người con hiếu thảo.
Trong suốt quãng đời mười lăm năm lưu lạc, Nguyễn Du đã nhiều lần để Kiều độc thoại để từ đó bộc lộ chính mình.
Có lúc, nàng đau đớn, dằn vặt, xót xa và cảm thấy tủi nhục sau những đêm “bướm lả ong lơi” và “cuộc say đầy tháng”:
“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình, mình lại thương mình xót xa”
Có khi nàng băn khoăn, trăn trở, hãi hùng về cuộc sống, về tương lai, về thân phận của mình. Nỗi lo sợ đó luôn ám ảnh, làm nàng day dứt khôn nguôi:
“Một mình lưỡng lự canh chày
Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh”
Đặc biệt khi Kiều khuyên Từ Hải ra hàng, ngôn ngữ độc thoại nội tâm đã bộc lộ rõ nét tâm lí, những suy nghĩ rất thực của một cô gái nửa đời nếm trải đủ mùi cay đắng:
“Nghĩ mình mặt nước cánh bèo
Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân
Bằng này chịu tiếng vương thần
Thênh thang đường cái thanh vân hẹp gì”
Qua đoạn thơ, ta thấy tâm lí nàng Kiều hiện lên rất thực: nàng biết, khi Từ Hải ra hàng thì phải chịu nhiều thiệt thòi, phải mang tiếng “vương thần” song bên cạnh đó là cả một tương lai tươi sáng, rực rỡ với nhiều điều lợi. Dù sao, Kiều cũng chỉ là một nạn nhân mà nguyện vọng duy nhất của nàng là được sống yên ổn, lương thiện và trong sạch.
Để nhân vật của mình hiện lên đầy đủ, toàn diện, Nguyễn Du đã miêu tả họ với cái nhìn nhiều chiều, có khi là miêu tả ngoại hình, có khi miêu tả nội tâm, có khi lại thông qua những ngôn ngữ đối thoại của họ để thấy được tính cách sống động của mỗi nhân vật.
Ở đoạn trích “Thuý Kiều báo ân báo oán” ngôn ngữ đối thoại được thể hiện rõ ràng hơn cả. Có hai cuộc đối thoại, đối thoại giữa Kiều với Thúc Sinh và đối thoại giữa Kiều với Hoạn Thư.
Lúc này, sau bao nhiêu sóng gió, Kiều được Từ Hải, người anh hùng “đội trời đạp đất” cứu ra khỏi lầu xanh, giúp nàng báo ân, trả oán. Từ Hải đã đưa Kiều từ thân phận của một kỹ nữ chốn lầu xanh nhơ bẩn bước lên địa vị của một mệnh phụ phu nhân, một quan toà cầm cán cân công lí. Trước phiên toà ấy, nàng cho gọi những người đã từng có ân, có oán với mình đến.
Người đầu tiên được Kiều mời đến là Thúc Sinh. Trước cảnh oai nghiêm nơi công đường với những gươm lớn, giáo dài, chàng Thúc hoảng sợ đến mức mất cả thần sắc: “mặt như chàm đổ, người dường dẽ run”. Và có lẽ, chàng Thúc thật sự bất ngờ khi nghe những lời nói giàu ân tình của Thuý Kiều:
“Nàng rằng: Nghĩa nặng nghìn non
Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng
Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?”
Rõ ràng, Kiều chưa hề quên tấm lòng Thúc Sinh ngày trước đã yêu thương nàng, cứu nàng ra khỏi lầu xanh và cho nàng những ngày tháng êm đềm hạnh phúc. Nàng trân trọng gọi đó là “nghĩa nặng nghìn non”, bày tỏ tấm lòng biết ơn chân thành. Tuy chẳng được làm vợ chồng với Thúc Sinh trọn vẹn lại còn phải chịu nỗi khổ nhục của kiếp tôi đòi, nhưng Thuý Kiều không hề trách Thúc Sinh. Nàng hoàn toàn thông cảm và hiểu lỗi không phải do chàng Thúc: “Tại ai, ai dám phụ lòng cố nhân”. Dù có “Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân” cũng chưa dễ xứng với ân nghĩa của Thúc Sinh dành cho mình.
Đối thoại với Thúc Sinh, Kiều nói bằng một ngôn ngữ rất trang trọng “nghĩa nặng nghìn non”, “chẳng vẹn chữ tòng”… hầu hết là những từ Hán – Việt, lại dùng cả điển cố “Sâm thương”. Cách nói đó phù hợp với chàng thư sinh họ Thúc đồng thời diễn tả được tấm lòng trân trọng biết ơn của Thuý Kiều.
Trong cuộc đối thoại với Thúc Sinh, Thuý Kiều không hề trách chàng nhưng nàng cũng không sao nguôi ngoai được sự oán giận và những khổ đau mà Hoạn Thư đã gây ra cho mình. Vì thế, ngay từ khi đang nói chuyện với Thúc Sinh, Kiều đã nhắc đến Hoạn Thư:
“Vợ chàng quỷ quái tinh ma
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau
Kiến bò miệng chén chưa lâu
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa”
Cách nói đã hoàn toàn thay đổi. Nói về ân nghĩa của Thúc Sinh, Kiều nói bằng một ngôn ngữ trang trọng thì khi nhắc tới Hoạn Thư ngôn ngữ lại chuyển sang nôm na, bình dị như kiểu nói của người bình dân. Những thành ngữ quen thuộc “Kẻ cắp bà già”, “Kiến bò miệng chén” và câu nói dứt khoát: “Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa” hứa hẹn một cuộc báo oán theo quan điểm của nhân dân: cái ác phải bị trừng trị, “ác giả, ác báo”.
Như vậy, qua cuộc đối thoại với Thúc Sinh, tính cách của Kiều đã được bộc lộ khá rõ ràng. Nàng quả là con người sống có trước, có sau, có tình, có nghĩa.
Sau khi trả ơn Thúc Sinh, bà quản gia nhà họ Hoạn và sư Giác Duyên, Thuý Kiều mới bước vào cuộc báo thù:
“Dưới cờ gươm tuốt nắp ra
Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư”
Thoắt trông thấy Hoạn Thư, Thuý Kiều đã cất tiếng chào với một thái độ mỉa mai:
“Thoắt trông nàng đã chào thưa:
Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây”
Nàng vẫn dùng cách xưng hô như hồi còn làm Hoa nô cho nhà họ Hoạn, vẫn một điều “chào thưa”, hai điều “tiểu thư”. Cách xưng hô này trong hoàn cảnh giữa Kiều và Hoạn Thư đã có sự thay bậc đổi ngôi là một đòn mỉa mai quất mạnh vào “danh gia” họ Hoạn làm cho Hoạn thư càng xấu hổ và sợ hãi. Nói với Hoạn Thư, lời nói của Kiều có giọng đay nghiến, chất chứa bao căm giận:
“Đàn bà dễ có mấy tay
Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan
Dễ dàng là thói hồng nhan
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều”
Từ ngữ được lặp đi lặp lại, lời nói như dằn ra từng tiếng “dễ có, dễ dàng, mấy mặt, mấy gan, đời xưa, đời nay, càng…càng…, lắm, nhiều”. Đối với Hoạn Thư, một con người “Bề ngoài thơn thớt nói cười – Mà trong nham hiểm giết người không dao” thì cách nói của Kiều quả là phù hợp, quả là đích đáng.
Trước những lời nói mỉa mai, đay nghiến đó của Kiều, Hoạn Thư đã xử trí ra sao?
Giây phút đầu, Hoạn Thư có “hồn lạc phách xiêu” nhưng ngay sau đó, người đàn bà giảo hoạt và khôn ngoan ấy đã kịp định thần lại mà: “Khấu đầu dưới trướng liệu điều kêu ca”. Những “điều kêu ca” của Hoạn Thư thực chất là lí lẽ để gỡ tội:
“Rằng tôi chút phận đàn bà
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình”
Cái lí lẽ đầu tiên mà Hoạn Thư đưa ra là tâm lí thường tình của người phụ nữ. Thật tài cho Hoạn Thư. Chỉ mấy chữ “chút phận đàn bà” đủ gợi sự cảm thông của đối phương, bởi hơn ai hết, Kiều chính là người đã nếm trải đủ cay đắng của “chút phận đàn bà” ấy. Mà đã là đàn bà với nhau, ai lại đi kết tội sự ghen tuông vì: “Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai”. Lí lẽ này đã xoá đi sự đối lập giữa Kiều và Hoạn Thư, đưa Kiều từ vị thế quan tòa trở thành người đồng cảnh, cùng chung “chút phận đàn bà” còn Hoạn Thư – tội nhân bỗng trở thành người cùng cảnh ngộ: nạn nhân của chế độ đa thê.
Tiếp theo, Hoạn Thư gợi lại chút ân tình ngày xưa: một là, đã cho Kiều xuống Quan Âm các “giữ chùa chép kinh”, không bắt làm thị tì nữa; hai là: khi Kiều bỏ trốn mang theo chuông vàng, khánh bạc để làm lộ phí Hoạn Thư cũng đã bỏ qua, không cho người đuổi bắt. Cách nói rất khéo chỉ gợi sự thật và chuyện cũ ra, chỉ người trong cuộc mới biết. Ở đây Hoạn Thư mong Kiều nhớ lại cho, suy nghĩ lại cho:
“Nghĩ cho khi gác viết Kinh
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo”
Mặt khác Hoạn Thư bày tỏ tấm lòng riêng của mình với Thuý Kiều. Mặc dù sống trong cảnh “Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai” nhưng tự trong sâu thẳm lòng mình, Hoạn Thư vẫn luôn “kính yêu” Kiều. Quả thật, trong thực tế, Kiều đúng là “tình địch” của Hoạn Thư. Nhưng Hoạn Thư đã vượt lên trên cái thường tình của người đàn bà để ca ngợi đối thủ trước mặt chồng mình:
“Liền tay trao lại Thúc Sinh
Rằng: tài nên trọng mà tình nên thương
Ví chăng có số giàu sang
Số này dẫu đúc nhà vàng cũng nên”
Bây giờ Hoạn Thư gợi lại chuyện đó: “Lòng riêng riêng những kính yêu” làm sao mà Kiều không động lòng trắc ẩn.
Trong cuộc đối thoại với Thuý Kiều – cuối cùng Hoạn thư nhận tất cả tội lỗi về mình: “Trót lòng gây việc chông gai”. Nói “trót lòng” là Hoạn Thư muốn thanh minh việc mình làm chỉ là bất đắc dĩ. Giờ đây nàng chỉ còn biết xin Kiều rộng lòng tha thứ:
“Trót lòng gây việc chông gai
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng?”
Trong tình cảnh ấy mà còn có thể ăn nói đến mức như vậy, Hoạn Thư quả là con người “sâu sắc nước đời” đến “quỷ quái tinh ma”, đúng là đối thủ xứng tầm với phu nhân Từ Hải. Rõ ràng lời gỡ tội của Hoạn Thư thật có lí, có tình. Lời cầu xin đúng mực chân thành khiến Thuý Kiều cũng phải thừa nhận sự thông minh, giảo hoạt của Hoạn Thư và ban một lời khen:
“Khen cho: Thật đã nên rằng
Không ngoan đến mực, nói năng phải lời”
Không thể là người nhỏ nhen, Kiều đã tha tội cho Hoạn Thư:
“Truyền quân lệnh xuống, trướng tiền tha ngay”
Sự việc diễn ra quá bất ngờ, ngoài sức tưởng tượng của nhiều người. Bởi vì, khi bắt đầu cuộc báo oán, Kiều bảo mọi người ngồi lại để: “xem cho rõ mặt, biết tôi báo thù” nghĩa là Kiều kiên quyết trừng phạt. Nhưng giờ đây trước lý lẽ sắc sảo của Hoạn Thư, vả lại “đánh kẻ chạy đi, chứ không ai đánh người chạy lại”. Hoạn Thư đã biết lỗi Kiều cũng độ lượng thứ tha. Hơn thế, Kiều vốn là người phụ nữ trung hậu, đã từng nếm trải bao cay đắng và ngang trái trong cuộc đời. Nàng cũng tự biết, mình đã xâm phạm đến hạnh phúc của người khác. Vì vậy, tha tội cho Hoạn Thư, Kiều tỏ ra vô cùng cao thượng. Hành động ấy bộc lộ tấm lòng vị tha, nhân hậu tuyệt vời cuả Thuý Kiều.
Màn báo ân báo oán là cuộc đối đầu giữa hai người đàn bà giỏi giang, độc đáo nhất trong “Truyện Kiều”. Qua màn báo ân báo oán, người đọc thấy được sự sáng tạo vượt bậc của ngòi bút thiên tài Nguyễn Du. Cảnh pháp trường trung cổ được miêu tả ước lệ mà không kém phần uy nghiêm. Lời thoại rất gọn mà sắc, đã làm nổi bật tâm lý, tính cách của các nhân vật: Thúc Sinh lành mà nhát sợ, Hoạn Thư thì khôn ngoan, sắc sảo; Kiều rất cao thượng, nhân hậu, bao dung.